唵摩休羅細娑婆訶は、[真言]であります。 オン(帰命) マクラ(吉祥) サイ(至極) ソワカ(円満・成就)】. 禅のことば.
https://kougetsuin.com/blog/category...%81%B0/page/14
https://kougetsuin.com/blog/%E7%A6%8...%E3%81%B0/6625
https://kougetsuin.com/blog/%E7%A6%8...%E3%81%B0/6625
Printable View
唵摩休羅細娑婆訶は、[真言]であります。 オン(帰命) マクラ(吉祥) サイ(至極) ソワカ(円満・成就)】. 禅のことば.
https://kougetsuin.com/blog/category...%81%B0/page/14
https://kougetsuin.com/blog/%E7%A6%8...%E3%81%B0/6625
https://kougetsuin.com/blog/%E7%A6%8...%E3%81%B0/6625
8- Ma-Hầu La-Già (Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu Rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần) đến dự.
https://quangduc.com/a57157/bai-02-k...ang-giai-nghia
8. Ma Hầu La Già (Mahoraga)
Theo tiếng Phạn, Mahoraga được dịch là Đại Mãng Xà, Đại Phúc Hành Thần, Địa Long, tức là Thần Rắn. Đây cũng là vị Thần Âm Nhạc có mình người đầu rắn, Ma Hầu La Già có thân thể như loài người, đầu rắn nên gọi là hàng Phu Nhân. Kinh Phật khi nói về hàng này có nói là “Ma Hầu La Già là thần rắn, mình người đầu rắn”. Kinh Lăng Nghiêm lại nói thêm rằng: “Ma Hầu La Già, còn gọi là Đại Long hay Thần rắn; thuộc loài bò sát; vì ngu si độc ác nên tự chiêu mời rắc rối, đần độn vô tri, muốn thoát luân hồi nên đã tu luyện từ bi trí huệ, vãn hồi hậu quả gây ra, thoát được luân hồi”.
Có nghĩa rằng, Ma Hầu La Già là Địa Long dưới đất đối ứng với hàng Thiên Long trên trời trong Thiên Long Bát Bộ Chúng. Vì là loài bò sát “đần độn vô tri” nhờ chịu tu tập theo chánh đạo mới “thoát khỏi luân hồi, tu luyện từ bi trí huệ”, cuối cùng cứu được tiền căn, thoát khỏi kiếp làm xác thân bò sát, thay da đổi thịt.
Thiên Long Bát Bộ này thật ra đều có mối quan hệ với quyến thuộc của Đức Phật, do họ thọ nhận Uy Đức Sở Hóa của Đức Phật mà hộ trì Phật Giáo. Do đó, trong Kinh Điển Phật Giáo Đại Thừa thường nhắc đến nhóm ấy, mỗi lần Phật Đà giảng Pháp thì các chúng này cũng thường ưa thích đến nghe.
Ví như trong Kinh Pháp Hoa, quyển 2, phẩm Thí Dụ có đoạn nói: “Đại Chúng của các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già thấy Xá Lợi Phất ở trước mặt Đức Phật thọ nhận A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký thì Tâm rất vui vẻ, hớn hở vô lượng”.
https://giacngotamlinh.com/thien-long-bat-bo-chung/
RẮN THẦN NAGA TRONG VĂN HÓA PHẬT GIÁO PDF
https://repository.vnu.edu.vn/bitstr...1/TNS07763.pdf
Ma Hổ La (s: Mahoraga, 摩虎羅), còn gọi là Bạc Hô La (薄呼羅), Ma Hưu La (摩休羅); ý dịch là Chấp Ngôn (執言); thân màu trắng, tay cầm búa báu, chi Mão; lấy Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師) làm bản địa.
Mahoraga is an emanation of Medicine Buddha, guardians of people born in the year of the Cat.Mahoraga is depicted white in color; armed with axe.
https://www.behance.net/gallery/1233...lendar-Design)
cam trà có nghĩa là:
(甘茶) Chỉ loại trà mầu vàng, vị ngọt. Là trà dùng lá khô của cây cam trà pha với nước sôi mà thành. Khi tắm Phật, dùng cam trà, nước thơm pha với nước nóng làm thành nước cam lộ để tắm. Tương truyền, khi đức Thích ca đản sinh, Long vương trên trời đem nước cam lộ rưới lên đỉnh đầu Phật, từ đó về sau, việc này vẫn được noi theo và trở thành phong tục. Cam trà, tên khoa học: Hydrangea Opuloi-bes. Là loại quán mộc (cây rậm) thuộc họ cỏ tai hổ, một loại hoa bát tiên. Còn gọi Diệp cam thảo. Cũng gọi Thổ thường sơn, để phân biệt với cây cam trà mạn. Có hai thứ hoa, vành ngoài hoa, có đài hoa lớn. Mầu sắc lúc đầu xanh, sau biến thành đỏ lợt. Vào đầu tháng sáu thì nở hoa. Hái lá vào giữa mùa hè, sao héo cho hết chất nước xanh, đợi khi nào khô thì pha trà được. (xt. Cam Lộ).
