-
https://zhidao.baidu.com/question/15...002828107.html
② 南无当山土地护教菩萨(三称)
=========
[转载]荼毗念诵仪轨 (2012-12-30 09:18:01)转载▼
标签: 转载
原文地址:荼毗念诵仪轨作者:幻化 神
1. 供土地位
① 杨枝净水赞
② 南无当山土地护教菩萨(三称)
③ 心经一遍 往生咒变食真言
④ 土地赞
当山土地 护教伽蓝 一十八位并合堂 义勇武安王 盖世无双 永镇大安邦 南无护法藏
⑤回向:愿消三障诸烦恼。。。。。
2. 化身位
①旃檀海岸炉熱名香 耶输母子两无殃 火内得清凉 志心今将一柱遍十方 南无香云盖
②南无西方接引阿弥陀佛(三称)
③弥陀经,往生咒三真言
④上座至龛前开示,说下火偈「将火 打一圈」云:
台腾法界,红光随手遍乾坤,阇维一 无依汉,直入维摩不二门,抵如入门 ,又作么生,广长舌像莫能论,扑落 非他物,从横不是尘,山河及大地, 露法王身,一炬空性火,焚烧梦幻身 娑婆业尘尽,净土现真身。
生死之道,今古皆然,未了真常,难 梦幻,上来兹今有新亡过 比丘,从今卸却尘劳后,一朵金莲火 生
「将火把打三圈」【烧】
⑤大弥陀赞 赞佛偈 绕佛 归位 莲池赞
⑥ 回向。。。。。 。-------------终
http://blog.sina.com.cn/s/blog_50f5745b01015ojc.html
-
肯请当山土地菩萨
2.南无护法藏菩萨(南无土地王菩萨) (三称)
======
寺院上供仪规大全(什么殿都有) - 美篇
https://www.meipian.cn/acktf51
Translate this page
Dec 16, 2016 - 甚深智慧,难测难思,无边刹海现金 ,赴感各因时,是诸佛师,神化莫能 ,南无妙吉祥菩萨摩诃萨,摩诃般若 波罗蜜。 十八、土地处 1.香云盖。。。。。(三称) 2.南无护法藏菩萨(南无土地王菩萨) (三称) 《安土地咒》21遍 南无三满多,母驮南,唵,度噜,度 ,地尾萨婆诃。 3.三真言(3遍) 4.当山土地,护教伽蓝,一十八位 ...
-
-
-
-
-
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...ZDY0ZjkzZA.jpg
( https://www.linkedin.com/pulse/v%C4%...g-ph%C3%BAc-an )
① Văn khấn thần linh rằm tháng 7
>>>Xem chi tiết bài văn khấn Thần Linh ngày rằm tháng 7 tại đây
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Kính lạy: Ngài Kim niên Đương cai Thái tuế Chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân và chư vị thần linh cai quản xứ này.
Hôm nay là ngày Rằm tháng 7 năm ….
Tín chủ chúng con tên là:… ngụ tại nhà số…, đường…, phường (xã)…, quận (huyện)…, tỉnh (thành phố)… thành tâm sắm sửa hương hoa, lễ vật và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim niên Đương cai Thái tuế Chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân và tất cả các vị thần linh cai quản trong khu vực này. Cúi xin các ngài giáng lâm án tọa, soi xét chứng giám.
Nay gặp tiết Vu Lan, ngày vong nhân được xá tội, chúng con đội ơn Tam bảo, Phật trời phù hộ, thần linh các đấng chở che, công đức lớn lao nay không biết lấy gì đền đáp.
Do vậy, chúng con kính dâng lễ bạc, bày tỏ lòng thành, nguyện xin nạp thọ, phù hộ độ trì cho chúng con và cả gia đình chúng con, người người khỏe mạnh, già trẻ bình an hương về chính đạo, lộc tài vương tiến, gia đạo hưng long.
Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
---Hết---
② Văn khấn Thổ Công rằm tháng 7
>>>Xem chi tiết bài văn khấn Thổ Công ngày rằm tháng 7 tại đây
Bài văn khấn Thổ Công dùng trong lễ cúng Thổ Công. Văn khấn Thổ Công sau đây được dùng cho cả năm tùy theo cúng vào lúc nào mà thay đổi ngày tháng cho phù hợp.
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Tín chủ là……………………………………… ……………………
Ngụ tại……………………………………… ………………………….
Hôm nay là ngày……….tháng……..năm…………… ………….
Tín chủ con thành tâm sắm sửa hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm kính mời: ngày Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn thần, ngài Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Cúi xin các Ngày thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
---Hết---
==========
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...ZDY0ZjkzZA.jpg
( https://chongamkhoiphucan.com/van-khan-ram-thang-7 )
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...itled5312e.png
( https://chongamkhoiphucan.com/van-khan-ram-thang-7 )
-
-
Thần linh Thổ địa
Nhất thiết Thần linh Thổ địa
*Nam Mô Già Lam Thánh Chúng, Thiên Long Bát Bộ Nhứt Thiết Chư Thiện Thần.
-
https://www.google.com.vn/search?q=B...hrome&ie=UTF-8
Chuyển luân vị (Chủ nhân mặt đất) – sa bdag, Phạn: bhumipati, một tinh linh chiếm cứ một địa điểm.
=============
Mời Thổ Thiện Thần đến:
Bu Mi Pa Ti Sa Pa Ri Qua Ra Bengia Sa Ma Gia. ( 3 lần) lắc chuông trống.
Tiếng Sankrit: Bhumi pati (thổ thần) Sapari Vara (quyến thuộc) Vajra.
Quán tưởng ta đang là Mã Đầu, từ tim phóng ra vô lượng ánh sáng hình lưỡi
câu triệu tập tất cả thổ thiện, ác thần đến để nhận cúng dường.
Cúng thực phẩm cho thổ thiện thần: Vừa cầm đĩa thực phẩm vừa
đọc:
Bu Mi Pa Ti Sa Pa Ri Qua Ra Bê, Nam Ma Sác Qua Ta Tha Ga Ta Ba Dô,
Namah Sarva Tathagata bhyoh
Bi Soa Mu Khê Be, Sác Qua Tha Kham Út Ga Tê, Sa Pha Ra Na, I Măm
Visva Mukhe bhyah
Ga Ga Na Kham Sô Ha (3 lần), xong 1 lần búng tay 1 cái.
Gagana Kam Svaha
http://www.chuadainhatnhulai.org/pdf..._Hanh_Phap.pdf
=
http://www.hongnhu.org/files/pdf/0-A...a_2016-hna.pdf
https://uphinhnhanh.com/images/2018/01/13/Untitled.png
chandra2002id | Buddhism..Buddha to Buddha.All living beings be ...
https://chandra2002id.wordpress.com/.../mettadharani/
Translate this page
Aug 21, 2013 - ... Mantra Dewa Bumi / Bhumipati / Hok Tek Cen Sin / Tua Pek Kong · Mantra Sangharamapala ( Guan Gong ) · Medicine Buddha · Medicine Buddha Dharani (Bhaisajyaguru) · Na Mo Pen She She Cia Mou Ni Fo · Namo Amituofo · Namo Amituofo – Children Chanting (南无阿弥陀佛)*news · Namo Amituofo ...
=========
https://vdocuments.site/demo-part-1-578bc664497cb.html
http://vietnalanda.org/Translations/...Images2006.pdf
http://www.chuadainhatnhulai.org/pdf..._Hanh_Phap.pdf
http://www.diendan.daitangkinhvietna...hp?f=38&t=6944
https://books.google.com.vn/books?id...0SVAHA&f=false
https://www.google.com.vn/search?q=B...hrome&ie=UTF-8
-
Địa Thần: The earth-devi—Land Deities—See Địa Thiên.
Địa Thiên: Prthivi (skt)—Địa Thiên, một trong bốn vị Chấp kim cang thần trong Kim Cang giới—The earth-deva, one of the four with thunderbolts in the Vajradhatu group.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tud...hucVA-d1i.html
=======
Thổ: Bhu or Bhumi—Earth—Ground—Land—Soil.
Thổ Địa Đường: Local Deities Hall—Lands Hall.
