https://upanh1.com/images/Untitled9a39a756d94994ed.png
Bắt đầu: tay bắt Ấn Kiết Tường Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở
thành Ấn Kiết Tường Kim Cang
http://lacphap.com/phap/nghi-thuc-sa...huong-diet-toi
Printable View
https://upanh1.com/images/Untitled9a39a756d94994ed.png
Bắt đầu: tay bắt Ấn Kiết Tường Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở
thành Ấn Kiết Tường Kim Cang
http://lacphap.com/phap/nghi-thuc-sa...huong-diet-toi
KỆ-CHÚ
QUY-Y CHO SANH-VẬT KHI PHÓNG SANH
[ Gatha-Mantra SARANA JIVA-MUKTI ]
{ Bước Đi Không Hại Côn Trùng Chú - Cử Túc Hành Bộ Bất Thương Trùng Chú - Hành Bộ Bất Thương Trùng Chú }
( 举足行步不伤䖝咒 - 行步不伤虫咒 )
< 偈咒皈依生物放生 _ Kệ-Chú thụ Phép Quy-Y cho Sanh-Vật để Phóng-Sanh >
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
http://hglws.jszhs.org/d/file/3/1/20...b437dc044f.jpg
#Dịch âm:
Hữu tình chúng đẳng túc nghiệp đa,
Trí sử kim sanh tạo võng la,
Hạnh ngộ thiện duyên công đức đại,
Quy y Tam Bảo tội tiêu ma.
Nhữ đương Quy Y Kim Cang Thượng Sư, Quy Y Phật , Quy Y Pháp, Quy Y Tăng ( 3 lần )
*Hộ-Sanh Chú (护生咒):
. 唵地唎日唎莎訶 ( 七徧 ) / 嗡地利支利娑婆诃 (七徧 )
. Án, địa-rị nhật-rị sa-ha ( 7 lần ) / Án, Địa rị nhựt rị tá ha ( 7 lần )
. OṂ DHĪRI-JRĪ SVĀHĀ ( 7x )
#Dịch Nghĩa:
Các ngươi nghiệp chướng xưa kia dày,
Nên mới bị tên đạn lưới vây,
May có thiện duyên công đức lớn,
Quy y Tam Bảo tội tiêu ngay.
Các Ngươi nên về với Kim Cang Thượng Sư, về với Phật, về với Pháp, về với Tăng ( 3 lần )
*Hộ-Sanh Chú (护生咒):
. 唵地唎日唎莎訶 ( 七徧 ) / 嗡地利支利娑婆诃 (七徧 )
. Án, địa-rị nhật-rị sa-ha ( 7 lần ) / Án, Địa rị nhựt rị tá ha ( 7 lần )
. OṂ DHĪRI-JRĪ SVĀHĀ ( 7x )
====================
*Ghi Chú:
Kệ-Chú này, đọc để Gia Trì cho Sanh-Vật khỏi bị Chài Lưới, Súng Đạn nữa.
#Xem thêm:
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ge23&styleid=3
http://namo84000.org/phan-phu-luc-hoc-phat-hanh-nghi/
https://tangthuphathoc.net/phong-sanh/
http://www.chanhphapnhulai.org/wp-co...Phong-Sanh.pdf
http://www.tuvienquangduc.com.au/Ngh...HI PHÓNG SANH
https://books.google.com.vn/books?id...20sanh&f=false
http://www.liaotuo.org/fangsheng/yigui/173849.html
KỆ-CHÚ
SANH-THIÊN CHO SANH-VẬT KHI PHÓNG-SANH
{ Gatha-Mantra DEVA-JANMAN JIVAVIJJA JIVAN-MUKTI }
[ Hạ Đơn - Xuống Đơn - Xuống Giường ]
( 下單 )
< 偈咒加持生物放生往生生天- Kệ-Chú gia trì cho Sanh-Vật Phóng-Sanh không còn bị Sát hại nữa, sau khi mãn kiếp sẽ được tái sanh lên Cõi Trời >
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
https://upanh1.com/images/Untitled8197e6d6d9a06d61.png
#Dịch âm:
Thai noãn thấp hóa, đa kiếp trầm mê
Quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề
Lung Võng bộ miễn ly, hải khoát thiên phi
Tùy Phật sanh Đao Lợi
Na mô Sanh Thiên Giới Bồ Tát, Ma Ha Tát ( 3 lần )
*Sanh-Thiên-Nữ Chú ( 生天女咒 ):
. 唵逸帝律尼莎訶 (七徧 ) = 唵逸地律尼莎诃 (七徧 ) / 嗡依地律尼莎诃 (七徧 )
. Án, dật đế luật ni, toa ha ( 7 lần ) / Án, Y Địa Luật Ni Tóa Ha ( 7 lần )
. OṂ ITIRUNI SVĀHĀ ( 7x )
#Dịch Nghĩa:
Sanh thai, đẻ trứng, ẩm thấp, hóa sanh
Nhiều kiếp trôi nổi lộn quanh luân trầm
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề Tâm
Lưới, lồng tù hãm những mong thoát lìa
Nhởn nhơ dưới nước, bay bổng trên không
Dứt thọ báo sanh Đao Lợi Thiên Cung
Na mô Sanh Thiên Giới Bồ Tát, Ma Ha Tát ( 3 lần )
*Sanh-Thiên-Nữ Chú ( 生天女咒 ):
. 唵逸帝律尼莎訶 (七徧 ) = 唵逸地律尼莎诃 (七徧 ) / 嗡依地律尼莎诃 (七徧 )
. Án, dật đế luật ni, toa ha ( 7 lần ) / Án, Y Địa Luật Ni Tóa Ha ( 7 lần )
. OṂ ITIRUNI SVĀHĀ ( 7x )
=======================
*Ghi Chú:
Kệ-Chú này đọc để Chú Nguyện cho các Sanh-Vật ấy, nhờ Phép của Kệ cùng Thần Chú này sẽ được Phước, và khỏi bị Sát hại nữa.
#Xem thêm:
https://tangthuphathoc.net/phong-sanh/
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...BB%80N/page181
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...89#post1651489
http://www.kimcang.com/kinhdien/kinh...g/KhaiKinh.asp
華嚴講寺Huê Nghiêm Giảng Tự
https://www.facebook.com/%E8%8F%AF%E...0742/?ref=py_c
Chùa Vạn Phật - 萬佛寺
https://www.facebook.com/chuavanphat.q5.tphcm/?ref=py_c
https://www.youtube.com/watch?v=W8LLd4KxX7w
蒙山施食_越南平順省海灘啟建植福超 ��大法會恭請甘露法師施放大蒙山 食
https://www.youtube.com/watch?v=_HCXtaz-iCs
Lễ An Vị Tôn Tượng Quán Âm và Lễ Sái Tịnh - Thầy. Thích Pháp Hòa
Bài Nguyện Tái Sanh Tây Phương Cực Lạc
KARMA CHAGME ( CẠC-MA CHẮC-MÊ )
https://www.slideshare.net/DorjeTron...-ty-phng-cc-lc
Seeing the Guru as Buddha
༄༅། །བླ་མ་སངས་རྒྱས། །
THẦY CHÍNH LÀ PHẬT
http://2.bp.blogspot.com/-kDEbKW4aii...rmapa%2B9.jpeg
Gyalwang Karmapa thứ 9 Wangchuk Dorje
དང་པོ་བླ་མ་སངས་ར ྱས་བལྟ། །
བར་དུ་བླ་མ་སངས་ར ྱས་མཐོང་། །
ཐ་མར་རང་སེམས་བླ་ ར་རྟོགས། །
བླ་མའི་གོ་འཕང་མྱ ར་ཐོབ་ཤོག །
Dang-po la-ma sang-gye ta
Bar-du la-ma sang-gye thong
Tha-mar rang-sem la-ma tog
La-may go-phang nyur-thob shog
Firstly, see the Guru as Buddha.
Gradually, perceive the Guru as Buddha.
Finally, realize one's own mind as the Guru.
May the state of the Guru be swiftly obtained.
Lúc mới bắt đầu, hãy xem Thầy như Phật.
Dần dần về sau, hiểu được Thầy là Phật.
Sau cùng, nhận thức tự tâm chính là Thầy.
Nguyện mau thành tựu cấp độ Đức Đạo Sư.
ཀརྨ་པ་དབང་ཕྱུག་ར ོ་རྗེས།
Written by Karmapa Wangchuk Dorje.
Karmapa Wangchuk Dorje trước tác.
Ngày 08/12/2014, Kim Cương Bảo chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin với hình ảnh Đức Karmapa Wangchuk Dorje từ Himalayan Art. Nguyện hết thảy chư hữu tình mau chóng thành tựu cấp độ Đức Đạo Sư cao thượng.
http://vajraratna.blogspot.com/2014/
True Embodiment of All Victors
༄༅། །དུས་གསུམ་རྒྱལ་ཀ ན་འདུས་པའི་ཞལ། །
CHÂN THÂN BA ĐỜI CHƯ CHIẾN THẮNG
དུས་གསུམ་རྒྱལ་ཀུ ་འདུས་པའི་ཞལ། །
མཚུངས་མེད་མཁྱེན་ རྩེ་ནུས་པའི་གཏེར །
རྨད་བྱུང་ཐུགས་རྗ འི་འོད་ཟེར་ཅན། །
རྗེ་བཙུན་འགྲོ་མག ན་ཀརྨ་པར། །
སྙིང་ནས་གུས་པས་ག ོལ་བ་འདེབས། །
Du-sum gyal kun du-pay zhal
Tshung-med khyen-tse nu-pay ter
Me-jung thug-jei o-zer chen
Je-tsun dro-gon kar-ma-par
Nying-ne gu-pe sol-wa deb
The true embodiment of all Victors in three times,
The peerless knowing kind and powerful treasure,
The wonderous sun of marvelous great compassion,
The venerable protector of all beings, Karmapa -
We pray to you devotedly and wholeheartedly.
Chân thân hóa hiện chư Phật trong ba đời,
Kho tàng từ bi - trí tuệ - oai dũng vô thượng,
Mặt trời siêu việt của tôn thắng đại bi tâm,
Chúng con nhất tâm chí thành cầu nguyện đến
Đấng chúng sinh hỗ chủ thánh linh, Karmapa.
འདི་ནས་བྱང་ཆུབ་ས ིང་པོའི་བར། །
མགོན་པོ་མཆོག་དང་ ི་འབྲལ་བར། །
རྣམ་ཐར་ཕྲིན་ལས་ཁ ེད་མཚུངས་པའི། །
འགྲོ་བ་རྒྱ་མཚོའི དོན་བྱེད་ཤོག །
Di-ne jang-chub nying-por bar
Gon-po chog dang mi-dral war
Nam-thar trin-le khye tshung-pay
Dro-wa gyam-tsho don-je shog
May we be inseparable with the sublime protector
And carry out vast enlightened activities for beings
As much as you are doing
Until we reach full enlightenment.
Nguyện cho đến ngày chứng đạt Chánh Đẳng Giác,
Chúng con không tách biệt Đức Hỗ Chủ thượng tôn
Và thành tựu vô số công hạnh lợi ích các hữu tình
Tương tự những gì Ngài đang làm cho chúng sinh.
ཅེས་པའང་འཆི་མེད་ སྤྲུལ་སྐུའི་ངོར། དཔལ་ཀརྨ་པས་བྲིས།
Pal Karmapa wrote down for Chimed Tulku.
Pal Karmapa [thứ 15] viết cho Chimed Tulku.
Translated into English by Mingyur Oswin, 2014.
Ngày 04/12/2014, Kim Cương Bảo chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin. Do nhân duyên tốt lành với Đức Karmapa ngày hôm nay và công đức chuyển ngữ bài nguyện này của Đức Karmapa thứ 15 Khakyab Dorje, nguyện tất cả chúng sinh, đặc biệt là những ai có duyên lành với hóa thân chí tôn Gyalwang Karmapa, luôn sống trong sự chăm sóc và chỉ dẫn của chư Phật đến ngày giác ngộ.
http://vajraratna.blogspot.com/2014/
Root Downfalls of Vajrayana
༄༅། ། རྡོ་རྗེ་ཐེག་པ་རྩ བའི་ལྟུང་བ་བསྡུས པ། །
TÓM LƯỢC GIỚI PHẠM CĂN BẢN CỦA KIM CƯƠNG THỪA
རྒྱ་གར་སྐད་དུ། བཛྲ་ཡཱ་ན་མཱུ་ལ་པ ྟི་སཾ་གྲ་ཧ།
བོད་སྐད་དུ། རྡོ་རྗེ་ཐེག་པ་རྩ བའི་ལྟུང་བ་བསྡུས པ།
Sanskrit : Vajrayanamulapattisamgraha
Tibetan : Dorje Thegpa Tsawai Tungwa Dupa
English : Brief Explanation on Root Downfalls of Vajrayana
Vietnamese : Tóm Lược Giới Phạm Căn Bản của Kim Cương Thừa
ཐུགས་རྗེ་ཆེན་པོ་ ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
Thug-je chen-po la chag-tshal lo
Homage to the Great Compassion.
Cung kính đảnh lễ Đấng Đại Từ Đại Bi.
སངས་རྒྱས་ཀུན་དང་ ླ་མ་ཡི། །
ཞབས་ཀྱི་པདྨར་རབ་ ཏུད་དེ། །
རྩ་བའི་ལྟུང་བ་བཅ ་བཞི་ནི། །
རྒྱུད་ལས་གསུངས་པ བཤད་པར་བྱ། །
Sang-gye kun dang la-ma yi
Zhab kyi pe-mar rab-tu de
Tsa-wai tung-wa chu-zhi ni
Gyu le sung-pa she-par ja
Paying full homage at the lotus feet
Of all Buddhas and the Guru,
I explain the fourteen root downfalls
As they are taught in tantras.
