Chư Phật xuất thế, thiên hạ thái bình.
Thần linh giáng ứng, gia đình hạnh phúc.
Tổ Tiên giáng ứng, con cháu hỷ an.
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...%B0%20Khoa.pdf
Printable View
Chư Phật xuất thế, thiên hạ thái bình.
Thần linh giáng ứng, gia đình hạnh phúc.
Tổ Tiên giáng ứng, con cháu hỷ an.
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...%B0%20Khoa.pdf
Quan đế đào viên minh thánh kinh (官帝桃園明聖經)
https://dulieu.itrithuc.vn/media/dat...lvnpf-0375.pdf
Thần Chú và Cầu Nguyện
" Thần chú khác với cầu nguyện. Cầu nguyện là hạ mình yêu cầu kẻ khác kể cả thần linh.
Còn đọc thần chú là ra lệnh cho những lực lượng vô hình. Chính vì cái Tâm mình ngay chánh tự tin ở đạo đức ức của mình có thể làm cho quỷ thần kinh khiếp cho nên nhà Đạo Đức chế ra những câu chú có tính cách truyền lệnh. Ví dụ câu chú sau đây giúp sáng tai, nghe cảm được mọi sự họa phước sắp xảy đến. Câu chú này gọi là " Minh nhỉ chú ":
- Thiên Chi Thần quang, địa chi thần quang, Nhật nguyệt thần quang, nhỉ biên quang, chú chi nhỉ văn, chú văn nhỉ khai quang, thần thông nhập nhỉ, tốc chi nhỉ bàng, cấp cấp như Cửu thiên Huyền nữ luật lịnh... nhiếp.
Đọc Thần chú là Tâm phát ra tiếng động tạo thành những điện ba ( sóng điện ). Hễ sóng điện mạnh thì cảm ứng những đường thẳng và đường cong phối hợp với nhau . Đường thẳng hợp thành góc cạnh biến ra những hình tam giác, tứ giác, lục lăng... hình tròn, hình thuần, hình cong, hình nón... và vũ trụ chỉ là những đường thẳng, đường cong phối hợp, biến hóa thành ra muôn hình vạn trạng (kỷ hà học). Điều này thấy rõ khi quan sát những hình ngôi sao, lục giác, những hình kỷ hà biểu tượng trong các tôn giáo hay từ những phương thuật vẽ bùa của người Ấn, người da đỏ, người Phi Châu, người Trung Hoa, người Âu Châu v...v...
https://www.facebook.com/share/p/1GFGoCNWDv/
Thế Tôn Khánh Đản có nghĩa là:
(世尊慶誕): ngày đản sanh hân hoan, vui mừng của đức Thế Tôn, còn gọi là Phật Đản Tiết (佛誕節), Dục Phật Tiết (浴佛節, Lễ Hội Tắm Phật), Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật), Long Hoa Hội (龍華會), Hoa Nghiêm Hội (華嚴會), v.v. Tùy theo mỗi quốc gia, tên gọi lễ hội linh thiêng, trọng đại này có khác nhau. Tại Nhật Bản lễ hội này được gọi là Giáng Đản Hội (降誕會, Gōtane), Phật Sanh Hội (佛生會, Busshōe), Dục Phật Hội (浴佛會, Yokubutsue), Quán Phật Hội (灌佛會, Kambutsue), Long Hoa Hội (龍華會, Ryūgee), Hoa Hội Thức (花會式, Hanaeshiki), Hoa Tế (花祭, Hanamatsuri). Trong khi đó, Hàn Quốc gọi là Thích Ca Đản Thần Nhật (釋迦誕辰日, Ngày Đản Sanh Của Đức Thích Ca), Đài Loan là Phật Đà Đản Thần Kỷ Niệm Nhật (佛陀誕辰紀念日, Ngày Kỷ Niệm Đản Sanh Của Đức Phật Đà), Việt Nam là Lễ Phật Đản, v.v. Qua các tên gọi liệt kê ở trên, Lễ Phật Đản còn được gọi là Lễ Hội Tắm Phật. Truyền thống Lễ Hội Tắm Phật vốn phát xuất từ truyền thuyết có 2 con rồng phun nước hương thơm rưới lên kim thân của của đức Phật khi ngài hạ sanh, như trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō No. 189) quyển 1 có diễn tả như sau: “Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương, ư hư không trung, thổ thanh tịnh thủy, nhất ôn nhất lương, quán Thái Tử thân, thân hoàng kim sắc hữu tam thập nhị tướng, phóng đại quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, thiên long Bát Bộ diệc ư không trung tác thiên kỷ nhạc, ca bối tán tụng, thiêu chúng danh hương, tán chư diệu hoa, hựu vũ thiên y nãi dĩ Anh Lạc, tân phân loạn trụy bất khả xưng sổ (難陀龍王、優波難陀龍王、於虛空中 吐清淨水、一溫一涼、灌太子身、身 黃金色有三十二相、放大光明、普照 千大千世界、天龍八部亦於空中作天 樂、歌唄讚頌、燒眾名香、散諸妙花 、又雨天衣及以瓔珞、繽紛亂墜不可 數, Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương ở trong không trung, phun nước trong sạch, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên mình Thái Tử; thân người màu vàng ròng, có ba mươi hai tướng, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới; trời rồng tám bộ chúng cũng ở trên hư không tạo các thứ nhạc trời, ca xướng tán tụng, đốt các loại hương thơm, rãi các loại hoa quý, rồi lại mưa áo trời và lấy Anh Lạc rãi cùng khắp, không thể nào đếm kẻ xiết).” Hay như trong Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō No. 186) quyển 2 cho là có 9 con rồng: “Cửu long tại thượng nhi hạ hương thủy, tẩy dục thánh tôn, tẩy dục cánh dĩ, thân tâm thanh tịnh (九龍在上而下香水、洗浴聖尊、洗浴 已、身心清淨, chín con rồng ở trên không trung mà rưới nước hương thơm xuống, tắm rửa đấng thánh tôn; tắm rửa xong rồi, thân tâm trong sạch).” Nghi thức tắm các tôn tượng này vốn đã có từ thời xa xưa ở Ấn Độ, là một nhu cầu cần thiết về mặt tôn giáo để cầu phước diệt tội. Như trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō No. 310) quyển 100 có đề cập đến câu chuyện công chúa Vô Cấu Thí (無垢施), con gái của vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) như sau: “Kỳ nữ ư nhị nguyệt bát nhật Phật tinh hiện nhật, dữ ngũ bách Bà La Môn câu, trì mãn bình thủy, xuất chí thành ngoại dục tẩy thiên tượng (其女於二月八日佛星現日、與五百婆 門俱、持滿瓶水、出至城外浴洗天像 , người nữ ấy vào ngày mồng 8 tháng 2, ngày sao Phật xuất hiện, cùng với 500 vị Bà La Môn, cầm một cái bình đầy nước, ra ngoài thành tắm rửa bức tượng trời).” Trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) quyển 4 của Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường có đoạn rằng: “Đại sư tuy diệt, hình tượng thượng tồn, kiều tâm như tại, lý ứng tôn kính; hoặc khả hương hoa mỗi thiết, năng sanh thanh tịnh chi tâm, hoặc khả quán mộc hằng vi, túc đãng hôn trầm chi nghiệp; … đản Tây quốc chư tự, quán mộc tôn nghi, mỗi ư nam trung chi thời, thọ sự tiện minh kiền chùy, tự đình trương thí bảo cái, điện trắc la liệt hương bình, thủ kim, ngân, đồng, thạch chi tượng, trí dĩ đồng, kim, mộc, thạch bàn nội, linh chư kỷ nữ tấu kỳ âm nhạc, đồ dĩ ma hương, quán dĩ hương thủy, dĩ tịnh bạch diệp nhi giai thức chi; nhiên hậu an trí điện trung, bố chư hoa thái, thử nãi tự chúng chi nghi (大師雖滅、形像尚存、翹心如在、理 尊敬、或可香花每設、能生清淨之心 、或可灌沐恆爲、足盪昏沉之業、… 西國諸寺、灌沐尊儀、每於男中之時 授事便鳴楗椎、寺庭張施寶蓋、殿側 羅列香瓶、取金、銀、銅、石之像、 以銅、金、木、石盤內、令諸妓女奏 音樂、塗以磨香、灌以香水、以淨白 氎而揩拭之、然後安置殿中、布諸花 、此乃寺眾之儀, Đại sư tuy đã diệt độ, nhưng hình tượng vẫn còn, tâm thành như còn sống, lý hợp với sự tôn kính; hoặc có thể mỗi lần thiết bày hương hoa, làm cho sanh tâm trong sạch; hay có thể tắm rửa tượng thường xuyên để tẩy sạch nghiệp hôn trầm; … hơn nữa, các chùa ở phương Tây [Ấn Độ], có nghi thức tắm tửa tôn tượng, mỗi khi đúng dịp người nam, người chịu trách nhiệm bèn đánh kiền chùy; nơi sân chùa giăng lọng báu, bên chánh điện bày biện các bình hương; lấy tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, đem dặt vào trong chậu bằng đồng, vàng, gỗ, đá; sai các kỷ nữ tấu âm nhạc, thoa hương thơm lên tượng, rưới nước hương thơm, rồi lấy khăn trắng lau sạch tượng; sau đó, đem tượng an trí trong điện, phủ các sắc hoa, đây là nghi thức của các chùa).” Khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, nghi thức này cũng được lưu truyền theo và ban đầu nó rất thịnh hành trong triều đình cũng như trong tầng lớp quan lại. Mãi cho đến thời đại Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều, nó trở thành phổ biến rộng khắp. Như trong Truyện Phật Đồ Trừng (佛圖澄傳) của Cao Tăng Truyện (高僧傳) quyển 10 có đề cập đến câu chuyện vị quốc chủ của nhà Hậu Triệu (後趙, 319-352) là Thạch Lặc (石勒, 319-333) đã từng vì con mà đến chùa hành lễ Tắm Phật: “Thạch Lặc chư trĩ tử, đa tại Phật tự trung dưỡng, mỗi chí tứ nguyệt bát nhật, Lặc cung tự nghệ tự quán Phật, vi nhi phát nguyện (石勒諸稚子、多在佛寺中養之、每至 月八日、勒躬自詣寺灌佛、爲兒發願 , các con nhỏ của Thạch Lặc, phần lớn được nuôi dưỡng trong chùa; mỗi khi vào ngày mồng 8 tháng tư, Thạch Lặc kính thành đích thân đến chùa làm lễ Tắm Phật, vì con nhỏ mà phát nguyện như vậy).” Hoặc như trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 36, Điều Tống Hiếu Võ Đế Đại Minh Lục Niên (宋孝武帝大明六年, năm 462) có đoạn: “Tứ nguyệt bát nhật, đế ư nội điện quán Phật trai tăng (四月八日、帝於內殿灌佛齋僧, vào ngày mồng 8 tháng tư, nhà vua hành lễ Tắm Phật và Trai Tăng trong nội điện).” Hay trong Lưu Kính Tuyên Truyện (劉敬宣傳) của Tống Thư (宋書) quyển 47 có kể rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, Kính Tuyên kiến chúng nhân quán Phật, nãi hạ đầu thượng kim kính dĩ vi mẫu quán, nhân bi khấp bất tự thắng (四月八日、敬宣見眾人灌佛、乃下頭 金鏡以爲母灌、因悲泣不自勝, vào ngày mồng 8 tháng tư, Kính Tuyên thấy mọi người tắm Phật, bèn lấy cái kính vàng trên đầu xuống, vì mẹ mà dội nước tắm, nhân đó buồn khóc chẳng tự kiềm chế được).” Cho nên, nghi thức Tắm Phật được thịnh hành từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Về ngày tiến hành Lễ Phật Đản hay Lễ Tắm Phật, xưa nay có nhiều ký lục bất đồng như ngày mồng 8 tháng 2, mồng 8 tháng 4, hay mồng 8 tháng 12. Dưới thời Hậu Hán (後漢, 25-220), trong Ngô Thư (吳書) không ghi rõ ngày Tắm Phật của Trách Dung (笮融, ?-195); đến thời Bắc Triều thì phần lớn người ta tiến hành lễ này vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Tuy nhiên, từ thời nhà Lương (梁, 502-557), qua nhà Đường (唐, 618-907) đến đầu thời nhà Liêu (遼, 907-1125), đại để lễ hội này được tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 2. Dưới thời nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127) lại tổ chức vào ngày mồng 8 tháng chạp; nhưng Nam Tống thì tiến hành ngày mồng 8 tháng 4. Như đã nêu trên, trường hợp của Thạch Lặc nhà Hậu Triệu, Hiếu Võ Đế (孝武帝, 453-464) của nhà Lưu Tống (劉宋, 420-479), Lưu Kính Tuyên (劉敬宣, ?-415), v.v., đều tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Trong khi đó, tác phẩm Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) dưới thời nhà Lương lại ghi là ngày mồng 8 tháng 2. Trong Thích Huyền Uyển Truyện (釋玄琬傳) nhà Đường của Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) quyển 22 có đoạn rằng: “Uyển dĩ nhị nguyệt bát nhật Đại Thánh Đản Mộc chi thần, truy duy cựu chư, kính sùng dục cụ, mỗi niên như thử, khai giảng thiết trai, đại hội đạo tục (琬以二月八日大聖誕沐之辰、追惟舊 、敬崇浴具、每年此日、開講設齋、 大會道俗, Huyền Uyển lấy ngày mồng 8 tháng 2 làm ngày tắm Đản Sanh Đức Đại Thánh, theo lề lối xưa, kính sùng vật dụng tắm rửa, mỗi năm vào ngày này, thuyết giảng và bày cỗ chay, tập trung cả tăng lẫn tục).” Phần Lễ Chí (禮志) của Liêu Sử (遼史) quyển 53 cũng ghi ngày mồng 8 tháng 2 là ngày sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多). Trong phần Phật Đản Sanh Niên Đại (佛誕生年代) của Tăng Sử Lược (僧史略) quyển Thượng do Tán Ninh (贊寧, 919-1001) nhà Bắc Tống biên soạn có đoạn: “Kim Đông Kinh dĩ lạp nguyệt bát nhật dục Phật, ngôn Phật sanh nhật (今東京以臘月八日浴佛、言佛生日, nay kinh đô [lúc bấy giờ kinh đô nhà Tống là Khai Phong] lấy ngày mồng 8 tháng chạp làm ngày Tắm Phật, xem đó là ngày Phật hạ sanh).” Hay như Sự Văn Loại Tụ (事文類聚) của Chúc Mục (祝穆, ?