Thổ Địa Thần: The local guardina deity of the soil or locality—God of the soil.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tud...hucVA-tho.html
-
thổ địa công:
(土地公) Vị thần chuyên coi về đất đai. Đúng ra phải gọi là Phúc đức chính thần, là vị thần được Đạo giáo và dân gian Trung quốc tôn thờ. Trong thần thoại cổ đại, Thổ địa công được gọi là Xã thần, là thần quản lí 1khu vực nhỏ. Sau, chuyển biến thành vị thần có quan hệ mật thiết với năm được mùa của tất cả các vật sinh sản trên mặt đất như gia súc, nông phẩm...và đượcdân gian thờ phụng, cúng tế như một vị phúc lộc tài thần. Bất luận nông dân, ngư dân, thương gia, giới luyện kim, thợ mộc...đều thờ thần này. Ngoài ra, vị thần này còn được xem là thần giữ mồ mả, hoặc gọi là Hậu thổ(thần đất). Tương truyền những người hiền lành, quân tử sau khi chết, được thần Thành hoàng cho giữ chức Thổ địa công ở các địa phương. Trong Đạo giáo, các vị thần như thần Thái xã, thần Thái tắc và thần Thổ ông, thần Thổ mẫu...đều là các thần trông coi về đất đai. Nhưng tất cả các thần ghi trên không một vị nào có xuất xứ từ kinh điển Phật.
https://www.rongmotamhon.net/tu-dien...tam-hon.html#3 / http://phatam.org/dictionary/detail/...4%90%E1%BB%8AA
-
XIN KEO
Xin keo là phương thức giao tiếp để thần linh xác nhận một sự việc gì.
Trước khi xin keo, phải đến trước thần linh nêu rõ tên họ, tuổi, chỗ ở, sự việc gì đang xin giải quyết để biết tốt xấu, đúng sai, họa phước v.v…, xin cho ba keo để làm tin. Trình bày xong thì xin keo ba lần để biết kết quả.
Miếng keo thường làm bằng gốc cây, gốc tre chế tạo thành. Miếng keo có hai mặt, một mặt lồi lên, một mặt bằng, hoặc khắc hình, chữ hay đánh dấu để phân biệt âm dương (một mặt âm, một mặt dương).
Khi gieo, hai bàn tay kẹp miếng kẹp hai miếng keo vào giữa, đưa lên trán khấn xong gieo xuống đất. Một âm một dương là được, tốt (thánh giao). Nếu được liền ba keo thì quá tốt (chắc ăn).
Khi xin “được keo” rồi, lượm lên cung kính để lên bàn thờ. Lạy ba lạy tạ ơn Thần / Tổ đã giáng lâm chứng minh.
CÁC LOẠI “CHO KEO”
1.- Thánh giao (Keo Thánh) :-
-được một âm một dương gọi là “Thánh Giao”, ý là công việc mưu sự tính toán có thể thành tựu, nên tiến hành.
2.- Tiếu giao ( Keo thánh cười):-
Hai mặt đều là dương, ý nói việc chưa minh bạch. Thần chưa minh định được hoặc chưa tiếp nhận lời cầu xin. Cần phải xin keo trở lại.
3.- Âm giao ( Keo Âm) :-
Hai mặt đều là âm, ý nói là việc không thành. Cũng hàm ý Thần chưa minh định được hoặc chưa tiếp nhận lời cầu xin. Cần phải xin keo trở lại.
*CHÚ Ý :- Khi nào xin được “ba keo” liên tiếp thì sự việc mới “chắc thành”, được hai mất một, trước khó sau thành, chỉ được một mất hai, lúc đầu thuận sau sinh trở ngại hỏng việc.
LẮC XÂM
Người ta thường dùng những mảnh tre vót thành hình dài độ 2 tấc, trên có ghi số (hoặc lời quẻ). Tùy theo loại xâm mà có số lượng thẻ xâm khác nhau. Tất cả bỏ vào trong một ống tre. Sau khi tín chủ khấn vái xong, hai tay bưng ống xâm hơi nghiêng nghiêng ra trước, lắc nhè nhẹ đều đều cho đến khi nào văng ra một thẻ xâm là được. Xem số của thẻ hoặc lời quẻ rồi tra lại sách (tài liệu giải thích) để biết tốt xấu.
Việc gấp thì chỉ nên xin keo thôi, lắc xâm mất nhiều thời gian.
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=2400.15
-
BÁI THỔ ĐỊA
“Phước Đức Chính Thần” hay còn xưng là “Thổ Địa Công”, dân gian thường gọi “Phước Đức Gia”, “Bá Công”, “Đại Bá Gia”. Nơi đồng hoang hay nghĩa địa, dân gian thường xưng là “Hậu Thổ”.
Các miếu thờ Ngài ở Phúc Kiến, Quảng Đông thì gọi là “Thổ Địa Công Từ” (miếu thờ ông Thổ Địa) hay “Phước Đức Cung”,còn người Hoa ở nước ngoài thì gọi là “Đại Bá Công Từ” hay “Phước Địa” .
*Xin xem bài chi tiết về Phước Đức Chính Thần tại:-
http://www.hoangthantai.com/forum/in...p?topic=958.45
(Phần trả lời 50)
Trong Thần Thánh Trung Hoa –Tập 1—NT
*Trung Quốc từ xưa lấy nông nghiệp làm chính, cho nên người dân phát sinh ra tâm lý đề cao vị thần đất, đó cũng là lẽ tự nhiên thôi ! Tín ngưỡng Thổ Địa Công phát sinh do sự cảm niệm, biết ơn những đất đai đã giúp cho con người có cái ăn, cái mặc, nhà cửa …dần dần được nhân cách hóa trở thành nhân vật có lai lịch rõ ràng.
*Truyền thuyết về Thổ Địa Công có những chuyện như sau:-
1.- Thổ Địa Công nguyên là một vị quan của triều đại nhà Chu, tên là Trương Phước Đức, sinh vào ngày mùng hai tháng hai năm Chu Vũ Vương thứ hai. Từ nhỏ, Ngài đã tỏ ra thông minh mẫn tiệp. Đến năm ba mươi sáu tuổi, được triều đình bổ nhiệm là Quan Tổng Thuế. Ngài là vị quan cần mẫn, liêm chính, thương yêu nhân dân. Đến năm Chu Mục Vương thứ ba thì Ngài tạ thế, thọ một trăm lẻ hai tuổi. Vị quan kế vị Ngài lại là người độc ác, tham lam, gây ra cho dân chúng biết bao điều thống khổ. Do đó, mọi người đều tưởng nhớ đến Ngài một cách tha thiết. Có một nhà nghèo kia, lấy bốn tảng đá lớn tạo thành một căn phòng đá để thờ Ngài. Chẳng lâu sau, nhà đó trở nên giàu có. Mọi người truyền nhau thông tin nầy, rồi cùng nhau hợp sức lại xây dựng ngôi miếu để thờ phụng Ngài, cầu nguyện van vái Ngài phù hộ họ trở nên sung túc. Sau đó, tạc thành tượng Ngài để thờ, tôn xưng là “Phước Đức Chính Thần”.
Từ đó về sau, đa số nhà nhất là những người buôn bán đều lập nơi để thờ phụng Ngài.
2.- Một thuyết khác nói rằng, trong nhà quan thượng thư triều nhà Chu, có người nô bộc tên Trương Minh Đức. Ông quan ấy trấn nhậm phương xa, ở nhà có đứa con gái thường nhớ cha, đòi Minh Đức cõng nàng đi tìm thân phụ.
Dọc đường, chẳng may gặp cơn bão tuyết, Minh Đức đã cởi hết quần áo của mình đắp cho cô gái khỏi chết cóng, sau đó được người cứu, còn bản thân thì bị lạnh chết. Khi ấy, trên không trung bổng xuất hiện chín chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Chính Thần”, đó là danh hiệu Thượng Đế sắc phong cho người nghĩa bộc.
Về sau, ông quan đại phu nhớ ơn cứu mạng con gái nên lập miếu thờ, lại tâu vua phong tặng danh hiệu “Hậu Thổ”.
Người đời sau gọi là Thổ Địa Công.
3.- Lại có một truyền thuyết khác , khi vua Tần Thủy Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành, nàng Mạnh Khương có chồng là Hàn Kỷ Lang bị bắt đi làm sưu.
Chẳng may Hàn bị chết, nàng Mạnh Khương từ ngàn dậm lặn lội đến tận VLTT để tìm hài cốt chồng. Trước đống hài cốt la liệt ấy, nàng không thể nào nhận ra được bộ xương nào là của chồng mình nên than khóc dữ dội. Lúc ấy có một ông lão chợt đến bảo nàng:- “Hãy nhỏ giọt máu của nàng vào hài cốt, nếu bộ xương nào thấm lấy máu thì đúng là của chồng nàng, còn không thì nó sẽ trôi lăn đi. Ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác. Nếu nàng tìm được hài cốt chồng để chôn cất, tôi xin nguyện ở lại để gìn giữ ngôi mộ của chồng nàng”.
Nàng Mạnh Khương làm theo, quả nhiên tìm được hài cốt chồng. Chôn cất xong, ông già giữ đúng lời hứa, ở đó để giữ gìn ngôi mộ ấy.
