https://wisdomofcompassionblog.files...17_bio_nth.pdf
Printable View
Karmapa có nghĩa là “bậc hoằng hoá công hạnh của chư Phật” hay là ʺhiện thân của tất cả các họat động của chư Phật”
https://wisdomofcompassionblog.files...17_bio_nth.pdf
Karmapa có nghĩa là "bậc thực hành Phật hạnh” hay "hiện thân tất thảy Phật hạnh”.
https://www.nimbuscompassion.com/sin...-Trinley-Dorje
Thông qua việc kể lại cuộc đời của các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) được gọi là các vị Karmapa (Cát-mã-ba), cuốn sách “Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng”
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/New..._sinh_Tay_Tang
ĐẢNH LỄ NGÀI ĐẠI BẢO PHÁP VƯƠNG 17 VÀ NGÀI ĐẠT LAI LẠT MA 14
http://himalayayoga.com.vn/Danh-le-N...l#.WhVQm8-LSUl
https://www.youtube.com/watch?time_c...&v=i6UznlNGn7E
Đại Bảo Pháp Vương Karmapa ( hóa thân của phật ) - Great King of the Karmapa
( http://magnetizeyourwealth.com/dai-b...than-cua-phat/ )
THƯ MỜI Tham dự Lễ Ngondro Nghi Thức Thực Hành Căn Bán Hàng Ngày Theo Phật Pháp Quý Báu của Đức Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje
October 3, 2017
|
Tshering Chodron Phap Minh Truong Tho
THƯ MỜI Tham dự Lễ Ngondro Nghi Thức Thực Hành Căn Bán Hàng Ngày Theo Phật Pháp Quý Báu của Đức Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje (Ngài là hiện thân tất thảy Phật hạnh) theo Truyền Thống Karma Kagyu October 21st and October 22nd, 2017
Kính thưa toàn thể Quý Phật tử gần xa! Duyên lành rất hiếm quý đã đến Quận Cam Orange County. Đây là lần đầu tiên Thuợng Sư Tây Tạng Lama Dawa sẽ ban Buổi Lễ Quán Đảnh và Gia Trì quý báu Ngondro Nghi Thức Thực Hành Căn Bán Hàng Ngày Theo Phật Pháp của Đức Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje thuộc về dòng truyền thừa KARMA KAGYU. Karmapa có nghĩa là "bậc thực hành Phật hạnh” hay "hiện thân tất thảy Phật hạnh”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã huyền ký về sự hóa thân của một số đạo sư vĩ đại, và Karmapa là một trong số đó.
Tại sao Phật Tư cần tu tập Ngondro?
Ngondro là Nghi Thức Thực Hành thiết yếu Căn Bản Hàng Ngày được dạy bởi Đức Phật cần được hoàn tất trước khi đạt đến giác ngộ. Nếu chúng ta muốn đạt đuoc giác ngộ, chúng ta nhất định phải thực hành giáo pháp Ngondro. Vì lợi ích của chúng sanh. Đức Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 17 đã viết ra thực hành tóm tắt Ngondro ngắn mới đặc biệt cho những học trò từ các nước phát triển dễ dàng cho mọi người sử dụng thích ứng cuộc sống bận rộn công việc.
Ngondro gồm có 4 nghi thức tụng niệm tóm tắt thực hành căn bản: Quy Y và Phát Tâm Bồ Đề, Thiền Định và đọc tụng Đức Kim Cang Tát Đoá để xám hối, Cúng dường Man Đà La, Dạo Sư Du Già. Sau khi quy y, những đệ tử dưới sự dẫn dắt của một vi Thuợng Sư Tây Tạng Lama thông thạo cần phát sanh tâm nhắm đến giác ngộ, tích tập hai kho (công đức và trí huệ) bằng cách thực hiện bảy hành vi tôn kính, guru yoga, cúng dường mạn đà la, cầu nguyện... và trừ sạch ngăn chướng (của những hành động xấu trước kia) bằng thiền định và trì tụng thần chú Vajrasattva một trăm âm để xám hối . Mời quý Phật tử gần xa sắp xếp thời gian đến tham dự để buổi Đại lễ thêm phần long trọng.
Thời gian: Thứ Bảy 21 tháng 10 năm 2017:
10AM to 12PM; BREAK; 2PM to 4 PM
Chủ Nhật 22 tháng 10 năm 2017: 2 PM to 4 PM
– Địa điểm: Chùa Phật Quang, 9452 Dewey Dr., Garden Grove, CA 92841, USA
Xin Park o Gilbert Ave.
*** Limited seats. Cho ngoi co gioi han.
Xin Liên Lạc Tinh Dung (714) 369 702 trước để ghi danh trước ngày 14 tháng 10, xin email/phone trước ngày tu học. email: lamadawanimbus@gmail.com
Nếu không có trợ giúp ban phước quán đành và khai thị của 1 vị thầy có phẩm chất, chúng ta không thể phát triển kinh nghiệm về thực tập Kìm Càng Thừa.
Phật Tử có thể mua Mandala Cúng Dường ở www.potalagate.com. Xin thay mặt Thượng Sư Lama Dawa. Ban Tổ Chức - Tinh Dung lamadawanimbus@gmail.com L/L: 714 369 0702
Website: www.nimbuscompassion.com
Tiểu Sử của Thuợng Sư Loppon Lama Dawa
Lama Dawa được sinh ra ở TâyTạng. Dạo sư gốc của Lama DAWA là hóa than của Phật Kim CươngTrì Tai Situpa Rinpoche là vị Thượng sư cao nhất của dòng Truyền thừa KARMA KAGYU Đã tìm thấy Ngài Đại Bảo Pháp Vương KARMAPA 17, Ogyen Trinley Dorje được công nhận bởi Đức Dalai Lama. Đầu tiên Lama DAWA trú sứ tại tu viện Kalu Rinpoche, sau đó Lama DAWA học 22 năm tại Phật Học Viện Tai Situpa Rinpoche, có tên Sherab Ling và tham dự chương trình người TâyTạng gọi là Shedra trong 8 năm, đây cũng là nơi Lama DAWA hoàn tất 3 năm nhập thất. Lama DAWA có chức vị Tiến Sĩ về Phật Học. Năm 1998 Lama DAWA được mời đến tu viện có tên là Bodhisattva tại thành phố Tucson, tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ, một trong những trung tâm Phật giáo Kalu Rinpoche. Ngay sau đó, Lama DAWA đã mở một trung tâm thiền định có tên là Chokor Ling ở ngoại ô Tucson. Lama DAWA nói thong thạo tiếng Tây Tạng, Trung Hoa, và Mỹ. Đại sư thường xuyên hoàng pháp ở Đài Loan, Hong Kong, Los Angeles, Santa Barbara, Arizona & Orange County. *** Lama Dawa la Một vị thầy có nhiều phẩm hạnh tốt. Vị thầy này phải có nhiều năm tu học, nghiên cứu kỹ lưỡng uyên thâm và đã nhập thất 3 năm 3 tháng để có thể ban Lễ Quán Đảnh, Gia Trì Phật Lực dìu dắt chỉ dẫn Phật tử trên con đường tu tập về tâm linh den con duong giac ngo: Dalai Lama, Pachen Lama, Lama Dawa…
https://www.nimbuscompassion.com/sin...-Trinley-Dorje
https://www.nimbuscompassion.com/sin...-Trinley-Dorje
Hình Ảnh Tăng Già Tây Tạng Mật Tông Hành Nghi Cổ Phật Khất Thực
Đăng bởi: Thích Minh Hoàng
Đăng ngày: 07:02 Thứ hai 21/11/2011
Cập nhật ngày: 08:22 Thứ hai 21/11/2011
Hình Ảnh Tăng Già Tây Tạng Mật Tông Hành Nghi Cổ Phật Khất Thực
Ban Biên Tập chuaminhthanh.com
Trong Pháp Hội Đại Cầu Nguyện Lần Thứ 28, do Ngài Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 17 làm chủ Pháp tại Đại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ. Vâng lời Phật dạy hành nghi cổ Phật khất thực.
Hình ảnh tôn quý của Đức Thế Tôn và Tăng Già cách đây 2500 năm như được tái hiện tại đạo tràng, vẫn như vậy tay ôm bình bát chống tích trượng vào thành khất thực, thọ sự cúng dường của nhơn thiên. Trang nghiêm tối thắng trang nghiêm, thanh tịnh vô lượng thanh tịnh, xúc động lòng người.