-?) nhà Tống có ghi rằng: “Hoàng triều đông kinh thập nhị nguyệt sơ bát nhật, đô thành chư đại tự tác Dục Phật Hội, tinh tạo thất bảo ngũ vị chúc, vị chi Lạp Bát Chúc (皇朝東京十二月初八日、都城諸大寺 浴佛會、並造七寶五味粥、謂之臘八 粥, vào ngày mồng 8 tháng 12, kinh đô hoàng triều, các chùa lớn trong thành đô đều tiến hành Lễ Hội Tắm Phật, làm thứ cháo có bảy loại báu và năm vị, gọi đó là Cháo Mồng Tám Tháng Chạp).” Bên cạnh đó, tác phẩm Tuế Thời Tạp Ký (歲時雜記) có đề cập rằng: “Chư kinh thuyết Phật sanh nhật bất đồng, kỳ chỉ ngôn tứ nguyệt bát nhật sanh giả vi đa; … cố dụng tứ nguyệt bát nhật quán phật dã; kim đản Nam phương giai dụng thử nhật, Bắc nhân chuyên dụng lạp nguyệt bát nhật, cận tuế nhân Viên Chiếu Thiền Sư lai Huệ Lâm, thỉ dụng thử nhật hành Ma Ha Sát Đầu Kinh pháp, tự thị sảo sảo tuân; … kỳ hậu Tống đô Khai Phong chư tự, đa thái dụng tứ nguyệt bát nhật dục Phật (諸經說佛生日不同、其指言四月八日 者爲多、…故用四月八日灌佛也。故 用四月八日灌佛也、今但南方皆用此 ,北人专用腊月八日,近岁因圆照禅 (1020—1099)来慧林(禅 院),始用此日行《摩诃刹头经》法 自是稍稍遵(之)。今但南方皆用此 、北人專用臘月八日、近歲因圓照禪 師來慧林、始用此日行摩訶剎頭經法 自是稍稍遵、…其後宋都開封諸寺、 采用四月八日浴佛, các điển tịch nói về ngày đản sanh của đức Phật không đồng nhất với nhau, phần lớn đều chỉ ngày mồng 8 tháng tư; … cho nên mới dùng ngày mồng 8 tháng tư để tiến hành Lễ Tắm Phật; nay phương Nam đều dùng ngày này, người phương Bắc lại chuyên dùng ngày mồng 8 tháng chạp; gần đây nhân khi Thiền Sư Viên Chiếu [1020-1099] đến Thiền Viện Huệ Lâm, bắt đầu dùng ngày này để hành pháp tu của Ma Ha Sát Đầu Kinh, từ đó có tuân theo chút ít; … về sau, các chùa trong Phủ Khai Phong thuộc kinh đô nhà Tống, phần lớn đều chọn lấy ngày mồng 8 tháng tư làm ngày Tắm Phật).” Từ đó, tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 ghi rõ rằng: “Tứ nguyệt bát nhật Phật sanh nhật, thập đại Thiền viện các hữu Dục Phật Trai Hội, tiễn hương dược đường thủy tương di, danh viết Dục Phật Thủy (四月八日佛生日、十大禪院各有浴佛 會、煎香藥糖水相遺、名曰浴佛水, ngày mồng 8 tháng tư là ngày đản sanh của đức Phật, 10 Thiền viện lớn, mỗi chùa đều có Lễ Hội Trai Tăng Tắm Phật, nấu nước đường thuốc hương thơm ban bố khắp, tên gọi là Nước Tắm Phật).” Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, do Trung Phong Minh Bổn [中峰明本, 1263-1323] biên soạn vào năm 1317) cũng như Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, được tu chỉnh vào năm 1336) dưới thời nhà Nguyên cũng quy định ngày mồng 8 tháng tư là ngày Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó, trên toàn lãnh thổ Trung Quốc cũng thống nhất tổ chức Lễ Phật Đản vào ngày này. Như trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 2, Chương Báo Bổn (報本章), điều Phật Giáng Đản (佛降誕) có quy định cụ thể nghi thức Tắm Phật như sau: “Chí tứ nguyệt bát nhật, Khố Ty nghiêm thiết hoa đình, trung trí Phật giáng sanh tượng, ư hương thang bồn nội, an nhị tiểu tiêu; Phật tiền phu trần cúng dường tất; Trú Trì thượng đường chúc hương vân: 'Phật Đản linh thần, mỗ tự trú trì … kiền nhiệt bảo hương, cúng dường Bổn Sư Thích Ca Như Lai Đại Hòa Thượng, thượng thù từ ấm, sở kí pháp giới chúng sanh, niệm niệm chư Phật xuất hiện ư thế.' Trú Trì thuyết pháp cánh, lãnh chúng đồng đáo điện thượng; Trú Trì thượng hương tam bái nhiên hậu quỳ lô; Duy Na bạch Phật vân: 'Nhất nguyệt tại thiên, ảnh hàm chúng thủy; nhất Phật xuất thế, các tọa nhất hoa; Bạch Hào thư nhi Tam Giới minh, Cam Lồ sái nhi Tứ Sanh nhuận; … tuyên sớ tất, xướng Dục Phật Kệ (至四月八日、庫司嚴設花亭、中置佛 生像、於香湯盆內、安二小杓、佛前 敷陳供養畢、住持上堂祝香雲、佛誕 辰,某寺住持…虔爇寶香、供養本師 迦如來大和尚、上酬慈蔭、所冀法界 眾生、念念諸佛出現於世、住持說法 、領眾同到殿上、住持上香三拜然後 爐、維那白佛云、一月在天、影涵眾 水、一佛出世、各坐一華、白毫舒而 界明、甘露灑而四生潤、…宣疏畢、 浴佛偈, đến ngày mồng 8 tháng tư, vị Tri Khố trang nghiêm thiết bày nhà hoa, bên trong an trí tượng Phật Đản Sanh, bỏ hai cái muỗng nhỏ bên trong cái bồn nước nóng hương thơm; trước tượng Phật bày biện các vật phẩm cúng dường; xong vị Trú Trì thượng đường niệm hương rằng: 'Khoảnh khắc linh thiêng đức Phật đản sanh, con Trú Trì chùa …, kính dâng hương báu tỏa khắp, cúng dường lên đức Đại Hòa Thượng Bổn Sư Thích Ca Như Lai, trên đền đáp ơn từ, mong khắp pháp giới chúng sanh, thường nhớ chư Phật xuất hiện trên đời; vị Trú Trì thuyết pháp xong, dẫn đại chúng cùng lên Chánh Điện, ông dâng hương, lạy ba lạy, sau đó quỳ xuống; vị Duy Na bạch Phật rằng: 'Một trăng trên trời, bóng hiện khắp chốn; một Phật ra đời, đều ngồi tòa sen; mày trắng buông mà Ba Cõi sáng, Cam Lồ rưới mà Bốn Loài thấm, … tuyên sớ xong, xướng bài Kệ Tắm Phật).” Đối với Việt Nam, bên cạnh ngày mồng 8, Lễ Phật Đản thường được tổ chức vào ngày rằm tháng tư Âm Lịch hằng năm. Như có đề cập ở trên, khi tiến hành Lễ Tắm Phật, bài Kệ Tắm Phật (căn cứ vào bài kệ trong Dục Phật Công Đức Kinh) được xướng tụng là: “Ngã kim quán mộc chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ Trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp Thân (我今灌沐諸如來、淨智莊嚴功德聚、 濁眾生令離垢、同證如來淨法身, con nay tắm gội các Như