Truyền thuyết “Hậu Thổ” (người giữ mộ) có từ đó.
*Theo sự phong tặng của Ngọc Hoàng Đại Đế, chức vụ của Phước Đức Chính Thần là vị thần coi sóc cai quản về khu vực đất đai . Trong giới Thần, chức vụ ấy không cao lắm, phạm vị quản hạt chỉ là một xóm một ấp hoặc một làng là cùng. Tương đương với chức vụ thế gian là Trưởng Ấp hay Chủ tịch Xã, Phường… mà thôi. Nhưng vai trò của Ngài rất quan trọng.
Theo truyền thuyết, mỗi khi người mới chết, trước tiên là phải đến trình Thổ Địa Công, Ngài sẽ cấp cho một “Chứng minh thư tử vong”. Sau khi chôn cất xong, vong linh đến trình với Thành Hoàng sở tại để đưa xuống cho Diêm Vương phán xét.
Do vậy, tuy Ngài chỉ là một thần nhỏ, nhưng gần gũi sâu sát với từng người, việc thiện ác, công tội của mỗi cá nhân Ngài đều nắm rất rõ, nên Thành Hoàng xác nhận tội phước rồi Diêm Vương căn cứ vào đó mà luận định. Thế nên, mọi người không nên coi thường chức vụ nhỏ bé của Ngài.
*Lần lần, xã hội biến đổi nên quan niệm về Thổ Địa cũng có phần thay đổi theo cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Do đó, Thổ Địa không còn chỉ là vị thần của nông dân, mà trở thành “Thần Tài” của mọi tầng lớp quần chúng đều thờ phụng. Như vậy, chức trách xưa của Ngài là quản lý về đất đai, nay thêm phần cai quản về tiền bạc nữa.
*Hàng tháng đến ngày mùng hai và mười sáu, mọi người đều cúng tế Thổ Địa Thần Tài. Đặc biệt vào ngày mùng hai tháng hai âm lịch thì gọi là “Đầu Nha” (mối mang dầu), ngày 16 tháng chạp thì gọi là “Vĩ Nha” (mối mang cuối) . Trong hai ngày nầy người ta tổ chức cúng rất trọng thể.
*Ngày nay, tuy nông nghiệp không còn được xem là vai trò chính của xã hội, nhưng sự tin tưởng, cúng bái Thổ Địa vẫn không sút giảm (có phần tăng hơn) . Theo tập quán dân gian, mỗi khi bắt đầu công việc xây dựng, tu tạo nhà cửa phòng ốc, làm cầu qua sông, dời chỗ ở, về nhà mới v.v…mọi người đều có “lễ cúng bái Thổ Địa” trước tiên (Người Việt Nam gọi là Cúng Đất Đai—NT) để cầu cho công việc thuận lợi tốt đẹp, an ninh , mau chóng đạt thành.
*Tùy theo mỗi vùng cai quản khác nhau mà có :-
-Thổ Địa Công thủ hộ ruộng đất
-Thổ Địa Công thủ hộ núi rừng
-Thổ Địa Công thủ hộ cầu đường …
-lại còn có Thổ Địa thủ hộ gia trạch (nhà cửa), chăn nuôi chuồng trại…
Hễ bất cứ nơi nào có bàn chân của người TQ đặt đến, là tức khắc có “Thổ Địa Công ứng thời sinh ra” ngay ! Cho nên tục ngữ TQ có câu :- “Điền đầu điền vĩ Thổ Địa Công” (đầu ruộng cuối ruộng đều có Thổ Địa Công) .
Tóm lại, tuy địa vị của Thổ Địa Công không cao, nhưng là vị thần thân cận, gần gũi, thương yêu giúp đỡ mọi người bất kể ngày đêm…nên Ngài trở thành “Vị Thần Thủ Hộ” quan trọng cho cư dân ở một địa phương.
*Khi làm lễ an vị Thổ Địa, đừng quên cúng tế Địa Chủ, tức là người chủ đầu tiên của ngôi (nền) nhà mình đang ở.
Một điều cần phải hết sức chú ý là, khi đến ở một chỗ mới, có người lại mang theo bài vị thờ Thổ Địa cũ để tiếp tục thờ. Điều nầy hết sức nguy hiểm, vì thực ra, khi dời đến chỗ mới, thờ tiếp vị Thổ Địa cũ thì sẽ sinh ra “hai vị Thổ Địa cũ và mới tranh nhau ngôi vị”, gây ra tình trạng không tốt cho người trong nhà, hay gây gổ, bất hòa, làm ăn không tiến triển v.v…
MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI THỜ THỔ ĐỊA, CÚNG TẾ ĐỊA CHỦ
Thổ Địa, Địa Chủ tất nhiên là thuộc về “thổ khí”, nếu dùng các loại gỗ để tạc tượng thì “bị mộc khắc”, không tốt. Cho nên, Thổ Địa Thần Tài phải dùng đất để tạo tượng mới đúng.
Ngay cả lư hương cắm nhang, cũng phải dùng loại bằng đất hay sành sứ chế tạo, không nên dùng các loại kim loại, đồng sắt… để thờ cúng, vì thổ sinh kim, chiết giảm bớt vượng khí của thổ.
Bàn thờ Thổ Địa nên đặt những giấy ngũ sắc và đồng tiền xu cổ. Cần phân biết phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc mà đặt tờ giấy ngũ sắc cho đúng vị trí. Trên mỗi tờ giấy đặt một đồng tiền cổ.
Giấy ngũ sắc đặt theo phương hướng như sau:-
-Màu lục đặt ở phương Đông.
-Màu đỏ đặt ở phương Nam.
-Màu trắng đặt ở phương Tây.
-Màu tía (đen) đặt ở phương Bắc.
-Màu vàng đặt ở trung ương.
*Sau khi an trí đầy đủ, đọc bài
“An Thổ Địa chân ngôn” sau đây ba lần:-
“NAM-MÔ TAM MÃN ĐA, MẪU ĐÀ NẪM. OM, ĐỘ RÔ, ĐỘ RÔ ĐỊA VĨ TA-BÀ-HA”. (SVAHA)
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=2400.30
=============
Phước Đức Chính Thần
(Thổ Địa Công )
Thổ Địa là vị thần thủ hộ về đất đai nhà ở. Danh xưng chính thức của Ngài là “Phước Đức Chính Thần” . Trong dân gian còn xưng là “Hậu Thổ”, “Xã Thần”, “Xã Công”, “Bá Công”, “Thổ Địa” hoặc “Phúc Thần” . Ở các nơi thờ phụng ngoài trời hay Miếu Vũ thì tôn xưng là “Phước Đức Chính Thần”.
*Đất nước chúng ta (TQ) từ xưa lấy nông nghiệp làm gốc, cho nên trăm họ đều coi trọng đất đai, vì có đất mới có thể sản xuất ra ngũ cốc để ăn mà sống. Vì thế, đối với đất đai có sự biết ơn rất lớn, từ đó, sinh ra tâm lý sùng bái và sáng tạo ra một vị thần đất để thờ phụng. Thổ Địa Công hiện hữu là như vậy.
*Đời nhà Châu, cứ 25 nhà thì gọi là một xã. Mà đã lập ra xã, thì hàm nghĩa là đã có “đất”. Thế nên sau khi lập thành xã, thờ vị thần đất gọi là “Thổ Địa Công”. Mỗi xã lập ra một cái “đàn” để cúng Thổ Địa, cầu cho trúng mùa no ấm.
*Theo truyền thuyết thì Thần Hậu Thổ là vị chưởng quản hết tất cả đất đai chung cả nước, vậy Thổ Địa Công là vị coi sóc vùng đất nhỏ của địa phương nào đó. Phàm người lúc sống mà có công đức với vùng đất nào đó, thì khi chết được phong làm Thần Thổ Địa. Sở dĩ Thổ Địa được tôn xưng là “Phước Đức Chính Thần” là vì lúc xưa, các tụ lạc gọi là “Xã” và gọi thần Thổ Địa là “Xã Công”. Lúc mới bắt đầu thờ thì còn rất là trừu tượng, về sau mới nhân cách hóa bằng hình ảnh hai vợ chồng, gọi là Xã Công và Xã Mẫu, cũng gọi là “Thổ Địa Công” và “Thổ Địa Bà”. Đó là vị thần tượng trưng cho đạo nghĩa của đất nước. Vì thế, Thổ Địa là vị thần đứng đầu trong hàng các thần được thờ cúng.