Ngày xưa đó đức Thích Tôn như vậy dùng thân giáo để hướng đạo Tăng đoàn, và hôm nay đây Đại Bảo Pháp Vương cũng như vậy học theo gương của Phật, khôi phục lại chế độ của Phật ngày xưa, dùng duyên như vậy để hóa độ nhị chúng.
Đầu trần chân đất, trì bình khất thực, thâm ý sâu xa, cổ phong nay tái hiện, truyền thống được phục hưng, hành nghi cổ Phật khất thực thành điểm nhấn quan trọng cho sự viên mãn của Đại Pháp Hội Kỳ Nguyện Lần Thứ 28, và sẽ trở thành truyền thống cho những pháp hội lần sau.
Y theo Phật chế ngày xưa, phục hưng Tăng già oai nghi tế hạnh, tạo cơ hội cho nhơn thiên cúng dường Tăng già, rộng gieo phước điền. Đúng 10 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2010 Đại Bảo Pháp Vương dẫn chúng Tăng hành nghi cổ Phật khất thực, hơn 460 vị Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni y theo Phật chế trước y trì bát chống tích trượng, từng bước ung dung vào thành khất thực.
Đại Tăng hành khất thực khởi điểm từ bảo tọa của Pháp Vương, nhiễu một vòng quanh bên ngoài của Đại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng, sau đó từ cổng chính đi ra đến đường chính của Bồ Đề Đạo Tràng rồi vòng lại đến công viên Lộc Uyển kết thúc kinh hành khất thực.
Đúng ngọ mặt trời sáng lạng soi khắp công viên Lộc Uyển, các vị tín chủ lo bày soạn các phẩm thực dâng lên cúng dường đại Tăng, hơn 500 phần trai phạn cung kính dâng lên, đại Tăng ngồi trang nghiêm thọ thực, Pháp vương tụng cúng dường chân ngôn, sau đó chư Tăng y pháp thọ dụng, không khí trang nghiêm thanh tịnh, cổ sắc phục hiện như xưa, như đâu đây “Phật Đà thọ mục nữ cúng dường, ngũ nhân Tỳ kheo đắc Pháp”.
Dưới đây BBT kính giới thiệu hình ảnh Đại Bảo Pháp Vương và chư Tăng Mật Tông Tây Tạng Hành Nghi Cổ Phật Khất Thực tại Bồ Đề Đạo Tràng:
ĐỨC KARMAPA TÔN QUÝ THỨ 17
Jindati Doelter
Việt dịch : T.N. Trí-Hòa
“ Khi nghe tin Karmapa Tôn quý ( Rinpoche )có ý định trốn khỏi Tây Tạng sang Ấn độ,
tôi rất lo, làm cách nào vượt biên? Nhưng thật tuyệt diệu khi tôi gặp Rinpoche. Chúng
tôi bàn về lý do chánh cùng ý định vượt thoát Tây Tạng của Rinpoche trước hết. ' Với
nguyện vọng và ước muốn có thể hoằng pháp lợi sanh cho dân Tây Tạng và đem Phật
giáo Tây Tạng truyền bá, điều này không thể thực hiện được tại trong xứ Tây Tạng.
Thúc đẩy bởi nguyện vọng này mà Rinpoche quyết định ra đi'. Đây là những gì mà
Rinpoche cho tôi biết, điều này làm tôi rất vui mừng, tôi nói, tốt, tốt lắm”.
His Holiness The Dalai Lama
Đức Karmapa trốn khỏi Tây Tạng cùng một ít tuỳ tùng vào ngày 28-12-1999 đến
Dharamsala ngày 5-Jan-2000. Đức Karmapa sanh ngày 26-June-1985 tại Kham với đầy
đủ dấu hiệu cát tường có thể thấy của một vị thánh tăng khi tái sanh. Vào ngày ra đời,
một cầu vòng ngũ sắc hiện ra trên nền trời trong vắt không chút mây, và tiếng loa ốc sa
cừ nổi lên vang khắp làng đều nghe.
Đức Karmapa là vị tái sanh thứ 17 thuộc dòng truyền thừa Karmapa từ thế kỷ thứ
12. Vị thứ nhất là đệ tử của Ngài Milerepa. Rinpoche lên ngôi vị năm 1992 tại Tsurphu,
cách hai tiếng lái xe từ thủ đô Lhasa. Tu Viện Tsurphu là nơi các vị Karmapa ngự.
Đức Phật Thích Ca thọ ký cho đức Karmapa sẽ là đức Phật thứ sáu: Phật Simha
( Sư Tử Phật ). ( Trong Hiền Kiếp này sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Vị thứ nhất: Phật
Câu Lưu Tôn – Krakucchanda, 2- Phật Câu Na Hàm Mâu Ni – Canadamouni, 3- Phật Ca
Diếp – Kacyapa, 4- Phật Thích Ca Mâu Ni – Cakyamouni, 5- Phật Di-Lặc – Maitreya, 6-
Phật Sư Tử – Simha, LND ).
Trong kinh điển đạo Phật cho biết người nào gặp đức Karmapa sẽ tịnh hóa được
nghiệp xấu ác cả bảy đời, và nếu người đó một lòng tu tập thì bảy kiếp trong tương lai sẽ
gặp nhiều thiện duyên.
“ Vào lúc 14 tuổi, Rinpoche đã thể hiện đầy đủ sức mạnh của một vị Karmapa”,
Giám đốc Ward Holmes, cũng là nhà sản xuất cuốn phim gần đây nhất về đức Karmapa
thứ 16, “ The Lion Begins To Roar” được trình chiếu khi Rinpoche trốn thoát Tây Tạng.
Ông Ward gặp đức Karmapa 16 vào năm 1971. “ Tôi đã từng làm tài xế và thủ quỷ cho
Tu Viện ở Woodstock – NY, tôi một lòng giúp đở đức Karmapa. Được gần gũi với Ngài,
Ngài giúp cho lòng tự mãn và cái ngã của tôi được quân bình. Làm việc qua lại với đồ
hình Mandala cũng y như làm việc với đức Karmapa 16, nhưng cá tánh của đức
Karmapa 17 lại rất khác”, tôi có cảm tưởng như thế.
Ông Ward cũng là giám đốc của cơ sở Tu Viện Tsurphu, nơi đang thực hiện cuốn
phim về cuộc đời Ngài Karmapa tại Ấn độ.
Từ khi đến Ấn độ, đức Karmapa 17 ngụ tại Tu Viện Gyuto Tantric, cách Ganj 25
cây số, và đã tiếp khách viếng thăm.
Rinpoche được phỏng vấn ba lần bởi Jason Shannon Clement và Michael Parry:
– Tại sao Ngài đến Ấn độ?
– Tôi đến Ấn độ để bảo vệ và giữ gìn văn hóa của tôi, thực hành Phật pháp, và
truyền bá tâm bồ đề cho chúng sanh. Mặc dù tôi phải rời xa Tu Viện, tài sản,
cha mẹ, nhưng việc hoằng pháp lợi sanh vẫn cần thiết hơn. Tôi muốn giúp đở
tất cả chúng sanh, sông núi, cây cỏ và muôn vật.
– Vai trò của vị Karmapa cùng những hoạt động của Ngài là gì?
– Vai trò không phải chỉ riêng cá nhân tôi mà cho tất cả các vị Karmapas. Đối
với đạo Phật ở Tây Tạng thì sự đóng góp của các vị Karmapas vô giới hạn.
Dòng truyền thừa này đã giúp vô số chúng sanh. Đây là bổn phận của tất cả
các vị Karmapas giúp khai mở tâm từ bi và tình thương cho tất cả, đặc biệt đối
với dân Tây Tạng và để giữ gìn văn hoá cùng tôn giáo Tây Tạng. Phật pháp
trường tồn và phát triển do bởi rất nhiều vị thầy vĩ đại, đặc biệt là các vị
Karmapas tiền bối.
– Có một sự tiên đoán bởi đức Phật Thích Ca rằng sau 2,500 năm sau giáo pháp
của Ngài sẽ truyền bá sang Tây phương. Phận sự của Rinpoche trong việc tiên
đoán này là gì? Rinpoche có ý định truyền bá Phật pháp cách nào?
