BÀI NỖI LÒNG GIẤY TRẮNG PHÂN TÍCH CHÍ LÝ!!!
LÀNH THAY LÀNH THAY THIỆN HỮU KINHVOTU ĐÃ PHỔ NHỮNG CÂU CHUYỆN THẬT THÚ VỊ VÀ SÂU SẮC...
Printable View
BÀI NỖI LÒNG GIẤY TRẮNG PHÂN TÍCH CHÍ LÝ!!!
LÀNH THAY LÀNH THAY THIỆN HỮU KINHVOTU ĐÃ PHỔ NHỮNG CÂU CHUYỆN THẬT THÚ VỊ VÀ SÂU SẮC...
Tâm lập
Giải mã truyện Tây du, bài Sáu bảy mười ba giải về thập tam ma (lục dục, thất tình). Để hàng phục tâm, chuyện không dễ. Mà khi tâm đã hàng phục rồi, thì sao? Bức ảnh thiền trên đây viết rất đẹp hai chữ Tâm lập. Tâm lập mang ý nghĩa gì?
Tâm lập nghĩa là tâm đã đứng vững vàng, đã an định, không còn điên đảo trước mọi yếu tố đảo điên.
Lòng ta ta đã chắc rồi,
Dễ ai giục đứng giục ngồi mà nao.
Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân.
Dù ai nói đông nói tây,
Ta đây vẫn vững như cây trên rừng.
Làm sao đạt được tâm lập?
Lục dục, thất tình. Mười ba cái đó bủa vây tấn công lòng người. Chúng làm cho tâm phàm thoạt vầy thoạt khác, như khỉ vượn lăng xăng nhảy nhót chuyền leo (tâm viên: vượn lòng). Tâm không trụ, cứ bôn ba chạy theo cảnh đời bôn ba, như ngựa hoang rong ruổi mặc tình (tâm mã: ngựa lòng). Lòng người có khi chợt nổi sóng triều dâng, cuồn cuộn vì ham muốn, vì khát vọng (tâm ba: sóng lòng). Có khi nung nấu bừng bừng, như lửa cháy đốt thiêu vì phẫn nộ, sân hận (tâm hỏa: lửa lòng). Tâm như thế không phải là tâm thanh tịnh, mà chỉ toàn những cặn cáu, bụi bặm quậy lên ngầu đục (tâm cấu, tâm trần: bụi bặm trong tâm).
Thiền nhà Phật dạy thế nhân con đường minh tâm kiến tánh. Sáng lòng thấy tánh thì giác ngộ, đắc đạo, thành phật thành tiên. Nhưng tâm phàm vốn chất chứa đủ thứ rộn ràng, vốn đa mang bộn bề hệ lụy thì làm sao minh tâm để được sáng lòng? Hẳn nhiên không dễ! Cho nên, sự uy hùng của con người không phải là chiến thắng muôn vạn hùng binh giữa chốn chiến trường hòn tên mũi đạn; sự uy hùng của con người nằm ở một mặt trận khác, tuy rằng cuộc chiến thầm lặng, cô đơn, không có máu me xương thịt tan tành mà lại vô cùng dữ dội, cực kỳ quyết liệt. Mặt trận đó nơi đâu? Thưa rằng, kinh Pháp cú còn ghi lời Phật dặn dò: "Chiến thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất."
Kẻ nào tự thắng chính bản thân mình, đó mới đích thực là con người đại hùng đại lực. Tu sĩ Cồ đàm đã tự thắng nên được xưng tán là Đại hùng. Chánh điện trang nghiêm thờ Phật Thích ca vì thế được tôn xưng là Đại hùng bửu điện.
Đề tài hàng phục tâm thể hiện rõ trong ảnh thiền Tâm lập. Thanh gươm và cái khiên là hình ảnh tượng trưng cho chiến sĩ, hay trang kiếm khách. Kiếm khách này không chinh phục tha nhân mà chỉ chinh phục bản tâm. Trận chiến không diễn ra ngoài nội tâm mà chỉ là những trận quyết đấu một mất một còn ở nội tâm để đoạn trừ thập tam ma (lục dục, thất tình), cũng như mọi thứ phiền não chướng ngại khác ngõ hầu chuyển hóa tâm trần cấu đảo điên trở thành tâm thanh tịnh, an định.
Trong trận chiến tưng bừng khốc liệt giữa thầm lặng cô đơn, vũ khí duy nhất của kiếm khách chính là trí huệ. Phải dùng trí huệ để đoạn diệt mọi chướng ngại. Như dùng dao bén gươm sắc mà chặt đứt lìa tất cả. Trong ý nghĩa biểu tượng đó, các thiền sư mệnh danh trí huệ là huệ kiếm, huệ đao.
Kinh Duy ma cật chép: “Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc.” (Lấy gươm trí huệ phá giặc phiền não.)
Tương tự, trong truyện thơ Quan âm Thị Kính, dân gian Việt Nam có câu:
Này gươm trí huệ mài đây,
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.
Đối với những hành giả trót đã chọn đời kiếm khách độc hành, mang gươm cất bước vào cõi tịch liêu trên dặm trường thiên lý quay về nội tâm cô đơn, thì mọi phiền não, mọi chướng ngại của tâm cũng chính là những nợ nần cần phải thanh toán một lần cho sạch sẽ. Kinh cầu siêu Cao đài có câu:
Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
Nhìn lại ảnh thiền Tâm lập, thấy rõ thanh gươm hãy còn nằm nguyên trong bao. Và để gác lên tấm khiên. Thanh bình thay, yên ả thay! Cuộc chiến đã tàn. Chàng hiệp khách năm xưa nay đã rửa tay gác kiếm rồi. Tâm ấy thôi không còn gì phong ba phiền não. Trên mặt tấm khiên, hình con rồng như nét vẽ trang trí, mà cũng như nói xa nói gần đến thuật ngữ của thiền gia đạo Lão và hành giả Cao đài: hàng long phục hổ (thu phục rồng cọp).
Trong trận chiến riêng tư của từng kiếm khách với thập tam ma, bao giờ mới có thể rửa tay gác kiếm? Câu trả lời chẳng dễ, vì thời gian không hề được định mức ở đây.
Đức Khổng tử phải đến bảy mươi tuổi mới dám bảo tâm đã định, đã lập, bấy giờ tâm muốn sao cũng có thể chìu theo vì không còn sợ lâm vấp lỗi lầm nữa [“Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ.” Luận ngữ: Vi chính, câu 4].
Học trò Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu tên là Linh Vân cũng đã phải mài kiếm (tu tập thiền định) suốt ba mươi năm. Một hôm chợt nhìn thấy hoa đào nở mà chứng ngộ (satori). Thiền sư Linh Vân cảm khái:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách,
Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi.
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu,
Trực chí như kim bất cánh nghi.
Có người dịch:
Ba chục năm qua tìm kiếm khách,
Bao phen lá rụng với cành trơ.
Một lần từ thấy hoa đào nở,
Cho đến ngày nay dạ chẳng ngờ.