*Ngày xưa, việc cúng tế trời đất chỉ dành riêng cho vua chúa mới được cúng , gọi là “Xuân Thu nhị tế” (cúng vào hai mùa Xuân Thu). Do đó, dân gian mới tạo ra hình tượng Thổ Địa Công để nói lên sự biết ơn đối với đất đai trồng trọt mà khỏi phạm vào luật cấm của vua quan.
Đất nước ta (TQ) theo nông nghiệp là chính, nên trước khi vào vụ trồng cấy, cúng vái Thổ Địa phù hộ cho trúng mùa, đến lúc thu hoạch thì cúng Thổ Địa để tạ ơn được mùa. Lần đầu cúng gọi là “Xuân kỳ”, lần sau cúng gọi là “Thu báo”.
-Ngày xưa, lễ “Thu báo” thường là vào ngày rằm tháng tám, tức là lúc đã thu hoạch xong mùa vụ, vừa cúng tạ ơn trúng mùa, vừa cầu xin phước lộc với Ngài “Thổ Địa Công”. Có lẽ đây là nguồn gốc của Tết Trung Thu ngày nay vậy.
*Việc sùng bái Thổ Địa phát triển mạnh vào thời Minh Thái Tổ. Theo “Lang Nha Mạn Sao” nói rằng, Minh Thái Tổ sinh ra đời trong một cái Miếu Thổ Địa, cho nên thời nhà Minh, số lượng Miếu Thổ Địa tăng rất nhiều, không nơi nào là chẳng có .
*Việc tạo ra hình tượng Thổ Địa Công cũng nói lên được những nét đặc thù về chức trách của Ngài. Đó là một ông già râu tóc bạc trắng, tay cầm gậy tượng trưng cho sự gìn giữ đất, một tay cầm khối vàng hoặc ngọc như ý, là nói đây là Thần Tài của vùng đất. Nếu nơi nào có được những người đỗ đạt trạng nguyên, tiến sĩ (ngày nay là hương trưởng, huyện trưởng) thì Thổ Địa nơi đây có thêm chiếc “mão quan”.
*Trong dân gian, ngoài việc thờ Thổ Địa Công làm thần đất, còn thờ thêm Tài Thần và Phúc Thần, vì dân gian tin rằng, hễ “có đất là có tiền”, do đó, Thổ Địa Công được các thương gia tôn làm “thần thủ hộ”.
Truyền thuyết nói rằng,Ngài ngoài chức trách giúp cho nông dân trúng mùa, còn thêm chức năng trấn yểm quỉ thần, giải trừ xua đuổi ác ma. Vì thế, dân gian hay đến miếu để thỉnh Ngài về nhà trừ tà ma yêu quái. Về sau mới phát triển dần đến việc mỗi nhà đều có thờ “Ngũ Thần” trong đó có Thổ Địa Công. Còn nhà nào không thờ Thổ Địa thì mỗi tháng vào ngày mùng hai và mười sáu. Bày hương án ra trước cửa cúng vái Thổ Địa Công, từ đó hình thành tập quán cúng Thổ Địa vào hai ngày sau ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) (tức là ngày mùng 2 và ngày 16) (*Ngày nay trở thành cúng cô hồn chiến sĩ-ND)
*Hình tượng thờ Thổ Địa thường là một vị đầu đội mão, hai bên mão có hai tua phủ xuống đến vai. Mặt vuông mà đầy đặn, hai mắt hơi híp, tóc bạc râu dài bạc, dáng dấp hiền hòa dễ thương. Mình ngồi ghế “thái sư”, tay phải cầm ngọc như ý hoặc cầm trượng, tay trái nắm “khối vàng”, hai vai là đầu và đuôi rồng thêu trên áo lộ ra, bụng to nổi lên rất đẹp, hai chân buông xuống theo thế tự nhiên. Trong ý tưởng của dân gian hai âm “phúc” (bụng) và “phúc” (trong phúc đức) là giống nhau, cho nên người ta dùng hình tượng “bụng to” để nói lên sự “được phúc lớn”.
*Truyền thuyết về Thổ Địa Công rất nhiều :-
* Phước Đức Chính Thần họ Trương tên Phước Đức, sanh vào ngày mùng hai tháng hai đời Chu Vũ Vương năm thứ hai. Từ nhỏ, tỏ ra thông minh và rất hiếu thảo. Đến năm 36 tuổi, làm quan thâu thuế của triều đình. Ông rất liêm chính, thương xót bá tánh khổ sở, nên đã tâu xin giảm nhiều hạng mục thuế vụ, dân chúng rất sùng kính. Đến năm thứ ba đời Chu Mục Vương thì từ trần, thọ một trăm lẻ hai tuổi. Chết đã ba ngày mà mặt không đổi sắc, có một nhà nghèo kia đem bốn tảng đá lớn xây thành ngôi nhà bằng đá để thờ phụng ông. Chẳng bao lâu sau, nhà nghèo kia trở nên giàu có, mọi người đều tin là do thần ân hộ trì, nên chung lại mà xây thành Miếu Thờ , lễ lạy kim thân Ngài. Những người buôn bán thường đến cúng bái, được Ngài gia hộ nhiều may mắn. Vị quan thâu thuế thay Ngài rất tham lam, bóc lột nhân dân thậm tệ, ai nấy rất oán giận. Do đó, người ta tưởng nhớ đến lòng tốt của Trương Phước Đức thêm nhiều, và miếu thờ của Ngài trở thành Miếu Thờ “Phước Đức Chính Thần”.
*Lại có một truyền thuyết khác, vào đời Thương ,Chu, vị quan thượng đại phu ở triều đình, trong nhà có một tên đày tớ họ Trương tên Minh Đức. Người con gái nhỏ của quan đại phụ nhớ cha, nhờ người đày tớ họ Trương nầy ẳm đi thăm cha. Nhưng trên đường xa, ngày nọ bổng trời đổ tuyết xuống rất nhiều, đứa con gái nhỏ sắp chết cóng, nhưng nhờ họ Trương xả thân lấy hết quần áo ủ ấm cho bé gái thoát chết, còn bản thân anh ta thì bị chết vì lạnh lúc quay trở về nhà. Khi người nghĩa bộc vừa chết, trên không trung bổng hiện ra tám chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Thần”. Mọi người lấy làm kinh dị, cho rằng thiên đình đã phong chức cho người nghĩa bộc họ Trương . Còn vị quan đại phu cảm niệm ơn đức cứu mạng con mình, dã cho xây Miếu Thờ. Đến đời Chu Vũ Vương được người đời tặng là “Hậu Thổ”, cho nên Thổ Địa Công mới có danh hiệu “Phước Đức Chính Thần”.
*Cũng có truyền thuyết nữa là, vua Tần Thủy Hoàng bạo ngược, bắt dân xây dựng Vạn Lý Trường Thành, người chồng của nàng Mạnh Khương tên Hàn Kỷ Lang cũng bị bắt đi làm xâu (sưu), chẳng may bị chết dưới thành. Nàng Mạnh Khương đi tìm xác chồng nhưng không gặp, liền khóc đến nổi lật cả tường thành lên, hiện ra vô số bộ xương người, không có cách nào biết được xương của ai. Có một lão ông xuất hiện bảo:-“Trích máu của người vợ nhỏ vào xương, nếu xương nào hút máu cực nhanh, thì đó là xương của chồng. Nếu tìm được xương của chồng cô rồi, tôi nguyện làm người giữ mộ”. Nàng Mạnh Khương nghe theo, quả nhiên nhận ra hài cốt của chồng, cùng ông lão đem chôn cất. ôn giữ lời hứa, ở mãi nơi đó giữ mộ đến cuối đời. Từ đó có truyền thuyết về “hậu thổ” là vì thế.
*Trong sách “Lễ Ký—Giao Đặc Tính” có ghi:- “Người gia chủ là “trung lựu” , tức là người đứng đầu của “xã” (làng)” (Thần Trung Lựu tức là Thổ Thần).
*Sách “Lã Thị Xuân Thu—Mạnh Đông Ký” chép:- “Nầy là tháng tốt, từ công xã đến xóm ấp, hưởng “ngũ kỷ” của tổ tiên” (Ngũ kỷ gồm:- Mộc là thần Câu Mang, cúng để giữ nhà, Hỏa là thần Chúc Dung, cúng để giữ bếp, Thổ là Hậu Thổ, cúng thần Trung Lựu (hậu thổ tức là “xã”), Kim là thần Nhục Thu, cúng để giữ cửa, Thủy là thần Huyền Minh, cúng để giữ giếng)
*Sách “Bạch Hổ Đạo Nghĩa” nói rằng:- “Ngày xưa, từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng được phong đất để lập ra “xã”, lấy phước của người ấy mà báo công. Người mà không đất thì không thể lập ra “xã”, không có ngũ cốc thì chẳng có cái để ăn, cho nên phong đất lập “xã” ắt phải có Thổ Địa vậy” Hoặc :-“Xã tức là Thần Thổ Địa vậy”, Hậu thổ của người gọi là “Xã Thần” hay “Thổ Thần”.