– Lời Đức Phật Thích Ca tiên đoán sẽ thành sự thật. Không ai có thể phê phán
điều này. Lẽ đương nhiên, sự tiên đoán sẽ xảy ra. Về phần tôi, tôi không thể
nói. Riêng vị Karmapa không thể truyền bá Phật pháp một mình. Không phải
chỉ đơn giản một danh từ ứng dụng vào một người. Dù sao, ý nghiã của chữ
Karmapa có thể nói lên ý nghiã. Từ này theo Bắc Phạn là: Karma-ka, có nghiã
là dòng chảy của nghiệp. Tạng ngữ dịch là Karmapa. Tôi là biểu thị các hành
động của tất cả chư Phật. Tôi truyền bá giáo pháp của Phật và chư bố tát trong
mười phương. Tôi không thể nói giáo pháp sẽ đi về đâu. Hảy nhìn và tìm
chung quanh.
– Người Tây phương chúng tôi rất thích thú về lời tiên đoán này. Chúng tôi có
thể đóng góp đặc biệt những gì?
– Giáo pháp đức Phật dạy thì vô số. Tôi không thể nói những gì cá nhân có thể
làm. Nói chung, bạn có thể thử phát tâm từ bi, giúp đở và đem tình thương đến
cho tất cả chúng sanh. Có một động cơ trung thực và tu tập hành trì. Đây là cốt
tủy giáo pháp Phật dạy.
– Chúng tôi rất thích nghe Ngài gồm chung cả núi sông, cây cỏ, muôn loài, trong
lời phát nguyện của Ngài đối với chúng sanh. Ngài có lời gì chia sẻ với giới
trẻ?
– Điều quan trọng chách là phải có sự giáo dục đúng. Giáo dục đúng lấy căn bản
từ văn hoá, gìn giữ truyền thống, giáo dục sự hiểu biết. Tất cả những điều này
có gốc từ thiền định. Giáo dục đúng cần sự chỉ dạy về những thói quen tốt. Rất
quan trọng để học sinh được tự do. Các em cần tự do để bày tỏ cảm giác mình
và để biết đưọc cách nào tốt nhất giúp ích tất cả chúng sanh.
Đức Karmapa 16 du hành tới Arizona năm 1974 để gặp các bô lão của dân Hopi
Native American. Ngài hoàn thành lời tiên tri của họ, “ Khi người đội mũ đỏ tới Tây
Phương sẽ xây dựng nhịp cầu trí tuệ giữa Đông phương và Tây phương”.
– Đức Karmapa 16 đã trao đổi sự liên hệ với dân Hopi Native American. Theo
Ngài thì sự liên hệ này thế nào và Ngài có ý định tiếp tục không?
– Sự giao thiệp này thật tốt đối với đức Karmapa 16 vào thời đó. Bây giờ thì thật
khó nói những gì có thể xẩy ra. Tôi quan tâm tới thời điểm đúng và nghiệp quả
đúng. Nguyên nhân và hoàn cảnh phải hội đủ. Nếu như cần thiết và đúng thời
cơ thì sẽ xảy ra. Nếu không, sẽ không xẩy đến.
Stephane Allix:
– Là vị Karmapa, ngài có cảm tưởng thế nào?
– Không phải tuỳ thuộc vào cảm giác tôi. Tôi được công nhận là vị tái sanh thứ
17 của dòng Karmapa qua tờ di chúc của đức Karmapa 16 để lại khi Ngài Niết
bàn và qua trí tuệ của vị thầy tâm linh vĩ đại ( Đức Dalai Lama ). Theo cá nhân
tôi rất may mắn đã tích lũy phước đức và thanh danh. Vì lý do này mà người ta
có lòng tin nơi tôi; vì nghiệp nhân tốt của tôi và tình thương cho tất cả chúng
sanh.
– Ngài có còn nhớ về các kiếp đã qua?
– Tôi không thể nói tôi còn nhớ, nhưng tôi cảm giác một sự tôn kính vô biên và
liên hệ mật thiết đến với các bậc tiền bối trước.
– Những hành động quan trọng nhất của Ngài là gì?
– Bổn phận chánh của tôi là giúp ích tất cả chúng sanh. Đem hạnh phúc và bình
an đến cho họ. Còn các hành động khác sẽ theo sau.
– Khi nào và cách nào Ngài trốn thoát khỏi Tây Tạng?
– Tốt hơn là không nên nói về chi tiết cuộc trốn thoát của tôi khỏi Tây Tạng, nếu
tôi nói thật, thì không có lợi lúc này. Tôi không có lý do đặc biệt nào về việc
quyết định ra đi. Là nguời tái sanh của đức Karmapa 16, tôi muốn hoằng hóa
độ sanh. Điều này có thể thực hiện được nơi một xứ linh thiêng như nước Ấn
độ. Thứ hai, cũng là điều mong ước của tôi để giúp ích cho dân Tây Tạng và
tôi chắc chắn rằng tôi được nhiều lợi ích hơn nếu tôi sống bên ngoài nước Tây
Tạng. Thứ ba, Đức Dalai Lama và vị lãnh đạo người Tây Tạng mà Ngài không
được đảng Cộng sản Trung quốc thừa nhận. Vì thế, người dân bị cưỡng bức chỉ
trích Ngài, và, cho tới hiện giờ, tôi chưa bị. Nhưng tôi biết trong tương lai khi
thời điểm đến họ sẽ dùng tôi làm con rối.
Jindali Doelter:
– Làm thế nào để chúng tôi, những người sống trong môi trường sôi động, cô lập
được tâm mình một cách hữu hiệu nhất trong không khí náo nhiệt Tây phương
để tránh khỏi bị cuốn hút theo?
– Nhận biết tâm mình và luôn luôn ý thức những hành động đang làm là một
cách hữu hiệu nhất. Đời sống của chúng ta có thể rất bận rộn nhưng không vì
thế mà làm tâm rối loạn, vì tâm điều khiển tất cả. Dù cho mình có trốn một nơi
hoang vắng nào, tâm cũng có thể rất xáo trộn. Tâm thì chỉ có một dù cho ở
thành phố hay nơi hoang vắng.
– Ngoài phương pháp tịnh hóa ra, có thể ngăn chận những hành vi xấu qua ý
chí?
– Vâng, chúng ta có thể điều khiển sự vô minh của chúng ta, giận tức hay bất kỳ
trạng thái độc hại nào của tâm. Nếu như cơn giận dữ khởi lên mạnh bạo, chúng
ta có thể tu tập pháp tĩnh thức, coi bản thể của cơn giận là gì và do nguyên
nhân nào. Nếu bạn phân tách cách này bạn có thể ngăn chận tâm mình bằng ý
chí.
– Làm cách nào để sự cầu nguyện thành công?
– Tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân – cách bạn cầu nguyện. Bạn cầu nguyện bằng
miệng nhưng bạn cần phải hiểu rõ lời mình cầu nguyện. Thí dụ, nếu bạn trì chú
Kim Cang Tát Đỏa cùng lúc hình dung tự thân mình là Bồ Tát Kim Cang
không khác, thì bạn có thể tịnh hóa hết các nghiệp xấu; bản thể của tâm bạn là
một với Bồ Tát Kim Cang. Đây là cách cầu nguyện và tích luỹ phước báo.
– Đau khổ vì không bao giờ nhận ra chân thể vạn pháp và bị cảm giác này bao
vây. Cách nào tốt nhất để phấn khởi sau cảm giác bị đau khổ phủ trùm và kẹt
vào vòng sanh tử?
– Có hai cách: cố gắng phân tách bản thể của cảm giác bạn có và tịnh hoá
nghiệp.
– Rất nhiều người Tây phương trong vòng 30 năm nay trở lại hầu như rất khó
cho họ giữ trọn tâm xuất gia. Ngài có nghỉ rằng người cư sĩ hay các tu sĩ sẽ
bành trướng giáo pháp Phật trong phương Tây?
– Được xuất gia là một truyền thống quan trọng và phương pháp này được đức
Phật đề xướng. Không phải chỉ có một cách. Rất nhiều đại bồ tát đạt giác ngộ
từ người cư sĩ. Xuất gia hay không xuất gia không giống nhau. Những đại sĩ
này rèn luyện con đường chân chánh, đặc biệt là Kim Cang thừa và đạt giác
ngộ cách này. Nếu trong tương lai Phật pháp được truyền bá bởi người xuất gia
hay không xuất gia – tôi không thể nói. Con đường thể hiện không cùng, chỉ có
đức Phật mới biết.
– Đức Karmapa 18 tái sanh có thể trong thân người nữ?. Tại sao không có thêm
những vị thầy vĩ đại tái sanh trong dạng nữ hiện giờ?