Lai, trí sạch trang nghiêm công đức lớn, chúng sanh Năm Trược xa cấu nhiễm, cùng chứng tịnh Pháp Thân Như Lai).” Về công đức Tắm Phật, trong Dục Phật Công Đức Kinh có liệt kê 15 loại: “Thiện nam tử, nhược hữu chúng sanh, năng tác như thị thắng cúng dường giả, thành tựu thập ngũ thù thắng công đức nhi tự trang nghiêm; nhất giả thường hữu tàm quý, nhị giả phát tịnh tín tâm, tam giả kỳ tâm chất trực, tứ giả thân cận thiện hữu, ngũ giả nhập vô lậu tuệ, lục giả thường kiến chư Phật, thất giả hằng trì chánh pháp, bát giả năng như thuyết hành, cửu giả tùy ý đương sanh tịnh Phật quốc độ, thập giả nhược sanh nhân trung đại tánh tôn quý nhân sở kính phụng sanh hoan hỷ tâm, thập nhất giả sanh tại nhân trung tự nhiên niệm Phật, thập nhị giả chư ma quân chúng bất năng tổn não, thập tam giả năng ư mạt thế hộ trì chánh pháp, thập tứ giả thập phương chư Phật chi sở gia hộ, thập ngũ giả tốc đắc thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân (善男子、若有眾生、能作如是勝供養 、成就十五殊勝功德而自莊嚴、一者 常有慚愧、二者發淨信心、三者其心 直、四者親近善友、五者入無漏慧、 者常见诸佛。 六者常見諸佛、七者恆持正法、八者 如說行、九者隨意當生淨佛國土、十 若生人中大姓尊貴人所敬奉生歡喜心 、十一者生在人中自然念佛、十二者 魔軍眾不能損惱、十三者能於末世護 正法、十四者十方諸佛之所加護、十 五者速得成就五分法身, này thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào có thể thực hiện sự cúng dường như vậy, sẽ thành tựu 15 loại công đức thù thắng để tự trang nghiêm; một là thường có sự hổ thẹn, hai là phát tín tâm trong sạch, ba là tâm của vị ấy ngay thẳng, bốn là gần gủi bạn tốt, năm là vào trí tuệ vô lậu, sáu là thường thấy chư Phật, bảy là thường giữ gìn chánh pháp, tám là có thể hành theo đúng với lời dạy, chín là tùy ý sẽ sanh về quốc độ thanh tinh của Phật, mười là nếu sanh vào cõi người thì được người dòng họ tôn quý kính phụng và sanh tâm hoan hỷ, mười một là nếu sanh trong cõi người thì tự nhiên niệm Phật, mười hai là chúng ma quân không thể làm cho tổn hại và gây rối, mười ba là có thể hộ trì chánh pháp vào thời mạt pháp, mười bốn là được mười phương chư Phật gia hộ, mười lăm là mau chóng thành tựu Năm Phần Pháp Thân).”
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...dan-k5452.html
南無普庵祖師菩薩(三合)唵,寂感 ,普庵吒,普庵吒。天靈靈,地靈靈 水. 靈靈,符靈靈。水裡長生救萬民,普 祖師救病身。金刀吒,金刀吒,斬發 ...
https://www.ha.cuhk.edu.hk/Conferenc...Proceeding.pdf
Tổng hợp 1.500 chữ Hán phổ biến nhất trong tiếng Trung
https://koreanhalong.edu.vn/1500-chu...trung-nd,91331
TIẾN MÃ CHO VONG
(TRANG 131-132)
https://file.nhasachmienphi.com/pdf/...thong-dung.pdf
=====
Quần áo hóa mã:
Mục Liên tôn giả đại từ bi,
Thuyết tạo trung nguyên huyết bổn nghi.
Mục nhân thành cảnh lai chứng giám,
Vũ Lân đại thuyết trưởng mình y.
Lấy hương viết chữ:
Án tất tộc thành hình không khứ.
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...A5ng%20CKN.pdf
===
B. VĂN KHẤN TIẾN MÃ GIA TIÊN
Mục-Liên Tôn-giả, đại từ bi,
Tào tác trung nguyên huyết bốn trì.
Thánh cảnh mục liên lai chứng giám,
Vũ - Lâm sứ giả trưởng Minh Y.
Thiên chỉ thành khôi, ôi thành sắc.
Hỏa quang tam muội, biến tùy nghi,
Kính cấp cho chân linh cụ ông ( cụ bà) ... ( tên cụ ông ) ( tên cụ bà) lai thụ dụng. Vô danh ngoại quỷ, khước trừ chi. (khấn 3 lần)
Thanh chỉ biến vi thanh Y, Xích chỉ biến vi Xích Y
Bạch chỉ biến vi Bạch Y, Hắc chỉ biến vi Hắc Y, Hồng chỉ biến vi Hồng Y, Hoàng chỉ biến vi Hoàng Y
Đắc các sắc biến tùy nghi. Án phạ nhật, Hoa không Minh.
Tài mã lai thành hình sa ha. (khấn 3 lần)
https://www.facebook.com/share/p/1B83ZH4EtZ/
https://amduongnguhanh.vn/article/le...an-linh?page=2
https://fr.scribd.com/document/75325...i-Ma-Khoa-Nghi
https://hatvan.vn/forum/threads/bai-...on-thoi.45321/
https://fr.scribd.com/document/89306...I%E1%BA%BEN-MA
https://triamquan.forumvi.com/t257-topic
https://taaonamtri.wordpress.com/201...huc-thuc-khoa/
TIỀN VÀNG MÃ (Đinh tiền đỏ , vàng lá và Tiền xu vàng loại đẹp chuẩn dát lá vàng, lá bạc) Đinh vàng mã / Đinh xu mã
5 Tập Tiền Địa Phủ Đỏ ( Loại Có Túi ) - Tiền 500 Địa Phủ Đỏ - Tiềm Âm Phủ - Tiền Vàng Mã - Loại 1.
https://shopee.vn/TI%E1%BB%80N-V%C3%...614.1319882531
https://lodotvangma.com/y-nghia-cac-...-tien-vang-ma/
https://muathongminh.vn/giay-tien-do...942__244635292
https://shopee.vn/5-T%E1%BA%ADp-Ti%E...93.29806296821
https://xuongvangma.com/tap-vang-ma-...ng-va-tien-do/
https://vn.biggo.com/s/ti%E1%BB%81n%...A0ng%20m%C3%A3
乾
a
侃
ā
冠
i
看
ī
刊
u
勘
ū
官
ṛ
寛
ṝ
干
ḷ
幹
ḹ
勧
e
巻
ai
喚
o
堪
au
姦
aṃ
完
aḥ
阿 阿引 伊 伊引 烏 鄔 遏
里
遏
梨
哩 翳 愛 汙 奧 暗 惡
正
紐
正
紐
正
紐
正
紐
正
紐
正
紐
正
紐
正
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
傍
紐
紀
ka
鬼
kā
犠
ki
吉
kī
客
ku
巨
kū
彊
ke
矯
kai
仰
ko
粁
kau
禁
kaṃ
金
kaḥ
迦 迦引 枳 枳引 俱 矩引 誡 句 蹻 欠 却
通
韻
下
十
一
字
亦
同
通
韻
乞
叉
kṣa
乞
叉引
kṣā
乞
使
kṣi
乞
使引
kṣī
乞
楚
kṣu
乞
楚引
kṣū
乞
□
kṣe
乞
濟
kṣai
乞
蒭
kṣo
乞
[ ]
kṣau
乞
[ ]
kṣaṃ
乞
[ ]
kṣaḥ
落
韻
下
十
一
字
亦
同
落
韻
成賀 ha 喉間
朽乞叉 kṣa 喉顎間
屹娑 sa 顎下
匡攞 la 顎舌間
好灑 ṣa 舌頭
先羅 ra 舌齗間
在捨 śa 齗根
伏野 ya 齗唇間
向嚩 va 唇中
開口各處聲
一迦 ka 几佉 kha 丫誐 ga 千伽 gha 小仰 ṅa 喉間
弋左 ca 云車 cha 介惹 ja 刈鄼 jha 及孃 ña 顎下
巴吒 ṭa 斗他 ṭha 毛拏 ḍa 丙茶 ḍha 仕曩 ṇa 舌頭
凹多 ta 卉他 tha 叨娜 da 叻馱 dha 巧那 na 斷[齗]根
扔跛 pa 民頗 pha 生麼 ba 矛婆 bha 亙莽 ma 唇中
https://repository.kulib.kyoto-u.ac....8dca3c/content
http://www.buddhism-dict.net/ddb/indexes/term-sa-v.html
Homage to the Medicine Buddha
NAMO BHAGAVATI. BHAISAIJYA GURU VAITUREYA PRABHA RAJAYA.
