NGŨ-NHÃN
552 五眼 panca caksumsi The five eyes
553 肉眼 mamsa caksus fleshy eye
554 天眼 divya caksus divine eye
555 慧眼 prajna caksus wisdom eye
556 法眼 dharma eye dharmar eye
557 佛眼 buddha's eye buddha's eye
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
Printable View
NGŨ-NHÃN
552 五眼 panca caksumsi The five eyes
553 肉眼 mamsa caksus fleshy eye
554 天眼 divya caksus divine eye
555 慧眼 prajna caksus wisdom eye
556 法眼 dharma eye dharmar eye
557 佛眼 buddha's eye buddha's eye
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
DƯỢC-SƯ LƯU-LY QUANG PHẬT
3 藥師璢璃光佛 Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhāṣa Buddha Medicine Buddha
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
LỤC-ĐẠO LUÂN-HỒI
591 六道轮回 Six realms of samsara
592 天 deva gods
593 人 manuṣya human
594 阿修罗 asura Jealous gods, Demigods
595 畜牲 tiryagyoni animals
596 餓鬼 preta hungry ghost;hungry spirits
597 地獄 naraka *hell; purgatory
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
NGŨ-ĐỘN-SỬ
524 五鈍使 pañca-kleśa The five dull, unintelligent, or stupid/blunt messangers, or afflicters or temptations
525 貪 rāga greed; desire, passion
526 瞋 krodha; pratigha; dveṣa anger or resentment, wrath
527 癡 moha *ignorance; stupidity or foolishness, delusion
528 慢 māna arrogance
529 疑 vicikitsā *suspicion; doubt
-
ngũ-độn-sử, có nghĩa là:
(五鈍使) Đối lại: Ngũ lợi sử. Chỉ cho 5 phiền não căn bản: Tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ phiền não này thường sai khiến tâm thần hành giả, làm cho trôi nổi, lăn lộn trong 3 cõi nên gọi là Sử. [X. Đại thừa nghĩa chương Q.5; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.trung, phần đầu].
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...su-k37422.html
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
SƠN HẢI TỰ TẠI THÔNG VƯƠNG NHƯ LAI
111 山海自在通王如來 Sàgara-varadhara-buddhivikrãóita-bhijna Tathagata