Khi chí thành đảnh lễ nơi gót sen
Của chư Phật Đà và bậc Đao Sư,
Ta sẽ giải thích mười bốn giới phạm
Cơ bản y theo mật điển kinh văn.
གང་ཕྱིར་རྡོ་རྗེ་ ཛིན་པ་ཡིས། །
དངོས་གྲུབ་སློབ་ད ོན་རྗེས་འབྲང་གསུ ས། །
དེ་བས་དེ་ལ་བརྙས་ ་ནི། །
རྩ་བའི་ལྟུང་བ་དང པོར་བཤད། །
Gang-chir dor-je dzin-pa yi
Ngo-drub lob-pon je-drang sung
De-we de la nye-pa ni
Tsa-wai tung-wa dang-por she
The vajrayana practitioners follow
What the Teacher taught for attainments.
Therefore, holding the Teacher in contempt
Is stated to be the first root downfall.
Các hành giả mật thừa phải nương theo
Lời dạy bảo của bậc Thầy để thành tựu.
Do đó, xem thường và miệt thị Thầy
Chính là phạm giới cơ bản đầu tiên.
བདེ་གཤེགས་བཀའ་ལས འདས་པ་ནི། །
ལྟུང་བ་གཉིས་པ་ཡི ་པར་གསུངས། །
ཁྲོས་པས་རྡོ་རྗེ་ ྦུན་གྱི་ནི། །
ཉེས་པ་བརྗོད་པ་གས མ་པ་ཡིན༑ །
De-sheg ka-le de-pa ni
Tung-wa nyi-pa yin-par sung
Tro-pe dor-je bun gyi ni
Nye-pa jo-pa sum-pa yin
Trangressing the words of Sugatas
Is taught to be the second downfall.
Being furious at faults of Vajra friends
Is the third downfall.
Hủy phạm lời vàng của chư Thiện Thệ,
Được dạy là điều phạm giới thứ hai.
Giận dữ trước lỗi lầm Kim Cương Hữu
Là đã vi phạm giới nguyện thứ ba.
སེམས་ཅན་རྣམས་ལ་བ མས་པ་སྤོང༌། །
བཞི་པ་ཡིན་པར་རྒྱ ་བས་གསུངས། །
ཆོས་ཀྱི་རྩ་བ་བྱང ཆུབ་སེམས། །
དེ་སྤོང་བ་ནི་ལྔ་ ་ཡིན། །
Sem-chen nam la jam-pa pong
Zhi-pa yin-par gyal-we sung
Cho-kyi tsa-wa jang-chub sem
De pong-wa ni nga-pa yin
Giving up love for all sentient beings
Is taught to be the fourth downfall by Victorious Ones.
Abandoning the root of Dharma – Bodhicitta
Is the fifth downfall.
Từ bỏ tình thương dành cho hữu tình,
Chư Phật nói là phạm giới thứ tư.
Đoạn tuyệt gốc rễ Pháp – Tâm Bồ Đề
Là điều vi phạm giới nguyện thứ năm.
རང་ངམ་གཞན་གྱི་གྲ བ་པའི་མཐའ། །
ཆོས་ལ་སྨོད་པ་དྲུ ་པ་ཡིན། །
ཡོངས་སུ་མ་སྨིན་ས མས་ཅན་ལ། །
གསང་བ་སྒྲོགས་པ་བ ུན་པ་ཡིན། །
Rang-ngam zhen gyi drub-pay tha
Cho la mo-pa drug-pa yin
Yong-su ma-min sem-chen la
Sang-wa drog-pa dun-pa yin
Disparaging the Dharma and the view
Of oneself or others is the sixth downfall.
Proclaiming the secret teachings to
Immature beings is the seventh downfall.
Phỉ báng nền Giáo Pháp và tri kiến
Của mọi truyền thống là điều thứ sáu.
Tiết lộ những mật pháp cho chúng sinh
Tâm chưa thuần thục là điều thứ bảy.
ཕུང་པོ་སངས་རྒྱས་ ྔ་བདག་ཉིད། །
སྨོད་པར་བྱེད་པ་བ ྒྱད་པ་ཡིན། །
རང་བཞིན་དག་པའི་ཆ ས་རྣམས་ལ། །
སོམ་ཉི་ཟ་བ་དགུ་པ ཡིན། །
Phung-po sang-gye nga dag-nyi
Mo-pa je-pa gye-pa yin
Rang-zhin dag-pay cho nam la
Som-nyi za-wa gu-pa yin
As the accumulation of Five Buddhas,
Slandering oneself is the eighth downfall.
Having doubt about the pure self-nature of all dharmas
Is the ninth downfall.
Chính ta là do Ngũ Phật kết tinh,
Ngược đãi chính mình là điều thứ tám.
Hoài nghi bản thể mọi sự sáng trong
Là điều phạm báng giới nguyện thứ chín.
གདུག་ལ་རྟག་ཏུ་བྱ ས་ལྡན་པ། །
བྱེད་པ་དེ་ནི་བཅུ པར་འདོད། །
ཆད་སོགས་མ་ཡིན་ཆོ ་རྣམས་ལ། །
བརྟགས་པ་ལས་ནི་བཅ ་གཅིག་པ། །
Dug la tag-tu jam-den pa
Je-pa de ni chu-par do
Che-sog ma-yin chon am la
Tag-pa le-ni chu-chig pa
Always keeping love for even the evil ones
Is the tenth commitment.
All dharmas are neither falling nor else,
Such analysis is the eleventh commitment.
Luôn dành tình thương, thậm chí kẻ ác,
Đây là gìn giữ giới nguyện thứ mười.
Các pháp không tăng giảm, bất cấu tịnh,
Suy nghiệm vậy là giữ giới mười một.
སེམས་ཅན་དང་དང་ལྡ ་པ་ཡི། །
སེམས་སུན་འབྱིན་པ བཅུ་གཉིས་པ། །
དམ་ཚིག་ཇི་བཞིན་ར ེད་པ་དག །
མི་བསྟེན་པ་དེ་བཅ ་གསུམ་པ། །
Sem-den dang dang-den-pa yi
Sem-sun jin-pa chu-nyi pa
Dam-tshig ji-zhin nye-pa dag
Mi ten-pa de chu-sum pa
Cause sentient beings who generate their minds down
Is the twelth downfall.
Failing to keep company with pure properties according to samaya
Is the thirteenth downfall.
Làm thoái chuyển tâm của chư hữu tình
Là vi phạm vào giới nguyện mười hai.
Giữ tịnh vật mật nguyện sát bên mình,
Không làm được là phạm giới mười ba.
ཤེས་རབ་དང་བཞིན་བ ད་མེད་ལ། །
སྨོད་པར་བྱེད་པ་བ ུ་བཞི་པ། །
འདི་དག་རྣམ་པར་སྤ ས་པ་ཡི། །
སྔགས་པས་དངོས་གྲུ ་ཉེ་བར་འཐོབ། །
She-rab dang zhin bu-med la
Mo-pa je-pa chu-zhi pa
Di dag nam-par pang-pa yi
Ngak-pe ngo-drub nye-war thob
Woman is considered as wisdom,
Abusing them is the fourteenth downfall.
Forsaking all these downfalls,
The practitioners will completely obtain accomplishment.
Người nữ vốn tượng trưng cho trí tuệ,
Sỉ nhục họ là phạm giới mười bốn.
Đoạn trừ tất cả những giới phạm này,
Hành giả được thành tựu thật trọn vẹn.
གཞན་དུ་དམ་ཚིག་ལས ཉམས་ན། །
ཉམས་པས་བདུད་ཀྱིས གཟུང་འགྱུར་ཏེ། །
དེ་ནས་སྡུག་བསྔལ་ ྱོང་འགྱུར་ཞིང༌། །
ཐུར་དུ་བལྟས་ཏེ་ད ྱལ་བར་འགྲོ། །
Zhen du dam-tshig le nyam na
Nyam-pe du kyi zung-gyur te
De-ne dug-ngal nyong-gyur zhing
Thur-du te-te nyul-war dro
Otherwise, if one violates his oath,
That one will be kept by the demons
And then, undergo suffering experiences.
Finally, go downwards to hell realms.
Ngược lại, nếu như phạm báng thệ ước,
Lỗi lầm chiêu cảm ma quỷ vây quanh.
Từ đó, gánh chịu muôn trùng đau khổ.
Sau cùng phải rơi xuống các địa ngục.
དེ་བས་ང་རྒྱལ་བཅོ ་ནས་ནི། །
རང་གི་འཁྲུལ་པ་ཤེ ་བྱས་ལ། །
ཅི་འབྱོར་བ་ཡིས་བ ་མ་ལ། །
ཐུབ་པའི་སྤྱན་སྔར མཆོད་བྱས་ནས། །
De-we nga-gyal chom-ne ni
Rang-gi trul-pa she-je la
Chi-jor wa-yi la-ma la
Thub-pay chen-ngar cho-je ne
Therefore, destroy the ego
And one’s own mistakes.
In front of the Teacher, if possible,
Make offering whatever you may think.
Do đó, hãy diệt trừ tâm ngã mạn
Và đoạn tuyệt các lầm lỗi tự thân.
Đối trước Đấng Đạo Sư, nếu có thể,
Kính dâng lên tất cả phẩm cúng dường.
གསུམ་ལ་སྐྱབས་འགྲ ་ནས་བརྩམས་ཏེ། །
བྱང་ཆུབ་སེམས་སོག ་སྔོམ་པ་དག །
གལ་ཏེ་བདག་ལ་ཕན་འ ོད་ན། །
སྔགས་པས་འབད་དེ་བ ང་བར་བྱ། །
Sum la kyab-dro ne-tsam te
Jang-chub sem-sog ngom-pa dag
Gal-te dag la phen-do na
Ngak-pe be-de lang-war ja
Beginning with taking three kinds of refuge,
Then, training in bodhicitta and so forth,
If one wishes for benefit of oneself.
The practitioners should effortfully adopt this.
Nếu mong cầu lợi ích cho chính mình,
Hãy bắt đầu quy y ngoài, trong, mật,
Trui rèn bồ đề tâm cùng hạnh khác.
Hành giả nên nỗ lực mà thọ trì.
རྡོ་རྗེ་ཐེག་པའི་ ྩ་བའི་ལྟུང་བ་བསྡ ས་པ་སློབ་དཔོན་ཆེ ན་པོ་རྟ་དབྱངས་ཀྱ ས་མཛད་པ་རྫོགས་སོ །
Brief explanation for Vajrayana’s Root Downfalls by the great master Asvaghosa completes.
Kết thúc bình giảng ngắn của Đại sư Mã Minh về Giới Phạm Căn Bản của Kim Cương Thừa.
Translated into English by Mingyur Oswin, 2014.
Ngày 05/12/2014, Kim Cương Bảo chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin. Trong quá trình chuyển ngữ, tôi đã tham khảo bản dịch của Dịch giả Giới Định Tuệ trong quyển "Tuyển tập các bài trì tụng hằng ngày" để kiểm tra và làm rõ những chỗ khó. Nguyện sám hối trước chư Phật về mọi sai sót trong quá trình chuyển ngữ và hồi hướng công đức đến tất cả hữu tình chúng sinh. Nguyện tất cả Phật tử đều gìn giữ giới nguyện sáng trong và mau chứng quả Vô Thượng Bồ Đề vì lợi lạc của hết thảy hữu tình chúng sinh.
http://vajraratna.blogspot.com/2014/
Padmasambhava
http://4.bp.blogspot.com/-owWBWmy38R...2BRinpoche.jpg
ĐẤNG LIÊN HOA SINH
Tulku Urgyen Rinpoche
Trong thời đại này của thế giới chúng ta, một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Mỗi vị sẽ được đồng hành bởi một hóa thân của Guru Rinpoche để hiện bày hoạt động của chư Phật. Trong thời đại hiện tại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả hoạt động của chư Phật hiện diện nơi một hóa thân mang hình dáng Padmasambhava, Đấng Liên Hoa Sinh. Ngài đản sinh từ một hoa sen giữa một hồ nước. Trong câu chuyện cuộc đời mình, Ngài kể lại : “Ta xuất hiện từ một hoa sen, không có Cha và chẳng có Mẹ.” Theo cách này, Ngài đàn sinh tự nhiên nhưng cũng có một nguyên do khác cho điều này. Là một bậc đản sinh kỳ diệu giữa loài người, Ngài viên mãn những oai đức thần thông vĩ đại để hàng phục không chỉ nhân loại mà còn những tinh linh và chúng sinh phi nhân khác.
Liên Hoa Sinh trụ thế trong một thời gian rất dài. Sau khi đản sinh, Ngài tiếp tục hiện diện tại xứ Ấn Độ trong một ngàn năm. Sau đó, Ngài đến Tây Tạng và trụ lại đó trong năm mươi lăm [55] năm. Trong giai đoạn sau cùng lưu trú tại Tây Tạng, Ngài khởi hành đến một nơi gọi là Gungtang tại vùng biên giới của Nepal, tháp tùng bởi hai mươi lăm [25] đại tông đồ cùng với Vua xứ Tạng. Tại đó, cưỡi trên lưng một con ngựa thần thánh tên là Mahabhala, Ngài được các Dakini của bốn bộ hộ tống bay lên trời. Đoàn tùy tùng của Ngài, những người ở lại, nhìn hình ảnh của Ngài nhỏ dần cho đến khi Ngài biến mất.