NAMO BHAGAVATI. BHAISAIJYA GURU VAITUREYA PRABHA RAJAYA.
NAMO BHAGAVATI. BHAISAIJYA GURU VAITUREYA PRABHA RAJAYA.
Medicine Buddha Mantra
NAMO BHAGAVATI. BHAISAIJYA GURU VAITUREYA PRABHA RAJAYA. TATHAGATAYA ARHATI SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHA. OM. BHAISAIJYI. BHAISAIJYI. BHAISAIJYA. SAMUDGATI. SVAHA.
Repeat 49 times or more if you wish.
https://www.bdcu.org.au/bddronline/b...1/abhi039.html
Kinh Điềm Lành Lớn Nhất
Dịch từ Phẩm Cát Tường - thứ 39 trong Kinh Pháp Cú Hán tạng
Bài kệ 1
Phật tôn quá chư thiên
佛尊過諸天
Như Lai thường hiện nghĩa
如來常現義
Hữu phạm chí đạo sĩ
有梵志道士
Lai vấn hà cát tường
來問何吉祥
Bụt được tôn quý hơn cả trong hai giới trời và người
Vì Người thường có khả năng đưa ra vị những giáo nghĩa mầu nhiệm của một bậc Như Lai
Một ngày kia, có một vị đạo sư Bà la môn tới hỏi:
Cái gì mới thật là điềm lành lớn nhất?
Bài kệ 2
Ư thị Phật mẫn thương
於是佛愍傷
Vị thuyết chân hữu yếu
為說真有要
Dĩ tín lạc chánh pháp
已信樂正法
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Ngay lúc đó với lòng xót thương. Bụt đã
thuyết giảng về những gì thiết yếu và chân thật.
Ngài dạy: Có niềm tin nơi chánh pháp và có hạnh phúc trong khi học hỏi giáo pháp, đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ 3
Nhược bất tùng thiên nhân
若不從天人
Hy vọng cầu kiểu hạnh
希望求僥倖
Diệc bất đáo thần từ
亦不禱神祠
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Không chạy theo các giới trời và người,
để cầu mong ban phúc và tránh họa,
cũng không đến cầu đảo ở các đền miếu,
đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ 4
Hữu hiền trạch thiện cư
友賢擇善居
Thường tiên vi phúc đức
常先為福德
Sắc thân thừa trinh chánh
勅身承貞正
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Chọn được môi trường tốt,
có nhiều bạn hiền, có dịp làm những việc phúc đức,
giữ lòng cho trinh bạch và chân chánh,
đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ 5
Khứ ác tùng tựu thiện
去惡從就善
Tị tửu tri tự tiết
避酒知自節
Bất dâm ư nữ sắc
不婬於女色
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Biết bỏ ác theo lành
Không uống rượu, biết tiêt chế
Không đắm trong sắc dục
Đó là điềm lành lớn
Bài kệ 6
Đa văn như giới hành
多聞如戒行
Pháp luật tinh tấn học
法律精進學
Tu kỷ vô sở tranh
修己無所爭
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Học rộng biết trì giới
Siêng năng tu tập theo giáo pháp và luật nghi
Biết tu dưỡng thân tâm, không vướng vào các cuộc tranh chấp
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ 7
Cư hiếu sự phụ mẫu
居孝事父母
Trị gia dưỡng thê tử
治家養妻子
Bất vi không phạp hành
不為空乏行
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Là người con hiếu thảo, có cơ hội phụng dưỡng mẹ cha
Biết chăm sóc gia đình, giữ cho trong nhà êm ấm
Không để cho lâm vào cảnh nghèo đói
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ 8
Bất mạn bất tự đại
不慢不自大
Tri túc niệm phản phúc
知足念反覆
Dĩ thời tụng tập kinh
以時誦習經
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Không kiêu mạn, không cho mình là hơn người
Biết tri túc, biết xét suy
Có thì giờ đọc tụng và thực tập kinh điển
Đó là phước đức lớn nhất
Bài kệ 9
Sở văn thường dục nhận
所聞常欲忍
Nhạo dục kiến sa môn
樂欲見沙門
Mỗi giảng tiếp thính thọ
每講輒聽受
Thị vi tối cát tường
是為最吉祥
Biết nhẫn nhục khi nghe điều bất như ý
Có hạnh phúc mỗi khi được gặp người xuất gia
Mỗi khi nghe pháp hết lòng tiếp nhận để hành trì
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ 10
Trì trai tu phạm hạnh
持 齋 修 梵 行
Thường dục kiến hiền minh
常 欲 見 賢 明
Y phụ minh trí giả
依 附 明 智 者
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh
Có hạnh phúc khi gặp các hiền đức
Biết nương vào các bậc có trí sáng
Đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ 11
Dĩ tín hữu đạo đức
已 信 有 道 德
Chánh ý hướng vô nghi
正 意 向 無 疑
Dục thoát tam ác đạo
欲 脫 三 惡 道
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Có niềm tin, có một đời sống tâm linh
Tâm ý ngay thẳng, không bị hoài nghi che lấp
Có quyết tâm lánh xa ba nẻo về xấu ác
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ 12
Đẳng tâm hành bố thí
等 心 行 布 施
Phụng chư đắc đạo giả
奉 諸 得 道 者
Diệc kính chư thiên nhân
亦 敬 諸 天 人
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng
Biết phụng sự những bậc đắc đạo
Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong
hai giới nhân và thiên
Đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ thứ 13
Thường dục ly tham dâm
常 欲 離 貪 婬
Ngộ si sân nhuế ý
遇 癡 瞋 恚 意
Năng tập thành đạo kiến
能 習 成 道 見
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Biết xa lìa tham dục
Sân hận và si mê
Thường tu tập để mong đạt được chánh kiến
Đó là điềm lành lớn nhất.