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...ra-k30692.html
Amacha
(Trà Ngọt)
(甘茶)
Amacha (Trà Ngọt)
339,000 ₫
https://iili.io/KF7AYgV.md.jpg
https://i.ibb.co/9kh0Z6CN/HD.jpg
Amacha (甘茶) thuộc dòng trà thảo mộc (herbal), còn gọi là trà ngọt, được dùng trong ngày lễ Kan-butse-e hay lễ Tắm Phật, tổ chức hàng năm vào ngày 8 tháng Tư dương lịch (là ngày Phật đản tại Nhật Bản). Trà amacha được tưới trên tượng Phật sau đó hứng và chia cho mọi người cùng uống (dựa theo truyền thuyết thì loài hoa này có liên quan tới thời khắc linh thiêng mà hoàng hậu Maya hạ sinh Đức Phật, khi Đức Phật đản sinh, có chín con rồng tưới Amrita trên Ngài; amacha được dùng để thay Amrita).
Amacha không chứa đường nhưng có vị ngọt gấp 400-600 lần đường tinh luyện, hơn 2 lần đường hoá học Saccharin, tuy nhiên lại không hề để lại hậu chua khó chịụ. Loại trà này cũng được gọi là trà dâng Phật.
Amacha làm từ giống cẩm tú cầu (Ajisai) mang tên Hydrangea Serrata, chủng này phổ biến ở vùng núi ở Nam Hàn và Nhật Bản. Phân biệt cái này với chủng cẩm tú cầu trồng cảnh Hydrangea macrophylla. Hydrangea Paniculata cũng thuộc chủng tú cầu nhưng là chất gây nghiện. Loại này cũng hay bị nhầm lẫn với Gynostemma pentaphyllum (Giảo Cổ Lam – Trung Quốc) thuộc chủng Cucurbitaceae.
Amacha được dùng như một thành phần dược phẩm để điều trị một số bệnh chẳng hạn như chống dị ứng phấn hoa, bệnh nha chu, bệnh tiểu đường và người kiêng ăn đường… có thể coi như chế độ ăn kiêng lành mạnh. Vị ngọt dịu, không hề hăng hay gây khó chịu.
Công dụng:
Amacha có có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, uống trà amacha không gây mất ngủ, ngược lại còn gíup lợi tiểu, trị sỏi thận và dùng tốt cho người tiểu đường. Dùng thay thế cho đường trong ăn kiêng.
Liều dùng:
Mỗi ngày uống dưới 2gr. Có thể kết hợp chung với trà khác như Sencha, Houjicha…để cho vị ngọt thanh tao hơn. Có thể dùng thay đường để nấu chè.
Cách dùng:
Cho 1,5 đến 2 gram Amacha với khoảng 800ml đến 1 lít nước sôi, ngâm trà và dể uống nguyên cả ngày. Và chỉ cần 4 lá amacha có thể đủ dùng cho 300-700ml nước. Ngâm càng lâu lá trà ra càng ngọt. Ngon hơn nếu uống lạnh.
https://fujiocha.com/ja/san-pham/amacha-tra-ngot-3/
https://thegioivohinh.com/diendan/sh...%80N&p=1514292
The meals of monks in training: morning meal, noon meal, evening meal
1) morning gruel (chōshuku 朝粥) [= 小食 shōjiki; 粥坐 shukuza; 赴粥 fushuku]
Rice gruel (shuku 粥), a porridge made by boiling rice until the kernels have mostly disintegrated, was the standard breakfast fare in Chinese Buddhist monasteries of the Song and Yuan dynasties and the medieval Japanese Zen monasteries that were modeled after them. It continues to be served for breakfast at Japanese Zen monasteries today.