– ( cười ) Vâng, trong tương lai có lẽ sẽ có nhiều vị nữ tái sanh, nếu thời cơ
đúng. Dorje va Khandro Yeshe Tsogyal, là hai vị thầy vĩ đại trong dạng nữ. Số
người nam và nữ tái sanh không đồng nhau, nhưng đây không phải là điểm
chánh, điều quan trọng là chúng sanh có được lợi ích không. Cách các vị
Karmapa tái sanh hiện giờ là luật tự nhiên. Các vị Karmapa tương lai có thể tái
sanh trong dạng nữ, điều này có thể xảy ra. Đây không phải là câu hỏi thích
hay không thích, mà là những gì tốt nhất cho hoàn cảnh đang thời sẽ thể hiện.
– Tái sanh trong xứ Tây Tạng có lợi gì thay vì tại nước Hoa Kỳ, nơi mà đức
Karmapa 16 tịch diệt?
– Trong quá khứ, hệ thống tái sanh chỉ xuất hiện tại xứ Tây Tạng – vài điều như
thế, cho tới khi sự hiểu biết về hệ thống này không còn thành lập, thì không
cần thiết tái sanh tại phương Tây. Trong tương lai có thể sẽ có vài vị thầy vĩ đại
sẽ tái sanh vào Tây phương. Không có lý do gì không, nếu hệ thống này đã
được hiểu rõ.
– Tây phương, nhất là tại Mỹ, lớp trẻ cùng lứa tuổi như Ngài ( tuổi 15 ) có nhiều
khó khăn để đương đầu với bạo động và chém giết tại trường học. Ngài có
thông điệp gì nhắn gởi lại cho thế hệ trẻ lớn lên trong môi trường bạo động?
– Nói chung về thế hệ trẻ và trẻ em còn lệ thuộc vào người lớn được cha mẽ nuôi
dưỡng. Cha mẹ phải dạy bảo và giáo dục chúng.. Nếu đứa trẻ không được dạy
bảo và cung cấp cho một cuộc sống tốt đẹp, thì rất khó. Hệ thống giáo dục ảnh
hưởng toàn quốc. Thế gìới tuỳ thuộc vào thế hệ trẻ để bảo tồn và tôn trọng văn
hoá, truyền thống và giữ sự tôn kính cha mẹ. Thế hệ trẻ cũng có bổn phận như
thế. Chúng không nên xem thường bổn phận mà phải dẫn đầu thế giới tương
lai với sự hiểu biết về giá trị con người, sống trong hoà bình và đoàn kết.
Chúng cũng có bổn phận phát triển, học vấn, làm gương mẫu cho thế giới. Nếu
được như vậy thì không còn chỗ cho bạo động sanh khởi. Mỗi cá nhân nên
sống một cuộc sống bất bạo động và chọn bạn là người có ảnh hưởng tốt cho
mình. Rất quan trọng để bảo tồn truyến thống của tất cả các nước. Phải nên
hiểu biết như thế.
– Nếu Ngài có thể gặp tổng thống Clinton ngày mai, Ngài sẽ nói những gì?
( Năm 2000 là năm ông Clinton làm tổng thống ).
– Nếu ngày mai tôi gặp tổng thống Clinton, tôi cũng sẽ không có gì để nói. Vì
ngày mai sẽ không bao giờ đến. Nhưng nếu tôi gặp tổng thống hôm nay, tôi sẽ
có rất nhiều điều để nói – phần nhiều nói về hòa bình cho nhân loại.
XXX
http://linhsonmass.org/pdf/Karmapa17.pdf
Đức Lạt Ma Ole Nydahl, người nắm giữ nhiều dòng truyền thừa Phowa
(PGVN)
Ngài Lạt Ma Ole Nydahl sinh ngày 16/03/1941 (19/02/Tân Tỵ) tại vùng phụ cận Copenhagen, thủ đô và là thành phố lớn nhất của Đan Mạch. Kể từ những thập niên 1970 của thế kỷ 20, ngài đã vân du giảng dạy và hướng dẫn các khóa thiền khắp nơi trên thế giới.
Ngài cùng phu nhân Hannah Nydahl (1946-2007), thành lập hơn 650 trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa (Diamond Way Buddhism), truyền thống Phật giáo Karma Kagyu trên toàn thế giới. Ngài Lạt Ma Ole Nydahl cũng là tác giả của 10 quyển sách Phật giáo Anh ngữ.
Ngài Lạt Ma Ole Nydahl sinh ra và lớn lên ở thủ đô Copenhagen, Đan Mạch. Vào đầu những năm 1960, ngài từng phục vụ trong quân đội Đan Mạch, sau đó ngài nghiên cứu Triết học, học tiếng Anh và tiếng Đức tại Đại học Copenhagen, Đan Mạch, nơi ngài đã hoàn thành Luận văn Triết học với điểm tốt nhất, ngài học ở các nơi như Hoa Kỳ và Đức.
Năm 1968 (Mậu Thân), ngài cùng phu nhân Hannah Nydahl đi Nepal trong tuần trăng mật và lần đầu tiên gặp gỡ những bậc đạo sư vĩ đại của dòng Kim Cương Thừa như nhị vị Drukpa Kagyu và Lopon Tsechu Rinpoche.
Tháng 12 năm 1969, ngài gặp Đại Bảo Pháp Vương Gyalvva Karmapa lần đầu tại tháp Svvayambhu ở Nepal. Ngài cũng đã nhận lễ điểm đạo và những giáo lý về Đại Thủ Ấn (Mahamudra) từ Đại Bảo Pháp Vương cũng như từ những vị thầy cao nhất của dòng Kagyud mà thầy đã từng có thời gian theo học. Ngài cùng phu nhân Hannah Nydahl trở thành những đệ tử phương Tây đầu tiên của Đức Karmapa thứ 16 Rangjung Rigpe Dorje (1924 -1981).
Trong khoảng gần 4 năm tu tập chuyên sâu ở Đông Himalaya, họ tiếp nhận những chân truyền quan trọng nhất và những chỉ dẫn sâu sắc từ những thiền sư vĩ đại đi trước của các dòng truyền thừa Kagyu và Nyingma:
- Đại Thủ Ấn - Mahamudra (“The Great Seal”, quan điểm Phật giáo cao nhất về tự nhiên của tâm thức) từ đời thứ 16 Karmapa, 1969-1981.
- Kagyu Ngagdzö (bộ “kho báu của những truyền thừa quan trọng nhất” của dòng Karma Kagyu) từ Karmapa đời thứ 16, 1976.
- Phát tâm bồ đề (tâm nguyện cống hiến cuộc sống cho sự giác ngộ của nhân loại) từ Shamar Rinpoche, người đứng thứ hai của dòng tu Karma Kagyu, 1970.
- Những tu tập nền tảng (Ngöndro) từ Kalu Rinpoche, 1970-1971.
- Rinchen Terdzö (“Kho báu của truyền thừa Nyingma”) từ Kalu Rinpoche, 1983.
Vào mùa thu năm 1972, Đức Karmapa thứ 16 Rangjung Rigpe Dorje yêu cầu ngài và phu nhân Hannah Nydahl trở lại châu Âu. Họ được trao nhiệm vụ giảng dạy và thành lập các trung tâm Phật giáo ở thế giới Tây phương dưới tên của Đức Karmapa. Hơn thế nữa, người cho phép đôi vợ chồng người Đan Mạch này tổ chức quy y Tam Bảo và phát nguyện Bồ đề tâm.
Họ cũng tiếp nhận nhiều lễ thụ pháp và những chỉ dẫn khác từ những bậc thầy kể trên cũng như từ Dilgo Khyentse Rinpoche, Gyaltsab Rinpoche, Urgyen Tulku, Bokar Rinpoche, Kanjur Rinpoche, Gyaltrul Rinpoche và những vị khác.
Năm 1995, Khenpo Choddrak Thenpel Rinpoche ban cho ngài với danh xưng một vị Lạt Ma nhân danh các Viện Phật giáo của Gyalwa Karmapa.