Đáng sợ một nỗi, đề tài Tâm lập trên tấm ảnh thiền này lại là sáng kiến của một... tiệm ăn bên xứ Phù Tang: Thạch điền tửu điếm. Để trang trí cho tờ lịch treo tường năm 1984, tháng Sáu.
Lấy cái thâm vi tế nhị của thiền đem đặt vào một chỗ uống ăn rất đời thường giữa sự thế phồn hoa; phải chăng ai đó muốn gửi gắm lại cho đời ý nghĩa rốt ráo của người xưa, rằng: thiền đích thị là thiền trong chỗ chẳng thiền?
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
Hư thực đôi điều
Ngô Thừa Ân tự là Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân (kẻ núi rừng bắn mặt trời), người huyện Sơn Dương, sau đổi là huyện Hoài An, tỉnh Giang Tô. Ông sinh vào khoảng triều Minh Hiếu tông, năm Hoằng Trị thứ 13 (tức 1500), tạ thế triều Minh Thần tông, năm Vạn Lịch thứ 10 (tức 1582), không con nối dõi.
Năm Gia Tĩnh thứ 23 (tức 1544), ông thi đỗ cống sinh, giữ chức huyện thừa ở huyện Trường Hưng, tỉnh Chiết Giang. Năm Long Khánh thứ 1 (1567), ông quay về Sơn Dương, miệt mài cùng thơ rượu. Ông thông minh, mẫn tiệp, đọc nhiều, học rộng, thơ văn nhã lệ (đẹp và nhã). Tác phẩm thất tán hầu hết.
Khưu Chính Võng có gom góp lại một số, gọi là Xạ Dương tồn cảo. Một tác phẩm khác được nhắc tới là Tần thiểu du phong. Nhưng nay chỉ còn sót lại duy nhất Tây du ký, được khen là một trong bốn đại kỳ thư đời Minh, xếp hạng theo thứ tự như sau: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký, và Kim Bình Mai.
Trên đây là tiểu sử của Ngô Thừa Ân căn cứ theo Đàm Gia Định.
[Đàm Gia Định, Trung Quốc văn học gia đại từ điển, Thế giới thư cục ấn hành, quyển Hạ, tr. 1101, mục từ 4244.
Trong bài giới thiệu ở quyển Tây du ký do Nhạc lộc thư xã xuất bản, Trường Sa, Trung Quốc, 1984, Hà Mãn tử cho biết thêm hiện còn lưu giữ một trường thi của Ngô Thừa Ân, nhan đề Nhị lang sưu sơn đồ ca. Hà Mãn tử lại viết rằng vào năm 1981, huyện Hoài An tiến hành khai quật và khảo sát mộ của Ngô Thừa Ân tại huyện này. Trên quan tài có chữ Kinh phủ ký thiện, là chức quan cuối đời của ông. Tìm trong quan tài được một sọ người. Sau đó, Trung Quốc học viện về cổ nhân loại và động vật cổ có xương sống nghiên cứu và giám định, các nhà khoa học đã tái tạo một pho tượng bán thân của Ngô Thừa Ân. Cho đến nay, có lẽ đó là trường hợp duy nhất của một tác gia cổ điển Trung Quốc được khoa học tái tạo dung mạo. (Lê Anh Minh dịch, chú)]
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
Còn tiếp
Hư thực đôi điều
Tiếp theo
Theo Vương Hồng Sển, tằng tổ và nội tổ của Ngô Thừa Ân hai đời liên tiếp làm học quan nhưng cha ông là nhà buôn nhỏ, chuyên bán chỉ màu và hàng thêu. Ngô Thừa Ân có viết Tiên phủ quân mộ chí minh, kể rằng cha ông rất chăm đọc sách. Còn Ngô Quốc Vinh khi viết lời bạt cho Xạ Dương tiên sinh tồn cảo (gồm bốn quyển) thì bảo thuở nhỏ Ngô Thừa Ân đã nổi tiếng văn hay. Trong Thiên Khải Hoài An phủ chí lại chép rằng Ngô Thừa Ân tánh cần mẫn, thông minh, học rộng, đọc nhiều, làm thơ nhanh, thanh nhã, lưu loát, thích hài kịch, viết nhiều tạp ký. Một tác phẩm thất truyền của họ Ngô là Vũ đỉnh chí.
Cũng theo Vương Hồng Sển, tuy Ngô Thừa Ân đa tài, nhưng lận đận đường cử nghiệp. Không rõ ông đậu tú tài năm nào, nhưng đậu tuế cống sinh (tương đương cử nhân) năm 1544, sau này hình như còn đi thi hai lần nữa, đều hỏng! Khoảng tuổi ngũ tuần, hoàn cảnh quẫn bách, Ngô Thừa Ân đến Nam Kinh viết văn bán chữ, rất nổi danh, được chép lại trong Sơn Dương chí dị. Năm 1566, sáu mươi sáu tuổi, ông lão họ Ngô giữ chức huyện thừa huyện Trường Hưng, được ít lâu thì chán cảnh quan trường, rũ áo về quê. Rồi lại được bổ làm chức ký thiện ở Kinh vương phủ, coi việc lễ lộc và đọc chiếu thơ của vương gia trong ba năm thì xin nghỉ [Vương Hồng Sển 1993: 239-241].
Cả hai nguồn tiểu sử trưng dẫn trên đây đều không cho biết Ngô Thừa Ân có phải là một chuyên gia về Lão học, Phật học hay chăng. Dù rằng Tây du ký nói nhiều đến tu đơn, luyện đạo, hành thiền. Hay ông quả thực là cư sĩ đạt đạo, nhưng khía cạnh đời sống tâm linh của ông đã không được thế nhân biết đến?
Thực vậy, tác giả Tây du nếu không là người đắm mình trong tư tưởng siêu thoát của Lão, Phật, nếu không lý hội được đạo thượng thừa vi diệu, thì chắc chắn không viết được những đoạn tưởng như giỡn chơi, mà ý chỉ thì sâu sắc thậm thâm. Ngoài những điều đã trình bày trong chín bài giải mã, cũng thử nêu thêm một ví dụ tiêu biểu nữa để thấy sức học uyên thâm của họ Ngô. Cuối Hồi thứ 17, kể việc thu phục con yêu tinh gấu đen. Truyện kể, theo mưu kế của Tề thiên, Quan âm Bồ tát đồng ý biến hóa ra một con yêu đội lốt đạo sĩ, hiệu Lăng hư tử. Bồ tát biến hóa thế nào? Tây du tả tuyệt khéo:
“Lúc ấy, Bồ tát mở lòng từ bi quảng đại, pháp lực vô biên, ức vạn hóa thân, lấy tâm hội ý, lấy ý hội thân, trong giây lát biến ngay thành Lăng hư tử.