2) midday main meal (齋 sai) [= 中食 chūjiki]
3) evening meal (yakuseki kittō 藥石喫湯, yakuseki 藥石)
Literally "medicine" (yakuseki 藥石) and "drinking decoctions" (kittō 喫湯). According to the Indian Vinaya, Buddhist monks were not permitted to take solid food after midday, but drinking liquids was allowed. For monks who were ill, however, solid food was permitted at any time of day for medicinal purposes. In the Chinese Buddhist monasteries of the Song and Yuan dynasties that served as the model for Japanese Zen monasteries, an evening meal was routinely served to all the monks in residence, but it was euphemistically called "medicine."
https://terebess.hu/zen/szoto/oryoki.html
法pháp 苑uyển 珠châu 林lâm 卷quyển 。 第đệ 二nhị 十thập 五ngũ
西tây 明minh 寺tự 沙Sa 門Môn 釋thích 道đạo 世thế 撰soạn
見kiến 解giải 篇thiên 第đệ 十thập 七thất (# 此thử 有hữu 二nhị 部bộ )#
述thuật 意ý 部bộ 第đệ 一nhất
https://kinhsach.chuakhainguyen.com/...?f=T53n2122/25
CHÚ HỘ TRÌ - ĐẠI BI
(SANSKRIT - DỊCH ÂM - DỊCH NGHĨA)
https://thegioivohinh.com/diendan/sh...0%E1%BA%A0I-BI
CHÚ THẦN TÀI
OM MUN NI UM, MÚC ĐÔ MĂN ĐÔ, TỲ HÊ SỒ HÁP
Nam mô măn đô, múc đô NAUM, tố rô tố rô, tỳ huê sồ háp!
NAM MÔ MĂN ĐÔ, MÚC ĐÔ NAUM, TỐ RÔ TỐ RÔ, TỲ HUÊ SỒ HÁP “
=]> NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: OṂ DHURU DHURU DEVĪ SVĀHĀ.
https://fr.scribd.com/document/85150...E3NTM3MjczNTU.
https://www.bachhoaxanh.com/kinh-ngh...ai-loc-1233757
https://ninhbinhstone.com.vn/van-kha...-linh-tho-dia/
https://phongthuyphunggia.com/kien-t...-tai-hang-ngay
https://hoatieu.vn/tai-lieu/van-khan...-30-tet-213071
https://phongthuytamnguyen.com/kien-...ac-day-du-nhat
https://dabaochau.com/van-khan-than-linh-tho-dia/
https://damynghehuynam.com/van-khan-...w_bsd5UvijSoNU
https://download.vn/van-khan-than-tai-36671
https://tamanluxury.com/van-khan-than-tai-hang-ngay/
https://chuyengiaphongtho.com/van-kh...i-ngay-30-tet/
VĂN THÙ BỒ TÁT HÀNG MA KỆ
Thạch hỏa điện quang năng kỷ hà
Khả lân ân ái thụ bôn ba
Bì can thượng luyến tư tài quảng
Hoàng sứu do tham tửu sắc đa
Tịch tử chiêu sinh na khẳng tức
Tâm hồn truy khứ kiếm Diêm La
Ty hào tội phúc tòng đẩu số
Văn bạ phân minh định bất ta
Sai tống thiết sàng đồng trụ ngục
Văn bạ phân minh định bất ta
Sai tống thiết sàng đồng trụ ngục
Ngôn thanh ai cáo khổ ngâm nga
Ngã kim hối hận tu hành vãn
Miễn tử hoàn vi tượng, mã, loa
Lụy thế nghiệp duyên nhân tự muội
Vị năng thành Phật khởi do tha
Nhân nhân hữu cá chân như tính
Sinh tử thùy nhân khẳng luyện ma.
https://fr.scribd.com/document/74479...E3NTM3MjczNTU.
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...huc%20khoa.doc
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...A5ng%20CKN.pdf
ĐĂNG-TÂM (HIỆU THUỐC BẮC)
=]> ĐĂNG-TÂM THẢO (燈心草 / CỎ BẤC ĐÈN)
https://fr.scribd.com/document/86870...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/60804...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/82560...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/58143...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/82560...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/69511...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/61988...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/73904...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/80819...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/79384...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/73915...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/39355...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/65860...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/50620...E3NTM3MjczNTU.
https://fr.scribd.com/document/68482...E3NTM3MjczNTU.
SƠ KHẢO VỀ MẪU TỰ PHẠN NGỮ VÀ TỪ BIỆN TÀI
TRONG KINH ĐIỂN HÁN TẠNG
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào [1]
Chúc Phú
ban-phan-ngu
Bản văn Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Phạn (Ảnh minh họa)
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản giữa người với người. Nhờ ngôn ngữ mà các giá trị liên quan đến đời sống của con người được kế thừa, giữ gìn và phát triển. Một trong những ngôn ngữ có mặt rất sớm trong lịch sử loài người đó chính là Phạn ngữ.