Burkhard Scherer, Giáo sư về Nghiên cứu tôn giáo tại Đại học Canterbury, Christchurch, New Zealand đề cập rằng: Ole Nydahl chưa bao giờ tham gia khóa tu ba năm, mà ông gọi là “phẩm chất truyền thống như một vị Lạt Ma”. Tuy nhiên, Đức Karmapa thứ 16 Rangjung Rigpe Dorje nói rằng: “Nếu ai đó có trí tuệ và năng lực để thâm nhập vào giáo lý thì ngay cả không thực hiện khóa tu ba năm, một người có thể trải nghiệm sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng”. Ngài Ole Nydahl đã được xác nhận rõ ràng như một vị Lạt Ma của Shamarpa năm 2006.
Khi trở về châu Âu, ngài cùng phu nhân Hannah Nydahl bắt đầu giảng dạy Phật pháp và tổ chức các khóa tu tập thiền định, đầu tiên ở bản địa Đan Mạch, ở Đức và các quốc gia khác. Các trung tâm thuộc dòng Karma Kagyu và hoạt động theo hướng dẫn thực tế của ngài. Vào những năm 1990, Trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa (Diamond Way Buddhism) được thành lập như một cách để bảo vệ các trung tâm được thành lập trong cuộc tranh luận Karmapa.
Tính đến tháng 02 năm 2012, đã có 629 Trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa trên toàn thế giới. Hầu hết là ở châu Âu, Nga và Hoa Kỳ.
Ngài Lạt Ma Ole Nydahl suốt năm kín lịch trong giảng dạy giáo lý và các khóa tu tập thiền. Các khóa học của ngài bao gồm các chủ đề như Mahamudra và Phowa. Ngài đã vân du đó đây trên hành trình hoằng dương chính pháp Phật đà trong suốt 40 năm qua, giảng dạy tại các thành phố mới gần như mỗi ngày. Hoạt động giảng dạy của ngài đã được sự tán thán bởi Shamarpa vào năm 2012.
Cùng với các sinh viên của mình, Ngài Lạt Ma Ole Nydahl đã tạo ra các Trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa, các trung tâm giảng dạy được dịch sang các ngôn ngữ phương Tây khác nhau. Ngài Lạt Ma Ole Nydahl tin tưởng rằng cần thiết để mọi người đọc và hiểu những lời giảng dạy của ngài bằng tiếng mẹ đẻ của họ, để Phật giáo dễ bén rễ mọc mầm từ phương Tây.
Những người điều phối hoạt động và tham gia các Trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa, họ có một nền giáo dục cơ bản thế tục, có gia đình và công ăn việc làm.
Triết học Phật giáo và Thiền định Kim Cương Thừa, cách họ hòa nhập vào cuộc sống thực tế hàng ngày. Là thành viên của trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa, họ chia sẻ trách nhiệm về hành vi của cộng đồng tu tập và học giáo lý. Trung tâm Triết học Phật giáo và Thiền định Kim Cương Thừa hoạt động trên cơ sở tự nguyện, trên cơ sở của tình hữu nghị và lý tưởng chủ nghĩa từ bi.
Trong 10 năm qua, ngài đã bắt đầu mở những trung tâm tu học, giảng dạy và bảo hộ những hành giả tu tập đạo Phật trên khắp thế giới theo yêu cầu và ngài cũng là người có đầy đủ khả năng để hướng dẫn các phật tử tu tập hành thiền và hướng mọi người tới Pháp.
Đức Lạt Ma Ole Nydahl thành lập các Trung tâm Phật giáo Kim Cương Thừa trên toàn thế giới. Ngài đã truyền đạt phương pháp này đến hơn 70.000 người với trung bình 12 khóa tu tập hằng năm trên khắp thế giới. Hiện tại, thầy làm việc như một chuyên gia trong lĩnh vực về sự sống, cái chết và tái sinh và cũng là người nắm giữ nhiều dòng truyền thừa Phowa.
Hoạt động rộng khắp của ngài đã mang lại rất nhiều lợi ích lớn cho nhiều đệ tử. Sau khi Đức Karmapa thứ 16 Rangjung Rigpe Dorje viên tịch vào năm 1981, Shamar Rinpoche và Tenga Rinpoche yêu cầu Ngài Lạt Ma Ole Nydahl truyền đạt phương pháp tu tập Phowa (Chuyển thần thức vào lúc lâm chung) cho các thiền sinh Tây phương. Trong cùng năm đó, ngài thuyết giảng khóa Phowa đầu tiên ở Graz, Áo.
Tại buổi nói chuyện với 4.000 thực tập sinh ở một khóa thiền định, Shamar Rinpoche nói rằng lý do mà các hoạt động của ngài tiếp tục truyền cảm hứng cho hàng ngàn người đến tận ngày nay là do thầy đã theo mong ước của sư phụ, Đức Karmapa thứ 16 Rangjung Rigpe Dorje, một cách chính xác và không có mảy may nghi ngờ nào.
Với những hoạt động và niềm hoan hỉ liên tục, Ngài Lạt Ma Ole Nydahl hiện nay làm việc cùng với Karmapa đời thứ 17 Trinley Thaye Dorje, tái sinh của người thầy trước đó của mình.
Vân Tuyền (tổng hợp)
http://m.phatgiao.org.vn/quoc-te/201...a-Phowa-26470/
Khai Thị của Đức Karmapa đời thứ 17
posted May 19, 2010, 10:30 AM by Web Master
Mối Quan Hệ Giữa Đạo Sư và Đệ Tử
Khi đức Milarepa theo ngài Marpa tu tập thì trong lúc đầu, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa cái gì cả ngoại trừ sự khó khăn. Trong suốt một thời gian dài, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa một lễ quán đảnh hay giáo huấn nào nhưng lòng sùng mộ của đức Milarepa đối với vị đạo sư của mình tuyệt nhiên không chút nào bị suy suyển mặc dù nhiều lần, đức Milarepa đã có phần bị thối chí.
Chúng ta, những người đệ tử đang theo dấu chân những đấng chiến thắng tiền bối của dòng truyền thừa Kagyu, có mặt ngày hôm nay để tu tập. Từ góc độ đó, tôi nghĩ rằng sẽ là điều tốt lành nếu trong khóa lễ này, tôi nói vắn tắt về mối quan hệ đạo sư – đệ tử trong bối cảnh của phần đầu của đại lễ Kagyu Monlam.
Nơi tổ chức đại lễ Kagyu Monlam lần thứ 26 này có những đặc điểm mới, như cách bố trí các cổng chính chẳng hạn, và vân vân. Và tôi nghĩ sẽ là điều tốt để chỉ ra một cách vắn tắt ý nghĩa tượng trưng của bánh torma [theo cách trang trí mới mẻ này].
Các bánh torma chính dùng để trang trí [trong đại lễ lần này] như sau: ở bên phải là các bánh mà trên đó có hình ảnh của các ngài Marpa, Milarepa và Gampopa, và ở bên trái là những chiếc bánh trên đó có hình ảnh của các bậc tiền bối của phái Cựu dịch tức dòng Nyingma, cũng như dòng Sakya vinh quang, và dòng Geluk.
Nguyên tắc chính yếu mà các bánh torma này minh họa là: khi chúng ta nghiên cứu giáo lý Phật giáo Tây Tạng thì chúng ta sẽ thấy rằng, về cơ bản, chẳng có dòng truyền thừa nào lại chẳng hòa trộn với các dòng truyền thừa khác. Khi ba Pháp vương Songsten Gampo, Trisong Deutsen, và Tri Ralpachen lần đầu tiên thiết lập nền móng Phật giáo tại Tây Tạng, dòng truyền thừa nổi trội lúc ấy được biết đến dưới cái tên ‘Dòng phái Mật tông Nyingma’.
Do đó, Nyingma là dòng phái Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Sau đó, dưới thời vua Langdarma, giáo Pháp đã bị quét sạch khỏi Tây Tạng, rồi sau đó một thời gian giáo Pháp lại tiếp tục được truyền bá. Đó là sự khác biệt giữa các phái Cựu dịch và Tân dịch.
Sau đó, dòng truyền khẩu truyền của các bậc thầy Kadampa được trao truyền từ ngài Atisha tôn quý, và từ đó các dòng truyền thừa Sakya, Kagyu, và Geluk lần lượt xuất hiện. Các giai đoạn tu tập, cùng với những điểm khởi đầu căn bản của tất cả các dòng truyền thừa này đều giống như nhau.
Các dòng truyền thừa riêng biệt khác nhau xuất hiện là do những dòng truyền riêng biệt từ các bậc đạo sư khác nhau và cách dạy của các ngài có khác nhau; tuy nhiên, về cơ bản, chẳng có một dòng truyền thừa nào mà lại không hòa trộn các dòng truyền thừa khác.