“(...) Hành giả nhìn, nói: Tuyệt quá, tuyệt quá! Ngài là Bồ tát yêu tinh, hay yêu tinh Bồ tát đây?” [TDK I 1982: 154]
Chính vì nội dung Tây du ký ảo diệu cực kỳ, nên có sách lầm cho rằng tác giả Tây du ký không ai khác hơn một đại đạo sĩ tên là Khưu Xứ Cơ, tức Khưu Trường xuân, hay Trường xuân Chân nhân, thuộc phái Toàn chân của đạo Lão. [Về tiểu sử Khưu Xử Cơ, xem “Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân tây du ký”.]
Theo truyện Thất chơn nhơn quả, Hồi thứ 29, Khưu Trường xuân (Lão) và Bạch vân Thiền sư (Phật) sau những bất đồng, xung đột kịch liệt đã cùng nhau giảng hòa, dẹp hết mọi thị phi tranh đua hơn thiệt. Bấy giờ Khưu Trường xuân đem công phu tu luyện cửu cửu để làm tám mươi mốt nạn của Tam tạng, lại lấy chơn tánh, bổn tâm, tâm viên, ý mã, lục dục, thất tình... mà diễn thành các nhân vật Tây du, yêu tinh quỉ quái. Sau khi hoàn tất, bộ Tây du này được Khưu Chơn nhơn trao tặng Thiền sư Bạch vân.
Con gà tranh nhau tiếng gáy! Dứt đấu phép lại tới chuyện đấu văn chương nghĩa lý. Thiền sư thấy ông bạn đạo Tiên mà thuật chuyện đạo Phật quá tài, chẳng lẽ chịu lép, bèn đáp lễ, nên tuy khoác áo cửa Phật, mà vẫn đem quan điểm tu tiên của đạo Lão diễn bày thành truyện Phong thần, kể việc các thiên tiên và địa tiên (xiển giáo và triệt giáo), người vì thuận mệnh Trời theo phò Khương Tử Nha phạt Trụ, kẻ vì chống Thiên cơ dốc lòng ủng hộ Thái sư Văn Trọng đương cự lại vua Vũ. Truyện Phong thần tuy mượn sự tích vua Vũ đánh vua Trụ, nhưng thật ra là kể chuyện tu hành tạo tiên tác phật. Dĩ nhiên, sau khi viết xong Thiền sư liền đem tặng lại Chơn nhơn pho truyện này.
[Thất chơn nhơn quả, tác giả khuyết danh (?), bản dịch tiếng Việt của Lâm Xương Quang. Theo nghiên cứu của Huệ Nhẫn, Lâm Xương Quang tức là Lâm Đạo Nguơn, cũng gọi ông lão Tám, vì ông tu tới phẩm lão sư trong đạo Minh sư. Ông thuộc tông Hoằng tế, trụ tại Quan âm Phật đường (ấp Thâm Nhiên).
Lưu ý: Từ 24-4-1957, ấp Thâm Nhiên thuộc xã Thanh Phú Long, tổng Thanh Mục Hạ, quận Châu Thành, tỉnh Long An. Từ 04-4-1989, ấp và xã này thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Long An (LAD chú).]
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
Còn tiếp
HƯ THỰC ĐÔI ĐIỀU
Tiếp theo
Thất Chơn Nhơn Quả giải thích sự ra đời của hai pho tiểu thuyết Tây Du Ký và Phong Thần Diển Nghĩa như lược bày trên đây không phải vô cớ. Giữa hai tiểu thuyết này có một số chi tiết trùng hợp ngẫu nhiên:
- Cả hai đều dựa vào một chút lịch sử Trung Quốc để hư cấu thành tiểu thuyết huyền môn. (Do đó, trộm nghĩ Tây Du Ký giải mã được thì biết đâu Phong Thần Diển Nghĩa mai kia cũng sẽ được giải mã.)
- Cả hai đều có đúng 100 hồi.
- Cả hai cùng xuất hiện vào đời nhà Minh. (Theo Thất Chơn Nhơn Quả thì hai pho này có sớm hơn, nhằm vào đời Nguyên, triều Thuận Đế, trong khoảng năm 1333-1344! Dĩ nhiên, khi xét về tính chân xác của sử liệu, “thuyết” của Thất Chơn Nhơn Quả không chấp nhận được.)
Theo từ điển Từ Hải [Trung Hoa thư cục, Đài Loan, 1948, mục từ Phong Thần truyện, tr. 433.], truyện Phong Thần xuất hiện ở Trung Quốc vào đời Minh, tác giả khuyết danh. Nhưng ở Nhật, cùng thời đại nhà Minh, lại có một bản khắc Phong Thần khác, dài 120 hồi, và ghi tác giả là Hứa Trọng Lâm.
Còn có lý do nào khác để khiến người ta lầm lẫn cho rằng tác giả Tây Du Ký là Khưu Trường xuân?
Sự lầm lẫn này rất lý thú vì trong lịch sử quả thực liên quan đến Khưu Trường xuân còn có một bản TâyDdu Ký thứ hai.
Từ Hải (mục từ Tây Du Ký, tr. 1224) chỉ cho biết vắn tắt, đời Nguyên có Lý Chí Thường soạn quyển Trường Xuân Chân Nhân [Tây] Du Ký, ghi chép hành trình sang phương Tây của đạo sĩ Khưu Xứ Cơ.
Giáo sư Liu Ts'un-Yan, viện sĩ của Viện Hàn Lâm Khoa Học Nhân Văn Úc (the Australian Academy of the Humanity) cũng đồng thời là khoa trưởng Khoa Hán ngữ của Viện Đại học Quốc gia Úc (Australian National University), có một bài khảo cứu rất công phu về công cuộc kết tập và giá trị lịch sử của Đạo Tạng, với nhan đề The Compilation and historical value of the Tao-Tsang. [Đã in trong hiệp tuyển Essays on the sources for Chinese history (những người chủ biên: Donald Leslie, Colin Mackerras, Wang Gung Wu; NXB Canberra Australian National University Press, 1973, tr. 104-119).] Trong khảo cứu này (tr. 117), Giáo sư Lưu cho biết rằng một sử gia nổi tiếng đời Thanh là Tiền Đại Hân (1728-1804) đã có nghiên cứu về quyển Trưỡngxuân Chân Nhân Tây Du Ký. Quyển du ký này được Arthur Waley dịch sang tiếng Anh với nhan đề The Travels of an alchemist (Hành trình của một nhà luyện đan), in ở London năm 1931. Trước đó, năm 1866, đã có Palladius lần đầu tiên dịch tác phẩm ấy sang tiếng Nga.
Cũng theo Giáo sư Lưu, năm 1795 Tiền Đại Hân phát hiện rằng quyển Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký là một quyển nằm trong bộ Đạo Tạng, tàng trữ ở HuyềnDdiệu Quán, đất Tô Châu. Đây là câu chuyện về cuộc hành trình của Khưu Xứ Cơ vào năm 1222, đi về phương tây để gặp Thành Cát Tư Hãn trên rặng phía bắc của dãy núi Hindu Kush. [Dãy núi Hindu Kush dài 800 km, nằm ở đông bắc Afghanistan, là nhánh phía tây của dãy Himalayas.]