*Trong “Thần Dị Điển—Xã Tắc chi thần Tổng bộ luận” có nói:- “Bậc tiên nho cúng tế Thần Ngũ Thổ tại mỗi “xã”. Ngũ Thổ là:- một là rừng núi, hai là sông ngòi, ba là gò đống, bốn là sình lầy, năm là đồng bằng. Đời nhà Minh gọi “xã” tức bây giờ gọi Thổ Địa. Phàm ở chỗ có đất, người mới nương tựa được, nên phải cúng đất”. Cho nên, bất cứ nơi nào cũng phải có “Xã Thần”, bởi vì dù lớn như một nước, nhỏ như một địa phương, nếu chẳng luận đến tôn ti trật tự thì không thể tồn tại được”. Lại nói thêm :- “Đầu ruộng đuôi ruộng đều là của Thổ Địa Công” để thể hiện sự tôn kính đối với thần xã. Thưở ban sơ, vị nào đến một nơi hoang vu để khai phá, cũng hết sức vất vả khổ sở và chịu nhiều hiểm nguy mới biến thành đất bằng, tạo nên làng xã. Những vị nầy rất xứng đáng được người sau tôn thờ làm Thổ Địa Công lắm vậy !
*Sách Hiếu Kinh Vĩ nói:- “Thần xã tức là sao Khuê của đất đai. Đất đai ngày nay được rộng lớn chẳng thể không kính trọng người có công khai phá, vì thế phong Thổ Địa làm Thần Xã , là cách tưởng nhớ công ơn người trước vậy”
*Sách “Xuân Thu Tả Truyện” viết:-“Thần Cộng Công có người con trai tên Câu Long, giúp Chuyên Húc an định chín vùng đất, nên thành ra Hậu Thổ, lại phong làm Thượng Công, khi cúng tế thì gọi là Thần Xã”.
*Sách “Lễ Ký—Vương Chế” có viết:- “Cúng tế cho “xã” của vua làm cỗ lớn, cúng tế “xã” của chư hầu làm cỗ nhỏ.” Lại nói:- “Vua hợp nhiều người lại làm “Xã”. Xã là Hậu Thổ, để cho dân thờ cúng”. Vậy nói Hậu Thổ tức là nói vị thần của “Xã” vậy.
*THỔ ĐIA CÔNG là thần thủ hộ của một địa phương làng xã, quản lý hết đất đai của mọi người mọi nhà. Nên tục ngữ nói “Trang đầu trang vĩ Thổ Địa Công” (đầu xóm cuối xóm cũng là đất của Thổ Địa). Vì thế, nơi nào cũng phải thờ kính, người người đều phải cúng. Từ người buôn bán đến nông dân…ai cũng hết sức thành tâm cúng tế Ngài.
Thổ Địa Công đã từ “thần đất” chuyển hóa thành “thần người”, biểu lộ tinh thần “Trời người hợp một” của người Trung Quốc, thành ra quan niệm có tính cách “đa thần”, dung hợp được chủ thể và khách thể một cách hài hòa.
Ngày nay, tuy xã hội đã có nhiều tiến bộ về khoa học, nhưng niềm tin về Thổ Địa Công vẫn không mất. Từ những nhà hàng lớn, hảng xưởng, công ty, tiệm quán đến từng nhà mọi người… đâu đâu cũng thấy có sự hiện diện của Thổ Địa Công. Bởi vì Ngài là Phước Thần, Tài Thần mang lại sự phồn vinh giàu có cho mọi người, niềm tin về Ngài có lẽ mãi mãi không bao giờ mất.
*Hàng năm vào ngày mùng hai tháng hia âm lịch (Xuân Kì) và ngày rằm tháng tám (Thu Kì) . chúng ta nên cúng tế Thổ Địa Công để cảm tạ ân đức của Ngài.
*Ngày vía chính thức của Phước Đức Chính Thần là ngày mùng hai tháng hai âm lịch.
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=958.45
-
theanh:
Cúng Thổ Địa
Nguồn Gốc :
Phúc Đức chính Thần hay còn gọi là Thổ Địa Công ( Ông Đất Đai ) , dân gian còn gọi là Phúc Đức Gia ( Cha Phúc Đức ) , Bá Công ( Ông Bác ) , Đại Bá Gia ( Ông Bác Lớn ) , tại vùng ngoại thành nông thôn , nơi đất mộ quen gọi là Hậu Thổ . Tại vùng Phúc Kiến Quảng Đông miếu thờ thổ địa gọi là Thổ Địa Công Miếu Tử hoặc Phúc Đức Cung , có chỗ gọi là Đại Bá Công Từ hay Phúc Địa .
Trung Quốc vốn là một nền văn minh nông nghiệp vì thế trong tâm lý mọi người tất sẽ sùng bái đất đai tự nhiên . Từ đó mà tin tưởng ở Thổ Địa Công .Thổ Địa Công từ từ được nhân cách hóa . Các truyền thuyết về Thổ Địa trong dân gian có rất nhiều :
Thổ Địa Công nguyên là một vị quan trong triều nhà Chu có tên là Trương Phúc Đức , sinh vào Chu Vũ Vương năm thứ hai tháng hai ngày mùng hai . Từ nhỏ thông minh chí hiếu , lúc 36 tuổi làm quan thu thuế của triều đình , rất là liêm chính , chăm chỉ thương dân . Đến Chu Mục Vương năm thứ 3 tạ thế , hưởng thọ 102 tuổi . Sau khi ông mất thế sự thối nát , quan lại suy đồi , trong nhân gian lúc đó lại tưởng nhớ đến tấm gương liêm chính của ông không thôi , từ đó lập miếu thờ cúng , có một hộ nghèo dâng bốn viên đá lớn xây thành tường để thờ cúng , qua một thời gian chuyển nghèo thành giàu , trăm họ từ đó tin vào ân điển của Thần , liền xây miếu lập Kim Tượng ngài mà cũng tế sau gọi là Phúc Đức Chính Thần được nhân gian khắp nơi lễ kính .
Ngoài ra còn rất nhiều dị thuyết khác nhưng nói chung trong Tâm Thức Dân Gian Thổ Địa Công chính là một vị Phúc Đức Chính Thần vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế sống liền kề với con người bảo vệ , che chở cho con người . Ông là Thần mà vẫn gần gũi với nhân dân , lại không mất vẻ tôn nghiêm của một Thần Linh .
An Thổ Địa Cần Chú Ý Mấy Điều:
Nên Chọn đúng phương vị Tài Lộc mà bày ! Như vị trí Sinh Khí, Diên Niên, Thiên Y của phái bát trạch. Vị trí sao đương vượng hoặc 1 trong Tam Bạch đang là Tiến Khí, Sinh Khí. Hoặc căn cứ theo vị trí cửa đi mà đặt theo 1 trong 2 góc xéo so vơi cửa chính.
Địa Chủ cần có Thổ Khí , nếu ban thờ làm bằng gỗ nên nót thêm gạch nung , đề Thổ Địa Công có được địa khí .
Bát Hương nên dùng loại bằng sành sứ nếu dùng bằng đồng sắt sẽ làm tiết thoát thổ khí .
Địa Chủ có áo Kim Long và Cổ Tiền , Ngũ Sắc Kim Long có 5 màu chia làm 5 phương hướng theo ngũ hành rồi đặt đồng tiền lên trên trên đồng tiền đó đặt bạc , vàng , tiền giấy ( Mã ) , tiền xu ( Mã ) . Sau khi bày biện xong thì đốt hương niệm kinh .
An Thổ Địa Chân Ngôn :
Nam Vô Tam Mãn Đa . Mẫu Đà Nam . Ông . Độ Rô , Độ Rô Địa Vĩ . Xoa Va Ha .
Thế Anh Lược Dịch
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=343.0;wap2
==========
80A - 8668:
Thưa Bác TA !
Các bài của bác đưa lên hay quá . 80 A chỉ có một thắc mắc nhỏ là các bài viết mới lược dịch . Giá mà dịch "toàn tập" thì hay biết bao .
Cám ơn bác đã quan tâm .
theanh:
Kính Chào bạn 80 A !