Theo sử liệu, trước tiên, Ngài hạ xuống Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Ngài lưu trú trong một thời gian. Sau đó, Ngài du hành đến cõi tịnh độ của riêng mình có tên là Zangdok Palri, Núi Huy Hoàng Màu Đồng. Về mặt địa lý, nơi này hiện hữu tại một nơi nào đó trên đại dương phía Tây Nam của Bồ Đề Đạo Tràng. Nó là một dạng tiểu châu lục, nơi cư ngụ của các La Sát, “những tinh linh ăn thịt người” thuộc cấp độ thấp. Theo một tiên tri của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vào một giai đoạn cụ thể trong lịch sử, khi tuổi thọ của loài người còn hai mươi [20] năm, những tinh linh ăn thịt người này sẽ xâm lược thế giới mà ta biết hiện nay, thâu tóm và tiêu diệt toàn nhân loại. Như vậy, loài người sẽ đối mặt với một nguy cơ to lớn. Tuy nhiên, Đức Phật cũng tiên tri rằng Guru Rinpoche sẽ đến vùng đất này và hàng phục tất cả các La Sát đó. Ngài [Guru Rinpoche] đi đến đây chỉ theo đúng như lời tiên tri.
Ngọn núi chính nằm ở trung tâm tiểu châu lục có màu đồng và chân núi nằm sâu trong đại dương, đến tận xứ sở của các Naga. Đỉnh núi xuyên thủng bầu trời, đến cả nơi ở của các Phạm Thiên trong Sắc giới. Nơi đỉnh núi này có một cõi Tịnh Độ diệu kỳ do Guru Rinpoche kiến tạo. Có ba tầng : Trên cùng là tầng Pháp Thân, nơi thể tánh của Guru Rinpoche hiện bày trong thân tướng Đức Vô Lượng Thọ Phật; tầng giữa là trú xứ của Đức Quán Thế Âm và tầng dưới cùng là nơi Guru Rinpoche an trụ trong thân tướng bình thường của mình. Ngài được bao quanh bởi tám hóa thân.
Khi hiện diện trong thế giới này, Guru Rinpoche là hóa hiện về thân của Đức Phật A Di Đà, hóa hiện về ngữ của Đức Quán Thế Âm và hóa hiện về tâm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi lưu xuất đến thế giới của chúng ta, đầu tiên, Ngài xuất hiện trong cõi Báo Thân trong hình tướng năm bộ tộc Thotreng Tsal, sau đó là tám [8] và mười hai [12] hóa thân, vân vân cho đến khi năm mươi [50] hóa thân xuất hiện. Sau cùng, Guru Rinpoche lưu xuất vô số các hóa hiện khác nhau.
Trước khi Đức Liên Hoa Sinh rời khỏi Tây Tạng, Ngài ban nhiều tiên tri, chôn giấu nhiều giáo lý để dành cho tương lai và gia trì cho các môn đồ thân thiết trở nên bất khả phân với Ngài. Như thế, các vị ấy sẽ tái sinh trong tương lai, khai quật các bảo tạng chôn giấu và có oai đức dũng mãnh như chính Guru Rinpoche, viên mãn các uy lực thần thông siêu việt, chẳng hạn như bay lượn trên trời, du hành tự tại xuyên vật chất rắn, có năng lực diễn giải vô ngại các kinh điển và luận điển cũng như nghĩa lý của các mật điển.
Đặc biệt, Ngài đã tiên tri sự xuất hiện của 108 vị terton vĩ đại, “các bậc khám phá kho tàng giáo lý chôn giấu”. Lịch sử thế giới đổi thay bất thường, tạo ra nhiều trở ngại lớn trong các giai đoạn khác nhau. Do đã tiên liệu được những gián đoạn lịch sử này, Guru Rinpoche soạn nhiều thực hành đặc biệt để các vị terton riêng biệt khám phá vào đúng thời điểm nhằm rộng độ quần sinh. Các vị Khai mật tạng khám phá các terma, “kho tàng giáo lý chôn giấu”, sẽ hoằng truyền một giáo lý hoàn toàn trong sạch và thích hợp với thời đại vốn chỉ dành riêng cho thời điểm và hoàn cảnh cụ thể.
Cũng như việc chúng ta thích những món ăn tươi ngọn, được chuẩn bị theo cách thức không làm chúng ta bị bệnh gây ra do sự ôi thiu, các giáo lý terma được khám phá với một “dòng truyền ngắn” được gia trì một phẩm chất vô cùng đặc biệt. Bởi đặc tính dòng truyền ngắn hi hữu mà các giáo lý đó không bị gián đoạn bởi bất kỳ sự hủy hoại hay gãy bể giới nguyện [samaya]. Không một ai tự ý thêm bớt mà giáo lý ấy truyền trực tiếp từ Guru Rinpoche thông qua phương tiện là sự phát lộ từ các đệ tử của Ngài, hóa hiện tái sinh vào thời đại ngày nay, những người truyền bá các giáo lý cho mọi người thực hành ngay lập tức.
Giáo lý Đạo Sư Tâm Pháp Trừ Nhất Thiết Chướng [Lamay Thugdrub Barche Kunsel] thuộc về loại giáo lý này. Kinh văn giáo lý này dựa trên nghi quỹ Đạo Sư. Khi tôi thọ nhận dòng pháp Thắng Bảo Phục Tạng [Rinchen Terdzo] từ hóa thân tái sinh trước đây của Jamgon Kongtrul, vị tái sinh trực tiếp sau Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, một ngày nọ, tôi được nghe Ngài dạy như thế này :
“Trong cuộc đời mình, ta cử hành drubchen (thực hành nghi quỹ Barche Kunsel trong một tuần) ba lần. Mỗi lần như thế đều xuất hiện vài dấu hiệu thánh linh vô cùng vi diệu.
Lần đầu tiên mà chúng ta cử hành drubchen, bánh torm chính trên ban thờ bắt đầu lưu xuất cam lộ, không chỉ có chút ít mà đủ để tràn khắp ban thờ và chảy xuống sàn ra đến lối đi vào chính điện. Mọi người nếm thử và nói rằng nó có vị rất đặc biệt, ngọt mà thấm đẫm sâu xa, không gì trên thế giới này có thể sánh được. Lần thứ hai khi ta cử hành drubchen thì kapala, “chén sọ” có chứa cam lộ, bắt đầu sôi lên và cứ thế sôi cho đến khi kết thúc drubchen. Lần thứ ba mà ta cử hành drubchen, chúng ta chuẩn bị mendrub, “pháp dược”, cùng lúc đó. Mùi hương từ mendrub tỏa ra vô cùng diệu hảo, không giống bất kỳ thứ gì mà người ta đã từng ngửi qua trong thế giới này. Mùi hương lan xa đến tận tu viện của Thrangu Rinpoche, một khoảng cách phải mất bốn ngày đi bộ. Mọi người ở tu viện ấy đều hỏi hương thơm xuất phát từ đâu. Trong suốt đời mình, ta chưa từng chứng kiến dấu hiệu nào vi diệu như các dấu hiệu đó trong suốt ba lần.”
Điều này xuất hiện có thể do sự kết hợp của giáo lý terma thâm diệu và một bậc Đại Đạo sư lỗi lạc. Khi các Đại Đạo sư thực hành một terma trong sạch, lúc ban đầu luôn có những ân phước gia hộ to lớn bởi vì “hơi thở của chư Dakini” vẫn chưa đến lúc tan biến khỏi terma. Do vậy, các giáo lý terma cùng một dòng truyền ngắn sở hữu một ân phước gia trì và hiệu dụng cực kỳ to lớn với những ai thực hành chúng.
Trong nghi quỹ Đạo Sư chính của Barche Kunsel có bốn bản văn : bản dài là Trinley Gyepa, bản trung bình là Trinley Dringpo, bản cô đọng trung bình giống như tinh yếu là Trinley Nyingpo và bản tối tinh yếu là Thực Hành Mỗi Ngày. Điều đó không có nghĩa là bản này thiếu sót hay mất mát khi được cô động – thậm chí, nó còn quý báu hơn, giống như bơ được trích xuất từ sữa vậy.
Trong mạn đà la của thực hành này, Guru Rinpoche được bao quanh bởi mười hai [12] hóa thân của chính Ngài, vốn bất khả phân với mười hai chư Tôn khác nhau. Sự không tách rời giữa hai phương diện Hộ Phật và Đạo Sư được gọi là “mười hai hiển lộ.” Thêm nữa, phía trên đầu Guru Rinpoche là Đức Vô Lượng Thọ Phật, đại diện của Pháp thân. Phía dưới Đức Vô Lượng Thọ là Đức Quán Thế Âm, đại hiện của Báo thân. Guru Rinpoche là đại diện của Hóa thân. Tại các phương chính và phụ là bốn [4] và tám [8] hóa thân xuất hiện theo thứ tự - tổng cộng là mười hai hóa thân. Tại bốn cửa trong bốn phương là bốn vị Hộ Môn. Đây là chư Tôn bên trong mạn đà la này.
Người ta nói rằng các kinh văn mật điển Mahayoga được hàm chứa trong kinh văn Anu Yoga và kinh văn của Anu Yoga được hàm chứa trong chỉ dẫn khẩu truyền của Ati Yoga. Tất cả các kinh văn này được chứa đựng trong các bản văn nghi quỹ, những thứ được chứa đựng trong sự thực hành của chính bạn.
Trong bản văn đang được đề cập này, tất cả các thứ lớp của chư Tôn được hiện diện trong mười hai hóa hiện của Guru Rinpoche, chẳng hạn như Tám Đại Minh Vương [heruka], các Mamo, các Tôn an bình và phẫn nộ, Yamantaka cũng như Kilaya và Gongdu. Chư Tôn thiết yếu này trong truyền thống Nyingma được gọi là Ka, Gong và Phur, đại diện cho Kagye (Bát Minh Vương Pháp), Gongdu (Lama Gongdu, hiện thân về tâm của chư Đạo Sư) và Phurba (Vajra Kilaya, Kim Cương Phổ Ba).
Trong giáo lý Tâm Pháp Trừ Nhất Thiết Chướng [Thugdub Barche Kunsel], mười hai hóa hiện này tương ứng với các hóa thân của Guru Rinpoche. [1] Gyalway Dungdzin là Padma Gyalpo, [2] Marway Senge là Manjushri, [3] Kyechok Tsulzang là Jambhala, [4] Dukyi Zhechen là Dorje Phurba, [5] Dzamling Gyenchok là Vishuddha Heruka, [6] Pema Jungne là Urgyen Dorje Chang, [7] Kyepar Phakpay Rigdzin là Guru Rinpoche điều phụ không hành chúng và tinh linh, [8] Dzutrul Thuchen là Dorje Drollo, [9] Dorje Draktsal là Guru Drakpo và Pema Heruka, [10] Kalden Drendzey là tập hợp tám Minh Vương, đặc biệt là Palchen Heruka, [11] Raksha Thotreng là Vajrapani và [12] Dechen Gyalpo là Gongdu và Chakrasamvara.
Trong quá khứ, khi Guru Rinpoche thực hành các bộ pháp Kagye, Gongdu, Phurba và tất cả chư Tôn khác, Ngài trở nên bất khả phân với chư Tôn. Do đó, phước lành gia hộ càng mãnh liệt hơn, thành tựu càng mau chóng hơn và thực hành càng siêu vượt hơn bất kỳ bộ pháp nào. Đây là lí do Barche Kunsel có được ân phước gia trì mãnh liệt và thành tựu mau chóng hơn những terma khác của Chokgyur Lingpa. Vì lẽ đó, không một chướng ngại nào có thể xuất hiện. Những chỉ dẫn khẩu truyền của chính bậc Đại Khai Mật Tạng [Chokgyur Lingpa] nói rằng nếu một hành giả có thể hoàn thiện các thực hành dẫn nhập theo Barche Kunsel thì hành giả đó sẽ không gặp phải bất kỳ chướng ngại nào. Đây là lời hứa nguyện được truyền lại cho đến tận Bổn sư của tôi.
Terma này được phát lộ và thời khắc thực sự nào? Chokgyur Lingpa và Jamyang Khyentse đến một nơi gọi là Da-Nying Khala Rong-Go. Giữa các vách đá và nơi mà terma được chôn giấu là con sông lớn Tsangpo (Phạm Thiên Tử]. Vách đá hướng về địa điểm cực kỳ dốc.
Chokgyur Lingpa và Jamyang Khyentse, cùng với đoàn tùy tùng rộng lớn, đến chỗ vách nhìn ra sông Tsangpo. Chokgyur Lingpa chỉ vào bờ bên kia và nói : “Phía bên đó có một terma nơi các khối đá trắng mà ta phải lấy ra.” Các thị giả của Ngài thưa : “Vâng nhưng ít nhất phải đi bộ một ngày mới đến được đó. Đầu tiên, Ngài phải leo xuống vách này, tìm chỗ vượt qua sông và đi bộ ngược lên đúng địa điểm phía bên kia. Đó là hành trình đi bộ ít nhất một ngày.” Chokgyur Lingpa nói : “Không, không, không! Không mất nhiều thời gian gì đâu. Có một cách rất dễ dàng để đến đó.” Nói xong, Ngài cởi khăn choàng và dùng nó làm “đôi cánh”, Ngài chỉ việc bay lên hư không đến bờ bên kia của con sông. Khi đáp xuống, Ngài phát lộ terma. Lúc quay về, Ngài chỉ băng qua dòng nước và leo lên bờ bên kia. Tất cả mọi người chứng kiến điều này đều vô cùng kinh ngạc và cảm nhận rằng Ngài thực sự sở hữu những oai đức thần thông. Các vị terton đều là những người như thế.