Liên quan đến quyển du ký trên đây còn có một tác phẩm khác của Cheng-siang Chen, nhan đề Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký đích địa lý học bình chú, in năm 1968, trong Research Report No 8., Geographical Research Centre, Graduate School, University of Hong Kong.
Về mối quan hệ giữa nhà chinh phục Mông Cổ và đạo sĩ Trung Quốc này, từ điển Từ Hải cho biết Nguyên Thái tổ (Thiết Mộc Chân, Thành cát Tư hãn) vô cùng thân thiết Khưu Xứ Cơ, ban cho đạo sĩ nhiều ân huệ: chỗ ở của Khưu gọi là Trường Xuân Cung, sau này chính là Bạch Vân Quán nằm ở phía tây huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn Đông.
Với đầy đủ các cứ liệu văn học và lịch sử như trên, đương nhiên có thể kết luận rằng “thuyết” của Thất chơn chơn quả về tác giả Tây Du Ký và Phong Thần là không đúng với lịch sử.
Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân viết vào đời Minh là tiểu thuyết huyền môn. Là tiểu thuyết nên nội dung hoàn toàn hư cấu.
Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký là do Lý Chí Thường soạn vào đời Nguyên, là du ký, không phải tiểu thuyết. Quyển này được giới đạo sĩ Trung Quốc liệt vào Đạo Tạng, một kho tàng đồ sộ bao gồm kinh điển và tác phẩm của đạo Lão, gồm tổng cộng 5.485 quyển. [Đạo tạng, gồm 5.305 quyển, kết tập từ đời Minh, hoàn tất năm 1445; sau đó bổ sung thêm Tục đạo tạng, gồm 180 quyển, kết tập năm 1607. Vậy, tổng cộng có 5.485 quyển.]
Khưu Trường Xuân là ai? Lý Chí Thường là ai? Mục đích gì mà Khưu Trường Xuân phải vạn lý du hành để giáp mặt cùng Đại Hãn? Nội dung Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký là chi? Tài liệu này hiện nay không dễ kiếm! Do đó, nhân dịp nói chuyện tiểu thuyết Tây Du Ký (hư cấu) cũng nên biết thêm về bản Tây Du Ký phi hư cấu trong kho tàng văn học đạo Lão Trung Quốc (xem tiếp Phụ lục “Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký”).
Nói thêm:
Theo [Vương Hồng Sển 1993: 234], đời nhà Minh còn có bản Tây Du thứ ba, tác giả là Dương Chí Hòa. Họ Dương đem chuyện thỉnh kinh của Trần Huyền Trang đời Đường viết thành tiểu thuyết truyền kỳ, nhan đề Tây Du Ký truyện, “tuy bốn mươi mốt hồi, nhưng nội dung cũng gần đầy đủ bằng Tây Du Ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân. (...)Văn chương của Tây Du Ký diễn nghĩa lưu loát, ý nghĩa lại thâm thúy, súc tích hơn, do đó tuy cùng một nội dung, nhưng Tây du ký diễn nghĩa lại được phổ biến rộng rãi, còn Tây du ký truyện thì ít được biết đến.”
Không hiểu Vương Hồng Sển căn cứ vào đâu đã cho rằng: “Chính Ngô Thừa Ân đã lấy tài liệu trong Tây Du Ký truyện của Dương Chí Hòa để viết thành bộ truyện của mình.” (tr. 234).
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký [trích dịch]
Lời dẫn của người dịch
Khưu Trường Xuân tên thật là Khưu Xứ Cơ, tự là Thông Mật, hiệu là Trường Xuân Tử, quê ở Thê Hà, Đăng Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông được Nguyên Thái tổ tức Thành cát Tư hãn (1162-1227) mời đến triều đình Mông Cổ, cách Trung Quốc vạn dặm về phía Tây.
Nguyên Thái Tổ phái hai mươi chiến sĩ Mông Cổ đi mời, dẫn đường, hộ tống quốc khách. Khưu Chân Nân sang Tây Tạng, đem theo mười trời yêu dân (kính thiên ái dân) làm gốc. Nguyên Thế Tổ lại hỏi về thuật sống lâu (trường sinh cửu thị), Chân Nhân đáp hãy giữ lòng trong sạch ít ham muốn (thanh tâm quả dục) làm căn bản.
Nguyên Thế Tổ rất đẹp dạ, tặng Chân Nhân danh hiệu Thần Tiên, phong tước Đại Tông Sư, giao cho Chân Nhân chủ trì Trường Xuân Cung, cai quản Đạo Giáo cả nước, nhờ thế mà Toàn Chân Giáo cực thịnh.
Toàn Chân Giáo (cũng gọi Toàn Chân Đạo, Toàn Chân Phái) do Vương Trùng Dương sáng lập vào đầu đời Kim (triều nhà Kim bắt đầu năm 1115). Toàn Chân Phái chủ trương Tam Giáo hợp nhất, tính mệnh song tu, hoặc tu tính trước tu mệnh sau. Toàn Chân Phái chiếm lĩnh trọn phương bắc Trung Quốc, còn phương nam là giang sơn của phái Chính Nhất (chuyên về phù lục).
Vương Trùng Dương có bảy đại đệ tử được đời tôn là Bắc Thất Chân Nhân (bảy vị Chân Nhân phương bắc), sau này họ lập thành bảy chi phái của Toàn Chân Giáo:
1. Mã Ngọc lập Ngộ Tiên Phái, chuyên về thanh tĩnh, lý luận thanh đàm và luyện nội đơn.
2. Đàm Xứ Đoan lập Nam Vô Phái, bảo thủ chủ trương của Vương Trùng dương.
3. Lưu Xứ Huyền lập Tùy Sơn Phái.
4. Khưu Xứ Cơ lập Long Môn Phái, có ảnh hưởng nhất so với sáu chi phái kia. [Long Môn cũng là tên núi, thuộc Lưỡng Châu, Khưu Chân Nhân hay ẩn cư ở núi này. Tác phẩm chủ yếu của ông là Đại đan chân chỉ, trình bày chỗ bí yếu của thuật luyện đan (ngồi thiền) là tính mệnh song tu (vừa tu tính vừa tu mệnh).]
5. Vương Xứ Nhất lập Du Sơn Phái.
6. Hách Đại Thông lập Hoa Sơn Phái.
7. Tôn Bất Nhị (trước khi xuất gia là vợ của Mã Ngọc) lập Thanh Tịnh Phái.
Cuộc đời tu hành của Bắc Thất Chân Nhân được tiểu thuyết hóa thành truyện Thất Chơn Nhơn Quả. Sang nửa sau thế kỷ XX, vào những năm sáu mươi, nhà văn Kim Dung (Hong Kong) đưa tất cả bảy nhân vật này vào truyện chưởng với biệt hiệu Toàn Chân Thất Tử.