-
sơn hải huệ tự tại thông vương như lai, có nghĩa là:
Śāgāravaradharabuddhi-vikreditabhidja (S) Sơn hải huệ Tự tại thông vương Phật, Sơn hải huệ Tự tại thông vương. Đức Thích Ca có thọ ký cho ngài A Nan vể vị lai sẽ thành Phật hiệu là Sơn Hải huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, cõi của ngài là Thường lập Thắng Phan, kỳ kiếp là Diệu âm biến mãn.
https://www.sanmore.org/pdf/page23.pdf
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...oogle_vignette
===
HỒNG-DANH BỬU-SÁM
Na mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật.
https://phatphapungdung.com/phap-bao...oi-148823.html
行林第六十八。
最胜太子法(此法广可检罗轨等 只出载大原说)。
最胜太子护摩记(胜林院)。
供养法(依台藏若悉地)。
唱礼。
南无嚩日罗记摩鸡冒地萨埵婆耶 〃〃。
南无曼荼罗主最胜太子冒地萨埵 〃〃。
南无五大明王胃地〃〃〃。
南无十二宫〃〃〃。
南无三部〃〃〃。
道场观。
楼阁中有大盘石山。山上有曼荼 。曼荼罗上有罗●字。字变成刀釼。 变成如意天子。其像八臂四面。当前 正面。作平正圆满之相。犹如菩萨相 左厢面青黑色。大张口虎牙相。右厢 面作自在天相。赤白色。当前上面。 作业叉极恶相。牙齿长利。身赤黑色 发作金青色。其天王左右二手皆竖持 。左右二手双持缚折罗叉。左右二手 合掌当心。左右二手下俱持抢。其身 状迅极可畏。以五色云散垂为盖。诸 眷属围绕。
赞(诸天)。
根本印。
先合掌当心。即以二大指右押左 入掌。二头指并竖。余三指交叉作拳 然顶戴之。三上三下。真言曰。
唵那吒俱伐罗耶娑嚩呵。
护么(息灾)。
火天段。曜。宿(已上如常)。
本尊段(大日本尊。用唵那吒俱 罗耶ソハカ)。
诸尊段(意乐咒加用毗沙门十臂 )。
世天段(如常)。
伴僧咒(同小咒)。后加持(同 咒)。
堂庄严。相应日。
愿乐法。
一面十臂咒云。
唵俱梨(二合)毗曳[地/寸]利(一)智(二)吽(三)支知吕ソ カ。
十臂咒曰。二手合掌。二水互卧 咒曰。
曩莫萨嚩怛他蘖多南入缚罗〃〃 吽ソハカ。
承历二年九月上旬记。已上大原 。
最胜太子大灵验私记。
镇西四王寺五坛修法样(异敌降 法)。
四王堂在山顶。西向三间四面。 皮葺内五宝殿并居。其内各六释四天 像。并最胜太子大威德明王安置此。 一此方天。二东方天。三最胜太子( 大威德)。四南方天。五西方天。皆 西方并立。
护摩堂担合五间。板葺。其内五 地坛涂竖置。
一。四禅师。南端向北涂息灾圆 。毗沙门天为本尊。
二。四禅师向东涂增益坛。持国 为本尊。中坛向东涂钩召坛。最胜太 为本尊。
三。四禅师北端向南涂降伏坛。 长天为本尊。
四。四禅师向西涂敬爱坛。广目 为本尊。
但春者始自三月八日寅时。至于 五日午克。阿阇梨四禅师五坛各并居 摩。秋者始自九月八日后夜。至于十 五日日中。五人同护摩。是圣朝御愿 。夏者始自六月八日。至于十五日。 坛限勤修之。四禅师四人为伴僧。冬 者始自十月八日后夜。至于十五日日 结愿。但夏冬二季者师大贰私所勤修 。
供养法等依苏悉地行法。先辨备 物等(如常)。次入堂作法。先一四 四禅师。自南端妻户步升石桥入。次 二三之四禅师。自北端妻户步登石桥 。次中坛阿阇梨。从中户独入。又各 吽字三度。次入堂内了。洒水三返。
次到礼盘前。先礼拜。先北方天 次最胜太子。次东方天。次南方天。 西方天。次返又礼最胜太子并大威德 明王。