Trong lịch sử, đã từng có suy nghĩ cho rằng Phạn ngữ là một ngôn ngữ chết, tử ngữ. Thế nhưng, trong vài năm gần đây, Phạn ngữ đang được phục hoạt tại một số khu vực thuộc nam Ấn Độ[2], và trong cả một số trường đại học trên thế giới, cũng như được nhiều nhà chuyên khảo nghiên cứu, quan tâm.
Từ thực tế có những dòng phái Phật giáo xem mẫu tự Phạn ngữ như những biểu tượng cát tường, thiêng liêng; từ hiện trạng một số cơ sở tự viện sử dụng mẫu tự Phạn ngữ như một hình thức phù chú trang trí, mà thực tế không hiểu rõ thực nghĩa của chúng là gì; từ suy nghĩ, vì lý do gì mà những cơ sở Phạn ngữ xuất hiện khá nhiều trong thư tịch Hán tạng… đã làm động lực để chúng tôi nghiên cứu về đề tài: Sơ khảo về mẫu tự Phạn ngữ và từ biện tài trong kinh điển Hán tạng.
1. Mẫu tự Phạn ngữ trong thư tịch Hán tạng.
Trong thư tịch Hán tạng, cơ sở của Phạn ngữ xuất hiện khá nhiều trong các bộ kinh như Đại bát nhã[3], Đại bảo tích[4], Hoa nghiêm[5], Phương quảng đại trang nghiêm[6], Văn thù sư-lợi vấn[7], luận Đại trí độ[8], Tất-đàm tự ký[9]…
Theo các bản kinh, luận và thư tịch vừa nêu, số lượng mẫu tự Phạn ngữ không thống nhất, có bản nêu 42[10], 47[11], 49[12], 50[13] hoặc 52 mẫu tự[14]; khác với 48 mẫu tự (akṣara)[15] Sanskrit thời nay[16]. Trong sự đang dạng đó, kinh Hoa Nghiêm và luận Đại-trí-độ thống nhất cho rằng có 42 mẫu tự căn bản. Theo luận Đại-trí-độ, bốn mươi hai chữ này là căn bản của tất cả các chữ (四十二字是一切字根本)[17]. Khởi đầu của 42 mẫu tự là A (अ= 阿) và mẫu tự cuối cùng là Ha (ह= 荷)[18].
Bốn mươi hai mẫu tự này được xây dựng thành tài liệu học tập ở bậc tiểu học thời cổ, gọi là Tất-đàm-chương (悉談章, đôi lúc được viết 悉曇章, hoặc Tất-địa-la-tốt-đỗ: 悉地羅窣覩). Theo tác phẩm Nam hải ký quy nội pháp truyện, bài học vỡ lòng đầu tiên của trẻ con khi lên sáu tuổi chính là Tất-đàm-chương (siddhavastu: सिद्धवस्तु)[19] và có thể hoàn thành sau sáu tháng học tập[20]. Kinh Đại pháp cự Đà-la-ni, quyển thứ sáu, do pháp sư Xà-na-quật-da dịch vào năm 592[21], đời nhà Tùy cũng ghi nhận điều tương tự.
Theo luận Đại trí độ, nhờ chữ mà có từ, nhờ từ mới thành câu, nhờ câu mà có nghĩa[22]. Điều đó cho thấy các mẫu tự Phạn ngữ rất quan trọng trong nhiều lãnh vực, kể cả việc vận dụng mẫu tự làm ví dụ trong khi thuyết pháp. Tuy nhiên, việc gắn kết một ý nghĩa biểu trưng cho những mẫu tự này là một điều kỳ đặc, nếu không nói là sự pha trộn giữa ngôn ngữ học Ấn Độ cổ đại (ancient Indian linguistic) vào kinh điển Phật giáo.
Đơn cử như kinh Hoa Nghiêm ghi:
Khi đọc chữ a (阿), sẽ vào cửa bát nhã ma la mật, gọi là Bồ-tát uy đức các biệt cảnh giới; khi đọc chữ la (羅), sẽ vào cửa bát-nhã ba la mật, gọi là bình đẳng nhất vị tối thượng vô biên, khi đọc chữ ba (波), sẽ vào cửa bát-nhã ba-la-mật, gọi là pháp giới vô dị tướng[23].
Kinh Văn thù sư lợi vấn, ghi:
Khi đọc chữ a, là âm thanh của vô thường
Khi đọc chữ ā, là âm thanh của xa lìa ngã
Khi đọc i, là âm thanh của các căn quảng bác
Khi đọc ī, là âm thanh của thế gian não hại[24].