Thực hành Guru Rinpoche cực kỳ quan trọng bởi vì Guru Rinpoche, Đấng Liên Hoa Sinh, không chỉ là một nhân vật hư cấu huyền thoại trong một câu chuyện cổ xưa nào đó. Ngài là một nhân vật có thật, không ngừng hiện bày các hoạt động tự nhiên, không chỉ bằng việc gửi đi những hóa thân của mình đến thế giới này trong hình hài các terton để luôn luôn phát lộ giáo lý trong sạch, vẹn nguyên cho mọi người thực hành, mà còn bởi vì phước lành gia hộ và năng lực tâm linh của Guru Rinpoche không phai nhạt. Nếu chúng ta có thể thực hành nghi quỹ này thì lợi lạc có được thật to lớn.
Nếu chúng ta có thể thực hành theo một cách sâu rộng, nương theo ba bản nghi quỹ thì tất nhiên là tốt nhất; không được như thế thì thực hành bản nghi quỹ tinh yếu – độ dài chỉ một trang rưỡi – tên là Nghi Quỹ Thực Hành Cô Đọng Mỗi Ngày hay Gyungyi Koljang. Nếu chúng ta còn không có thời gian thực hành nghi quỹ này, ít nhất, chúng ta nên trì tụng Bài Nguyện Sáu Dòng đến Guru Rinpoche mở đầu bằng Dusum sangye Guru Rinpoche, nghĩa là Hiện thân chư Phật ba đời, Guru Rinpoche và vân vân. Mỗi ngày, chúng ta nên trì ít nhất một chuỗi [108] minh chú Kim Cương Đạo Sư. Điều này đem lại lợi ích cực kỳ to lớn cho sự tiến bộ bản thân chúng ta bởi vì Guru Rinpoche, đấng đản sinh diệu kỳ, hoàn toàn nằm ngoài sự tổn hại của Quỷ Thần hay Người. Hơn nữa, Ngài hóa hiện đầy huy hoàng trong hình tướng một Đấng Điều Phục các sắc tướng và nghĩa lý của thế gian và chúng sinh. Do vậy, thực hành Guru Rinpoche và trì tụng minh chú của Ngài tiêu trừ tất cả chướng ngại và thành tựu mọi thắng duyên an hòa.
Ngày 01/01/2015, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Erik Pema Kunsang được dịch trong quyển sách "Dispeller of Obstacles". Đây là một phần rất hay trong quyển sách, không chuyên sâu về truyền thừa mà vẫn giữ trọn vẹn ý nghĩa của kho tàng Trừ Nhất Thiết Chướng nên tôi tin rằng việc chuyển ngữ sẽ làm hài lòng Guru Rinpoche, chư Tổ và chư Đạo sư cao thượng. Trong cuộc sống, chúng ta có thể đối diện những gian nan nhưng nếu chúng ta luôn giữ Guru Rinpoche trong tim mình thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Đó là một trong những lí do mà Guru Rinpoche xuất hiện trên thế giới này. Nguyện cầu tất cả chúng sinh đều được an vui, hạnh phúc, mọi sự tốt lành và vạn sự như ý. In Guru We Trust.
http://vajraratna.blogspot.com/2015/
༈ སློབ་དཔོན་རིན་པོ ཆེ་པདྨ་འབྱུང་གནས ལ་གསོལ་འདེབས་པ་བ སམ་དོན་མྱུར་གྲུབ བཞུགས།
NGUYỆN CẦU ĐẤNG ĐẠO SƯ LIÊN HOA SINH TÔN QUÝ
http://2.bp.blogspot.com/-tG6iQL6AIH...2B-%2BCopy.jpg
ཨོཾ་ཨཱཿཧཱུྃྃ་བཛྲ གུ་རུ་པདྨ་སིདྡྷི ཧཱུྃྃ།
སྐྱབས་གནས་ཀུན་འད ས་ཨོ་རྒྱན་རིན་པོ ཆེ། །
བཟོད་མེད་གདུང་ཤུ ས་དྲག་པོས་གསོལ་བ འདེབས། །
ཕྱི་ནང་གསང་བའི་བ ་ཆད་དབྱིངས་སུ་སོ ། །
བསམ་དོན་ཆོས་བཞིན འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱ ས་རློབས། །
OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
Kyab-ne kun-du or-gyen rin-po-che
Zo-med dung-shug drag-po sol-wa deb
Chi-nang sang-way bar-che ying-su sol
Sam-don cho-zhin drub-par jin-gyi lob
OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
The embodiment of all refuge objects, Orgyen Rinpoche,
We pray to you with all overwhelming fervency.
Please, dispel outer, inner and secret obstacles into space.
Please, bless us so that our wishes are fulfilled according to Dharma.
OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
Chúng con nhất tâm chí thành kính dâng lời cầu nguyện
Đến hiện thân của tất cả cội quy y, Orgyen Rinpoche.
Xin tiêu trừ chướng ngại ngoài, trong, mật thành hư vọng.
Xin gia hộ mọi điều mong mỏi nương Chánh Pháp viên thành.
ཞེས་པའང་འཇམ་དབྱང ་མཁྱེན་བརྩེའི་དབ ་པོས་རྩེ་གཅིག་ཏུ ་གུས་པས་གང་ཤར་ཤུ ས་བྱུང་དུ་གསོལ་བ བཏབ་པ་དགེའོ།། །།
With single-minded devotion, Jamyang Khyentse Wangpo prayed according to whatever appeared in the mind. Virtue!
Với lòng sùng kính chí thành, Jamyang Khyentse Wangpo cầu nguyện theo những gì xuất hiện trong tâm. Nguyện thiện lành!
Translated into English by Mingyur Oswin, 2014.
Ngày 31/12/2014 ~ thánh vía Guru Rinpoche, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin. Nguyện chư chướng ngại tiêu trừ và mọi ước nguyện thành tựu cho muôn loài.
http://vajraratna.blogspot.com/2014/
https://www.youtube.com/watch?v=whoK0iYKFXI
海濤法師弘法集錦0560沒有吃素是否能 誦經持咒
Trì tụng mật chú
Posted on Tháng Sáu 21, 2017
Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật ngữ của chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội, đúc kết tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng Phạn, thần chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát khỏi uế trược, phiền não. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương tiện ban vui, cứu khổ.
Trong Phật giáo Mật tông, thần chú là một phương tiện được sử dụng song hành với phương pháp thiền quán Hộ Phật Du Già (Yidam Yoga), hay còn gọi là thiền quán Bổn tôn.
Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách Mật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây:
1. Kính ái: ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến;
2. Tăng ích: được gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt;
3. Tiêu tai: tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn trình từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không còn nữa;
4. Hàng phục: trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người;
5. Câu triệu: tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu…
Nhưng đó chỉ là những lợi ích thuộc về pháp hữu vi, chưa nói đến các lợi ích cao siêu hơn thuộc về pháp vô vi.
Trong pháp hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng ngay cả các bậc đại Bồ Tát cũng cần trì chú. Từ đó có thể thấy rằng thần chú thực sự hữu ích cho chúng sanh hữu tình, trong đó có loài người chúng ta. Sau đây là một trích dẫn từ kinh Thủ Lăng Nghiêm để thấy rõ oai lực của thần chú:
“Giả sử có chúng sanh trong tâm còn tán loạn, nhưng nếu trì niệm thần chú này cũng vẫn thường được 84.000 hằng hà sa Kim cang thần ngày đêm đi theo giữ gìn hộ vệ… Các quỷ thần ác phải xa lánh vị thiện nhân này ngoài 10 do-tuần, và chúng ma muốn rình rập quấy nhiễu cũng không thể được…”
Ngoại đạo có thần chú hay không? Hành giả ngoại đạo cũng có những mật chú riêng, có công năng khác nhau, nhưng không thể gọi là thần chú. Ở họ có thể gọi là thiên chú, tiên chú, quỷ chú, yêu chú… tùy theo đạo giáo của họ. Chẳng hạn, trong Bà la môn giáo có Phạm thiên chú, trong Lão giáo có tiên chú, trong giáo phái thờ quỷ thần, yêu ma thì có loại quỷ chú, yêu chú… Nhưng chỉ riêng trong Phật giáo mới có mật chú được gọi là thần chú.
Vì sao vậy? Chữ “thần” ở đây không có nghĩa là cõi thần, mà là “thần diệu khôn lường”, diệu dụng vô công, là thần lực của chư Phật. Ngoại đạo không đạt đến cảnh giới siêu phàm đó, nên không thể gọi là thần chú. Lược nói đơn giản là như thế, nhưng để thấu triệt cần phải phân tích thêm…
Nguyên nhân ở chỗ là do định lực của mỗi đạo nông sâu khác nhau. Những tu sĩ ngoại đạo dù chuyên cần tu luyện đến đâu cũng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong phạm vi tứ thiền, bát định; có nghĩa là từ sơ thiền lên đến tứ thiền, rồi dần lên đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng là hết mức. Theo lời Phật dạy, nếu họ gột sạch được tập khí chấp ngã, họ cũng có thể đạt tới Diệt tận định, thoát khỏi luân hồi. Nhưng vì họ tu tập trên căn bản vẫn còn chấp ngã nên điều này là không thể xảy ra. Và vì thế mà thành tựu cao nhất này chỉ có ở hành giả Phật giáo, những người tu tập giáo pháp vô ngã. Chính vì vậy mà hành giả ngoại đạo chỉ có thể đạt tới những mức định thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, nghĩa là không ra khỏi Tam giới. Do đó, họ vẫn còn trôi lăn trong cõi luân hồi chịu khổ não, cho dù các vị trời Vô sắc giới sống lâu đến nhiều đại kiếp.
Các hành giả Tiểu thừa có thể đạt đến Diệt tận định, làm vắng bặt được thọ ấm, tưởng ấm cùng những tập khí ô nhiễm chấp ngã của hành ấm, chạm vào mép cửa của tàng thức sơ năng biến, đã thoát khỏi vòng cương tỏa luân hồi. Nhưng đến đây vẫn còn sự biến dịch vi tế và mãnh liệt của những vọng tưởng hư vô vi tế của tàng thức. Bởi vậy, họ chưa đạt được Đại định Tam-muội.
Riêng trong Phật giáo Đại thừa, Mật thừa, các hành giả tu theo con đường Bồ Tát đạo, Phật đạo, thường quán chiếu các pháp như huyễn, thực hành phương tiện và trí huệ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thẩm thấu đại bi đồng thể và tự tâm huyễn hiện… nên đạt được thần lực của Đại định tam-muội, như Thủ lăng nghiêm tam-muội, Như huyễn tam-muội, Chân như tam-muội, Kim cang tam-muội… Khi có được đại định ấy gọi là Diệu định quả sắc, trở thành bậc Đại thánh trong Phật giáo, vô ngại tự tại ra vào sanh tử mà chẳng chút nhiễm ô, hóa độ vô lượng chúng sanh hàng vô số kiếp mà không chút dụng công. Đó là đặc điểm của diệu tâm, và từ diệu tâm nên các ngài mới có thể tuyên thuyết thần chú. Do đó có thể hiểu rằng thần chú là phương tiện thần diệu.
Cũng với ý nghĩa này, hòa thượng Tuyên Hóa từng giải thích về thần thông pháp lực. Ngài cho rằng có quỷ thông (phép tắc biến hiện của quỷ), tiên thông (phép tắc biến hiện của tiên, chư thiên cõi trời), ma thông (phép tắc biến hiện của ma), yêu thông (phép tắc biến hiện của yêu quái). Tất cả các loại phép tắc biến hiện đó đều gọi là “nghiệp thông”, Chỉ riêng ở hành giả đạo Phật mới được gọi là “thần thông”, tức là biến hóa tự tại, phân thân vô số ức…
Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, Phẩm thứ hai ghi lại một đoạn như sau:
“Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa thế giới; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết-bàn an lạc…”
Sở dĩ được như vậy là vì bậc thánh trong đạo Phật có đạt được “Lậu tận thông” làm nền tảng mà các hành giả ngoại đạo không thể. Từ điểm tham chiếu này có thể hiểu rằng thần chú là danh từ chỉ có ý nghĩa chuẩn xác nhất khi được dùng trong Phật giáo, nhất là Mật tông. Cũng từ đó ta có thể suy ra, chỉ có thần chú trong đạo Phật mới có được đầy đủ 5 công năng lợi ích vi diệu như đã nêu trên ở bình diện thế gian, còn những thành tựu xuất thế gian sẽ tiếp tục được luận giải ở chương sau.
Thần chú trong đạo Phật được chia làm 4 loại với những cấp độ khác nhau. Trong Tâm kinh Bát-nhã có đề cập đến:
“Đây là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có khả năng trừ được hết thảy khổ não, chân thật không hư dối.”
Cũng có một cách phân loại thần chú gồm: đảnh chú, tâm chú và tùy tâm chú. Thông thường, chỉ có chư Phật mới lưu xuất đảnh chú, thí dụ như “Đại Phật đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm” hoặc “Phật đảnh Tôn thắng thần chú”… Về mặt lý thì thần chú của chư Phật cao hơn chư Bồ Tát đẳng giác, tức là các đại Bồ Tát. Tuy nhiên, về mặt sự thì tất cả thần chú trên đều lưu xuất từ Đại định Tam-muội nên công năng vi diệu đều là bất khả tư nghì.
Trong các nghi quỹ thực hành thần chú có chỉ dạy cách đọc tụng, trì niệm. Nói chung, đọc thần chú là phát ra thành tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ, còn tụng thần chú là ngâm nga trầm bổng theo tiếng chuông mõ như hiện đang thực hiện ở các chùa, tu viện Đại thừa.