Tóm lại, tất cả các dòng truyền thừa Tây Tạng được truyền xuống trong mối quan hệ hòa trộn với nhau; tất cả đều có một điểm chung đó là: những kết nối về Pháp và những kết nối về mật nguyện (samaya).
Thỉnh thoảng có một vài sự cố nho nhỏ xảy ra giữa các dòng truyền thừa, bởi vì mỗi dòng truyền thừa khác nhau có cách hành xử khác nhau và điểm nhấn khác nhau. Đôi lúc, một số người do không hiểu cách tu tập cảm thấy thất vọng trước sự khác biệt đó và, cũng bởi lý do đó, vài sự cố nho nhỏ đã xảy ra.
Tuy nhiên, như ngài Marpa đã nói, khi ngài bắt đức Milarepa trải qua muôn vàn gian khó không thể tưởng tượng nổi; và mặc dù một người phàm phu có thể thoạt nghĩ lúc đầu rằng ngài tuyệt nhiên chẳng có chút lòng bi mẫn nào đối với đức Milarepa, thì thực ra ngài Marpa làm như vậy là để đức Milarepa tịnh hóa ác nghiệp và chướng ngại của mình. Rõ ràng là ngài Marpa không hành động như vậy vì sở thích riêng tư của mình hay hành động mà chẳng hề có mục đích hoặc lý do nào cả.
Như vậy, nếu chúng ta xem những câu chuyện ấy như những tấm gương thì trong suốt chiều dài lịch sử các dòng truyền thừa Tây Tạng tồn tại cho đến ngày nay - chẳng có dòng truyền thừa nào là ngoại lệ - thì luôn có những đạo sư thể hiện những hành động, những mẫu hành xử, những tấm gương cuộc đời rất khác biệt.
Kẻ phàm phu không hiểu biết gì về giáo Pháp có thể nhìn vào các hành động đó rồi sinh ác cảm, mất niềm tin và phạm tà kiến. Nhưng chẳng có điều gì cho phép chúng ta nói rằng các hành động đó, các mẫu hành xử đó, về bản chất, là không nhất quán hay trái với giáo Pháp.
Do đó, sự hiện diện của các hình ảnh của các bổn sư hay đạo sư của tất cả các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng ở đây, trong ngày hôm nay, có một ý nghĩa là tất cả các dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng chẳng là gì khác hơn là giáo Pháp của đức Phật:
Tất cả các dòng truyền thừa đều giống nhau. Một ví dụ là mười tám tông phái trong thời kỳ đầu của Phật giáo. Như được khẳng định trong câu chuyện kể về linh ảnh trong giấc mộng của vua Krikin: tất cả mười tám tông phái này đều giống nhau ở chỗ tất cả đều là giáo Pháp của đức Phật.
Tương tự như vậy, điều rất quan trọng là mỗi chúng ta phải biết quán xét và suy ngẫm về ý nghĩa này. Tôi nghĩ rằng chỉ khi nào việc này được thực hiện thì chúng ta mới có thể trì giữ mật nguyện đối với các vị đạo sư gốc và đạo sư của dòng truyền thừa mà không hề xảy ra sự xung đột hay phạm giới. Vấn đề quan trọng là tất cả chúng ta phải trải rộng tâm thức theo hướng này.
Một điểm quan trọng khác là nếu chỉ nghĩ về ‘mối quan hệ đạo sư – đệ tử’ trong phạm vi các đạo sư mà chúng ta đã trực tiếp gặp gỡ hay có quan hệ mà không màng đến các đạo sư khác thì vẫn chưa đủ. Có nhiều loại đạo sư, như bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa chẳng hạn.
Do đó, khi nói đến ‘đạo sư’ thì chúng ta phải mở rộng tầm nhìn đối với điều mà chúng ta hàm ý muốn nói. Chúng ta không thể chỉ xem những đạo sư mà chúng ta đã từng gặp gỡ hoặc nhìn thấy tận mắt trong kiếp sống này là những bậc thầy thực thụ và làm như mình chẳng hề quen biết bất kỳ vị thầy nào khác.
Khi chúng ta đọc một bài khấn nguyện thiền định, dù rằng đó chỉ là một bài ngắn, chúng ta luôn bắt đầu với việc khẩn cầu từng vị đạo sư của dòng truyền thừa, từ đức Phật Kim Cang Trì xuống bổn sư của chúng ta. Điều rất quan trọng là phải quán chiếu để hiểu tại sao cần thiết phải trân quý các vị lạt ma của dòng truyền thừa và niệm danh hiệu của các ngài.
Trong các dòng truyền thừa của chúng ta có rất nhiều chân sư vĩ đại thuộc mọi bộ phái và chúng ta quán tưởng các ngài như một ruộng công đức hiện hữu trong hình ảnh một hàng bảo châu ở chót đỉnh của dòng truyền thừa của chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta không nghĩ tưởng tới các ngài vào những lúc khác [ngoài thời khóa] trong khi lại vẫn luôn nói lời thệ nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh và thực hành giáo Pháp, thì việc chúng ta quán tưởng ruộng công đức là vô nghĩa, vô ích.
Cũng như vậy, khi chúng ta quán tưởng những hình ảnh sống động của các đạo sư dòng truyền thừa nơi ruộng công đức, khi chúng ta hành động để làm lợi lạc cho chúng sinh và giáo Pháp, chúng ta phải nhớ nghĩ tới lòng tốt của các đạo sư dòng truyền thừa và noi theo gương của các ngài.
Nếu chúng ta cho rằng chỉ cần tuân thủ huấn lệnh và tri kiến của vị thầy chính trong tu viện [của chúng ta] mà thôi thì có lẽ chúng ta chẳng thực sự suy ngẫm gì về chính giáo Pháp. Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cơm ăn, áo mặc cho bản thân chúng ta mà thôi.
Vị sư trưởng trong tu viện của chúng ta là người có lòng tốt giúp đỡ chúng ta về cơm ăn, áo mặc. Nhưng nếu chúng ta chỉ lo tập trung đứng về phía vị đó và ủng hộ tất cả những gì vị đó làm hoặc nói thì chúng ta sẽ không thể suy nghĩ rộng, thoáng và hòa hợp với các nguyên lý, chủ đề chung của giáo Pháp trên phương diện tổng thể được.
Cuối cùng thì sẽ như thể Phật pháp nguyên khối nguyên hình vững chắc, sống động bị vỡ ra thành nhiều mảng nhỏ và chúng ta chẳng thể chỉ vào một mảng nào đó để nói rằng: ‘Đây chính là giáo Pháp của đức Phật’. Chúng ta sẽ tìm thấy khiếm khuyết ở mọi nơi và sẽ chỉ phạm phải tà kiến. Vì lý do đó, khi chúng ta biết nói đến các cụm từ ‘các lạt ma gốc và các lạt ma dòng truyền thừa’, thì điều rất quan trọng là cần phải biết các chữ đó có ý nghĩa gì.
Chúng ta phải có lòng sùng tín, mối quan tâm khao khát và niềm tin đối với các bổn sư và các đạo sư của dòng truyền thừa, tự xác định mình là đệ tử của mỗi một đạo sư [trong số các đạo sư đó]. Với lòng sùng tín có cơ sở vững chắc và được ý thức một cách sâu sắc như vậy thì bất kỳ hoạt động tu tập và tu học nào mà chúng ta tham gia cũng sẽ hài hòa với giáo Pháp; và chúng ta sẽ hội đủ các tiêu chuẩn của một đệ tử đích thực của các đạo sư.
Còn nếu không có được lòng sùng tín mạnh mẽ như vậy thì mọi thứ sẽ trở nên rất khó khăn đối với chúng ta. Đó là lý do tại sao hình ảnh đạo sư các dòng truyền thừa lại được thể hiện trên các bánh torma mà chúng ta đang có ở đây.
Hình ảnh của các ngài không chỉ ở đây vì mục đích trang trí hay trưng bày cho người khác được thấy; những chiếc bánh torma này được làm ra để giúp chúng ta nhớ đến lòng tốt của các vị bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa đích thực của mình.
Khi chúng ta nhìn thấy các bánh torma, chúng ta phải nhớ đến lòng tốt của các ngài và quán chiếu rằng nếu không có các ngài thì sẽ khó khăn cho chúng ta biết bao để bước qua được cánh cửa Phật pháp trân quý và để có cơ hội làm lợi lạc cho chúng sinh với tâm không phân biệt. Thật rất quan trọng để chúng ta suy ngẫm về điều này.