Cảm Ơn bạn đã thường xuyên ủng hộ ! Xin được giải thích đôi chút về Lược Dịch, thực ra thì đây hầu như chỉ là các bài viết ngắn thôi ! Tôi cố gắng dịch đưa lên để mong sao bà con có được cái nhìn sâu hơn một chút về những cái mình đang làm ( Biết mình thờ cúng ai, làm cái gì ). Đôi khi tài liệu không chỉ lấy ở một chỗ nên tôi gọi là "Tổng Hợp", có khi lược bớt những điều không phù hợp với văn hóa Việt nam, hoặc những điều mà một người bình thường không làm được, hoặc lấy ở những trang mà có bản quyền về bài viết thì khi đó đành phải đề là "Lược Dịch" ! Tuy nhiên nói là lược dịch nhưng hầu như cũng không có thiếu sót gì đâu bạn ! Tôi cũng mong đến lúc nào đó Tổng hợp viết được một cuốn sách tương đối toàn vẹn về một vấn đề và được đóng "Ấn Độc Quyền" của trang nhà : www.hoangthantai.com .........Khi đó rất mong được các bạn ủng hộ !
Một lần nữa xin cảm ơn về sự quan tâm và góp ý để mình ngày càng có bài dịch tốt hơn ! :x :x :x
Trân Trọng !
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=343.0
-
Thổ công
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này nói về một vị thần đất tại Á Đông; xem thêm về thần đất và nữ thần đất trong các nền văn hóa khác.
Thần Thổ Địa trong chùa Ngọc Hoàng ở quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Thổ Công (còn được gọi là Thổ Địa hay Thổ thần), là một vị thần trong tín ngưỡng Châu Á, cai quản một vùng đất nào đó. người ta cho rằng, Thổ công rất thích đùa nghịch với trẻ con và rất thích ăn tỏi.[cần dẫn nguồn]
Nguồn gốc Thổ Công[sửa | sửa mã nguồn]
Thần đất[sửa | sửa mã nguồn]
Người Việt có câu: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá", nghĩa là theo niềm tin thì ở phạm vi nào thì ở đó có vị thần cai quản ở đó. Đối với tín ngưỡng thờ kính Thổ công, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai: xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt... thì người ta thường cúng vị thần này qua lễ động thổ. Thổ Công còn được gọi Ông Địa và người ta lập bàn thờ đặt ở mặt đất (đất phải về với đất); nhiều nơi, vì ảnh hưởng Trung Hoa còn gọi Ông Địa là Thần Tài[cần dẫn nguồn] (mọi thứ đều từ đất mà ra).
Thần trông nhà (quản gia)[sửa | sửa mã nguồn]
Thổ Công là một dạng của Mẹ Đất, là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Một số giả thuyết cho rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện Sự tích Táo quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng thứ hai là Thổ Công (trông coi việc bếp núc, còn gọi là vua bếp), người chồng thứ nhất là Thổ Địa (trông coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán, chợ búa cho phụ nữ trong nhà và sản sinh vật ngoài vườn). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà.
Ông Địa của người Việt[sửa | sửa mã nguồn]
Ông Địa trong màn múa lân ngày Tết ở California
Riêng người Việt thì coi Ông Địa như một vị thần hể hả, bình dân, hình dạng mập mạp, bụng phệ. Ông Địa ăn mặc xuề xòa, có khi ở trần, tay cầm quạt lá, tướng tốt vì lúc nào cũng vui cười. Vị thần này dễ tính nên khấn vái không cầu kỳ, chỉ nải chuối cũng đủ.[1]
Ông Địa của người Việt thường xuất hiện mỗi khi múa lân, coi như một năng lực cân bằng thú tính của con lân hay sư tử, thuần hóa nó thành một con vật mang điềm tốt lành. Có nơi còn nhập Ông Địa và Phật Di Lặc là một.
Thờ cúng[sửa | sửa mã nguồn]
Theo niềm tin, Thổ Công là một trong những vị thần quan trọng trong gia đình, bên cạnh Táo quân. Đứng ở ngoài nhìn vào: Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về. Việc cúng Thổ công Cũng là 1 vấn đè khá lý thú với người Việt Nam ta. Những người Hoa Kiều và một số người miền nam thường khi cúng thổ công thì ăn trước một miếng trước bàn thờ thổ công (vì theo một vài sự tích thì thổ công bị đầu độc nên chết, nên ông rất sợ bị chết vì vậy khi ai cúng ông thì phải ăn một miếng thì ông mới dám ăn), còn người miền bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.
Người ta cúng Thổ Công vào ngày 1,15 (âm lịch) và các dịp lễ Tết khác.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%95_c%C3%B4ng
=========
Thảo luận:Thổ công
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bạn có tin nhắn mới Tin nhắn! (thay đổi gần đây).
Untitled[sửa mã nguồn]
Tôi cho rằng Thổ công và Táo quân là hai thần khác nhau, vì:
Thổ công (thổ thần, địa thần) là vị thần cai quản đất đai (có thể là nhà của gia chủ, của cơ quan, tổ chức hay nghĩa địa). Lễ cúng Thổ công có thể tiến hành vào thời điểm tốt (giờ hoàng đạo) trước khi động thổ (đào đất) để xây dựng. Riêng ở nghĩa địa thì không gọi là thổ công mà chỉ gọi là thổ thần hay đơn giản là thần linh - có thể thắp hương trước khi người ta thắp hương cho tổ tiên của mình vào bất kỳ lúc nào, thông thường là vào tiết Thanh minh hay ngày mất của người quá cố. Tuy nhiên, không có tài liệu nào xác định Thổ công là một hay nhiều thần, nhưng có lẽ chỉ có một vị là nam thần. Thổ công hiện diện ở mọi nơi, trừ nơi có nước (Đất có Thổ công, sông có Hà Bá).
Thần bếp (Táo quân, ông Táo, vua bếp, ông đầu rau) là 3 thần (2 nam, 1 nữ) trông coi việc bếp núc trong gia đình. Thú vị một điều là tuy gọi là ông Táo nhưng lại là 2 ông 1 bà. Táo quân chỉ hiện diện trong bếp mà thôi.
Lễ cúng 23/12 âm lịch là lễ tiễn chung ông Công, ông Táo về chầu trời. Trong ngày này ông Táo được cúng dưới bếp, còn ông Công được cúng ở ban thờ chính trên nhà cùng với gia tiên. Do vậy, cần ít nhất 2 ban thờ + 2 cá chép. Sau khi hóa vàng thì tro của bát hương, chân hương và cá chép sẽ được thả xuống sông, hồ để tiễn đưa các thần về Trời. Hiện nay, ở các thành phố người ta hay tách ra làm 3: Táo quân - trong bếp, tổ tiên - ban thờ chính trong nhà, Thổ công được gộp chung vào ban thờ ngoài trời, gọi là bàn thờ Trời Đất, thông thường là trên sân thượng của các nhà mái bằng.Vương Ngân Hà 03:29, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Trong nam thì tôi không rõ, còn ngoài bắc thì Thần Tài không phải nhà nào cũng thờ cúng, chủ yếu là trong các gia đình buôn bán. Ban thờ thần Tài thông thường đặt ngay trên mặt đất. Tượng thần Tài trông giống như tượng Phật Di Lặc, tuy có một số diểm khác để có thể phân biệt được (trong tư thế đứng hay ngồi, có hay không có trẻ con vây quanh v.v). Tôi chắc rằng thần Tài không phải là Thổ công mà cũng chẳng phải Táo quânVương Ngân Hà 03:43, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Cám ơn anh Vương Ngân Hà, nói đúng ra là trong ba ông đầu rau thì:
Chống mới là Thổ Công, trông nom việc trong bếp
Chống cũ là Thổ Địa, trông nom việc trong nhà
Vợ là Thổ Kỳ, trông nom việc chợ búa
Trong rất nhiều sách vở gọi tất cả là thổ công nên có thể dễ gây lầm lẫn, tôi sẽ bổ sung thêm chi tiết trên nêu anh đồng ý. Zạ Trạch 03:52, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Vấn đề này không đơn giản, một số tài liệu gán ghép cho Táo quân là bộ ba Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ và cho rằng Thổ Công coi sóc nhà cửa, Thổ Địa coi việc bếp núc và Thổ Kỳ coi việc chợ búa. Xem thêm của tác giả Phạm Thành Chủng. Điều này tương đương với Thổ Công chỉ là một trong ba vị Táo quân. Tuy nhiên, ở khu vực mà tôi đang sống thì Thổ công là Thổ công, Táo quân là Táo quân (2 ông + 1 bà) không trộn lẫn làm một như trên đây tôi đã trình bày (thổ thần không chỉ tồn tại trong khu vực đất đai có người sống mà ở bất kỳ đâu có đất không bị nước che phủ, thờ cúng vào thời điểm bất kỳ trước khi người ta làm một việc gì đó liên quan đến đất cát). Các tên gọi Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ như là tên gọi của 1 trong 3 vị Táo quân chỉ thấy có trong phim ảnh Trung Quốc được dịch sang tiếng Việt. Ngay trong các tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam cũng không nói gì đến việc Thổ Công (Thổ Địa, Thổ thần) liên quan đến Táo quân và cũng không tách bạch 3 táo quân ra với tên gọi cụ thể như phim ảnh Trung Quốc.Vương Ngân Hà 04:16, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Tôi thấy trong phần lớn các tài liệu nghiên cứu ví dụ [1] hoặc bài của anh đã trích dẫn đều cho rằng Thổ Công là một người trong bộ ba Táo Quân. Cuốn "Tìm về bản sắc VH Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm được dùng là tài liệu chủ yếu giảng dạy ở trường ĐHKHXH TPHCM cũng ghi như vậy. Nên nếu không có tài liệu nào đáng tin cậy hơn đưa ra giải thích khác, tôi sẽ dùng giải thuyết đã nêu trên. Cám ơn anh đã góp ý. Zạ Trạch 04:41, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Hiện tôi không có sẵn tài liệu, nhưng trước nay tôi chỉ biết táo quân hay thần bếp chỉ là ông thần bếp (của từng nhà) thôi; còn thổ công hay thổ địa là ông thần đất coi 1 vùng đất. Avia 07:40, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Tôi chưa có điều kiện đọc cuốn sách của tác giả Trần Ngọc Thêm, nên không biết và sẽ không bình luận về các luận cứ (nếu có trong đó) ông đưa ra để chứng minh Thổ Công chỉ là một trong ba vị Táo quân. Tôi chỉ trình bày những gì mà tôi, sau khi đọc Sự tích Táo quân trong tuyển tập Truyện cổ tích Việt Nam, cảm nhận được.