Việc sùng phụng mẫu tự Phạn ngữ đôi khi được chú trọng quá mức, như cho rằng, bốn mươi hai mẫu tự cùng với mười hai tự âm được phát sanh từ tâm của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na[25].
Có thể do ảnh hưởng bởi quan điểm này mà ngài Phổ Am (1115-1169), đã trước thuật chú Phổ Am (普庵咒)[26], một bài thần chú có nguồn gốc từ các mẫu tự Phạn ngữ (釋談章呪)[27], được phối âm (saṃdhi) theo những cung bậc trầm bỗng cùng với các loại đàn, sáo (被諸絃管)[28], như một khúc nhạc cổ cầm.
Chú Phổ Am được bảo lưu trong Chư kinh nhật tụng tập yếu, tập 19, thuộc tạng Gia-hưng[29], và hiện còn được sử dụng ở Phật giáo Trung Quốc và trong một vài khoa nghi của Phật giáo Bắc truyền Việt Nam ngày nay.
Có thể nói, vì nhiều lý do khác nhau mà các mẫu tự Phạn ngữ có mặt trong thư tịch Hán tạng. Xét về phương diện lịch sử, đây là những tư liệu quan trọng góp phần bổ sung trong việc việc nghiên cứu về ngành ngôn ngữ học cổ đại. Tuy nhiên, việc quá đề cao vai trò của mẫu tự Phạn ngữ cũng như các âm tiết của chúng, xem đó như là biểu tượng linh thiêng, là điều không phù hợp. Vì lẽ, đây là hệ quả của sự pha tạp của những quan điểm sùng phụng ngôn ngữ và âm thanh phi Phật giáo. Điều này sẽ rõ ràng hơn khi nghiên cứu một vài quan điểm của Phật giáo đối với ngôn ngữ nói chung và Phạn ngữ nói riêng.
2. Quan điển của Đức Phật đối với Phạn ngữ Vệ-đà.
Tư liệu luật tạng trong Phật giáo Nam truyền và cả Bắc truyền đều ghi nhận rằng, có vị tỳ-kheo trước khi xuất gia là bậc thâm học giáo điển Vệ-đà và am tường các quy ước Phạn ngữ. Nhận thấy các tỳ-kheo đồng học không rành về các quy ước đặc thù của ngôn ngữ, ông đã chê trách rằng:
Các vị đại đức. Mặc dù các ông xuất gia đã lâu, nhưng với ngôn ngữ thì không phân biệt được giống đực (pum-liṅga), giống cái (strī- liṅga), thế nào là đơn âm thế nào là đa âm, các thì hiện tại, quá khứ cũng như vị lai; âm dài, âm ngắn, âm khinh, âm trọng. Các ông cần phải cân nhắc những điều này khi tụng đọc kinh Phật[30].
Sau khi chê trách, vị tỳ-kheo này đến cầu thỉnh Đức Phật chấp thuận yêu cầu của ông ta. Phật liền dạy:
Ta cho phép đọc tụng kinh điển tùy theo quốc âm của mỗi nước, miễn làm sao không trái với bổn ý của Phật. Ta không cho phép biên soạn lời Phật theo văn pháp ngoại giáo, nếu phạm, phạm tội thâu-lan-giá[31].
Trong luật Thập tụng, Đức Phật đã quy định điều này rõ ràng hơn:
Từ nay, nếu ai dùng chữ nghĩa và âm thanh của ngoại giáo mà tụng kinh Phật, thì phạm tội Đột-kiết-la.[32]
Từ lời dạy của Đức Phật cho thấy, những quy ước về ngôn ngữ mà ở đây là Phạn ngữ Vệ-đà (Vedic Sanskrit) chỉ có giá trị tương đối, không thể là khuôn mẫu tối ưu để triển khai lời Phật dạy. Qua lời dạy này cho thấy, việc đề cao các mẫu tự Phạn ngữ linh thiêng vì chúng do Phạm thiên sáng tạo ra[33], là quan điểm không thuần túy Phật giáo.
Đọc lại lời dạy của Đức Phật trong kinh Na-tiên (Milindapañhā) cho thấy, ngôn ngữ, mà ở đây là cái tên chỉ là phương tiện để gọi, là tổng hòa các yếu tố khác mà thành. Vì, cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi[34].