Chúng ta cần phải nghiên cứu về tiểu sử của các ngài Marpa và Milarepa mà tôi vừa tuyên đọc nhưng nếu chỉ đọc sách không mà thôi thì vẫn chưa đủ: chúng ta phải suy ngẫm, quán chiếu ý nghĩa và dấn thân vào việc thực hành tu tập theo gương các đạo sư này, và tìm phương cách để ứng dụng ngay giáo Pháp vào cuộc sống của chúng ta. Nếu không thì việc đọc tiểu sử của ngài Milarepa ở đây chẳng có mục đích gì cả. Thay vào đó thì nghiên cứu sách triết học hoặc tu học thêm về giáo pháp luyện tâm có thể còn hay hơn.
Lý do khiến tôi cảm thấy nhất thiết phải tuyên đọc tiểu sử của đức Milarepa là để chúng ta có thể cảm nhận được cách tu tập mà một con người có thật đã thực sự hành trì [như thế nào] trong chính cuộc đời mình. Chúng ta có thể cảm thấy rằng mình tạo được một mối giao tiếp thân tình với một con người, như thể chúng ta có thể cầm lấy bàn tay của người ấy vậy.
Dĩ nhiên là còn có nhiều câu chuyện cuộc đời của các vị đạo sư phi thường, như chư Phật và chư Bồ tát. Nhưng kẻ phàm phu không thể đặt tâm chăm chú vào các câu chuyện cuộc đời này, huống chi là nương theo để tu tập.
Tuy nhiên, với ngài Milarepa, chúng ta có câu chuyện về một người hoàn toàn bình thường, lúc đầu phạm nhiều ác hạnh nhưng cuối cùng đã thực sự viên thành đạo quả với sự toàn tâm kiên định. Tôi nghĩ rằng chính câu chuyện có thật như vậy về một đạo sư chân thực sẽ là cái đọng lại trong tâm chúng ta và làm trái tim của chúng ta rung động.
http://www.kagyumon lam.org/English/ Lectures/ 20090104_ HHK_Talk_ on_Relationship_ Masters_Disciple s.html
Tiểu Nhỏ chuyển Việt ngữ; Hiếu Thiện góp ý và hiệu đính (5/2010)
https://sites.google.com/a/quecha.ne...armapadoithu17
ĐỨC KARMAPA THỨ 17 VÀ LÒNG BI MẪN
Thời gian đăng 02.03.2016 bởi tác giả: Việt dịch:thanh Liên trong Sống an vui // 0 phản hồi //
1 245
Làm thế nào để chăm sóc các sinh loài và thế giới trong thế kỷ 21?
Người đàn ông Tây Tạng hai mươi chín tuổi, Orgyen Trinley Dorje – Đức Karmapa thứ 17 – hiện đang thực hiện một chuyến thuyết giảng kéo dài hai tháng tại các Đại Học Hoa Kỳ có uy tín, kể cả Đại Học Harvard, Princeton và Yale. Các vé dành cho tất cả các sự kiện này đã được bán hết tức thì. Vị sư này là ai, là người sau khi viếng thăm các trụ sở của Google và Facebook, đã nói về sự cần thiết đối với một nền văn hóa internet tốt đẹp hơn? Vì sao có rất nhiều người tìm kiếm lời khuyên và hứng khởi của Ngài trong thế kỷ 21?
Mười năm trước, lần đầu tiên tôi được gặp Karmapa thứ 17 tại tu viện của Ngài, ở dưới chân núi Dhauladar, gần Dharamsala, Ấn Độ. Đó là lần đầu tiên tôi viếng thăm Ấn Độ để nghiên cứu tại một ashram (Đạo viện) Ấn giáo trên sông Hằng. Trong thời gian bay, tự nhiên tôi mua quyển ‘Vũ điệu của 17 Cuộc đời’ (Dance of 17 Lives) của Mick Brown, một tường thuật hấp dẫn về cuộc đời và dòng truyền thừa Karmapa. Nó đã để lại một ấn tượng khác thường về một ‘Đức Phật Sống’ và khiến tôi quyết định phải viếng thăm Ngài sau ashram. Mặc dù tôi đến từ một bối cảnh thế tục, vô thần, khi tôi gặp ngài, việc ấy như thể trở về nhà trong vòng tay của người bạn thất lạc lâu năm. Ngài là hiện thân của trí tuệ, tình thương và lòng bi mẫn trong thân tướng con người.
Đức Karmapa từng giảng dạy ở Ấn độ từ năm 2000, sau khi đào thoát khỏi sự giám sát và hạn chế ngày một gia tăng của Trung quốc trong việc chiếm đóng Tây Tạng. Ngày nay, ảnh hưởng và trí tuệ của Ngài trở nên có tính cách toàn cầu với lần đầu tiên Ngài du hành tới Đức vào năm ngoái và chuyến đi thứ ba sang Hoa Kỳ trong tháng này. Một cách kiên định, Ngài nói về tầm quan trọng của lòng bi mẫn đối với động vật, môi trường và sự bình đẳng giới tính.
Về thuyết ăn chay, tiếng nói của Ngài có ảnh hưởng nhất sau khi chính Ngài từ bỏ việc ăn thịt một vài năm trước. Những người Tây Tạng có một truyền thống văn hóa về việc ăn thịt, là điều đã tiếp tục ngay cả khi sống lưu đày, đôi khi dẫn đến sự căng thẳng với người Hindu (người theo Ấn Độ giáo) và Phật tử Tây phương. Tháng Giêng năm 2007, nhân Đại lễ Cầu nguyện dòng Kagyu ở Bodh Gaya, Ấn Độ, tôi có mặt khi Đức Karmapa ban một giáo lý ủng hộ mạnh mẽ thuyết ăn chay bằng cách ngăn cấm tăng ni ăn thịt trong các tu viện của Ngài ở hải ngoại [bên ngoài Tây Tạng]. Khi trích dẫn Kinh điển và luận lý Phật giáo, Ngài nhấn mạnh rằng việc ăn thịt mâu thuẫn với lòng bi mẫn và giới cấm sát sinh. Nhiều người Tây Tạng và Tây phương [là những người] ăn thịt đã bị ‘sốc’ bởi sự trong sáng và sức mạnh trong lời dạy của Ngài về vấn đề này.
Trong tuần này, một lần nữa tại Harvard, Đức Karmapa nói về nỗi khiếp sợ của Ngài khi còn là một đứa trẻ chứng kiến những người du mục Tây Tạng sát hại những con vật bằng cách làm cho chúng ngạt thở từ từ cho đến chết. Ngài tiếp tục mô tả làm thế nào mà công nghệ tập thể và các phương pháp nuôi trồng đã dẫn tới trình trạng nhiều người hoàn toàn mất đi [sự hiểu biết] thịt là gì và làm thế nào thịt trở thành các [sản phẩm] đóng gói trong các siêu thị; và làm thế nào mà một lòng bi mẫn bẩm sinh, tự nhiên ta cảm thấy khi còn bé, một lòng bi mẫn ‘không do giáo dục mà có,’ [một lòng bi mẫn mãnh liệt, tự nhiên] lại là điều mà ta thường đánh mất khi đã trưởng thành.
“Tôi cảm thấy nhớ cái cảm xúc chân thật không tạo tác ở mức độ [tự nhiên mãnh liệt] đó… Theo một nghĩa nào đó thì điều nguy hiểm nhất trong thế giới là sự vô cảm. Không như bạo động, chiến tranh, và bệnh tật, là những điều có thể né tránh được, nhưng con người không thể chống đỡ lại với sự vô cảm một khi vô cảm lên nắm quyền. Tôi khẩn mong các bạn hãy cảm nhận được một tình thương dũng cảm – [tình thương ấy] không giống như một gánh nặng, mà là một sự hiểu biết vui vẻ về sự tương thuộc.”