次诵我从过去世(云云)。次诵 礼真言。次着礼盘。次取香涂二手。 净地印明。次净三业印明。次三部印 明。次护身被甲印明。次取杵加持洒 器。逆顺各三反。次以散杖入洒水器 搅回诵南莫三曼多没驮南览(三反) 。次诵鑁字(三反。加归命句)。次 上散杖洒自身顶(三反)。次洒本尊 尊(三反)。次始自东北角洒坛上供 物(三反)。次洒上下八方堂内等( 反)。次洒圣朝玉体。次洒外朝府中 次洒敕使。次洒伴僧承仕驱仕等(云 云)。次以杵加持坛上供物等。逆顺 三反(辟除结界之义也)。次遣除身 毗那夜迦印明(如常)。次辟除诸障 印明(如常)。次辟除供物所有诸难 明(如例)。次拍掌。辟除印明(如 )。次去垢印明(如常)。次饮食印 明(如常)。次甘露印明(如常)。 鑁字印明(如常)。次须弥王印明( 常)。次清净印明(如常)。次光泽 印明(如例)。次金刚羯磨印明(如 )。次普礼印明(如常)。次金打( 反)。次取香吕并珠杵启白事由。次 神分。次唱礼。
三身(如常)。
南无当来导师弥勒菩萨摩诃萨。
南无本身观音吽迦驮耶天。
南无五大明王梦智萨埵婆耶摩诃 埵婆耶。
南无佛眼父母菩萨摩诃萨。
南无曼多罗主最胜太子低婆罗惹 地萨埵婆摩诃萨埵婆耶(三反)。
南无吠室罗摩拏等四大王提婆曷 阇。
南无吉祥功德提婆呬多。
南无五大帝子等提婆曷罗阇。
南无八大婆罗多提婆曷罗阇。
南无二十八使者等眷属部类。
南无梵释四王十自在宫天诸宿曜 一切权现等。
南无三部海会一切龙神八部等。
次惊觉印明(如常)。次九方便 如常)。次取香吕发愿(金打)(但 秋五檀一度。取香吕发愿并迥向云云 )。
至心发愿 唯愿大日 秘密教主。
摩诃毗卢舍那 教令轮主 弥勒慈尊。
法音林菩萨 大辨相菩萨 四大八大。
诸大忿怒 三部界会 诸尊圣众。
外金刚部 护法天等 天王本体。
娑婆世界 施无畏者 大悲观音。
本尊圣者 四面八臂 最胜太子。
利益众生 随类示现 同体别体。
毗沙门天王 禅腻子童子 诸大王子。
四大天王 天王教敕 守护使者。
毗那夜迦王 十罗刹女 十二夜叉大将。
八大夜叉大将 金刚密迹 力士大将等。
天神地祇 大小鬼神 部类眷属。
一切鬼神 还念本誓 不舍悲愿。
起大慈悲 唯垂纳受 同心加持。
同心守护 护持国主 消除不祥。
消除灾难 天灾地夭 内外恶事。
天变化异 恶梦物怪 所引灾难。
皆悉消除 皆悉解脱 本尊加持。
诸尊加持 护摩功德 秘密威力。
熏入玉体 玉体安稳 增长宝寿。
恒受快乐 无边御愿 皆令满足。
决定圆满 外朝安稳 诸人快乐。
异敌降伏 本朝安稳 万民与乐。
五谷成就 万果丰乐 伽蓝安稳。
兴隆佛法 利益天人 尽未来际。
广作佛事 及以法界 平等利益。
次五大愿(次金打)。次金刚轮 明(如例)。次佛部印明(如常)。 莲花部印明。次金刚部印明。次护身 印明。次被甲印明。次天王护身印( 印)。
咒曰。唵俱利憾(出轨)。次三 结发印明。次地结印明。次四王结印 。次大海印明(如常)。次须弥山印 明。次师子座印明。次莲花座印明。 宝楼阁印明。次作定印。入道场观。 种子。三昧耶形。次出定诵三力偈。 次大虚空藏普通供养印明。次轮坛印 。次治路印明。次振铃。次宝车辂印 。次请车辂印明。次请本尊印明(三 部劝请印明也)。次弥勒劝请印明。
二手内缚。二风用二空入掌内。 十臂轨。咒曰。
唵阿多吽莎嚩诃。
次二天劝请印明。
左右手作拳。各去心中观念欲请 度。咒曰。唵??危莎嚩贺。
次使者召请印明。
二手内缚。二风用。二空入掌中 出十臂轨(十二夜叉十罗刹等也)。
唵陀尼佉曳醯呬莎嚩贺。
次辟除从魔印明(釼印)。用不 明王一字明。
曩莫三曼多嚩日罗喃?。
次示三昧耶印明。次阏伽。次花 (但四叶印)。次善来偈。次上方金 网印明。次火院印明。次重结大界印 明。次涂香印明。次花鬘印明。次烧 印明。次饮食印明。次四种饮食印明 先饮食印。左手作拳。其上右手。作 三钴于立之。坛中奉供。咒曰。
唵陀吽?吽弟弟抳吽莎缚贺。
次羹印(如上)。咒曰。增[足*(加/寸)]吽嚩钵。
次饼印(如上)。咒曰。唵沙吽 都[亻*(加/寸)]吽莎缚贺。
次果印(如上)。咒曰。唵遮隶 吽莎嚩贺。
次灯明印。次普供养印明。次赞
唵嚩日罗日罗野〃〃〃迦那耶( 合引)〃〃〃摩多曩(引)增阿伊( 合)野婆娑罗尼婆?(引)。
次诵毗沙门天赞。
唵没驮冒地萨提吠句卢耶莎缚贺
次诵诸天赞。次诵四智赞七反。 祈愿。次净珠印咒。次念珠旋转印咒 次以珠熏香烟置。本所入定本尊与我 平等不二观念。次出定结根本印。诵 印相。即二手以中指直竖。头二寸许 。以二头指于中指背上。二无名指稍 钩置掌中。以二大指二无名指头着。 二小指直竖。