Tương tự, theo kinh Tiểu Bộ, một thanh niên tên là pāpaka (Ác nhân), sau khi xuất gia vẫn giữ nguyên tên gọi. Mỗi khi có việc, các tỳ-kheo cứ kêu to Ác nhân, ác nhân làm cho tỳ-kheo ấy phiền não vô cùng nên cầu thỉnh thầy y chỉ ban cho tên khác. Thân giáo sư đã dạy rằng:
Này Hiền giả, cái tên chỉ để gọi thôi, không có nghĩa thành tựu mục đích (āvuso namaṁ nāma paṇṇattimattaṁ[35]). Hãy tự bằng lòng với cái tên mình[36].
Trở lại với vấn đề mẫu tự, theo Đức Phật, việc đọc tụng các dạng thức chú thuật, dù đó là bảng chữ cái Phạn ngữ hay các chú của Atharvaveda[37] không có ý nghĩa thiết thực. Kinh Tương Ưng (S.i,165) ghi:
Dầu lẩm bẩm nhiều chú,
Nhưng không vì thọ sanh,
Được gọi Bà-la-môn,
Nội ô nhiễm bất tịnh,
Y cứ trên lừa đảo,
Bà-la-môn, Phệ-xá,
Thủ-đà, Chiên-đà-la,
Kẻ đổ phẩn, đổ rác,
Tinh cần và tinh tấn,
Thường dõng mãnh tấn tu,
Đạt được tịnh tối thắng,
Bà-la-môn nên biết![38]
Với ngôn ngữ nói chung, Đức Phật chỉ xem đó là một phương tiện dùng để truyền đạt chân lý giải thoát, không nên thần thánh hóa nó, sùng bái nó và sử dụng như một thần chú. Xét về phương diện là một phương tiện dùng để truyền đạt chân lý, Đức Phật đã có những tán thán nhất định đối với những ai có khả năng này.
3. Thành tựu ngôn ngữ biện tài, là am tường đa ngôn ngữ.
Trong công trình nghiên cứu Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, giáo sư Étienne Lamotte (1903-1983) đã khái quát năng lực ngôn ngữ của Đức Phật qua câu văn sau:
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.[39]
Cơ sở của khái quát này dựa trên phẩm tính của của một vị Phật. Một vị Phật hoàn hảo luôn đầy đủ bốn món trí vô ngại mà một trong số chúng chính là khả năng siêu xuất về ngôn ngữ, gọi là từ vô ngại biện tài.
Theo kinh Tăng-nhất-A-hàm, từ vô ngại biện tài được định nghĩa:
Sao gọi là từ biện? Tùy nơi mỗi chúng sanh mà nói âm dài hay âm ngắn, giống nam hay giống nữ, lời Phật hay lời Phạm-chí, thiên long hay quỷ thần và ngay cả A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la tùy theo đó mà nói cho họ. Tùy theo căn nguyên của mỗi giống loài mà nói lời phù hợp. Đó gọi là từ biện[40].
Theo luận Đại trí độ, từ vô ngại biện tài còn được gọi là từ vô ngại trí. Luận ghi:
Có khả năng dùng ngôn từ trang nghiêm để phân biệt, khiến người lĩnh hội, thông đạt không ngưng trệ, gọi là từ vô ngại trí.[41]
Năng lực quán thông nhiều thể loại ngôn ngữ của Đức Phật là một sự thật lịch sử. Vì lẽ, nhìn lại con đường hoằng pháp của Đức Phật, khảo về các đối tượng nghe pháp của đức Thế Tôn, nghiên cứu về các quốc gia, lãnh thổ mà Ngài đã đặt chân đến; chúng ta có thể phần nào hình dung khả năng ngôn ngữ ưu việt của Ngài. Nói cách khác, Đức Phật am tường đa ngôn ngữ. Ngài không những giao tiếp với mọi giai tầng nhân loại hay chư Thiên, mà kinh văn còn ghi nhận rất nhiều trường hợp Đức Phật thể hiện khả năng thông đạt với các loài muông thú[42], súc sanh[43] và tùy cơ nhiếp hóa.
Từ vấn đề này đã góp phần làm sáng tỏ thêm luận điểm: Phật dùng một âm để thuyết pháp (佛以一音說法)[44]. Một âm ở đây là ngôn ngữ của chính đối tượng đó. Bộ Ngữ tông (Ch.2.10, Vehārakathā) cũng cho rằng, khi trao đổi với phàm phu, Ngài dùng phàm tuệ, khi nói với các vị thánh đệ tử, Ngài dùng Thánh tuệ. Vấn đề này góp phần bổ chính mối băn khoăn của nhiều nhà nghiên cứu Phật học, khi cứ đinh ninh cho rằng Đức Phật chỉ nói tiếng Magadhi hay một phương ngôn cố định nào đó.