Bài kệ 14
Nhược dĩ khí phi vụ
若 以 棄 非 務
Năng cần tu đạo dụng
能 勤 修 道 用
Thường sự ư khả sự
常 事 於 可 事
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Biết buông bỏ những nghiệp vụ phi nghĩa
Có khả năng áp dụng đạo pháp vào đời sống hằng ngày
Biết theo đuổi một lý tưởng đáng được theo đuổi
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ thứ 15
Nhất thiết vi thiên hạ
一 切 為 天 下
Kiến lập đại từ ý
建 立 大 慈 意
Tu nhân an chúng sinh
修 人 安 眾 生
Thị vi tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Vì tất cả nhân loại
Vun bón tâm đại từ
Nuôi dưỡng tình thương để đem lại an
bình cho thế gian
Đó là điềm lành lớn nhất
Bài kệ 16
Trí giả cư thế gian
智 者 居 世 間
Thường tập cát tường hạnh
常 習 吉 祥 行
Tự trí thành tuệ kiến
自 致 成 慧 見
Thị vị tối cát tường
是 為 最 吉 祥
Là bậc trí giả ở trong cuộc đời
Thường tập hạnh tạo tác những điềm lành
Cho đến khi chính mình thành tựu được tuệ giác lớn
Đó là điềm lành lớn nhất.
https://nigioikhatsi.net/kinhsach-pd...chNhatHanh.pdf
Kinh Mười Danh Hiệu Cát Tường của Chư Phật
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá, cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu [bíc su] và 5.000 vị Bồ-tát.
Lúc bấy giờ có vô số trăm nghìn quyến thuộc vây quanh Thế Tôn và Ngài thuyết Pháp cho họ.
Khi ấy trong đại hội có một vị Đại Sĩ tên là Ly Cấu Cái.
Ngài nương uy thần của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay ở trước Phật và thưa rằng:
"Kính mong Thế Tôn hãy diễn nói về các danh hiệu của chư Phật Như Lai, Ưng Cúng, Chính Đẳng Giác.
Bởi nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào đang cầu Phật Đạo mà nghe được các danh hiệu của chư Phật và thọ trì đọc tụng, họ sẽ nhanh được không thoái chuyển nơi Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác."
Phật bảo Đại sĩ Ly Cấu Cái:
"Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Điều ông hỏi sẽ có lợi ích rất lớn cho chúng sinh.
Thiện nam tử! Từ đây về hướng đông, vượt qua một Hằng Hà sa cõi Phật, có một thế giới tên là Phương Trang Nghiêm. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Đại Quang Diệu Như Lai, Ưng Cúng, Chính Đẳng Giác và Ngài hiện đang thuyết Pháp ở đó.
Lại nữa, thiện nam tử! Từ đây về hướng đông, vượt qua hai Hằng Hà sa cõi Phật, có một thế giới tên là Đế Thắng Chư Thắng. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Đăng Minh Như Lai.
Lại có thế giới tên là Kim Cang. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Đại Hùng Như Lai.
Lại có thế giới tên là Tịnh Tôn Trụ. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Vô Cấu Trần Như Lai.
Lại có thế giới tên là Kim Quang Minh. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Thượng Tượng Tràng Thập Cái Vương Như Lai.
Lại có thế giới tên là Đại Uy Thần. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Uy Thần Tự Tại Vương Như Lai.
Lại có thế giới tên là Hương Huân. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Cực Thọ Thượng Ảnh Vương Như Lai.
Lại có thế giới tên là Bảo Nghiêm. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Nội Bảo Như Lai.
Lại có thế giới tên là Hải Đăng Minh. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Đại Hải Như Lai.
Lại có thế giới tên là Thập Lực Đăng Minh. Trong quốc độ ấy có Đức Phật, hiệu là Thập Lực Hiện Như Lai.
Này Ly Cấu Cái! Nên biết rằng, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào vì cầu Phật Đạo mà lấy bảy báu nhiều như cát sông Hằng để làm bố thí cho Như Lai, Ưng Cúng, Chính Đẳng Giác. Giả sử có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào nghe được các danh hiệu của chư Phật này, rồi thọ trì đọc tụng, tâm luôn tưởng nhớ, và rộng thuyết giảng cho đại chúng, thì công đức ấy sẽ vượt hơn công đức ở trước."
Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
"Thế giới của chư Phật
Nhiều như cát sông Hằng
Trong ấy đầy bảy báu
Lấy dùng để bố thí
Nhưng nếu ai nghe được
Danh hiệu chư Phật này
Tín mến nhớ chẳng quên
Công đức hơn ở trước
Nếu nghe chư Phật danh
Trì tụng chớ lãng quên
Tâm họ chẳng còn nghi
Quyết định sẽ thành Phật
Sáu Thông vô cùng tận
Cho đến vô số kiếp
Thân họ có màu vàng
Tướng hảo dùng trang nghiêm
Nếu trì Phật danh hiệu
Siêu việt mười ức kiếp
Chính giác nhanh thành tựu"
Khi Phật thuyết Kinh này xong, Đại sĩ Ly Cấu Cái, chư Bồ-tát, trời rồng quỷ thần và người thế gian thảy đều vui mừng. Họ đỉnh thọ lời Phật dạy.
Kinh Mười Danh Hiệu Cát Tường của Chư Phật
Dịch sang cổ văn: Tên người dịch đã thất lạc
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Dịch nghĩa: 24/10/2013 ◊ Cập nhật: 27/9/2014
☸ Cách Đọc Chữ Phạn
Bhikṣu: bíc su
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...t&m=viet&v=bac
Phât thuyết Kinh một trăm Danh Hiệu Phật
Hán dịch: Ngài Na Liên Đề Da Xá, Đời Đường
Việt dịch: Nguyên Thuận
Tôi nghe như vậy!
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc trong thành Xá vệ, cùng với Chư Đại Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Chư Đại Bồ Tát, Chư Đại Thiên, Đế Thích Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Tứ Đại Thiên Vương, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và phi nhân.
Khi ấy có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh ở trước và sau của Đức Phật, họ cung kính cúng dường và tôn trọng tán thán. Lúc bấy giờ Thế Tôn vì các đại chúng mà tuyên thuyết Diệu Pháp.
Khi đó Tôn Giả Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, gối phải quỳ sát đất, chắp mười đầu ngón tay và bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong Ngài hãy diễn nói các Danh Hiệu của Chư Phật hiện tại trong mười phương Thế Giới. Vì sao thế?
Bởi nếu có Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhân nào nghe được các Danh Hiệu của Chư Phật hiện tại này, thời sẽ khiến họ sanh đại công đức, khiến họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đắc quả vị bất thối chuyển, và cũng như sẽ khiến họ mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”
*
Khi ấy Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Lành thay, lành thay! Ông nay vì muốn làm lợi ích an lạc cho các đại chúng. Vì muốn thương xót bảo hộ các chúng sanh. Vì muốn khiến sở cầu của các chúng sanh được mãn nguyện. Vì muốn khiến tất cả sanh tâm hoan hỷ. Và cũng vì muốn tăng trưởng thiện căn cho Chư Bồ Tát ở đời vị lai.
Lành thay, lành thay! Ông nay sanh thiện giác quán nên mới có thể hỏi như vậy. Ai có thể hỏi như thế, thì phải biết, đó đều là do sức uy thần của Như Lai.
Này Xá Lợi Phất! Ông nay hãy lắng nghe!
Nếu có Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhân nào nghe được các Danh Hiệu của Chư Phật hiện tại này, thời sẽ khiến hết thảy chúng ma đều chẳng thể thừa cơ đắc lợi ở tại nơi họ ở. Tất cả những kẻ ác cũng chẳng thể thừa cơ đắc lợi.
Người thọ trì sẽ được vô lượng vô biên công đức thâm sâu, tùy nơi sanh đến, đầy đủ Bồ Tát hạnh, đắc Túc Mạng Thông, dung nhan đoan chánh, và các tướng vẹn toàn. Họ sẽ luôn được thân cận để cúng dường Chư Phật, và cho đến mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vì sao thế, Xá Lợi Phất?