Phần viết này (về Khưu Trường xuân và Toàn chân giáo) căn cứ theo Hồng Phi Mô 1992: 25-30 Lê Anh Minh dịch
·
Trong số mười tám đệ tử theo Khưu Chân Nhân sang Tây Tạng có Lý Chí Thường.
Lý là người ghi chép lại cuộc vạn lý tây du này. Năm 1219, từ phía bắc của Bắc Kinh, đoàn người đi về Mông Cổ, theo hướng tây nam băng qua Tashkent và Samarkand, rồi theo hướng nam đến Perwan (ngay phía bắc của Kabul), thuộc Afghanistan.
Tashkent sau là thủ phủ của Uzbek (Nga), thuộc miền Trung Á. Nó nằm trên một gò ở gần chân dãy núi Thiên Sơn. Nơi đây cũng là một ốc đảo lớn nằm dọc theo con sông Chirchik, sản xuất nhiều trái cây và bông vải, được coi là một trong những miền sản xuất hàng hóa vải sợi lớn nhất châu Á.
Samarkand sau cũng là thành phố của Uzbek, ở trung nam nước Nga. Nó từng là một trạm chủ yếu trên con đường Tơ lụa thời cổ. Người Ả Rập chiếm nó năm 712, biến nơi đây thành một trung tâm văn hóa rất lớn của Hồi giáo. Thành Cát Tư Hãn chiếm đoạt lại thành phố này năm 1220, và đến năm 1365 nó trở thành kinh đô của vua Mông Cổ là Tamerlane (1336-1405), cũng viết là Tamburlaine, hay Timur. Từ năm 1868 nó thuộc về người Nga.
Kabul là thành phố quan trọng vì nó kiểm soát con đường mậu dịch phía đông bắc dẫn vào Pakistan. Do đó, trong lịch sử ba nghìn năm của nó, thành phố này thường xuyên bị ngoại xâm. Nó từng là kinh đô của đế quốc Mông Cổ (1504-1526), và trở thành thủ phủ của Afghanistan từ năm 1773.
Arthur Waley đã dịch tác phẩm của Lý Chí Thường ra tiếng Anh, nhan đề The travels of an alchemist, 1931.
Waley sinh năm 1889 tại London, là nhà thơ, dịch giả, và nhà Trung Quốc học. Học ở Cambridge, rồi ông lấy hai học vị tiến sĩ văn chương ở hai đại học Aberdeen và Oxford. Ông giữ chức phó quản thủ Phòng Ấn loát và Đồ họa của Viện Bảo tàng Anh và giảng dạy Đông phương học tại một học hiệu trực thuộc Viện Bảo tàng này (1912-1930). Năm 1952, ông được trao tặng một huân chương (the Order of Companion of the British Empire). Năm 1953, được Nữ hoàng Anh ban tặng Huy chương Thi ca (Medal for Poetry).
Ngoài bản dịch tác phẩm của Lý Chí Thường, Waley còn có các công trình nghiên cứu và dịch thuật quan trọng như sau:
- Thơ Trung Quốc (Chinese poems, 5 quyển), 1918.
- Nhập môn nghiên cứu hội họa Trung Quốc (An introduction to the study of Chinese painting), 1923.
- Đạo Đức Kinh (The Way and its power), 1935.
- Luận Ngữ (The analects of Confucius), 1938.
- Ba con đường tư tưởng Trung Quốc cổ đại (Three ways of thought in ancient China), 1939.
- Nguyên thị vật ngữ (The tale of genji, 6 quyển, dịch tiểu thuyết Nhật), 1955
- V.v...
Sau đây là một phần lớn văn bản của Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký, dựa theo bản tiếng Anh của Arthur Waley. Tuy nhiên, vì không có trọn vẹn bản tiếng Anh của Arthur Waley, tôi đã sử dụng phần trích đăng của Owen và Eleanor Lattimore, in trong hiệp tuyển Silks, spices and empire, nhà xuất bản Dell Publishing Co. Inc., New York 1971, các trang 57-61.
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
(1993-10.02.1995)
Còn tiếp
Trích Dịch Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký
Ngày mùng 1 tháng Tư âm lịch (24-4-1219), chúng tôi đến nơi hạ trại của Khả hãn Tamuga. Lúc này tuyết bắt đầu tan, cỏ xanh phơn phớt một màu. Khi chúng tôi đến, một đám cưới đang được tổ chức trong trại. Các thủ lĩnh các bộ tộc quanh đấy năm trăm dặm cũng đến dự, mang theo nhiều lễ vật chúc mừng. Những chiếc xe đen và lều bạt xếp thành dãy dài, ắt hẳn chứa đến hàng ngàn tân khách.
Ngày mùng 7, Khưu Sư phụ hội kiến Khả hãn và ông ta hỏi Sư phụ về thuật trường sinh bất tử. Sư phụ đáp rằng chỉ có những ai ăn chay lạt và giữ gìn giới luật mới có thể luận bàn về thuật ấy. Cả hai thỏa thuận rằng ông ta sẽ được truyền thụ bí thuật vào ngày trăng tròn (rằm). Nhưng bấy giờ tuyết lại rơi nhiều và vấn đề bị bỏ qua. Hoặc có thể Khả hãn đổi ý, vì ông bảo sẽ chẳng đúng đạo lý nếu như ông hưởng trước cha mình (Đại hãn) bí thuật này trong lúc Đại hãn đã vất vả triệu thỉnh Chân nhân đến đây từ ngàn trùng cách trở. Tuy nhiên Khả hãn truyền lệnh cho A-li-hsien phải đưa Sư phụ trở lại sau khi cuộc triều kiến với Đại hãn đã chu tất.
Ở xứ sở này sáng lạnh, chiều tối nóng; có nhiều cây trổ hoa vàng. Dòng sông chảy về đông bắc. Hai bên bờ mọc nhiều thân liễu cao. Người Mông Cổ dùng cây liễu làm khung lều. Sau mười sáu ngày đường, chúng tôi đến một nơi mà dòng sông Kerulan uốn vòng về tây bắc, bao quanh mấy ngọn núi. Vì thế chúng không theo dòng sông đi đến tận nguồn, mà quày sang tây nam, đi theo lối ngựa trạm [Yi-ehr-li post road: con đường chuyển thư]. Những người Mông Cổ chúng tôi gặp nơi đây đều hân hoan khi thấy Sư phụ; họ bảo đã mong chờ Sư phụ từ năm ngoái...
Các đỉnh núi lớn giờ đây dần dần trông rõ hơn. Từ nơi này trở đi, khi chúng tôi đi về hướng tây, vẫn còn là vùng đồi núi và dân cư đông đúc. Dân chúng sống trên các cỗ xe đen và trong những mái lều trắng; họ đều là thợ săn và người chăn thú. Quần áo họ may bằng da thú, lông thú, lương thực là thịt và sữa cô đặc. Đàn ông thắt tóc thành hai bím, thòng phía sau tai. Phụ nữ có chồng đội nón làm bằng vỏ cây phong (birch), có cái cao khoảng sáu tấc. Thường họ phủ lên nón chiếc khăn len đen; nhà giàu dùng lụa đỏ. Đuôi nón giống con vịt, gọi là ku ku (...).