Theo tôi hiểu thì ngày xưa người ta đun bếp bằng rơm, rạ, củi trên các bếp có 3 cục đầu rau nặn bằng đất sét (3 trụ bằng đất sét đặt cách nhau khoảng 120 độ để đặt xoong, nồi cho vững), và sự tích Táo quân/thần bếp liên quan đến 3 cục đầu rau này. Người ta nghĩ ra câu chuyện 2 ông chồng và 1 bà vợ để tô vẽ cho 3 cục đầu rau (cũng na ná như Sự tích trầu cau, nếu User:Zatrach đã từng sống ở các vùng nông thôn Bắc Bộ thì nhận thấy ngay là bếp có 3 đầu rau hiện nay vẫn còn được sử dụng khá rộng rãi). Nó khó có thể liên quan đến Thổ công - là vị thần quản lý đất đai, có thể tồn tại ở những chỗ hoàn toàn vắng mặt các thần bếp, cũng giống như người ta nói "núi có sơn thần", thì vị sơn thần ấy có lẽ cũng đóng vai trò giống như thổ công ở đồng bằng, trong thế giới tâm linh họ đều được coi như là các vị thần trấn giữ vùng đất đồng bằng hay đất núi đó, không cho ma quỷ xâm phạm. Còn trong phạm vi gia đình thì thổ công trấn giữ nhà cửa, bảo vệ cho gia chủ khỏi mọi tai ương.
Nếu coi Thổ công chỉ là 1 trong 3 vị Táo quân thì ông Thêm sẽ giải thích thế nào khi người ta cúng Thổ công trước khi đào đất để xây dựng (nhà cửa, công sở, mồ mả v.v) ở những chỗ hoàn toàn không có người ở trước đó, mà 3 vị Táo quân thì luôn luôn phải đi cùng với nhau và chỉ liên quan đến việc bếp núc. Ngay như trên bàn thờ tổ tiên (nếu không tách riêng ra) thì Thổ công được thờ ở bên trái mà không thấy ai thờ Táo quân trên nhà cả. Như vậy, những luận cứ ông Trần Ngọc Thêm đưa ra trong sách của mình không đủ cơ sở vững chắc để chứng minh Thổ Công chỉ là 1 trong 3 Táo quân, sự tích Táo quân chỉ để tô vẽ hình ảnh của 3 cục đầu rau vốn chỉ tồn tại trong bếp mà thôi.
Cho nên tôi sẽ bảo lưu ý kiến là: Thổ công không phải là 1 trong 3 vị Táo quân mà là một vị thần riêng biệt, có vai trò lớn hơn và được thờ cúng trang trọng hơn, nhiều hơn trong thế giới tâm linh.Vương Ngân Hà 08:07, 23 tháng 5 2005 (UTC)
Vương Ngân Hà nói đúng. Thổ công là Thổ công còn ông Táo là bộ ba Táo quân. (Ngay cả tôi, không phải là người Việt cũng biết.) Ông Táo được cúng trước Tết, mỗi năm. Thổ công được cúng mỗi lần dùng đến đất đai: xây nhà, mở ruộng mới, đào huyệt... Mekong Bluesman 05:52, 24 tháng 5 2005 (UTC)
Theo những hiểu biết của em và tham khảo cả ý kiến của Ông Bà Bố Mẹ, thì bạn Vương Ngân Hà nói đúng quá rồi. (Yen 30486) Mình đồng ý với bạn Vương Ngân Hà khi nói rằng Thổ Công (Thổ Thần, Thổ Địa) là một người, tách biệt hoàn toàn với Ông Táo. Mình vừa có dịp quan sát một lễ cúng Thổ Thần trong dịp cúng miếu ở tx Thuận An, tỉnh Bình Dương. Trong lễ cúng miếu này, lễ vật cúng Thổ Thần được đặt trực tiếp trên đất gồm 1 con cá lóc nướng trui (hay thui gì đó, thấy đen thùi lùi), một chén mắm, 1 đĩa rau lang luộc, 1 chén xôi chè, một đĩa gạo muối, 3 miếng trầu, 3 bài vị bằng mã. Khi lễ cúng miếu kết thúc, những đồ cúng này sẽ được đem bỏ ở một nơi nào đó, đồ vàng mã thì đem đốt. Ông Táo thì chỉ quanh quẩn trong "3 xó bếp" thui, có khi nào được cúng như vậy đâu. 123.22.115.70 (thảo luận) 03:03, ngày 27 tháng 6 năm 2011 (UTC) Mình thấy trong chuyện " kho tàng chuyện cổ tích việt nam " tác giả Nguyễn Đổng Chi viết về sự tích ông Đầu Rau . Mình thấy rằng Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ thực chất cũng là Táo Quân. Khi 3 người mất lên trời phong cho chức tước là : Người chồng sau tên là Phạm Lang là Thổ Công , gọi tên tước đầy đủ là : " Đông trù tư mệnh Táo Phủ thần Quân ", Thổ công ghi chép coi việc trong nhà, cuối năm lên báo cáo nhà Trời. Thổ Địa tức là người chồng trước tên là Trọng Cao. Khi đuơng thời Trọng Cao vì ham mê lô đề cờ bạc mà người vợ bỏ đi , do đó khi cúng Thổ Địa người ta thường cúng tiền vàng nhiều là lẽ ấy.Khi Trọng Cao mất nhà Trời phong tên chức tước gọi đầy đủ là: " Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần".Thổ Địa trông coi vận khí cát trạch cho gia chủ
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%...B%95_c%C3%B4ng
-
Thổ thần
Danh từ
thần đất
lễ tế thổ thần
Đồng nghĩa: hậu thổ, thổ công, thổ địa
https://www.rung.vn/dict/vn_vn/Th%E1%BB%95_th%E1%BA%A7n
-
photue
24-04-2015, 02:21 PM
Đối với thế giới Tâm Linh mà nói thì mỗi khu vực người trần sinh sống được quy định phạm vi giới hạn riêng gọi là Long Mạch. Mỗi Long Mạch rộng lớn đó có một vị Quan Thổ Địa cai quản gọi là Quan Đương Xứ Thổ Địa chính thần hay là Thổ Thần
Dưới Quan Đương Xứ Thổ Địa chính thần là Bản Cảnh Thành Hoàng Bản thổ đại vương (hoặc là Đương Cảnh Thành Hoàng) có nhiệm vụ quản lý trông coi làng xóm, thôn ấp, là phạm vi nhỏ thuộc long mạch.
Thường thì Thành Hoàng làng khi còn là nhân sinh nơi cõi trần họ là những người có công trạng đối với đất nước, hoặc đối với dân chúng, khí thế hiên ngang, tài năng hơn người.... Khi chết được phong thần, được bá tánh ngưỡng mộ tôn thờ, trở thành nhân thần và khi cúng lễ kính trọng người có công đức nên nhân dân khấn lễ thêm chữ Đức trước danh vị.