Bởi nếu có ai nghe được các Danh Hiệu của Chư Phật này, rồi thọ trì đọc tụng, cung kính lễ bái, biên chép cúng dường, và triển chuyển dạy bảo cho người khác, thời công đức có được sẽ là vô lượng vô biên.
Kinh Danh Hiệu Phật: Lợi ích trì tụng danh hiệu Phật
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu trì Danh Hiệu Chư Phật này
Người ấy chẳng bị đao tổn thương
Độc không thể hại lửa chẳng thiêu
Cũng chẳng đọa vào trong tám nạn
Thấy được đại trí kim sắc quang
Ba hai tướng hảo Chư Pháp Vương
Khi đã diện kiến Chư Phật rồi
Cúng dường vô lượng Chư Phật kia
Mắt họ chẳng mù không đỏ vàng
Thân chẳng gù cong không một mắt
Đắc thân đại lực Na La Diên
Thọ trì Phật danh báo như vậy
Luôn được Trời Rồng cùng Dạ Xoa
Với Càn Thát Bà đến cúng dường
Oan giả kẻ ác chẳng thể hại
Thọ trì Phật danh báo như vậy
Ông nay lắng nghe Xá Lợi Phất
Như lời vi diệu của Ta nói
Nếu ai nghe được Phật danh này
Tức là gần kề Đạo Bồ Đề
Bởi thế ông nay chí tâm nghe
*
Mười phương Thế Giới đại Pháp Vương
Khéo bạt chúng sanh gai phiền não
Ví như cây thuốc trừ ách bệnh
Ngu si mù lòa hạng phàm phu
Thí mắt trí tuệ của Bồ Tát
Lại như Hành Thí Thắng Bồ Tát
Vô lượng ngàn ức hằng sa giới
Trong đó đầy ắp vàng Diêm Phù
Ngày đêm sáu thời chưa thôi nghỉ
Thí ban đại bi đại Đạo Sư
Lại dùng Chiên Đàn đầy trăm cõi
Phan lọng y phục như hằng sa
Vô lượng ngàn vạn trong ức kiếp
Nhất tâm mà lấy dùng bố thí
Lại như ở trong một Cõi Phật
Dựng xây đầy khắp các Tháp Phật
Ở trong mười kiếp mà cúng dường
Chư Phật nhiều như cát Sông Hằng
Lại tạo Tháp cao như Tu Di
Tháp đó làm bằng toàn Thất Bảo
Biến mãn như vậy mười ngàn cõi
*
Số ấy có đến ba sáu ức
Lấy chiên đàn đỏ cùng trân châu
Tạo làm lọng che vật cúng dường
Với mỗi lọng che có thể trùm
Hàng trăm Thế Giới Chư Phật Quốc
Trân châu anh lạc dùng trang nghiêm
Số đó nhiều như cát Sông Hằng
Trên không lại tạo lọng che vàng
Số đó cũng như hằng hà sa
Sắc màu vàng tím như pho tượng
Mỗi mỗi biến chiếu Tam Thiên Giới
Ở trong mỗi Tháp bày cúng dường
Vô lượng vô biên vô số kiếp
Làm các công đức như ở trên
Chẳng bằng khéo Phát Bồ Đề Tâm
Phát Bồ Đề Tâm như thế đấy
Giữ giới thanh tịnh không buông lung
Chẳng bằng ai trì Phật danh này
Trì Phật danh này như vậy đó
Lại khéo thương xót các chúng sanh
Ở tại mọi nơi rộng lưu bố
Dạy người thọ trì Phật Danh Hiệu
Ở trong tất cả các chúng sanh
Họ làm phước điền giống Như Lai.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Lúc bấy giờ Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất:
Nếu có ai nhất tâm thọ trì, đọc tụng, và nhớ niệm chẳng quên các Danh Hiệu của Chư Phật này, thời tham dục, sân khuể, ngu si, và các điều sợ hãi của họ sẽ lập tức được diệt trừ. Còn những ai chưa sanh khởi tham dục, sân khuể, ngu si, và các điều sợ hãi thì sẽ khiến chúng chẳng phát sanh.
Khi ấy Thế Tôn liền nói Chư Phật Danh Hiệu:
Nam Mô Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Bất Động Phật.
Nam Mô Đại Trang Nghiêm Phật.
Nam Mô Đa Già La Hương Phật.
Nam Mô Thường Chiếu Diệu Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Đức Phật.
Nam Mô Tối Thượng Phật.
Nam Mô Liên Hoa Tràng Phật.
Nam Mô Liên Hoa Sanh Phật.
Nam Mô Bảo Tụ Phật.
Nam Mô A Già Lâu Hương Phật.
Nam Mô Đại Tinh Tấn Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Đức Phật.
Nam Mô Hải Phật.
Nam Mô Cự Hải Phật.
Nam Mô Tràng Đức Phật.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Nam Mô Phạm Đức Phật.
Nam Mô Đại Hương Phật.
Nam Mô Đại Sanh Phật.
Nam Mô Bảo Võng Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại Thí Đức Phật.
Nam Mô Đại Kim Trụ Phật.
Nam Mô Đại Niệm Phật.
Nam Mô Ngôn Vô Tận Phật.
Nam Mô Thường Tán Hoa Phật.
Nam Mô Đại Ái Phật.
Nam Mô Sư Tử Hương Thắng Phật.
Nam Mô Dưỡng Đức Phật.
Nam Mô Đế Thích Hỏa Diễm Phật.
Nam Mô Thường Nhạo Đức Phật.
Nam Mô Sư Tử Hoa Đức Phật.
Nam Mô Tịch Diệt Tràng Phật.
Nam Mô Giới Vương Phật.
Nam Mô Phổ Đức Phật.
Nam Mô Phổ Đức Tượng Phật.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Nam Mô Vô Ưu Đức Phật.
Nam Mô Thanh Liên Hương Phật.
Nam Mô Đại Địa Phật.
Nam Mô Đại Long Đức Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Vương Phật.
Nam Mô Quảng Niệm Phật.
Nam Mô Liên Hoa Đức Phật.
Nam Mô Xả Hoa Phật.
Nam Mô Long Đức Phật.
Nam Mô Hoa Tụ Phật.
Nam Mô Hương Tượng Phật.
Nam Mô Thường Quán Phật.
Nam Mô Chánh Tác Phật.
Nam Mô Thiện Trụ Phật.
Nam Mô Ni Cù Lô Đà Vương Phật.
Nam Mô Vô Thượng Vương Phật.
Nam Mô Nguyệt Đức Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Lâm Phật.
Nam Mô Nhật Tạng Phật.
Nam Mô Đức Tạng Phật.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Nam Mô Tu Di Lực Phật.
Nam Mô Ma Ni Tạng Phật.
Nam Mô Kim Cang Vương Phật.
Nam Mô Uy Đức Phật.
Nam Mô Vô Hoại Phật.
Nam Mô Thiện Kiến Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Đức Phật.
Nam Mô Đại Hải Phật.
Nam Mô Phú Sa La Thụ Phật.
Nam Mô Bạt Tha Đức Phật.
Nam Mô Phật Thiên Phật.
Nam Mô Sư Tử Tràng Phật.
Nam Mô Tỳ Đầu Đức Phật.
Nam Mô Vô Biên Đức Phật.
Nam Mô Đức Trí Phật.
Nam Mô Hậu Đức Phật.