以四大尊安于四方。各加四天王 以不动尊安于中坛。加最胜太子而修 。
唵婆〃利〃摩诃婆利婆〃利〃摩 娑利耶罗理〃〃〃驮忿那莫僧忿那莫 补〃〃〃。
又咒曰。唵㘃野摩多鸠罗野娑婆 。
次不动印明(若大威德)。次弥 菩萨印明。先合掌屈二顶指。指头向 。下二大指直竖。置二以指间。咒曰 。
曩谟三曼多没驮南阿尔单惹野萨 萨怛嚩奢野弩蘖多莎婆贺。
次四天王总印。二手内缚。二中 竖合如针。真言曰。
渐婆罗(一)谢替陀罗夜(二) 缚贺。
次毗沙门天印。先二中合掌。风 二指掌中入。火定指各立。并五所四 结界。即念是依印加持故。一切障难 者毗那夜迦等恶鬼神悉走却。不能害 人。一切所求成就即。成多闻智惠身 。后明妃曰。
曩莫三满多冒驮南唵摩唓都娑婆 。
次吉祥天印。各手内缚。各风指 。返各方于乳上念。即一切愿成就( 云)。真言曰。
唵摩贺室利提婆毗娑婆贺。
次入观念。次诵我今念诵秘密咒 (云云)。次取念珠正念诵。大日真 百反。本尊真言千返。弥勒真言百返 。四王天总真言百返。毗沙门真言百 。吉祥天真言百返。佛眼真言百返。 入护摩。次护摩毕入定。次出定根本 印咒如前。次佛眼印咒如前。次至顶 。次左方五供养(如例)。先涂香。 花鬘。次烧香。次四种饮食印咒。次 饮食印明。次灯明印明。次普供养印 。次本尊赞。次阏伽。次四智赞。次 铃。次回向方便段。次回向。次解界 。次示三昧耶。次发遣印咒。次奉佛 施。次奉送。次三部护身被甲。次出 读经随意行道(文)。
甚密之法也。辄不可传受之。
最胜太子法第六十八。
(本云)承应二年六月二十五日 以二尊院本书之。舜兴。
元禄十七年甲申二月既望书之。
台岭兜率谷阇梨严觉洪道。
http://www.dzj.fosss.net/dzz/20/2496-t76n2409?start=69
藏外佛教文獻 第07冊
No.62 佛說消災延壽藥師灌頂章句儀 (6卷)
【沙門若愚述 侯沖整理】
第 6 卷
https://tripitaka.cbeta.org/mobile/i...x=W07n0062_006
. Hai câu lệnh trên lá phù Quan Thánh Đế Quân có công năng đánh tà tinh đi một cách nhanh chóng (Đả tà tinh tốc khứ (打邪晶速去)và diệt tan yêu quái ẩn nấp (diệt yêu quái tiềm tiêu (滅妖怪潛消)
https://hueuni.edu.vn/portal/vi/data...YENDANGHUU.pdf
Khương Thái Công Tại Thử, Bách Vô Cấm Kỵ (姜太公在此, 百無禁忌) 69
69 Nguồn gốc phù văn này xuất phát từ truyền thuyết Khương Thái Công viết ra để bảo vệ bách tính khỏi ách vận từ Cùng Thần (thần nghèo đói). Từ đó dân gian quan niệm rằng muốn tránh xa thần nghèo đói, trừ tà nạp phúc thì dán câu “Khương Thái Công tại thử, bách vô cấm kỵ” trước cửa hoặc trong nhà. Khi xây dựng nhà cửa, phù văn đó sẽ được dán, hoặc treo len đòn tay thượng lương để trừ tà.
https://hueuni.edu.vn/portal/vi/data...YENDANGHUU.pdf
Theo đó, các dạng vật chất thiêng, có năng lượng dương như: muối, trầm hương, rượu, chu sa, thần sa khi được đốt bằng lửa sẽ có năng lực thanh tẩy. Quan niệm này đã được dân gian tiếp nhận, ứng dụng vào các nghi lễ thanh tẩy trong tín ngưỡng dân gian.