Có thể nói, trong quá trình truyền dạy chánh pháp, hành giả quán thông các thể tài ngôn ngữ của loài người là một lợi thế lớn, vì có thể đem đến lợi lạc cho nhiều người và nhiều đời. Theo kinh Tăng-nhất-A-hàm, tôn giả Ma-ha-Câu-hy-la được xem là người có khả năng này và đã được Đức Phật tán thán:
Ta xem trong chúng đây, được bốn biện tài không có ai hơn được ông Câu-hy-la. Như Lai cũng có bốn biện tài này. Này cácTỳ-kheo, hãy tìm cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài này.[45]
Muốn cầu tuệ xuất thế, cần phải kiện toàn tuệ thế gian. Văn tự, chữ nghĩa là học pháp, kết tinh trí tuệ của thế gian, cũng cần phải am tường để thuận duyên khi bước vào thánh đạo.
Nhận định
Cửa ngõ để vào đạo khởi đầu từ việc nghe. Muốn nghe kinh pháp thì phải am tường ngôn ngữ. Kể từ khi Phật diệt độ, kinh điển được lưu truyền qua nhiều phương ngữ khác nhau. Việc am tường nhiều thể loại phương ngôn chứa đựng lời Phật dạy là điều kiện quan yếu để lĩnh hội Thánh giáo.
Mặc dù có những phương ngôn vốn có mối liên hệ thâm thiết với Đức Phật và giáo pháp của Ngài, nhưng không vì vậy mà sùng trọng quá mức, xem đó như những biểu tượng cát tường hay là linh tự, thiêng liêng.
Với Đức Phật, ngôn từ chỉ là phương tiện giúp người học đạo. Việc thần thánh hóa chữ nghĩa, hoặc dùng âm thanh, tiết điệu đề cầu Ngài, là điều chưa thuận hợp với Phật đạo. Nói cách khác, lạm dụng phương tiện thanh, sắc thì rất khó gặp được Như Lai[46].
Chúc Phú
Thư Viện Hoa Sen
[1] Lamotte, Étienne. History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p. 551. Cf: The Tathagata can express everything he wishes in any language whatever.
[2] Phạn ngữ hiện đang được sử dụng như một sinh ngữ lại làng Mattur, quận Shimoga, bang Karnataka, nam Ấn Độ. Bản tin từ hãng thông tấn BBC ngày 22.12. 2014. Xem tại, http://www.bbc.com/news/world-asia-india-30446917
[3]大正藏第 05 冊 No. 0220 大般若波羅蜜多經(第1卷-第200卷), 卷第五十三
[4] 大正藏第 11 冊 No. 0310 大寶積經, 卷第六十八
[5]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七
[6]大正藏第 03 冊 No. 0187 方廣大莊嚴經, 卷第四
[7]大正藏第 14 冊 No. 0469 文殊問經字母品第十四
[8]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二十八
[9]大正藏第 54 冊 No. 2132 悉曇字記
[10]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七
[11] 大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二. Nguyên văn: 詳其文字,梵天所製,原始垂則,四十七 也
[12]大正藏第 54 冊 No. 2125 南海寄歸內法傳, 卷第四. Nguyên văn: 本有四十九字
[13] 大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第十一. Nguyên văn: 阿字為初(阿字取上聲梵字也毘盧遮那 云阿字門一切法本不生義能生一切世 間文字偈云阿字第一句明法普周遍字 以圍遶彼尊無有相以此義故所以得居 字之首次第向下更有四十九字總名一 切文字之母即梵字根本五十字也
[14] 大正藏第 21 冊 No. 1340 大法炬陀羅尼經, 卷第六. Nguyên văn: 譬如童幼初受教時. 彼師先授摩帝迦字.次授頞字. 後授阿字. 如是次第教十四音已復次第教三十四 .具教如是五十二字已. Xem thêm, 大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, 五. Nguyên văn: 方由三十六字母而生諸字. 澤州云. 梵章中. 有十二章.其悉曇章以為第一. 於中合五十二字.
[15] Williams, Monier. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.3
[16] Lê Tự Hỷ, Tự học tiếng Phạn, tập 1, NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2012, tr. 18
[17]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第四十八
[18] Nguyên văn: 阿字為先、荷字為後. Xem tại: 大正藏第 11 冊 No. 0310 大寶積經,卷第四
[19] Williams, Monier. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.1215
[20]大正藏第 54 冊 No. 2125 南海寄歸內法傳, 卷第四. Nguyên văn:六歲童子學之,六月方了
[21]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第七. Nguyên văn: 大法炬陀羅尼經二十卷(開皇十二年四 出十四年六月訖沙門道邃[*]等筆受見長房錄)
[22]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第四十八. Nguyên văn: 因字有語, 因語有名, 因名有義.