Nếu đọc thần chú thành tiếng thì nên tránh tám lỗi sau đây mà “Nghi quỹ Do Subahu thỉnh cầu” đã đề ra:
1. Quá nhanh,
2. Quá chậm,
3. Quá lớn,
4. Quá nhỏ,
5. Gián đoạn vì nói chuyện với người khác,
6. Xao lãng
7. Âm dài, đọc ngắn,
8. Âm ngắn, đọc dài.
Sau đây là giải thích cặn kẽ:
Quá nhanh là khi các âm của thần chú lẫn vào nhau, không rõ ràng.
Quá chậm là khi hành giả không đọc hết số câu thần chú trong khoảng thời gian vừa phải
Quá lớn là đọc như sấm, hoặc đọc làm cho người khác nghe thấy lớn tiếng.
Quá nhỏ là đọc mà chính mình cũng không nghe.
Nói chuyện với người khác là làm gián đoạn việc đọc thần chú.
Xao lãng là không tập trung vào câu thần chú mà mình đang đọc.
Âm dài đọc ngắn là phát âm sai những chữ của thần chú.
Âm ngắn đọc dài cũng là phát âm sai.
Riêng niệm thần chú tức là đọc thầm trong trí, hoặc đọc rì rầm mà người ta thường ví là chỉ đọc cho cổ áo nghe.
Niệm chú gồm có 6 cách sau đây, được ghi lại trong “Giáo huấn Dakini” do Đức Liên Hoa Sanh chỉ dạy:
– Một là niệm kim cương, có nghĩa là niệm mà chỉ có chuỗi đeo cổ của mình có thể nghe thấy.
– Niệm có âm điệu kim cương, được dùng trong những dịp thực hành thành tựu lớn.
– Niệm bí mật kim cương là niệm thầm trong trí.
– Niệm như luân xa, là tưởng tượng âm thanh khi niệm ra khỏi miệng, đi vào vùng rốn, rồi tan hòa ngược lên vùng trung tâm tim.
– Niệm như tràng hoa, là xoay tràng hoa thần chú xung quanh mỗi chủng tự thần chú trong trung tâm tim và chú tâm hoàn toàn vào các chủng tự.
– Niệm chú tập trung vào âm thanh là khi niệm chú luôn tập trung chú tâm hoàn toàn vào âm thanh phát ra của câu thần chú.
Mặc dù niệm thần chú có thể áp dụng trong mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi…, nhưng khi ngồi theo tư thế kiết già để niệm thần chú là tốt nhất. Đặc biệt, trong “Giáo huấn Dakini” cũng khuyến cáo, nếu hành giả đọc các thần chú Mật thừa hoặc thần chú của các vị bổn tôn hung nộ quá lớn thì oai lực của thần chú sẽ giảm đi đồng thời còn khiến cho các loài phi nhân và ma quỷ sẽ hoảng hốt mà bất tỉnh. Cũng đừng khạc nhổ những nơi có người qua lại, vì như vậy gây trở ngại cho năng lực thần chú. Riêng sự phát âm chưa đúng không phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc trì tụng thần chú, mà chủ yếu là sự chí thành, miên mật.
Nguyên Thành biên soạn
http://vietrigpamila.org/2017/06/21/tri-tung-mat-chu/
十六羅漢繞巡暨托缽
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-29.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-23.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...ocession-5.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...ocession-6.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...ocession-7.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...ocession-8.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...ocession-9.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-10.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-13.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-14.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-15.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-17.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-18.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-19.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-20.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-21.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-25.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-26.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-30.jpg
http://kagyumonlam.org/images/conten...cession-32.jpg
http://kagyumonlam.org/index.php/zht...-the-16-arhats
CÚNG-DƯỜNG KHÓI-HƯƠNG CHÚ
{ THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ / THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ CHÚ / YÊN-CÚNG CHÚ / THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ YÊN-CÚNG CHÚ / THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ VIÊN-MÃN CHÚ / THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ GIAI VIÊN-MÃN CHÚ / THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ CÚNG-DƯỜNG KHÓI-HƯƠNG CHÚ / THIÊU-HƯƠNG HOẶC GIẢ YÊN-CÚNG CHUYÊN-DỤNG CHÚ / CHƯ-PHẬT NHƯ-LAI NGÃ ĐẢNH-LỄ }
[ 上供下施 - 上供下施咒- 烟供咒 - 上供下施烟供咒 - 上供下施圓滿咒/上供下施皆圓滿咒 - 烧香或者烟供专用咒 / 诸佛如来我顶礼 - 諸佛如來我頂禮 ]
( 甘露上供下施煙供粉 - CAM-LỘ THƯỢNG-CÚNG HẠ-THÍ YÊN-CUNG PHẤN )
上供諸佛菩薩
下施六道眾生
Thượng Cúng Chư Phật Bồ Tát
Hạ Thí Lục Đạo Chúng Sanh
http://www.sos123.com/uploadfile2/20117613445562.JPG
. །ཨོཾ་ཨ་པྲ་ཏེ་སུ་ �ུ་ཕུ་པ་ཡེ་སྭཱ་ཧ � �� ལན་གསུམ།
. https://upanh1.com/images/Untitled12afa94e28ee5652.png
. 唵,阿扎迪,殊噜, 普巴耶 梭哈。
. 唵,阿紮迪,殊嚕, 普巴耶 梭哈。
. 唵,阿扎地,殊噜, 普巴耶 娑诃。
. 嗡,阿扎地,殊嚕,普巴牙 梭哈。
. 嗡,阿扎地,苏鲁,普巴呀 梭哈。
. 嗡,阿扎喋,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿扎德,苏鲁,普玛常耶 梭哈。
. 嗡,阿札达,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿札達,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,啊扎達,素如,普巴耶 索哈。
. 嗡,阿札第,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿詐第,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿詐第,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,啊诈第,苏路,普巴耶 梭哈。
. 嗡,啊诈第,苏路,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿遮达,速如,普巴耶 梭哈。
. 嗡,阿雜滴,殊魯,普巴耶 梭哇哈。
. Án, a trát địch, thù lỗ, phổ ba da, thoa cáp。
. Ong, azadi sulu pubaye soha。
. Om, azadi suru pubaya svaha。
. Om.Ah Tra Te.Su Ru.Phu Pa Ye.So Ha。
. OM AH TRA TI SU RU PU PA YE SO HA。
. OM APRATI SURU-PUBHAYE SVAHA。
. OM APRATI-SURUPUBHAYE SVAHA。
*LƯU Ý:
Niệm tụng , trì Chú 7 lần và Quán Tưởng để Cúng dường Khói Hương đến Các Cõi.
==========================
#XEM THÊM:
http://www.hongnhu.org/files/pdf/0-A...a_2016-hna.pdf
http://www.earthvase.org/wp-content/...4%E0%BD%A2.pdf
http://www.kagyulibrary.hk/uploads/s...e/file/126.pdf
http://udharmanc.com/wp-content/uplo...r-Offering.pdf
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...M%C3%A3/page12
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...M%C3%A3/page16
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...M%C3%A3/page18
TỊNH-THỦ CHÚ / TẨY-THỦ CHÚ
[ CHÚ RỬA-TAY ]
( 淨手咒 )
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
*正文:
以水盥掌,
當願眾生,
得清淨手,
受持佛法。
。唵,主迦囉耶莎訶 (3x)
。唵,主迦啰耶莎诃 (3x)
。嗡,主迦拉耶梭哈 (3x)
。Án chủ ca ra da sa ha (3 lần)
。OM SUKARAYA SVAHA (3x)
。OM SHUKALAYA SVAHA (3x)
。OM CHUGARAYA SVAHA (3x)
。OṂ CŪKARĀYA SVĀHĀ (3x)
*Dịch-âm:
Dĩ thủy quán chưởng,
Đương nguyện chúng sinh,
Đắc thanh tịnh thủ,
Thọ trì Phật pháp。
。唵,主迦囉耶莎訶 (3x)
。唵,主迦啰耶莎诃 (3x)
。嗡,主迦拉耶梭哈 (3x)
。Án chủ ca ra da sa ha (3 lần)
。OM SUKARAYA SVAHA (3x)
。OM SHUKALAYA SVAHA (3x)
。OM CHUGARAYA SVAHA (3x)
。OṂ CŪKARĀYA SVĀHĀ (3x)
*Dịch Nghĩa:
Lấy nước rửa tay,
Nên nguyện chúng sanh,
Được tay thanh tịnh,
Nhận giữ Phật pháp.
。唵,主迦囉耶莎訶 (3x)
。唵,主迦啰耶莎诃 (3x)
。嗡,主迦拉耶梭哈 (3x)
。Án chủ ca ra da sa ha (3 lần)
。OM SUKARAYA SVAHA (3x)
。OM SHUKALAYA SVAHA (3x)
。OM CHUGARAYA SVAHA (3x)
。OṂ CŪKARĀYA SVĀHĀ (3x)
#LƯU Ý:
Nếu chỉ đi Tiểu, thời chỉ dùng Nước rửa tay 1 lần, tiếp theo liền sạch sẽ. Nếu đi Cầu ( Đi Tiêu, Đi Ỉa, Đi Ị, Đi Ngoài, Đi Đại Tiện, Đi Nặng ), Khử Trừ Ô Uế thì sau khi rửa tay, hoặc dùng tro, bùn, góc của cục xà phòng…như Pháp mà tẩy rửa.
====================
# DẪN:
1. Kinh Nhân Quả nói rằng: “Tay đã tiếp chạm với Vật dơ mà lại thỉnh Kinh, sẽ bị Báo Ứng làm Loài Trùng trong Nhà Cầu”.
2. Khê Đường Tạp Lục ghi rằng:
“Trong năm Nguyên Hữu có vị Tăng nước Thục là Pháp Sư Trí Siêu thường tụng Kinh Hoa Nghiêm đã 30 năm, tình cờ thấy một Đồng Tử có phong mạo trong
sáng, nâng cao bàn tay vái chào.
Thầy Siêu hỏi: “Từ đâu đến ?”
Đáp: “Từ Ngũ Đài đến”
Thầy Siêu nói: “Vì sao từ chốn xa xôi lại đến nơi này?”
Đáp: “Có chút việc muốn cùng nói Đạo Lý”
Thầy Siêu nói: “Nguyện nghe”
Nói rằng: “Thầy của tôi tụng Kinh cho nên có thể tốt đẹp. Có điều vướng lỗi ngay lúc Rửa Ráy tại Nhà Cầu, nước dơ ngấm vào lưng bàn tay mà chưa từng dùng Tro Bùn tẩy rửa. Cách dùng Tro Bùn, Luật Chế bảy mức độ, nay chỉ còn hai, ba… Duyên với sự tiếp chạm này còn có, nên lễ Phật, tụng Kinh thảy đều Bị Tội”
Nói xong liền chẳng nhìn thấy. Thầy Siêu tủi thẹn rồi sửa chữa lỗi lầm.
Người hiểu biết nói rằng: “Đây ắt là Văn Thù hoá hiện đến nhắc nhở cho Thầy Siêu vậy. Cho nên biết, Tẩy Rửa Tay đều nên y theo Pháp”
( http://daibaothapmandalataythien.org...-thiet-yeu.pdf )
# GIẢI:
1. Chú thích từ ngữ:
Quán (盥): Rửa rái, rửa sạch.
Chưởng (掌): Bàn tay, lòng bàn tay.
Thủ (手): Tay. Mỗi cái tay gồm có ba phần: Cánh tay, bàn tay và năm ngón tay. Là bộ phận năng động của cơ thể, hai tay giúp con người làm các động tác nắm, mở, nâng lên, đưa xuống, kéo lê, ghì chặt… Nhờ có hành động của bàn tay, con người tiến bộ hơn con vật, có khả năng biến các ước mơ trở thành hiện thực.
Thọ trì (受持, S. udgrahana): a) Lãnh thụ và ghinhớ, hay tiếp nhận và thực tập, như trong thuật ngữ “thọ trì giới luật” hay “thọ trì Phật pháp”. b) Tiếp nhận và giữ gìn, như trong thuật ngữ “thọ trì tam y” (受持三衣). Thọ trì còn có nghĩa là nương theo mà thực hành, hay hạ thủ công phu với tâm chuyên cần liên tục.
Phật pháp (佛法, P. buddhadhamma, buddhasāsana; S. buddhadharma, buddha-śāsana): Chỉ cho tất cả chân lý (P. dhamma; S. dharma) và đạo đức (P. sīla; S. Śīla) được đức Phật thuyết giảng trong 45 năm, được biên tập thành Kinh tạng và Luật tạng.
Theo kinh Tăng Chi (A.III.285), chân lý Phật dạy có 6 đặc điểm: a) Khéo giảng (Svākkhāto bhagavatā dhammo), đầy đủ văn và nghĩa lý, b) Thiết thực hiện tại (Sandiṭṭhiko), tức có kết quả hiện đời, c) Siêu việt thời gian (Akāliko), tức không bị lỗi thời trước phát triển của khoa học, d) Đến để mà thấy (Ehipassiko), tức cần kiểm chứng bằng trí tuệ, e) Mục đích hướng thượng (Opanayiko), không phải là triết lý suông, f) Được người trí công nhận (Paccattaṃ veditabbo viññūhi).
Theo kinh Tăng Chi, đạo đức Phật dạy có 7 công năng: a) Hướng đến nhàm chán (Ekantanibbidā), b) Vô nhiễm (Virāga), c) Diệt khổ (Nirodha), d) An tịnh (Upasama), e) Thắng trí (Abhiññā), f) Giác ngộ (Sambodha), g) Niết-bàn (Nibbāna).