Ngày 27 tháng Tám (15.9.1219), chúng tôi đến chân núi Yin Shan. Một số người Uighurs ra gặp chúng tôi, và vậy là chúng tôi đã tới một thị trấn nhỏ. Viên quan địa phương đem biếu chúng tôi rượu bồ đào [rượu nho, rượu chát, rượu vang], trái cây ngon, bánh, củ hành, vải Ba Tư...
Đi tiếp về hướng tây là thành phố lớn Beshbalig. Các viên quan, quý tộc, dân chúng, hàng trăm nhà sư, đạo sĩ, đi ra mãi ngoài thành để đón thầy trò chúng tôi. Các nhà sư đều mặc áo nâu. Mũ áo của đạo sĩ không giống như ở Trung Quốc.
Ngày 18 tháng Mười Một (03-12-1219), sau khi vượt qua một con sông lớn, chúng tôi tới vùng ngoại vi phía bắc của thành Samarkand. Quan trấn thành là Ngài I-la, cùng các quan lại Mông Cổ và các viên chức sở tại, ra bên ngoài thành đón thầy trò chúng tôi. Họ mang theo rượu bồ đào và dựng rất nhiều lều. Đoàn xe chúng tôi nghỉ chân nơi đây...
Thành cất dọc theo những kênh đào. Vì mùa hè và thu không mưa, hai con sông được uốn dòng để chảy dọc theo từng đường phố, cung cấp nước dùng cho tất cả dân cư. Trước khi Khwarizm Shah thua trận, dân số nơi đây hơn một trăm ngàn hộ; nay chỉ còn lại một phần tư số này, trong đó một phần rất lớn là người Hui-ho [người Hồi hột]. Những người này hoàn toàn không biết làm đồng áng vườn tược, họ phải thuê người Hoa, Kitai và Tanguts. Việc hành chính ở đây cũng do nhiều người thuộc nhiều quốc tịch rất khác biệt nhau đảm nhiệm. Ở đâu cũng thấy thợ thủ công người Hoa. Trong thành phố có gò lớn cao độ ba chục thước, trên là cung điện mới của Khwarizm Shah...
Viên quan trấn thành cho dọn yến tiệc khoản đãi, và gởi biếu mười tấm gấm thêu vàng (gold brocade), nhưng Sư phụ không chịu tiếp nhận. Sau đó, viên quan này hàng tháng trợ cấp gạo, bột bắp, muối, dầu ăn, rau quả... Càng ngày ông càng tỏ ra cung kính hơn.
Khi thấy rằng Sư phụ uống rất ít, ông xin phép được ép khoảng năm mươi ký nho để làm rượu bồ đào mới cho Sư Phụ. Sư phụ đáp: “Tôi không cần rượu, nhưng hãy cho tôi năm mươi ký nho; tôi sẽ dùng nó để tiếp khách của tôi.” Số nho này giữ được trọn mùa đông. Chúng tôi còn thấy những con công và voi lớn được đưa về từ Ấn Độ, cách hàng ngàn dặm về hướng đông nam.
Cuối tháng nhuận (12-02-1222), toán thám sát trở về, Liu Wên báo cáo với Sư phụ rằng con thứ nhì của Khả hãn (Chagatai) đã đem binh đi trước, sửa thuyền và chữa cầu. Bọn thổ phỉ đã bị quét sạch. Ho-la, Pa-hai và những người khác đã đến doanh trại của ông hoàng này thông báo rằng Sư phụ mong muốn gặp Đại hãn. Ông đáp rằng Đại hãn đã đi về hướng đông nam rặng Đại Tuyết sơn. Nhưng tuyết phủ dày ải quan đến hơn trăm dặm không thể nào qua được. Tuy nhiên hoàng tử nói rõ rằng ông hạ trại ngay trên đường đến chỗ Đại hãn và mời Sư phụ nán lại cùng ông, chờ đến khi nào có thể qua núi.
[Đại Tuyết sơn (Hindu Kush): Rặng núi chủ yếu ở đông bắc Afghanistan. Nó là nhánh phía tây của rặng Hy mã lạp sơn, trải dài tám trăm cây số (năm trăm dặm Anh) hướng về phía tây nam từ rặng núi lớn Pamirs trên đất Nga và gồm luôn rặng Koh i Baba ở Afghanistan. Đỉnh núi cao nhất là Tirich Mir (7.692 thước; tức 25.236 bộ Anh), nằm ở Chitral trên lãnh thổ Pakistan. (LAD chú)]
Từ đây chúng tôi đi về hướng đông nam, và đến chiều tối thì dừng chân gần một kênh đào cũ. Hai bên bờ mọc một loại cây giống như lau sậy nhưng không có ở Trung Quốc. Những cây to còn xanh qua suốt mùa đông. Chúng tôi bẻ lấy mấy cây làm gậy. Một số thì chúng tôi dùng để chống càng xe đêm ấy, và chúng cứng đến độ chẳng hề gãy. Những cây nhỏ rụng lá mùa đông và tươi lại vào mùa xuân. Đi thêm về phía nam giữa các ngọn đồi, có loại tre lớn đặc ruột. Quân lính dùng loại này làm cán giáo, cán lao. Chúng tôi còn thấy những con rắn mối dài cả chín tấc, da xanh đen.
Ngày 29 tháng Ba (11-5-1222), Sư phụ sáng tác một bài thơ. Thêm bốn ngày đường nữa chúng tôi đến trại của Đại hãn. Ngài phái một quan đại thần là Ho-la-po-te đến đón chúng tôi... Khi chỗ ở cho Sư phụ đã được sắp xếp xong, Sư phụ lập tức đến triều kiến Đại hãn. Ngài tỏ lòng cảm kích nói: “Các vua khác triệu khanh đến mà khanh đều từ tạ. Nay khanh lại vượt vạn dặm đến với trẫm. Đây là đại hạnh của trẫm.”
Sư phụ đáp: “Kẻ ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc như hạ thần đến với thánh thượng là ý trời vậy.” Đại hãn đẹp dạ, mời Sư phụ an tọa và sai dọn tiệc. Rồi ngài hỏi: “Từ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?” Sư phụ đáp: “Thần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.” Đại hãn hài lòng vì sự thành thực của Sư phụ, và sai dựng hai lều cho Sư phụ cùng các môn đệ, nằm ở phía bên đông lều của Đại hãn...