Nam Mô Hoa Tràng Phật.
Nam Mô Tượng Đức Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Đức Phật.
Nam Mô Long Đức Phật.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Nam Mô Đức Sanh Phật.
Nam Mô Bảo Tụ Phật.
Nam Mô Đức Bà Tha Tử Phật.
Nam Mô Luận Nghĩa Phật.
Nam Mô Phổ Kiến Phật.
Nam Mô Bảo Đa La Phật.
Nam Mô Phổ Xả Phật.
Nam Mô Đại Cúng Dường Đức Phật.
Nam Mô Đại Võng Phật.
Nam Mô Đoạn Nhất Thiết Chúng Sanh Nghi Vương Phật.
Nam Mô Bảo Đức Phật.
Nam Mô Phổ Cái Phật.
Nam Mô Đại Cái Phật.
Nam Mô Thắng Đức Phật.
Nam Mô Thiên Cúng Dường Phật.
Nam Mô Bảo Liên Hoa Phấn Tấn Phật.
Nam Mô Hậu Đức Phật.
Nam Mô Trí Tràng Phật.
Nam Mô Bảo Nguyệt Đức Phật.
Nam Mô Ni Cù Lô Đà Bà Tha Vương Phật.
Nam Mô Thường Đức Phật.
Nam Mô Phổ Liên Hoa Phật.
Nam Mô Bình Đẳng Đức Phật.
Nam Mô Long Hộ Cứu Tế Phật.
Kinh Danh Hiệu Phật: 100 Danh hiệu Phật
Danh Hiệu Chư Phật này
Khéo cứu hộ thế gian
Đầu đêm tụng một biến
Nhớ niệm Phật rồi ngủ
Giữa đêm tụng một biến
Cuối đêm cũng như vậy
Ở ba thời như thế
Đầu đêm giữa và cuối
Mỗi thời tụng một biến
Tinh tấn chớ phóng dật
Do tụng Phật danh này
Luôn thấy được mộng lành
Ác quỷ với ác nhân
Chẳng thể trục được lợi
Cho nên Phật danh này
Hay cứu hộ thế gian
Tất cả thiên nhạc thần
Dạ Xoa cưu bàn đồ
La Sát chúng Quỷ Thần
Chẳng thể gây chướng ngại
Một trăm Phật danh này
Luôn hộ niệm người trì
Hết thảy các ma sự
Chẳng thể trục được lợi
*
Lúc bấy giờ Thiên Chủ Đế Thích Vua của ba mươi ba Cõi Trời chỉnh y phục, hai gối quỳ, chắp tay, và bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ luôn hộ vệ cho người thọ trì Danh Hiệu của Chư Phật. Ngoài ra còn có Tứ Đại Thiên Vương cũng luôn bảo hộ người đó. Người thọ trì Danh Hiệu của Chư Phật duy trừ quyết định nghiệp thì chẳng thể cứu hộ còn hết thảy trong hàng Trời người thì không ai có thể gây tạo việc ác cho họ được.”
Lúc bấy giờ bậc Nhất Thiết Trí xuất ra đại âm thanh vi diệu, tám loại tiếng hòa nhã, chân thiện, và thánh thót, khiến ai nấy đều thích nghe.
Sau đó, Ngài bảo khắp các đại chúng rằng: “Hãy mau thọ trì các Danh Hiệu của Chư Phật này, rồi ở khắp nơi trong mười phương Thế Giới mà rộng lưu bố để làm đại pháp thí và đoạn trừ nghi hoặc cho chúng sanh.”
Khi Đại Thánh Thích Ca Văn diễn nói pháp này xong, có ba trăm vị Tỳ Kheo đắc lậu tận ý giải.
Lại có bốn mươi vị Tỳ Kheo Ni được tận trừ tất cả lậu pháp và đắc Đạo A La Hán.
Lại có năm ngàn Ưu Bà Tắc trụ thắng hoan hỷ tâm và chứng quả Tu Đà Hoàn.
Lại có một ngàn một trăm Ưu Bà Di đều viễn ly trần cấu và đắc Pháp Nhãn Tịnh.
Lại có các Đại Thiên Vương cùng vô lượng ngàn vạn Thiên Chúng đắc pháp nhãn thanh tịnh ở trong pháp của bậc Pháp Vương.
*
Ví như có bao nhiêu số cát của một Sông Hằng, hãy đem chia làm ba phần. Số lượng của Chư Bồ Tát chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn thì bằng một phần của số đó.
Lúc bấy giờ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều chấn động sáu cách. Các núi non, cao phong, và Đại Địa thảy đều rung chuyển. Còn ở trong Hư Không mưa xuống các bông hoa vi diệu Cõi trời. Tiếng vui vẻ của Trời, Rồng, và hàng phi nhân đều vang dội khắp nơi.
Khi ấy Thiên Chủ Đế Thích, Mục Kiền Liên, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, cho đến Na Đề Ca Diếp, Mãn Nguyện Tử, Thiện Cát Bất Kiến Không, A Nan, Bạt Đề, và Đạp Bà Ma La Tử, các hàng đại chúng như vậy, cả thảy là hai mươi năm ngàn vị đều đồng thanh bạch Phật rằng:
“Bạch Thích Ca Sư Tử Pháp Vương!
Con sẽ tận hết sức tinh tấn của mình không một chút dư sót và dùng mọi sức thần thông ở vô lượng Thế Giới để hóa làm vô lượng thân, rồi vượt qua vô lượng Phật sát mà luôn nói các Danh Hiệu của Chư Phật này và cũng như tuyên giảng những điều Phật dạy.”
Lúc bấy giờ Đức Phật Thế Tôn vì muốn khiến đại chúng trông thấy nên thị hiện đại thần thông. Với sức thần thông của Phật, Ngài hiện vô lượng ức Quốc Độ.
*
Khi ấy đại chúng đều thấy Thích Ca Sư Tử Pháp Vương biến khắp các cõi nước kia mà thuyết giảng Kinh này và cũng như lời dạy của Chư Phật thuở quá khứ tất cả đều chẳng sai biệt.
Phật bảo các đại chúng:
“Từ lâu xa ở trong vô lượng kiếp, Ta đã khéo tu thần thông. Ở nơi vô thượng Phật Pháp, đại chúng hãy quyết định chớ sanh nghi hoặc. Vì muốn chúng sanh được an ổn, cho nên Ta mới mau nói các Danh Hiệu của Chư Phật này. Như thế sẽ khiến các chúng sanh vĩnh viễn xa rời khổ ách của sanh tử.”
Lúc bấy giờ Phật bảo Tuệ mạng Xá Lợi Phất:
“Nếu có Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhân nào khi đã nghe các Danh Hiệu của Chư Phật này, rồi với lòng tin sâu thanh tịnh, họ phát Bồ Đề tâm và yêu mến thọ trì. Ngày đêm tinh tấn, họ đọc tụng biên chép và rộng diễn nói cho người khác, thời sẽ được vô lượng vô biên quảng đại công đức, đắc quả vị bất thối chuyển, cho đến mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và hết thảy chúng ma đều chẳng thể nhiễu loạn.”
Khi Phật Thuyết Kinh này xong, Tuệ mạng Xá Lợi Phất, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Đại Thiên Vương, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, và A Tu La, tất cả đại chúng khi nghe pháp này rồi, họ đều sanh tâm đại hoan hỷ.
(Kinh Danh Hiệu Phật – Hết)
https://kinhnghiemhocphat.com/2021/0...hieu-phat.html