Siêng năng đọc tụng, khảo cứu và thực hành chân lý Phật dạy trong đời sống, ta giải phóng được vô minh, không còn mê tín, tăng trưởng trí tuệ, kết thúc sợ hãi, thấu rõ mọi thứ, nhờ đó, sống an lạc và hạnh phúc bền vững trong đời.
2. Giải thích gợi ý:
Giữ vệ sinh và đảm bảo an toàn thực phẩm có thể giúp ta ngăn được các loại bệnh do truyền nhiễm cấu uế từ bàn tay bốc thực phẩm ăn. Người Ấn Độ không phải là cộng đồng duy nhất dùng tay bốc ăn. Các nước Pakistan, Bangladesh, Bhutan, Nepal… cũng ăn bốc. Thời hiện đại, dù đầy đủ muỗng nĩa inox, nhiều cư dân trên hành tinh vẫn thích ăn bốc bằng tay như thói quen văn hóa ẩm thực.
Người Ấn Độ mặc định rằng bàn tay trái sử dụng cho vệ sinh cá nhân, bàn tay phải bốc thực phẩm ăn. Trước khi vào bàn cơm, người Ấn Độ đến bồn rửa tay, thường được đặt trước nhà ăn, có xà bông, giấy, khăn. Rửa sạch tay trước khi ăn là thói quen tích cực đối với người ăn bốc. Người Ấn Độ thường thái nhỏ thực phẩm, nấu nhuyễn nhừ rồi dùng tay trộn đều với nhau, vo thực phẩm cho tròn, đưa vào miệng ăn, không để rơi rớt, không để dính râu. Người Ấn Độ không ăn canh, không ăn rau tươi như người Việt Nam.
Do tính đặc thù của thực phẩm, người Ấn Độ không có nhu cầu sử dụng đũa. Cũng giống như tại Việt Nam, khi ăn bánh xèo, bánh cuốn, ăn bằng tay mới thấy ngon. Người Ấn Độ thường ăn thực phẩm vo tròn, nên thực phẩm của họ được gọi là “đoàn thực”, do đó, ăn bốc bằng tay tạo ra nhiều dịch vụ và tạo cảm giác ngon hơn.
Khi ăn vụng, da bàn tay tiếp xúc với lưỡi, dịch vị trong miệng sẽ tiết ra nhiều, hỗ trợ cho sự tiêu hóa khinuốt thực phẩm vào bao tử. Về phương diện y học, ăn bằng tay sẽ ngon hơn là ăn bằng muỗng và đũa vì đũa, muỗng tiếp xúc với lưỡi không tạo ra dịch vị tương tự như bằng tay được. Khi ăn bằng bốc tay, để đảm bảo vệ sinh, ta phải rửa sạch tay. Vào thời đức Phật, Ngài và các vị thánh đệ tử cũng ăn bốc bằng tay.
Khi rửa tay, ngoài việc mong bàn tay này được sạch, ta cần cam kết sử dụng tính năng của bàn tay để phụng sự nhân sinh, nhằm mang lại các giá trị cao quý cho cuộc đời. Ở đây, chức năng cao nhất của tay là giữ gìn chính pháp của Như Lai. Dùng bàn tay này bố thí, cúng dường, giúp đời, cứu người, làm Phật sự, mang tình thương đến mọi nơi, thì bàn tay này tạo ra nhiều lợi lạc.
Ai đã từng có quãng đời vi phạm luật pháp, thay vì trừng phạt bàn tay thì hãy rửa tâm; khi tâm thanh tịnh, bàn tay sẽ hướng về việc lành. Nếu trước đây dùng tay ăn cắp, nay chuyển nghiệp bằng cách dùng tay bố thí, cúng dường. Thay đổi nghiệp bằng thay đổi tâm sẽ giúp ta thay đổi các hành động của bàn tay. Khi động cơ bất thiện đã chấm dứt, thì bàn tay ta sẽ bắt đầu làm các việc lợi lạc cho đời.
Trên nền tảng đó, Bồ-tát Quan Thế Âm đã hóa thân thành Thiên Thủ Thiên Nhãn, 1.000 bàn tay và 1.000 con mắt. Để các bàn tay phụng sự đời bằng thái độ vô ngã vị tha, thì các hành động từ bi phải được trí tuệ soi sáng. Trí tuệ ở đây được thể hiện qua hình ảnh con mắt. Trong một hành động vị tha đều có một con mắt trí tuệ soi sáng. Trong mỗi ứng dụng lòng từ bi phải có trí tuệ song hành. 500 người tạo thành một tập thể lớn. 1000 con mắt tạo thành chất xám tập thể. Có được từ bi lớn và trí tuệ lớn thì thành quả phụng sự chúng sinh chắc chắn sẽ hiệu quả hơn.
( https://thuvienhoasen.org/images/fil...cu-chi-pdf.pdf )
#XEM THÊM:
http://thubtenchodron.org/wp-content...17-Secured.pdf
http://daibaothapmandalataythien.org...-thiet-yeu.pdf
https://thuvienhoasen.org/images/fil...cu-chi-pdf.pdf
http://tuvientuongvan.com.vn/phap-ba...-yeu-p214.html
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...=1#post1652506
(四)特殊大日如來真言:
嗡 阿 梭 哈
(4)Đặc Thù Đại Nhật Như Lai Chơn Ngôn:
OM-AH SVAHA
http://blog.youthwant.com.tw/aman1314/123456/349/
======================
#A DI ĐÀ KINH HỢP GIẢI -Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch- Niệm Phật
*Nhất Tự Chân Ngôn:
Kinh Bất Không Thần Biến, quyển 28 chép: “Biến Giải Thoát Nhất Tự Chân Ngôn là: “Án, ác, sa phạ ha” (Om, Ah, svaha). Nếu có kẻ sáu thời theo đúng pháp trì tụng đủ số một lạc xoa (100 ngàn lần) thì nghiệp (1) này thành tựu. Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân kim sắc, sẽ diệt được hết thảy trọng tội căn bản từ vô thỉ. Nếu Bồ Tát chẳng hiện thì càng tinh tấn tụng niệm bội phần, đủ số hai lạc xoa hoặc ba lạc xoa thì nghiệp này sẽ thành tựu, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hiện thân, cầm tay chỉ bày đức Phật A Di Ðà ngồi trên tòa sư tử hoa sen báu nơi cõi Tây Phương Tịnh Ðộ, lại được A Di Ðà xoa đầu”.
(1) Chữ Nghiệp (karma) ở đây chỉ pháp tu. Ðôi khi còn phiên là Yết Ma.
https://thuvienhoasen.org/a13426/a-di-da-kinh-hop-giai
https://www.pulung.com/images/threedbuddha_06.jpg
https://upanh1.com/images/Untitledb4fd193c7ee79ac4.png
#Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tâm Chú ( 藥師琉璃光如來心咒 ):
。OM BHAISAJYA-GURU VAIDURYA-PRABHARAJAH SVAHA
。OM BHAISAJYAGURU VAIDURYA-PRABHARAJAH SVAHA
。OM BHAISAJYAGURU VAIDURYAPRABHARAJAH SVAHA
https://www.pulung.com/threedbuddha_02.php / https://www.pulung.com/threedbuddha_06.php
--------------------------------
bhaiṣajyaguru vaidūryaprabharājāya
bye-saya-guru vye-dur-yah proba-raja-yah
The Medicine Buddha of the Lapis-Lazuli Light (Skt. Bhaishajya-guru Vaidurya Prabha Raja;
Bhaisajya Guru Vaidurya Prabharajah (Dược Sư Như Lai)
http://www.chuadainhatnhulai.org/pdf...ankrit_Chu.pdf
佛家基本手印_图文_百度文库
https://wenku.baidu.com/view/3bc44ce...203d82564.html
Translate this page
Jun 27, 2018 - 真言] 唵(2) 嚩日囉驮都(2) 鑁(3) om(2) vajra-dhatu(2) vam(3) ⊙大日如来 .... 药师如来药师如来(梵名Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajah),全名为药师 ... svaha(15) 阿閦佛 阿閦佛(梵名Aksobhya),汉译有阿閦( 音彳メ)、阿閦鞞, ...
Buddha Nama Bhaisajyaguru-vaidurya-prabharajah, adalah perkataan Bahasa Sansekerta.
https://docplayer.info/67936892-Sadh...kumara-ii.html
藥師如來
藥師如來(梵名Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajah),全名為藥師琉璃光王如來 ,通稱為藥師琉璃光如來,簡稱作藥 佛。
https://kknews.cc/other/jbq6pop.html
• Aryamitayur Niyama Prabharaja Dharani (Shen Wu Liang Sou Chie Ting Kuang Ming Wang Tho Lo Ni), dharani ini bermanfaat untuk memperpanjang usia, meringankan karma buruk yang berat, pembacanya yang tekun setelah meninggal dunia akan terlahir di negeri Buddha di sepuluh penjuru alam.
https://www.forum.or.id/threads/mantra.43733/
Y thuật Tây Tạng: Những phương pháp chữa bệnh bí ẩn
NLĐ 11/03/16 23:47 GMT+71 đăng lạiGốc
Y học Tây Tạng cho rằng ngoài 2 nhóm bệnh thể xác và tinh thần còn có một số chứng bệnh “không phải do người” gây ra
Quan điểm này cũng rất phổ biến ở vùng miền Bắc Trung Hoa và Malaysia. Những bệnh ấy không thể chữa bằng thuốc hoặc phương pháp trị liệu thông thường. Y sư Tây Tạng khi gặp những trường hợp này sẽ chuyển ngay bệnh nhân đến các vị chức sắc tôn giáo đạo cao đức trọng để chữa bằng phù chú hoặc các phương cách thần bí.
Trang sức cũng là dược liệu
Đồ trang sức là vật không thể thiếu đối với người Tạng, nhất là các thiếu nữ. Những chiếc vòng tay, vòng cổ, nhẫn, hoa tai rất lớn bằng bạc, lục bảo thạch, hồng bảo thạch, san hô, xương động vật, gỗ quý... với đủ hình thù, màu sắc, âm thanh luôn gợi lên cảm giác huyền bí lạ lùng. Đồ trang sức của người Tạng không chỉ là phong cách mà còn văn hóa - tôn giáo. Hầu hết các vòng kiềng, nhẫn đều có khắc 6 chữ bùa “án ma ni bát mê hồng”(om mani patme hum) gọi là lục tự chân ngôn.
https://photo-2-baomoi.zadn.vn/w700_...82/1_39001.jpg
Y sư Tây Tạng bào chế những loại thuốc gia truyền Ảnh: Internet
Phật giáo Tây Tạng cho rằng thường trì tụng hay đeo 6 chữ này sẽ tiêu trừ bệnh khổ, không còn lo lắng, tăng tuổi thọ và sung túc. Nhiều vòng cổ tạo hình gậy kim cang, đây là đồ pháp khí dùng để hàng ma phục yêu, đeo trên người giúp tăng sức mạnh, trí tuệ, tiêu trừ tội chướng. Người Tạng rất hay dùng những chiếc hộp trang sức bằng bạc hay đồng, trên khảm hình Phật bằng vàng hay ảnh của “hoạt Phật” (Phật sống) bảo thạch, trân châu như là bùa hộ thân. Những đồ trang sức có gắn hạt châu cũng mang ý nghĩa đặc biệt: Người Tạng thường khảm từ 1 đến 12 hạt châu, 1 hạt tượng trưng cho trí tuệ quang minh, 2 hạt tượng trưng cho vợ chồng hòa thuận, gia đình hạnh phúc...
Kim loại vàng vừa là vật trang sức vừa là dược liệu trị bệnh của người Tạng. Vàng chế thành kim châm cứu, bột vàng được dùng bào chế các viên thuốc “Bảo hoàn”… Liệu pháp châm cứu rất được người Tạng ưa dùng vì đơn giản và hiệu quả. Chỉ có điều, khác với Trung y, kim dùng để châm cứu của y sư Tây Tạng là một cái “đinh” bằng vàng ròng lớn, chế tạo rất công phu. Từ xa xưa, người Tạng đã hiểu đặc tính của vàng, thường dùng kim vàng để hút những tạp vật ô uế trong khí mạch. Mỗi chiếc kim chỉ dùng tối đa 20 lần, sau đó mua thỏi vàng ròng khác chế thành kim mới.
Thần dược “Bảo hoàn”
Trong y học Tây Tạng, ngoài những phương pháp chữa bệnh bằng ăn uống, điều chỉnh sinh hoạt, châm cứu, trích máu, xoa bóp… còn có một loại thuốc viên tương tự đan dược trong Đạo giáo Trung Hoa, gọi là “Bảo hoàn” được truyền từ rất lâu đời. Đây là thứ thuốc độc đáo của người Tạng, được bào chế công phu từ các loại dược liệu quý giá của động, thực vật, khoáng vật. Thành phần của nhiều loại bảo hoàn còn có vàng, kim cương, hồng bảo thạch, bạc… Bảo hoàn rất quý và công hiệu, người Tạng thường mang theo bên mình như bùa hộ mạng. Có các loại bảo hoàn cổ truyền nổi tiếng sau:
Đại Bảo Hàn Huyền: Loại viên hoàn này có giá trị phòng chữa bệnh rất lớn nhưng quá trình chế tạo rất phức tạp, thành phần toàn là dược liệu quý hiếm, có cả bột hồng bảo thạch, kim cương, ngọc phỉ thúy và hơn 100 loại thảo dược quý giá khác. Ngoài tác dụng chống độc, bài độc rất công hiệu, Đại Bảo Hàn Huyền còn có khả năng chữa trị các dạng ung thư thời kỳ đầu và thời kỳ giữa, chữa các chứng nhiệt bệnh, bệnh khớp.