[23]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七
[24]大正藏第 14 冊 No. 0469 文殊問經字母品第十四
[25]大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第一. Nguyên văn: 至如四十二字母及十二字音.從毘盧遮 佛心生.
[26]嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷中, 普庵祖師神咒
[27]卍新續藏第 79 冊 No. 1562 南宋元明禪林僧寶傳, 卷四, 慈化普菴肅禪師
[28]卍新續藏第 84 冊 No. 1579 續指月錄, 卷一, 袁州慈化普庵印肅禪師.
[29] 嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷中, 普庵祖師神咒
[30]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第二十六. Nguyên văn: 諸大德!久出家,而不知男,女語,一語, 語,現在,過去,未來語,長,短音,輕,重 ,乃作如此誦讀佛經
[31]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第二十六. Nguyên văn: 聽隨國音讀誦,但不得違失佛意! 不聽以佛語, 作外書語, 犯者偷蘭遮. Cùng đề cập sự kiện này, Cullavagga ghi: Này các tỳ khưu, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā). Xem, Tiểu Phẩm, bản dịch tiếng Việt của tỳ-kheo Indacanda.
[32]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 卷第三十八. Nguyên văn: 從今以外書音聲誦佛經者,突吉羅
[33]大正藏第 50 冊 No. 2053 大唐大慈恩寺三藏法師傳, 卷第三. Nguyên văn: 每於劫初,梵王先說傳授天人, 以是梵王所說, 故曰梵書
[34] Kinh Mi tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm, dịch, NXB. Tôn giáo, 2003, tr.105.
[35] V. Fausboll. The Jātaka together with its commentary being tales of the anterior births of Gotama Buddha. Vol 1. London: Messrs.Luzac and Company Ltd., 1962. p.402
[36] Kinh Tiểu Bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 377.
[37] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 521. Nguyên văn: Chớ có dùng bùa chú./ A-thar-va Vệ-đà./ Chớ tổ chức đoán mộng./ Coi tướng và xem sao. Mong rằng đệ tử Ta./ Không đoán tiếng thú kêu./ Không chữa bệnh không sanh./ Không hành nghề lang băm.
[38] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.256-257
[39] Lamotte, Étienne. History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p. 551. Cf: The Tathagata can express everything he wishes in any language whatever.
[40]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十一. Nguyên văn: 彼云何名為辭辯? 若前眾生, 長短之語, 男語, 女語, 佛語, 梵志, 天, 龍, 鬼神之語, 阿須倫, 迦留羅甄陀羅彼之所說, 隨彼根原與其說法, 是謂名為辭辯.
[41]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二十五. Nguyên văn: 當以言辭分別莊嚴, 能令人解, 通達無滯, 是名辭無礙智
[42] Mahāvagga, chương Kosambī, Đức Thế Tôn và con long tượng ở Pārileyyaka, tỳ kheo Indacnada, dịch.
[43]大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經,卷第四十四, 鸚鵡經第九
[44]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經, 卷第八, 五百白鴈聽法生天緣.
[45]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十一. Nguyên văn: 如我今日觀諸眾中, 得四辯才, 無有出拘絺羅. 若此四辯, 如來之所有, 是故, 當求方便, 成四辯才. Kinh Tăng Chi cũng ghi nhận: Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết giảng rộng rãi những điều được nói lên một cách vắn tắt, tối thắng là Mahàkaccàna. Xem, Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 58.
[46] Nguồn gốc của quan điềm này được được tìm thấy trong câu kinh: Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Xem, Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.744. Các tư liệu Hán tạng liên quan như bài kệ: Nếu thấy thân Như Lai./ Hoặc dùng âm thanh thỉnh./ Phương cách ấy lầm lạc./ Kẻ ấy không thấy Phật, trong kinh Phật thuyết ly cấu thí nữ: 其有見我色, 若以音聲聽,斯為愚邪見,此人不見佛. Xem tại: 大正藏第 12 冊 No. 0338 佛說離垢施女經. Hoặc tương tự bài kệ ở kinh Kim Cang: Nếu lấy sắc tìm Ta./ Dùng thanh để cầu Ta./ Kẻ ấy hành tà đạo./ Không thế thấy Như Lai. Xem, 大正藏第 08 冊 No. 0235 金剛般若波羅蜜經. Nguyên văn: 若以色見我,以音聲求我,是人行邪道, 能見如來.
https://thuvienhoasen.org/a29203/so-...-dien-han-tang