https://hueuni.edu.vn/portal/vi/data...YENDANGHUU.pdf
Điều này giải thích cho thành phần nguyên liệu các nồi xông hoặc thuốc xông trong dân gian. Thành phần trong một gói thuốc xông của một thầy địa ở phường Tây Lộc (Tp. Huế) bao gồm 32 loại cây có gai được xay thành bột gỗ (mộc), một ít sa-khoáng hoặc hùng hoàng (kim), gia thêm chu-sa hoặc thần sa (thổ). Hỗn hợp đó sẽ được đốt cháy bằng lửa than (hoả) và một ít rượu (thuỷ), và quan trọng không kém là sự có mặt của muối hạt để tạo tia lửa và tiếng nổ (sấm sét). Một phản ứng đốt cháy từ nhiều hợp chất, tạo ra hương thơm, khói trắng, tỉa lửa và tiếng nổ là biểu hiện cần thiết được cho là tẩy được uế tạp, khiến ma quỷ sợ hãi, đem lại dương khí và vượng khí. Trong một số trường hợp khử uế nặng hơn, hoặc muốn công hiệu thanh tẩy kéo dài hơn thì dân gian mời pháp sư làm lễ yểm chu sa (châu sa mễ) xuống đất, hoặc chôn bùa...
https://hueuni.edu.vn/portal/vi/data...YENDANGHUU.pdf
CẦU-SIÊU
( KINH ĐỊA-TẠNG TỤNG 1 PHẨM )
https://fr.scribd.com/document/80979...E1%BA%A6U-SIEU
CẦU-SIÊU
( KINH ĐỊA-TẠNG TỤNG 1 PHẨM )
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
PHẨM THỨ 7 : LỢI ÍCH CẢ KẺ CÒN NGƯỜI MẤT
Khuyên tu thánh đạo
Lúc đó ngài Địa Tạng đại Bồ Tát bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi trời Diêm Phù sanh tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.
Nếu gặp những việc về pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn hoặc khi gặp duyên sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy, càng nặng thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp lún lút sâu.
Những người đó hoặc gặp hàng Thiện tri thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả, vì hàng Thiện tri thức đó có sức rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người ấy mạnh chân lên.
Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa.
Bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Đến khi những chúng sanh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha mẹ cùng thân quyến vì người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người đó.
Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc Tôn Kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng hình tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung, hoặc là ở nơi bổn thức nghe biết.
Cứ theo nghiệp ác của người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ người đó phải bị đọa vào ác đạo, song nhờ thân quyến vì người đó mà tu nhơn duyên Thánh đạo, cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.
Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước Đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn v.v… mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỷ, Thần, cầu cúng ma quái.
Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi.
Giả sử người chết đó hoặc là đời trước hay đời hiện tại vừa rồi, đã chứng đặng phần Thánh quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người, nhưng bị vì lúc lâm chung hàng thân thuộc gây tạo những nghiệp nhơn không lành, cũng làm cho người chết đó mắc lấy ương lụy phải đối biện, chậm sanh vào chốn lành.
Huống gì là người kia chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của họ đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo.
Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.
Bạch Đức Thế Tôn! Con xem xét những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, ở nơi trong giáo pháp của Phật, nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hạt cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả.”
Trưởng giả bạch hỏi
Khi ngài Địa Tạng nói lời như thế xong, trong pháp hội có một vị Trưởng giả tên là Đại Biện.
Ông Trưởng giả này từ lâu đã chứng quả Vô sanh hiện thân Trưởng giả để hóa độ chúng sanh trong mười phương, ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng:
“Thưa Đại sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc kẻ lớn người nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức, cho đến thiết trai cúng dường, làm cho những phước lành, thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?”
Kẻ còn, người mất đều được lợi
Ngài Địa Tạng Bồ Tát đáp rằng:
“Này ông Trưởng giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Đức Phật mà nói lược về việc đó.
Này ông Trưởng giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một Đức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả.
Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.
Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.
Con quỷ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào ác đạo.
Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho.
Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong trăm nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.
Còn nếu là kẻ phạm năm tội Vô Gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.
Lại vầy nữa, này ông Trưởng giả! Sau khi những chúng sanh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung, hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó.
Thời khi sắm sửa chưa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v… đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dâng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được ăn trước.
Nếu như ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thời người chết đó trọn không được mảy phước nào cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng, thời trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.
Này ông Trưởng giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả.”