Văn hóa tu viện Phật giáo Tây Tạng, đối nghịch với giáo lý đạo Phật, cũng có một lịch sử lâu dài về năng lực gia trưởng và sự áp bức phụ nữ. Chỉ trong ít thập niên gần đây, sau áp lực từ các nữ Phật tử Tây phương chẳng hạn như Jetsunma Tenzin Palmo và Tsultrim Allione, việc thay đổi bắt đầu trở thành hiện thực. Mãi cho tới gần đây, các nữ tu sĩ không được giáo dục cùng trình độ như những người nam giới ngang hàng, đã không thể thọ nhận tước vị Lạt ma, Geshe hay Khenpo và thường bị bỏ rơi khỏi hệ thống tulku (hóa thân), với một ít biệt lệ đáng kể. Mới đây, một phụ nữ người Đức, [nữ] Geshe Kelsang Wangmo đã được tặng thưởng tước vị ‘Geshe’ ở Ấn Độ. [Đây là] một thành tựu về học thuật đáng kể đối với tự thân một diễn giả không có gốc gác Tây Tạng, nhất là khi đem so với rất các nhiều chướng ngại đã chặn đường tiến của quý ni sư trong nhiều thế kỷ. Các chướng ngại [giờ] đã bị bẻ gẫy và sẽ có thêm nhiều nữ Geshe hiện ra nơi chân trời.
Đức Karmapa thứ 17 đã có công trong việc nhắm vào sự bất bình đẳng giới tính và phúc lạc của quý ni sư, không chỉ bằng lời nói của Ngài mà nhờ vào hành động [thực tiễn]. Ngài đã nói trong năm này: “Các tu sĩ và nữ tu sĩ thì giống nhau trong việc có thể hộ trì Phật pháp, và [cả hai] đều có trách nhiệm như nhau để làm điều đó. Tuy nhiên đã có một thời kỳ khi mà quý ni sư không thực sự có cơ hội để duy trì giáo lý, và điều này đã là một tổn thất cho tất cả chúng ta.”.
Năm 2014, lần thứ nhất, Ngài đã bắt đầu một cuộc họp thảo luận hàng năm dành cho quý sư cô (thường chỉ được dành riêng cho các tu sĩ nam) và cũng đang đặt những cải cách tiến bộ để bảo đảm quyền thọ cụ túc giới [của nữ tu sĩ]. Hiện tại, phụ nữ trong Phật giáo Tây Tạng có thể thọ giới như các sa di ni, nhưng họ không có cơ hội thọ giới cao cấp hơn mà Đức Phật đã chế ra cho phụ nữ: giới bhikshuni hay Tỳ khưu ni (gelongma). Trong khi việc phụ nữ thọ giới Tỳ kheo vẫn được chấp nhận trong các truyền thống Trung quốc, Hàn quốc, và Việt Nam, và mới đây được tái lập cho quý sư cô trong truyền thống Theravada ở Sri Lanca, thì về lãnh vực này Phật giáo Tây Tạng đã bị tụt hậu.
Ngài cũng đã đảm nhận việc dịch thuật một quyển tiểu sử của quý ni sư từ tiếng Trung quốc sang Tây Tạng, và cũng dự định dịch một tuyển tập các tường thuật về các nữ đệ tử tâm truyền của Đức Phật từ văn học Tây Tạng sang tiếng Tây Tạng phổ thông, để đưa thuở ban đầu trong cuộc đời của quý ni sư này đến với các độc giả Tây Tạng hiện đại.
Những thông điệp này cũng được nói rõ trong quyển sách xuất sắc của ngài, ‘Trái tim Cao quý’, và đây là một biến đổi thú vị [khác với] những nam lãnh đạo tôn giáo ‘truyền thống’ vẫn thuyết giảng về thành kiến giới tính, sự kỳ thị người đồng tính luyến ái và sự không dung thứ. Một vị lãnh đạo tâm linh đích thực Thế kỷ 21 tốt lành, bi mẫn, tinh thông và bao gồm tất cả, là bậc mà mọi người, bất luận dòng giống hay tôn giáo, có thể cảm thấy biết ơn một cách hoan hỉ.
Theo lời của đức Karmapa: “Đó là lúc chúng ta thực sự nhận ra rằng thời đại của thợ săn đã qua đi. Đây nên là một thời đại “nữ tính’ hơn – một thời đại khi phụ nữ thực hiện được những đóng góp to lớn hơn cho xã hội. Nếu chúng ta tiếp tục làm giảm giá trị những gì phụ nữ cống hiến, ta sẽ tiếp tục làm hại phụ nữ và tiếp tục bỏ sót và làm giảm giá trị những đức hạnh này, những gì được coi là “nữ tính.” [Nhưng] đây chính là các đức tính mà thế giới cần hơn nữa vào lúc này.”
Thanh Liên chuyển Việt ngữ. Tâm Bảo Đàn hiệu đính. (5/2015)
http://thientrithuc.vn/wp-content/up...a_family_3.jpg
http://thientrithuc.vn/duc-karmapa-t...a-long-bi-man/
Đức Gyalwang Karmapa đời thứ 17 – Orgyen Trinley Dorje
His Holiness the 17th Gyalwang Karmapa – Orgyen Trinley Dorje
( https://www.wisdomcompassion.org/nghiquy )
Các vị Karmapa: Karmapa có nghĩa là “bậc hoằng hoá công hạnh của chư Phật” hay là ʺhiện thân của tất cả các họat động của chư Phật”. Theo truyền thống Tây Tạng, những bậc đạo sư giác ngộ vĩ đại được cho là có thể tự sắp đặt để tái sinh như một vị thầy, là người có thể tiếp tục việc truyền dạy của vị tiền bối trong kiếp trước đó. Theo truyền thống này, các vị Karmapa đã tái sinh trong thân tướng của một hoá thân, trải qua mười bảy đời, cũng như trong đời hiện tại, và tất cả các vị hoá thân đều đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ và truyền bá Phật Pháp tại Tây Tạng...
Lời khuyên của Đức Karmapa đời thứ XVII của Tây TạngPost: : Admin
"Con người là loài thông minh và lanh lợi nhất trên trái đất. Nhưng nếu chúng ta sử dụng trí thông minh của mình để gây đau khổ nhiều hơn, chứ không phải là để mang lại một số lợi ích thực sự cho người khác và chính mình, chúng ta chẳng có gì tốt đẹp hơn so với loài thú."
http://phathocdoisong.com/upload/ima...3015_34655.jpg
Lời khuyên của Đức Karmapa đời thứ XVII của Tây Tạng
Chúc mọi người sẽ nhớ & sống bằng phần tốt đẹp nhất của loài người.
"Human beings are the most intelligent and resourceful species on earth. If we use our intelligence to cause more suffering, rather than to bring some real benefit to others and ourselves, we are no better than beasts."
Hiện tại, Đức Karmapa XVII là vị lãnh tụ thứ hai của Phật giáo Tây Tạng, sau Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIV & Đức Ngài là Pháp Chủ của dòng Truyền thừa Kagyu- một trong 04 dòng Truyền thừa chính của Phật giáo Tây Tạng là Nyingma, Kagyu, Gelug và Sakya.
Claire Huynh
༄༅། །བླ་མ་སངས་རྒྱས། །
THẦY CHÍNH LÀ PHẬT
( http://vajraratna.blogspot.com/searc...wang%20Karmapa )
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/22/Karmapa9.jpg
Gyalwang Karmapa thứ 9 Wangchuk Dorje
དང་པོ་བླ་མ་སངས་ར ྱས་བལྟ། །
བར་དུ་བླ་མ་སངས་ར ྱས་མཐོང་། །
ཐ་མར་རང་སེམས་བླ་ ར་རྟོགས། །
བླ་མའི་གོ་འཕང་མྱ ར་ཐོབ་ཤོག །
Dang-po la-ma sang-gye ta
Bar-du la-ma sang-gye thong
Tha-mar rang-sem la-ma tog
La-may go-phang nyur-thob shog
Firstly, see the Guru as Buddha.
Gradually, perceive the Guru as Buddha.
Finally, realize one's own mind as the Guru.
May the state of the Guru be swiftly obtained.
Lúc mới bắt đầu, hãy xem Thầy như Phật.
Dần dần về sau, hiểu được Thầy là Phật.
Sau cùng, nhận thức tự tâm chính là Thầy.
Nguyện mau thành tựu cấp độ Đức Đạo Sư.
ཀརྨ་པ་དབང་ཕྱུག་ར ོ་རྗེས།
Written by Karmapa Wangchuk Dorje.
Karmapa Wangchuk Dorje trước tác.
Ngày 08/12/2014, Kim Cương Bảo chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin với hình ảnh Đức Karmapa Wangchuk Dorje từ Himalayan Art. Nguyện hết thảy chư hữu tình mau chóng thành tựu cấp độ Đức Đạo Sư cao thượng.