Giữa năm 1980, một xưởng chế tạo hóa chất ở Ấn Độ bị cháy nổ rất lớn, làm tử thương nhiều người. Vụ nổ hóa chất này làm cho những người còn sống ở xung quanh bị nhiễm độc nặng nhưng những người Tây Tạng tụ cư gần đó thì hoàn toàn miễn nhiễm, không bị trúng độc hoặc bị rất nhẹ. Một hội đồng khoa học được thành lập để làm rõ việc này. Kết quả là các chuyên gia phát hiện những người dân Tạng ấy đều có uống qua Đại Bảo Hàn Huyền vào hôm xảy ra vụ nổ hoặc đã uống mấy ngày trước đó. Thậm chí, một số người chỉ mang thuốc này trong người cũng may mắn thoát khỏi nhiễm độc nhờ khả năng kháng độc rất cao.
Bảo Như Ý Châu: gồm 16 loại dược liệu chủ yếu và 70 loại thứ yếu chế thành, trong đó có thành phần các loại khoáng sản quý như vàng, bạc, tùng thạch, lưu ly, trân châu, san hô, đặc biệt là loại đá quý đặc hữu của Tây Tạng gọi là “thiên châu”; các loại thực vật như đậu khấu, trúc hoàng, đinh hương… Đây là thứ thuốc chống độc cực kỳ linh nghiệm, dùng trị các chứng trúng độc thực phẩm, nọc độc rắn, côn trùng, cùng các bệnh thần kinh, bại liệt, tim mạch, ung thư giai đoạn đầu.
Bảo Cổ Tùng: Gồm 25 loại dược liệu chế thành, thành phần chủ yếu có bột trân châu, san hô, tùng bảo thạch, kha tử, tử đàn hương… Chủ yếu dùng trị các bệnh về gan, xơ gan cổ trướng, xơ gan, tiêu hóa không tốt, chảy máu mũi, khô khát…
Bảo Tịnh Nguyệt Tinh: Là thứ thuốc rất được người Tạng tôn sùng. Đây là bài thuốc của một danh y người Tạng truyền lại từ thế kỷ XV, gồm 50 loại khoáng vật, thực vật chế thành. Thuốc này chủ trị các bệnh về hô hấp, lao phổi, phù thũng, đau dạ dày… Thường dùng Bảo Tịnh Nguyệt Tinh làm cho tóc dài và đen mượt, tăng cường trí nhớ, bồi bổ cơ thể.
Đại Thiết: phối hợp bột sắt với nam châm cùng 49 vị thuốc khác, dùng phòng và trị các bệnh về mặt và kinh mạch vùng thị giác, như xung huyết, đồng tử quá mẫn, sợ ánh sáng, khô nhãn cầu, giảm thị lực… rất công hiệu. Ngoài ra còn dùng thuốc này để chữa trúng độc, bệnh gan mật và máu làm đau mắt.
Đại Bảo Tích: Gồm hơn 50 vị chế thành viên, chủ trị các bệnh về máu, máu tuần hoàn không đều, thiếu máu, thổ huyết, xơ cứng mạch máu. Thuốc này còn có tác dụng bài thải những độc tố tích lũy trong cơ thể do thức ăn chứa hóa chất, ô nhiễm môi trường…
Nội bệnh và ngoại bệnh
Y học Tây Tạng chia bệnh tật thành 2 loại là “nội bệnh” và “ngoại bệnh”. Ngoại bệnh là những bệnh khổ từ thể xác và tinh thần, có thể dùng thuốc, châm cứu, trích máu… để điều trị. “Nội bệnh” là lòng tham lam, sân hận và mê muội, là nguyên nhân chủ yếu gây ra, không thể trị bằng phương pháp thông thường. Chúng ta thường cho rằng bệnh thường do những nhân tố bên ngoài như ô nhiễm môi trường, vi khuẩn… gây ra nhưng thực ra đây chỉ là thứ yếu, chủ yếu vẫn do “tam độc” tham - sân - si, hai thứ này kết hợp với nhau mà gây “ngoại bệnh”.
THIÊN TƯỜNG
https://baomoi.com/y-thuat-tay-tang-...c/18858982.epi
Ngagyur Nyingma Mindrolling Vietnam
22 tháng 11, 2015 ·
BẬC THẦY TÂM LINH
Đức Phật đã dạy trong một Mật Điển: " Trong tất cả chư Phật đã đạt đến Giác Ngộ, không có một vị nào thành tựu việc này mà không nhờ một Bậc Thầy. Và trong một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện ở Hiền Kiếp này,sẽ không có vị nào đạt đến Giác Ngộ mà không nương tựa vào một vị Thầy"
Trong truyền thống chúng tôi xem vị Thầy còn tốt hơn những vị Phật. Mặc dầu lòng từ bi và năng lực của chư Phật luôn hiện hữu song những mê mờ đã ngăn che chúng ta không gặp được chư Phật một cách trực tiếp. Nhưng vị thầy thì chúng ta có thể gặp; vị thầy đang ở đó sống, thở và làm việc. Vị thầy luôn ở trước mắt ta để chỉ cho ta bằng mọi cách có thể, con đường của chư Phật: con đường giải thoát. Với tôi, những Bậc Thầy của tôi là hiện thân của chân lý sống , là những dấu hiệu ám chỉ rằng sự giác ngộ có thể đạt được khi còn thân xác,ngay trong đời này, trong thế giới này và tại đây. Các Ngài là những nguồn cảm hứng tối thượng trong việc tu tập của tôi, trong công việc, đời sống của tôi, và trong cuộc hành trình của tôi tiến đến giải thoát. Những Bậc Thầy đối với tôi là hiện thân của lời nguyện thiêng liêng đặt giác ngộ lên trên hết. Tôi biết rằng chỉ khi đạt đến giác ngộ tôi mới hiểu biết hoàn toàn những vị thầy ấy thực sự là ai, và biết được trọn vẹn lòng độ lượng,từ bi và trí tuệ vô biên của họ
( Trích từ Tạng Thư Sống Chết của Sogyal Rinpoche - Thích Nữ Trí Hải dịch )
Hiện nay ,trên thế giới có rất nhiều các bậc cao tăng chân tu của Kim cương thừa,nhưng với phần đông Phật tử chúng ta, có cơ duyên hạnh ngộ được gặp và được ban phước từ các Ngài là rất khó khăn huống chi là được các Ngài nhận làm học trò, trao truyền các quán đảnh, dìu dắt hướng dẫn tu tập từng bước trên con đường giải thoát lại càng khó khăn vô cùng.
May mắn thay! Gót sen của những vị cao tăng dành trọn cuộc đời để cầu học,thực học, thực tu và thực chứng cũng đã đặt lên trên quê hương Việt Nam. Xin thành kính giới thiệu đôi nét về tiểu sử của các Ngài, để cho những đóa hoa Phật tử đầy lòng sùng tín và khát khao tu tập hướng đến giải thoát , có cơ duyên tiếp xúc học hỏi với các Ngài- những vị Thầy hiện thân của nền giáo lý thiêng liêng.
TIỂU SỬ NGÀI TRƯỞNG DÒNG
MINLING KHENCHEN RINPOCHE THỨ 9
Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche thứ 9 sinh ra trong gia đình Mindrolling, truyền thừa Nyok linh thánh, vào năm 1968. Thân mẫu của Ngài, Bà Jetsun Dechen Wangmo là em gái của Đức Minling Khenchen Rinpoche thứ 8 và là cô của Đức Minling Trichen Rinpoche thứ 11.
Khi chào đời, Rinpoche được Đại Sư Minling Chung Rinpoche (1908 – 1980) ban Pháp danh là Jigmey Namgyal. Ngài được công nhận là vị tái sinh của Đức Minling Khenchen Rinpoche thứ 8 bởi Thánh Đức Dalai Lama thứ 14, Ngài Gyalwang Karmapa thứ 16, và Lhatog Rinpoche. Sinh ra trong truyền thừa Mindrolling, Ngài Jigmey Namgyal, bây giờ được biết đến với danh hiệu Minling Khenchen Rinpoche, là bậc trì giữ truyền thừa nhánh Khenrab của truyền thống Mindrolling. Đức Lochen Dharmashri, Gyalsay Tenpai Nyima và Minling Khenchen Rinpoche đời trước là một vài trong số những bậc đạo sư phi phàm đã trì giữ truyền thừa này trong quá khứ.
Quá trình tu học
Ngay từ khi còn nhỏ Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche đã bắt đầu việc nghiên cứu về trì tụng, thư pháp và y dược Tây Tạng với Trlu Khenpo Tsenam Rinpoche, người sáng lập Học viện Y Dược Tây Tạng đầu tiên ở Lhasa, Tây Tạng. Năm tám tuổi, tức năm 1976, Ngài xuất gia tu học.
Năm 1983, theo mong ước của Đức Minling Trichen Rinpoche thứ 11 và lời mời của Khochhen Rinpoche, Ngài gia nhập Tu viện Mindrolling ở Ấn Độ và tiếp tục các nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Tạng, thi ca, triết học và đặc biệt là các nghi lễ của truyền thống Mindrolling với Đại Đức Dhagpo Rinpoche. Sau đấy, để tiếp tục việc tu học, Rinpoche gia nhập Phật học viện Ngagyur Nyingma Namdrolling ở Mysore, Ấn Độ, nơi Ngài tiến hành việc học tập Kinh, Luật, Luận, Trung Đạo và Lô-gic dưới sự gia trì và hướng dẫn đặc biệt của Đức Kyabje Penor Rinpoche. Trong thời gian này, Ngài cũng thọ nhận trao truyền Kama và Terdzo Wang đầu tiên từ Đức Kyabje Penor Rinpoche.
Các trao truyền
Đức Minling Khenchen Rinpoche đã thọ nhận trao truyền giáo lý Terma của Tổ Pema Lingpa, chỉ dẫn Tri Yeshey Lama, và vô số trao truyền và quán đỉnh khác từ Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Kyabje Minling Trichen Rinpoche, Kyabje Penor Rinpoche, Kyabje Trulzhig Rinpoche, Kyabje Taklung Tsetrul Rinpoche và Kyabje Tulku Urgyen Rinpoche.
Năm 1987, trong chuyến viếng thăm Dharamsala theo lời yêu cầu của Đức Dalai Lama thứ 14, Ngài trưởng dòng và Đức Dungsay Dhala Gyaltsen Rinpoche, tức vị Minling Trichen thứ 12, cùng với Đức Dalai Lama đã thọ nhận chỉ dẫn về Mật điển Guhyagarbha từ Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche. Trong khoảng thời gian này, Rinpoche cũng thọ nhận một quán đỉnh đặc biệt của Đức Dalai Lama thứ 5 từ chính đương kim Thánh Đức Dalai Lama.
Theo lời khai thị của Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Rinpoche thọ nhận giới tỳ kheo từ Thánh Tăng Kyabje Trulzhig Rinpoche.
Giảng dạy ở châu Á, Âu và Mỹ
Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche thứ 9 đã giảng dạy tích cực ở châu Á, Âu và nước Mỹ trong hơn hai mươi năm qua. Các bài giảng của Ngài nổi tiếng vì sự rõ ràng, sâu sắc và hóm hỉnh, và đặc biệt phù hợp với thời đại hiện nay, điều khiến Ngài trở thành một vị thầy được kính trọng với tất cả những ai từng có duyên hạnh ngộ.
Viện trưởng chịu trách nhiệm Phật học viện Ngagyur Nyingma
Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche đảm trách Phật học viện tại Mindrolling và đã giảng dạy, hướng dẫn chư tăng không ngừng nghỉ từ khi Ngài nhận vị trí năm 1992. Hàng năm, Ngài ban giới nguyện tu sĩ cho hàng trăm tu sĩ vào ngày 4 tháng 6 theo lịch Tây Tạng, nhân kỷ niệm ngày Đức Thế Tôn chuyển Pháp luân lần đầu tiên.
Phó chủ tịch Đại lễ Cầu nguyện Hòa bình Thế giới Nyingma Monlam
Theo lời thỉnh cầu của nhiều tu viện Nyingma khác nhau, Ngài chấp nhận vị trí Phó Chủ tịch Đại lễ Cầu nguyện Hòa bình Thế giới của truyền thống Nyingma, được tổ chức hàng năm ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Bên cạnh đó, Ngài đã bảo trợ các sự kiện của Đại lễ trong các năm 2008, 2010 và 2012. Trách nhiệm bảo trợ cho sự kiện này bao gồm cung cấp đồ ăn, chỗ ở cho mọi người tham dự, đôi khi lên tới hàng chục nghìn người, cũng như cung cấp chi phí cho các nghi lễ khác trong mười ngày diễn ra Đại lễ.
Thành lập tổ chức Eastern Sun
Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche thứ 9 là người thành lập Nhóm Eastern Sun ở Đài Loan. Tổ chức này đảm trách mọi đề án của Ngài – ở Ấn Độ cũng như các quốc gia khác. Bên cạnh những dự án chính được đề cập trong trang web, Rinpoche cũng chịu trách nhiệm ấn tống các bản văn linh thiêng của truyền thừa Nyingma, đặc biệt là Mindrolling để bảo vệ chúng cho các thế hệ tương lai.