Lúc ngài Địa Tạng nói lời này, tại cung trời Đao Lợi có số nghìn muôn ức na do tha Quỷ Thần cõi Diêm Phù Đề, đều phát tâm Bồ đề vô lượng.
Ông Trưởng giả Đại Biện vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra.
NA MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
(3 lần)
Chant the Devonotional general Mantra (Nammah/Namo/Namu (deity's name) (deity's title)) for example: Nammah Shakyamuni Buddhaya (Sanskrit) Namo Shijiamouni Fo (Chinese) Namu Shakamuni Butsu (Japanese), or Nammah Avalokiteshvara Bodhisattva (sanskrit) Namo Guanshiyin Pusa (Chinese) Namu Kanzeon Bosatsu (Japanese), or Nammah Acalanatha Vidyaraja (sanskrit), Namo Budong Mingwang (chinese) Namu Fudo Myoo (japanese).
The Triple Jewel Mantra (Buddham sharanam Gacchami, Dhammam Sharanam Gacchami, Sangham Sharanam Gacchami)
Om Mani Padme Hum
The deity's proper Mantra. I have some in Japanese. Shaka Nyorai: Noumaku sammanda bodanan baku / On Muni Muni Maka Muniye Shaka Muni Sowaka Dainichi Nyorai (Mahavairocana): On abiraunken bazaradato ban
Amida Nyorai (Amitabha): On amirita teizei kiriku un
Ashuku Nyorai (Akshobhya): On akishobiya un
Fukujoju Nyorai (Amoghasiddhi): On abokya shitsudei aku un
Hosho Nyorai (Ratnasambhava): On aratan'nou sanbanba taraku un
Taho Nyorai (Prabhutaratna): On furabuta ratona ramu un
Yakushi Nyorai (Bhaisajyaguru): On koro koro sendari matogi sowaka
Monju Bosatsu (Manjushri): On a rahashano
Fugen Bosatsu (Samantabhadra): On sanmaya satoban
Jizo Bosatsu (Ksitigarbha): On kakaka bisanmaei sowaka
Kokuzo Bosatsu (Akasagarbha): On akyasha kyarabaya on arikya mari bori sowaka
Kannon Bosatsu (Avalokiteshvara): On arorikya sowaka
Daiseishi Bosatsu (Mahasthamaprapta): On san zan zan saku sowaka
Miroku Bosatsu (Maitreya): On. Maitareiya sowaka
Fudo Myoo (Acalanatha): Noumaku sanmanda bazaradan senda makaroshada sowataya un tarata kanman / Noumaku Sanmanda Bazaradan Kan / On senda makaroshana kan man sowaka
Gozanze Myoo (Trailokyavijaya): On ni somu baba sara un batta
Gundari Myoo (Amrita Kundali): On amiritei un batta sowaka
Dai Itoku Myoo (Yamantaka): On aki son un batta sowaka
Kongoyasha Myoo (Vajrayaksha): On badora yakisha un batta sowaka
Aizen Myoo (Ragaraja): On maka ara gyaba sara ushi yunishaba sara sa tabaji yaunbanko sowaka
Kujaku Myoo (Mahamayuri): On maka mayurai karantei sowaka
Ususama Myoo (Ucchusma):On kuro dano unja ku On shuri mari mamari mari shyushyu ri Sowaka
Badabara Bosatsu (Bhadrapala): On gyagari sowaka
Daikokuten (Mahakala): On makakyaraya sowaka
Idaten (Skanda): On Idateta mokoteta Sowaka
I don't know if the people that practice Shingon will allow me to use the Komyo Shingon, but I believe this is a pretty powerful yet simple Mantra that calls for all Buddhas in Mahavairocana.