Thời tiết càng nóng hơn và Đại hãn di chuyển lên một điểm cao trên dãy Tuyết sơn để tránh nóng. Sư phụ cùng đi theo. Đại hãn ấn định ngày 14 tháng Tư (24-6-1222) sẽ hỏi Đạo. Điều này được các quan Chinkai, Liu Wên, và A-Li-hsien cùng ba quan hầu cận Ngài ghi chép. Nhưng ngay khi đến kỳ hẹn, lại được tin bọn thổ phỉ làm loạn. Đại hãn quyết định thân chinh tiễu trừ, và hoãn lại cuộc hẹn đến ngày mùng 1 tháng Mười (05-11-1222). Sư phụ xin phép được trở về nơi ở cũ trong thành. Đại hãn nói: “Vậy thì khanh sẽ kiệt sức vì đi trọn quãng đường trở lại đây.” Sư phụ nói chỉ là chuyện hành trình hai mươi ngày mà thôi, và khi Đại hãn phản đối rằng chẳng có ai hộ vệ cho Sư phụ thì Sư phụ đề nghị nhờ quan Yang-A-kou...
Chúng tôi vượt qua ngọn núi lớn nơi có “cổng đá”, những trụ đá ở đây trông giống như hai chân nến lớn. Nằm vắt ngang lên trụ là một phiến đá lớn, trông từa tựa chiếc cầu. Dòng suối bên dưới chảy xiết, và đoàn kỵ mã chúng tôi khi thúc bầy lừa chở nặng hành lý vượt suối đã mất hết mấy con lừa chết đuối. Hai bên bờ là xác các thú vật khác cũng đã chết tương tự như vậy. Nơi này là cửa ải, mà trước đây không lâu quân binh đã quyết liệt giao phong để chiếm cứ. Khi chúng tôi ra khỏi hẻm núi, Sư phụ sáng tác hai bài thơ.
Khi Sư phụ đến trại của Khả hãn, cỏ cây vào cuối tháng Ba xanh mượt, khắp nơi cây cối rộ hoa, ngựa và cừu đều béo khỏe. Nhưng khi nhận được phép của Khả hãn để lên đường, trời cuối tháng Tư, chẳng còn lấy một ngọn cỏ cọng rau. Trước cảnh tiêu sơ này, Sư phụ cảm tác một loạt mấy bài thơ.
DŨ LAN - LÊ ANH DŨNG dịch chú
Trích Dịch Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký
Ngày mùng 1 tháng Tư âm lịch (24-4-1219), chúng tôi đến nơi hạ trại của Khả hãn Tamuga. Lúc này tuyết bắt đầu tan, cỏ xanh phơn phớt một màu. Khi chúng tôi đến, một đám cưới đang được tổ chức trong trại. Các thủ lĩnh các bộ tộc quanh đấy năm trăm dặm cũng đến dự, mang theo nhiều lễ vật chúc mừng. Những chiếc xe đen và lều bạt xếp thành dãy dài, ắt hẳn chứa đến hàng ngàn tân khách.
Ngày mùng 7, Khưu Sư phụ hội kiến Khả hãn và ông ta hỏi Sư phụ về thuật trường sinh bất tử. Sư phụ đáp rằng chỉ có những ai ăn chay lạt và giữ gìn giới luật mới có thể luận bàn về thuật ấy. Cả hai thỏa thuận rằng ông ta sẽ được truyền thụ bí thuật vào ngày trăng tròn (rằm). Nhưng bấy giờ tuyết lại rơi nhiều và vấn đề bị bỏ qua. Hoặc có thể Khả hãn đổi ý, vì ông bảo sẽ chẳng đúng đạo lý nếu như ông hưởng trước cha mình (Đại hãn) bí thuật này trong lúc Đại hãn đã vất vả triệu thỉnh Chân nhân đến đây từ ngàn trùng cách trở. Tuy nhiên Khả hãn truyền lệnh cho A-li-hsien phải đưa Sư phụ trở lại sau khi cuộc triều kiến với Đại hãn đã chu tất.
Ở xứ sở này sáng lạnh, chiều tối nóng; có nhiều cây trổ hoa vàng. Dòng sông chảy về đông bắc. Hai bên bờ mọc nhiều thân liễu cao. Người Mông Cổ dùng cây liễu làm khung lều. Sau mười sáu ngày đường, chúng tôi đến một nơi mà dòng sông Kerulan uốn vòng về tây bắc, bao quanh mấy ngọn núi. Vì thế chúng không theo dòng sông đi đến tận nguồn, mà quày sang tây nam, đi theo lối ngựa trạm [Yi-ehr-li post road: con đường chuyển thư]. Những người Mông Cổ chúng tôi gặp nơi đây đều hân hoan khi thấy Sư phụ; họ bảo đã mong chờ Sư phụ từ năm ngoái...
Các đỉnh núi lớn giờ đây dần dần trông rõ hơn. Từ nơi này trở đi, khi chúng tôi đi về hướng tây, vẫn còn là vùng đồi núi và dân cư đông đúc. Dân chúng sống trên các cỗ xe đen và trong những mái lều trắng; họ đều là thợ săn và người chăn thú. Quần áo họ may bằng da thú, lông thú, lương thực là thịt và sữa cô đặc. Đàn ông thắt tóc thành hai bím, thòng phía sau tai. Phụ nữ có chồng đội nón làm bằng vỏ cây phong (birch), có cái cao khoảng sáu tấc. Thường họ phủ lên nón chiếc khăn len đen; nhà giàu dùng lụa đỏ. Đuôi nón giống con vịt, gọi là ku ku (...).
Ngày 27 tháng Tám (15.9.1219), chúng tôi đến chân núi Yin Shan. Một số người Uighurs ra gặp chúng tôi, và vậy là chúng tôi đã tới một thị trấn nhỏ. Viên quan địa phương đem biếu chúng tôi rượu bồ đào [rượu nho, rượu chát, rượu vang], trái cây ngon, bánh, củ hành, vải Ba Tư...
DŨ LAN - LÊ ANH DŨNG
Trích Dịch Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký
Tiếp theo
Đi tiếp về hướng tây là thành phố lớn Beshbalig. Các viên quan, quý tộc, dân chúng, hàng trăm nhà sư, đạo sĩ, đi ra mãi ngoài thành để đón thầy trò chúng tôi. Các nhà sư đều mặc áo nâu. Mũ áo của đạo sĩ không giống như ở Trung Quốc.
Ngày 18 tháng Mười Một (03-12-1219), sau khi vượt qua một con sông lớn, chúng tôi tới vùng ngoại vi phía bắc của thành Samarkand. Quan trấn thành là Ngài I-la, cùng các quan lại Mông Cổ và các viên chức sở tại, ra bên ngoài thành đón thầy trò chúng tôi. Họ mang theo rượu bồ đào và dựng rất nhiều lều. Đoàn xe chúng tôi nghỉ chân nơi đây...
Thành cất dọc theo những kênh đào. Vì mùa hè và thu không mưa, hai con sông được uốn dòng để chảy dọc theo từng đường phố, cung cấp nước dùng cho tất cả dân cư. Trước khi Khwarizm Shah thua trận, dân số nơi đây hơn một trăm ngàn hộ; nay chỉ còn lại một phần tư số này, trong đó một phần rất lớn là người Hui-ho [người Hồi hột]. Những người này hoàn toàn không biết làm đồng áng vườn tược, họ phải thuê người Hoa, Kitai và Tanguts. Việc hành chính ở đây cũng do nhiều người thuộc nhiều quốc tịch rất khác biệt nhau đảm nhiệm. Ở đâu cũng thấy thợ thủ công người Hoa. Trong thành phố có gò lớn cao độ ba chục thước, trên là cung điện mới của Khwarizm Shah...