Lần đầu tiên trong lịch sử Mindrolling, một cuốn giáo khoa mọi nghi lễ, cũng như các nghi lễ khác của truyền thừa Nyingma và Torma đã được xuất bản vào năm 2011. Với thế hệ tương lai, điều này đảm bảo rằng việc tiến hành các nghi lễ linh thiêng sẽ được gìn giữ theo đúng truyền thống.
Nhóm Eastern Sun hiện đã hợp nhất với Hội Cư sĩ Phật tử ở Đài Bắc, Đài Loan, một tổ chức được thành lập năm 1968, và hiện có trên 5000 thành viên. Tổ chức này đang thực hiện những hoạt động nhân đạo ở nhiều quốc gia. Hiện tại, Ngài giữ vai trò Cố vấn Tâm linh cho tổ chức này.
Hộ trì Giáo Pháp và bảo vệ truyền thừa
Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche tiếp tục tham gia vào hoạt động nghiên cứu và thực hành những pháp tu Ngài đã thọ nhận trong đời này từ nhiều vị thầy đáng kính. Hàng năm, Ngài cử hành nhiều đại lễ drubchen ở tu viện Mindrolling, cũng như dành thời gian cho những khóa nhập thất nghiêm ngặt. Rinpoche, với lòng từ bi và hoạt động không ngơi nghỉ, đã hộ trì Giáo Pháp và nỗ lực duy trì truyền thừa Mindrolling nói riêng và Nyingma nói chung.
Vinh danh
Trong những năm vừa qua, Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche đã nhận được nhiều giải thưởng nhằm công nhận những nỗ lực và đóng góp của Ngài đối với xã hội. Các giải thưởng gần đây bao gồm:
• Ngày 4/12/2010: Ngài Minling Khenchen Rinpoche nhận giải “Bharat Jyoti Award” vì vai trò và những trách nhiệm đặc biệt của ngài, xuất sắc trong hoạt động thiện nguyện tại Ấn Độ cũng như nhiều quốc gia khác.
• Năm 2010: Ngài Minling Khenchen Rinpoche được Thị trưởng thành phố Tân Trúc (Hsin-chu), Đài Loan trao giải “Appreciation Award” bởi những năm tháng miệt mài giảng dạy, giúp đỡ người dân Hsin-chu cả về thân và tâm.
• Ngày 6/1/2011: Ngài Minling Khenchen Rinpoche nhận giải “Bharat Gaurav Award” (Niềm Tự Hào Của Ấn Độ) và “Certificate of Excellence Award” vì những đóng góp trong hoạt động thiện nguyện.
Đặc biệt, năm 2010, Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche đã được trao giải thưởng Công Dân Ấn Độ như một sự ghi nhận những đóng góp không mệt mỏi của Ngài với đất nước Ấn Độ nói riêng, cũng như với sự phát triển của toàn bộ thế giới.
Như thế, cuộc đời và các công hạnh của Ngài trưởng dòng Minling Khenchen Rinpoche thứ 9 hoàn toàn phù hợp với lời tiên tri của Đại Đạo Sư Liên Hoa Sinh trong Pema Kathang: “Trong tương lai, vào thời kiếp đạo đức trên đà suy thoái, một hóa thân của Đức Hồng Quan Âm Như Lai sẽ đến thế gian này, mang hình tướng của vị Tỳ kheo trì giữ giới luật của Truyền thừa Mindrolling vô song đời thứ 9. Với trí tuệ và lòng bi mẫn lớn lao, vị ấy sẽ trao truyền vô số các pháp bảo giúp chúng sinh thân tâm được an ổn và có được cuộc sống an lành hạnh phúc. Vị ấy sẽ đưa rất nhiều chúng sinh hữu duyên về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà bằng pháp môn tối thượng của Đức Hồng Quan Âm Như Lai và A Di Đà Như Lai”.
https://scontent.fhan2-1.fna.fbcdn.n...0e&oe=5D28BC15
https://scontent.fhan2-3.fna.fbcdn.n...6a&oe=5CDE633F
https://www.facebook.com/75052674175...0071387471447/
https://www.youtube.com/watch?v=2yj3MV5Ex2I
Мантра Кармапы
http://www.slftc.twmail.cc/333.jpg
2048 × 1536Images may be subject to copyright. Find out more
寧瑪魯古佛學會_首頁
www.slftc.twmail.cc
... 為初級紅衣出家僧人)→B.阿巴(密咒師) →C.喇嘛上師(堪布穿黃衣紅披掛藏紅 ) → D.堪祖→ E.堪欽大住持→F.法王教主...等等 紅衣僧人不叫喇嘛是叫札巴,不具備 持 ..
http://www.slftc.twmail.cc/
[PDF]3#?- P2
ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/TC002-CH.pdf
Translate this page
得瓦夏巴檀嘉達給多 ... 南麼惹那扎呀呀南麼巴嘎哇喋阿彌大 呀大他嘎大呀 ..... 久特巴密特那夏克貝密達克畢 ..... 成願咒:迭亞他班雜知以雅阿瓦波大 耶梭哈.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/TC002-CH.pdf
http://web.fgs.org.tw/CKEdit/upload/...0115231938.jpg
圖說:新北市立聯合醫院共同舉辦『 寶節贈粥祈福活動』,妙泉法師至八 病房發送臘八粥給病友,祈願民眾遠 離疾病、平安吉祥。 人間社記者張添發攝
圖說:祈福祝禱由妙泉法師、知修法 帶領醫護人員、病友、民眾恭誦《般 波羅蜜多心經》、佛光山開山星雲大 師為<醫護人員祈願文>,祈願大眾 能福壽綿延、平安吉祥。 人間社記者張添發攝
圖說:佛光山三重禪淨中心與新北市 聯合醫院延續14年來的傳統,1月11日 同舉辦『法寶節贈粥祈福活動』,分 佛陀的智慧,讓所有到醫院的民眾、 住院病友感受到溫暖。 人間社記者張添發攝
http://web.fgs.org.tw/news.php?ihome...&NewsCatId=701
https://www.youtube.com/watch?time_continue=17&v=0zI0GR0wWSc
THANH THẢN giai điệu Thần Chú Dược Sư - Tayatha Om Bekanze Bekanze - Medicine Buddha Mantra
Medicine Buddha Bhaisajyaguru —
https://buddhaweekly.com/wp-content/...g-Buddhism.jpg
https://buddhaweekly.com/wp-content/...1-Buddhism.jpg
Zasep Tulku Rinpoche
https://buddhaweekly.com/the-first-d...bhaisajyaguru/
CÚNG DƯỜNG MANDALA ĐỂ THỈNH CẦU GIÁO PHÁP
Trước khi ta thọ nhận một giáo pháp, điều quan trọng là việc cúng dường một mạn đà la để thỉnh cầu giáo huấn từ đạo sư. Khi chúng ta thực hiện điều này, điều thiết yếu là ta hiểu được tầm quan trọng của những câu kệ mà ta tụng niệm cùng với sự cúng dường.
Với cúng dường dâng lên các cõi Phật
Nền tảng này, tẩm đầy nước thơm, rải rắc nhiều bông hoa
Trang nghiêm với núi Tu Di, bốn lục địa, mặt trời và mặt trăng,
Nguyện tất cả chúng sanh lang thang trong luân hồi đều được
đưa về tịnh độ,
Om idam guru ratna mandala-kam-nir-yatayami.
Con kính dâng mạn đà la này đến chư đạo sư tôn quý.
Trong đoạn kệ này, ta nghĩ tưởng đến một cõi Phật, một cõi tịnh độ, và cầu nguyện cho mọi chúng sanh được vui hưởng ở cõi này, thật hơi khó hiểu phải không? Trước tiên, ta cần hiểu cõi Phật hay cõi tịnh độ là gì. Đó là một nơi thuận lợi cho việc tu học và hành trì Pháp hai mươi bốn tiếng mỗi ngày. Bạn không phải làm việc; không phải ăn; không phải ngủ; không phải trả tiền thuê nhà; không phải đi nhà vệ sinh – bạn không phải làm gì khác ngoài việc tu học trong mọi lúc. Tịnh độ không phải là một nơi để bạn đến tắm mát ở hồ bơi và chơi bài suốt ngày.
Các cõi Phật tràn đầy các bồ tát thánh nhân, những vị bồ tát đã thực chứng được tánh Không vô khái niệm, và ở đó, các vị thọ nhận giáo huấn từ Báo thân của chư Phật, thân vật lý mà chư Phật hiển lộ để triển khai giáo pháp Đại thừa. Đây là những gì xảy ra ở cõi Phật, cõi tịnh độ. Tuy nhiên, ở mức độ sâu xa nhất, một cõi Phật đề cập đến tầng lớp thanh quang của tâm thức ta, tầng lớp tâm thức vi tế nhất mà một vị bồ tát thánh nhân thực chứng được. Thật sự thì nếu ta không phải làm điều gì khác ngoài việc học hỏi thêm và hành trì pháp, và nếu ta có được tâm trạng cùng hoàn cảnh thuận lợi nhất cho việc này thì tuyệt diệu biết bao.
Thế nên khi ta cúng dường mạn đà la, điều mà ta muốn hình dung ra rằng đây là hoàn cảnh thuận lợi mà ta có được, tâm ta đang ở trong trạng thái chín muồi nhất và ta mong ước rằng tất cả chúng sanh đều có thể cộng hưởng cảnh giới thuận lợi này để cùng nhau tu học. Ta sẽ thỉnh cầu giáo huấn từ đạo sư trong bối cảnh như thế này, trong lúc ta quán tưởng rằng mọi sự đều hoàn hảo và mọi việc đều thuận lợi. Trên thực tế, ta đang nói lên điều này, “Con đã chuẩn bị sẵn sàng và mở lòng để thọ nhận giáo huấn này, và nguyện cho tất cả chúng sanh cũng đều như thế.” Đó là tinh túy của sự cúng dường mạn đà la để thỉnh pháp.
Nếu trời quá nóng hay ta đang đói, v.v…, thì ta sẽ cố gắng không quan tâm tới những điều này với ước muốn mãnh liệt đế chấm dứt những chướng ngại này, để ta có thể thật sự lắng nghe giáo pháp một cách đúng đắn và không bị chi phối vì những chướng ngại nói trên. Trong lời kệ cúng dường mạn đà la, ta cúng dường núi Tu Di, bốn lục địa, v.v…, và những phẩm vật này tượng trưng cho thế giới và hoàn cảnh bình thường của chúng ta, tựa như khi nó qua nóng hay quá lạnh. Khi cúng dường những phẩm vật này, ta không chỉ bày tỏ sự sẵn sàng dâng cúng tất cả mọi thứ trên thế giới để thọ nhận giáo pháp, nhưng sâu sắc hơn, ta đang cúng dường cả thế giới bình thường cho chư Phật và cầu xin nó được chuyển hóa thành một cõi tịnh độ. Thế nên trên thực tế, việc cúng dường một mạn đà la thật sự là một hành trì tịnh hóa thái độ của chúng ta – chuyển hóa những hoàn cảnh tiêu cực thành tích cực. Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình. Ta quán tưởng rằng hiện tại ta đang an trú trong cõi Phật, một cõi tịnh độ, và ta sắp thọ nhận các giáo pháp: Trong bối cảnh này, một cõi Phật tịnh độ chính là một trạng thái của tâm. Ta không nghĩ về nó như một thiên đường nào đó ở một ngân hà khác.
Thế nên việc cúng dường mạn đà la để thỉnh cầu giáo huấn từ một vị thầy là một hành trì rất sâu sắc, không phải là một thực hành ta có thể xem thường. Mặc dù việc này có thể được thực hiện với một dĩa mạn đà la trang nghiêm, cùng với các vòng khoen v.v…, như đã đề cập trong những câu kệ ở trên, ta cũng có thể cúng dường bằng các thủ ấn thích hợp, hay ngay cả khi không có sự tượng trưng của núi Tu Di và bốn địa châu.
Tuy nhiên, dù ta cúng dường mạn đà la bằng cách nào đi nữa, điều quan trọng là ta nên dành một vài khoảnh khắc trước đó để cố gắng dẹp bỏ mọi vọng tưởng trong tâm ta và quán tưởng rằng mình đang an trú trong một cõi Phật tịnh độ. Thế rồi từ trong tâm trạng đó, ta sẽ cúng dường mạn đà la. Hãy nhớ rằng không phải ta chỉ ước mong cho một mình ta được an trú trong cõi Phật hay tâm thức thanh quang, hoặc ta đang thọ nhận giáo pháp riêng rẽ vì ta vô cùng quan trọng và đặc biệt, mà ta cúng dường với ước nguyện mãnh liệt rằng tất cả chúng sanh đều có mặt ở đó và thọ nhận giáo pháp này.
Alexander Berzin
Lozang Ngodrub dịch, Thanh Liên hiệu đính
https://www.facebook.com/WisdomCompa...rg/?tn-str=k*F
And Ratna Lingpa’s terma instruction says:
At sunrise on each tenth day of the month
If anyone remembers me,
They and I will be inseparable.
King of Tibet, ministers, disciples who are like my children,
On the tenth day of every month
To you I will come in person, and this I swear.
Padmasambhava is not one to deceive others.
Và chỉ dẫn từ Terma của Tổ Ratna Lingpa nói rằng:
"Lúc bình minh vào ngày mười mỗi tháng,
Nếu kẻ nào nhớ đến Ta,
Họ và Ta sẽ không tách rời.
Vua Tây Tạng, thượng thư, các đệ tử như con của Ta,
Vào ngày mười mỗi tháng,
Ta sẽ đích thân đến trước các con - Ta thề như vậy.
Liên Hoa Sinh không phải kẻ dối lừa người khác.
~ DUDJOM RINPOCHE
https://www.facebook.com/KimCuongThu...yana/?ref=py_c