On abogya beiroshano maka bodara mani handoma jinbara harabari tayaun
(Om amogha vairocana maha mudra mani padma jvala pravartaya hum)
The Mantra from Heart Sutra is also a good Mantra: Gyate Gyate Haragyate Harasogyate Boji Sowaka (Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Swaha)
https://www.reddit.com/r/Buddhism/co..._for_releases/
b. Phù thuật tẩy-uế, tống-mộc, tống-tà:
Nghiên cứu về bùa trấn của Cadière ở Trung Bộ cho thấy truyền thống dùng lửa để tẩy uế như là một phương thức trừ tà của các đạo sĩ. Thầy pháp “khấn cầu, dùng đùi gậy và binh khí ma thuật, cầm đuốc cùng với thuốc dễ bốc lửa, la hét: phà! phà! để ma quỷ hoảng sợ” (Cadière, 2015:194). Dấu ấn phù thuật Đạo giáo dùng lửa để trừ tà vẫn còn được bảo lưu trong tục Ế phà của ngư dân vùng biển Sơn Trà-Đà Nẵng. Trước mỗi mùa đánh bắt cá, ngư dân sẽ tẩy uế lưới, mành và các ngư cụ đánh bắt khác. Ngư cụ được bỏ trong một chiếc thuyền thúng, vài ba người đứng xung quanh thuyền, người chủ thuyền miệng ngậm dầu hỏa, một người thắp đuốc đứng cạnh bên. Ngay sau khi những người còn lại đồng thanh hô lớn Ế….phà….chủ thuyền phun dầu vào ngọn đuốc, ngọn lửa lớn bốc cháy trên trong không trung, lướt trên bề mặt lưới và các ngư cụ. Hành vi phù thuật này được tin rằng sẽ tẩy được uế tạp và tà ma, là điều kiện cần thiết cho một mùa đánh bắt bội thu. Một dạng ma thuật tống mộc, tống quỷ khác là “gọt dăm” vốn cũng phổ biến ở vùng biển Đà Nẵng, Quảng Trị, Huế. Các cấu kiện gỗ trên tàu thuyền đánh cá, đồ nội thất trong nhà cửa sẽ được gọt một ít lớp gỗ bên ngoài, sau đó pháp sư gói vào giấy vàng mã niệm chú, bắt thủ quyết rồi đốt đi để tống mộc tinh. Trong nghi lễ tống mộc chúng tôi tham dự ở Quảng Trị cho thấy một nguyên lý tương tự, pháp sư tống các loại tà tinh tồn ngụ trong gỗ bằng kiếm lệnh và hỏa phù. Vị pháp sư một tay cầm kiếm có dán bùa thanh long đao, một tay cầm “con cúi” được bó từ các loại thực vật có tinh dầu, miệng hô lớn: “Án! Ngũ quỷ tốc xuất. Phà!”, người phụ lễ cầm bình xăng xịt vào con cúi để tạo ra ngọn lửa lớn và đồng thanh hô: Phà. Hành vi phù thuật đó được lặp lại quanh nhà để tống ngũ quỷ ra khỏi đồ gỗ nội thất và nhà cửa.
Tương tự các thực hành ma thuật như đã đề cập, vùng Trung Bộ vẫn còn bảo lưu một số thực hành xua đuổi tà ma, tiêu biểu là tục múa lân. Dưới góc độ tôn giáo, múa lân sư là một nghi thức ma thuật khử uế, xua tà liên quan đến một vị thần Đạo giáo là Hoa Quang Đại Đế. Đây vốn là vị thần lửa có chức năng trừ tà. Nghi thức khởi đầu của một màn múa là nghi thức bái bàn thờ tổ tiên của gia chủ. Dân gian tin rằng tiếng vang của trống, tiếp chập cheng của não bạt là những âm thanh xua đuổi tà ma. Đặc biệt ánh lửa từ đuốc và ngọn lửa thiêng phát ra từ màn phun lửa của lân sư là biểu trưng cho sự hiện diện của thần lửa Hoa Quang Đại Đế để xua đuổi âm khí và tà ma cho ngôi nhà và gia chủ.
https://hueuni.edu.vn/portal/vi/data...YENDANGHUU.pdf
ĐA-BẢO NHƯ-LAI
"Abundant-in-jewel" (prabhutaratna)
Taho Nyorai (Prabhutaratna): On furabuta ratona ramu un
https://selfdefinition.org/zen/D-T-S...ustrations.pdf
https://www.reddit.com/r/Buddhism/co..._for_releases/
https://www.reddit.com/r/Buddhism/co...eleases/?tl=tr
chữ GIẢI-UẾ (繲穢)
chữ TRỊCH (擲)
https://dthujs.vn/index.php/dthujs/a...ad/407/359/692