Viên quan trấn thành cho dọn yến tiệc khoản đãi, và gởi biếu mười tấm gấm thêu vàng (gold brocade), nhưng Sư phụ không chịu tiếp nhận. Sau đó, viên quan này hàng tháng trợ cấp gạo, bột bắp, muối, dầu ăn, rau quả... Càng ngày ông càng tỏ ra cung kính hơn.
Khi thấy rằng Sư phụ uống rất ít, ông xin phép được ép khoảng năm mươi ký nho để làm rượu bồ đào mới cho Sư Phụ. Sư phụ đáp: “Tôi không cần rượu, nhưng hãy cho tôi năm mươi ký nho; tôi sẽ dùng nó để tiếp khách của tôi.” Số nho này giữ được trọn mùa đông. Chúng tôi còn thấy những con công và voi lớn được đưa về từ Ấn Độ, cách hàng ngàn dặm về hướng đông nam.
Cuối tháng nhuận (12-02-1222), toán thám sát trở về, Liu Wên báo cáo với Sư phụ rằng con thứ nhì của Khả hãn (Chagatai) đã đem binh đi trước, sửa thuyền và chữa cầu. Bọn thổ phỉ đã bị quét sạch. Ho-la, Pa-hai và những người khác đã đến doanh trại của ông hoàng này thông báo rằng Sư phụ mong muốn gặp Đại hãn. Ông đáp rằng Đại hãn đã đi về hướng đông nam rặng Đại Tuyết sơn. Nhưng tuyết phủ dày ải quan đến hơn trăm dặm không thể nào qua được. Tuy nhiên hoàng tử nói rõ rằng ông hạ trại ngay trên đường đến chỗ Đại hãn và mời Sư phụ nán lại cùng ông, chờ đến khi nào có thể qua núi.
[Đại Tuyết sơn (Hindu Kush): Rặng núi chủ yếu ở đông bắc Afghanistan. Nó là nhánh phía tây của rặng Hy mã lạp sơn, trải dài tám trăm cây số (năm trăm dặm Anh) hướng về phía tây nam từ rặng núi lớn Pamirs trên đất Nga và gồm luôn rặng Koh i Baba ở Afghanistan. Đỉnh núi cao nhất là Tirich Mir (7.692 thước; tức 25.236 bộ Anh), nằm ở Chitral trên lãnh thổ Pakistan. (LAD chú)]
Từ đây chúng tôi đi về hướng đông nam, và đến chiều tối thì dừng chân gần một kênh đào cũ. Hai bên bờ mọc một loại cây giống như lau sậy nhưng không có ở Trung Quốc. Những cây to còn xanh qua suốt mùa đông. Chúng tôi bẻ lấy mấy cây làm gậy. Một số thì chúng tôi dùng để chống càng xe đêm ấy, và chúng cứng đến độ chẳng hề gãy. Những cây nhỏ rụng lá mùa đông và tươi lại vào mùa xuân. Đi thêm về phía nam giữa các ngọn đồi, có loại tre lớn đặc ruột. Quân lính dùng loại này làm cán giáo, cán lao. Chúng tôi còn thấy những con rắn mối dài cả chín tấc, da xanh đen.
Ngày 29 tháng Ba (11-5-1222), Sư phụ sáng tác một bài thơ. Thêm bốn ngày đường nữa chúng tôi đến trại của Đại hãn. Ngài phái một quan đại thần là Ho-la-po-te đến đón chúng tôi... Khi chỗ ở cho Sư phụ đã được sắp xếp xong, Sư phụ lập tức đến triều kiến Đại hãn. Ngài tỏ lòng cảm kích nói: “Các vua khác triệu khanh đến mà khanh đều từ tạ. Nay khanh lại vượt vạn dặm đến với trẫm. Đây là đại hạnh của trẫm.”
Sư phụ đáp: “Kẻ ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc như hạ thần đến với thánh thượng là ý trời vậy.” Đại hãn đẹp dạ, mời Sư phụ an tọa và sai dọn tiệc. Rồi ngài hỏi: “Từ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?” Sư phụ đáp: “Thần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.” Đại hãn hài lòng vì sự thành thực của Sư phụ, và sai dựng hai lều cho Sư phụ cùng các môn đệ, nằm ở phía bên đông lều của Đại hãn...
Thời tiết càng nóng hơn và Đại hãn di chuyển lên một điểm cao trên dãy Tuyết sơn để tránh nóng. Sư phụ cùng đi theo. Đại hãn ấn định ngày 14 tháng Tư (24-6-1222) sẽ hỏi Đạo. Điều này được các quan Chinkai, Liu Wên, và A-Li-hsien cùng ba quan hầu cận Ngài ghi chép. Nhưng ngay khi đến kỳ hẹn, lại được tin bọn thổ phỉ làm loạn. Đại hãn quyết định thân chinh tiễu trừ, và hoãn lại cuộc hẹn đến ngày mùng 1 tháng Mười (05-11-1222). Sư phụ xin phép được trở về nơi ở cũ trong thành. Đại hãn nói: “Vậy thì khanh sẽ kiệt sức vì đi trọn quãng đường trở lại đây.” Sư phụ nói chỉ là chuyện hành trình hai mươi ngày mà thôi, và khi Đại hãn phản đối rằng chẳng có ai hộ vệ cho Sư phụ thì Sư phụ đề nghị nhờ quan Yang-A-kou...
Chúng tôi vượt qua ngọn núi lớn nơi có “cổng đá”, những trụ đá ở đây trông giống như hai chân nến lớn. Nằm vắt ngang lên trụ là một phiến đá lớn, trông từa tựa chiếc cầu. Dòng suối bên dưới chảy xiết, và đoàn kỵ mã chúng tôi khi thúc bầy lừa chở nặng hành lý vượt suối đã mất hết mấy con lừa chết đuối. Hai bên bờ là xác các thú vật khác cũng đã chết tương tự như vậy. Nơi này là cửa ải, mà trước đây không lâu quân binh đã quyết liệt giao phong để chiếm cứ. Khi chúng tôi ra khỏi hẻm núi, Sư phụ sáng tác hai bài thơ.
Khi Sư phụ đến trại của Khả hãn, cỏ cây vào cuối tháng Ba xanh mượt, khắp nơi cây cối rộ hoa, ngựa và cừu đều béo khỏe. Nhưng khi nhận được phép của Khả hãn để lên đường, trời cuối tháng Tư, chẳng còn lấy một ngọn cỏ cọng rau. Trước cảnh tiêu sơ này, Sư phụ cảm tác một loạt mấy bài thơ.
DŨ LAN - LÊ ANH DŨNG