Dưới Thành Hoàng Bản Cảnh là các vị Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ (quan sai dưới quyền của Quan Đương xứ Thổ Địa chính thần) trách nhiệm trông coi bếp núc, quản lý theo dõi họa phúc của nhân sinh. Các vị thần này đều ở trong một chiều không gian vô cùng đặc biệt , gần ngay trước mắt chúng ta nhưng người trần thì không thể nào nhìn thấy được.
Tên gọi đầy đủ của ba vị Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ :
1.Thổ công Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân (là Thổ Công, ông Công, ông Táo hay Táo Quân, Vua Bếp)
2.Thổ Địa Ngũ phương Long mạch Tôn Thần (gọi là Thần linh Thổ Địa hoặc là ông Địa)
3.Thổ Kỳ Ngũ Thổ phúc đức chính thần (thường gọi là Thổ Kỳ hoặc ông Kỳ, ông Thị )
Vì có thần thông nên mọi việc lớn nhỏ của các gia đình từ việc thờ cúng lễ bái, bếp núc, chăn nuôi…các vị quan sai đều biết rõ ràng rành mạch không hề sai sót. Nhà nào có phạm kỵ sai quy định thì chỉ cần một cái phẩy tay của mấy vị thần này ở nơi không gian đặc biệt đó, đã khiến gia chung lâm vào cảnh tai ương họa hại.
Nhiều sách vở cho rằng khi người chủ nhà mất đi thì có vị Thổ Công khác lên thay thế, nghĩa là mỗi chủ nhà khác nhau thì vị Thổ Công cũng khác nhau. Điều này là không bao giờ có thực, không có chuyện này xảy ra. Thổ Công thi hành nhiệm vụ và bổn phận của mình trong thời gian rất lâu. Nếu không có sự yêu cầu điều chỉnh thay thế, bổ nhiệm, cất nhắc từ trên Thiên Đình thì thời hạn của Thổ Công phải hàng ngàn năm trở lên.
Mỗi Long Mạch gồm có rất nhiều cư dân trần gian sinh sống, nhưng không phải nhà nào cũng có 3 vị Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ (viết tắt 3 vị ) ngự ở đó để giám sát, cai quản . Nếu thực tế có như vậy thì Thần Tiên nhiều hơn cả con người, còn gọi gì là thế giới Thần Thông. Việc thờ cúng của mỗi gia đình là việc thể hiện đức tin nơi tâm linh, bày tỏ lòng biết ơn đối với sự bảo hộ, che chở của đấng linh thiêng, vì có an cư mới lạc nghiệp.
Lại nói vào ngày 23 tháng 12 âm lịch hàng năm là ngày họp mặt cuối năm của chư vị Tiên, Thánh, Vương, Thần. Ngày này Quan đương xứ Thổ địa Chính thần cùng với 3 vị tiểu thần giúp việc là Thổ Công Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân, Thổ Địa ngũ phương Long Mạch Tôn Thần, Thổ Kỳ Ngũ thổ phúc đức chính thần, đều cùng về Thiên Đình chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế (còn gọi là đức Ngọc Đế)
Về phương tiện đi lại: Tất cả các vị Tiên, Thánh, Vương, Thần đều được Thiên Đình cấp cho Cá Chép thần để vi hành.
Thời gian đi : Cuối giờ Hợi đi, đầu giờ Tý về, thời gian rất nhanh chóng. Nếu lấy thời gian của người trần chúng ta mà tính thì chỉ trong mấy chớp mắt là đã lại trở về cõi trần .
Đối với dân gian việc cúng tiễn ông Táo hay Định phúc Táo Quân (Vua Bếp) về chầu trời, từ lâu đã là một phong tục cổ truyền. Ngoài việc phải có mũ, áo, hia dâng Quan đương xứ Thổ địa Chính Thần (bộ đại), còn có kèm theo cả 3 bộ mũ,áo,hia dâng 3 vị quan sai giúp việc (3 bộ nhỏ). Một số gia đình cẩn thận còn hóa thêm một con ngựa đỏ nữa để lễ tạ Quan đương xứ Thổ địa Chính thần cuối năm.
Cá Chép giấy hoặc là Cá Chép còn sống chỉ là hình thức tượng trưng, chúng không thể nào giúp vận chuyển các vị thần đi lên Thiên giới được. Tuy nhiên khi có việc lễ bái liên quan đến Quan Thuỷ Tề hoặc những vị khác thuộc Thuỷ Phủ thì lại phải dùng 3 con cá Chép vàng còn sống thả vào chậu nước để cúng lễ.
Điều cần phải lưu ý nhất chính là câu chuyện về Táo thần mà nhân gian vẫn lưu truyền là hai ông và một bà chỉ là câu chuyện hư cấu mang ý nghĩa nhân văn, không có thật. Trong thực tế cả 3 vị quan sai đều là nam.
Một số bài văn khấn vẫn thường thấy, được áp dụng rộng rãi trong nhân dân :
VĂN KHẤN LỄ ÔNG TÁO CHẦU TRỜI.
Phục duy!
Kính lạy Ngài Thổ Công Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân!
Tín chủ con là :.............
Ngụ tại :.......................
Nhằm ngày 23 tháng Chạp, tín chủ chúng con thành tâm, sửa biện hương hoa phẩm vật, xiêm hài áo mũ, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án, dâng hiến Tôn Thần, đốt nén Tâm Hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời:
Ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật.
Phỏng theo lệ cũ, Ngài là vị chủ, Ngũ Tự Gia Thần, soi xét lòng trần, Táo Quân chứng giám.
Trong năm sai phạm, các tội lỗi lầm, cúi xin Tôn Thần, gia ân châm chước. Ban lộc, ban phước, phù hộ toàn gia, trai gái trẻ già, an ninh khang thái.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN LỄ TẠ MỘ VÀO NGÀY 30 TẾT.
(phải Tạ Mộ để xin phép Thổ Thần (Thổ Địa) nơi đó cho Ông Bà... về ăn Tết)
Phục duy!
Kính lạy:
- Quan đương niên hành khiển Thái Tuế Chí Đức Tôn Thần.
- Quan đương cai bản xứ hậu thổ linh kỳ nguyên quân tôn thần
- Thành Hoàng bản cảnh
- Ngũ phương Long mạch thủ mộ Tôn thần
- Tiền thần Chu Tước, Hậu thần Huyền Vũ, Tả thần Thanh Long, Hữu thần Bạch Hổ
- Liệt vị Tôn thần cai quản ở trong xứ này.
Kính lạy Hương Linh ..........
Hôm nay là ngày 30 tháng Chạp, nhằm tiết cuối đông sắp sang năm mới.
Chúng con là:...............
Sắm sanh phẩm vật, hương hoa phù tửu lễ nghi, trình cáo Chư vị Tôn Thần, xin đón rước vong linh Bản Gia Tiên Tổ của chúng con là.......... hiện có phần mộ tại đây, về với gia đình đón mừng năm mới, để cho cháu con phụng sự trong tiết xuân thiên, báo đáp ân thâm, tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin Chư vị Tôn Thần, phù thùy doãn hứa.
Âm dương cách trở, bát nước nén hương, biểu tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN LỄ GIAO THỪA NGOÀI TRỜI.
Phục duy!
Kính lạy:
- Hoàng Thiên, Hậu Thổ, chư vị Tôn Thần.
- Ngài Cựu Niên Đương cai Hành khiển.
- Ngài Đương niên ......hành khiển, ... Hành binh chi thần, ...Phán quan.
- Quan Đương xứ Thổ Địa chính thần
- Thành Hoàng Bản cảnh
- Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ
- Chư vị Tôn Thần bản xứ
Nay là phút giao thừa năm ....
Chúng con là.................
Ngụ tại ...................... Kính trình!
Phút thiêng giao thừa vừa tới, năm cũ qua đi, đón mừng năm mới, tam dương khai thái, vạn tượng canh tân. Nay Ngài Thái Tuế tôn thần trên vâng lệnh Thượng Đế giám sát vạn dân, dưới bảo hộ sinh linh tảo trừ yêu nghiệt. Quan cũ về triều để khuyết, lưu phúc lưu ân. Quan mới xuống thay, thể đức hiếu sinh, ban tài tiếp lộc. Nhân buổi tân xuân, tín chủ chúng con thành tâm, sửa biện hương hoa phẩm vật, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án. Cúng dâng Tiên Thánh, dâng hiến chư vị Tôn Thần, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời: Ngài Cựu niên Đương cai, Ngài Tân niên Đương cai Thái Tuế Chí đức Tôn thần, Quan đương xứ thổ địa chính thần. Đức Bản cảnh Thành Hoàng, Chư vị Đại Vương, Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa, Táo phủ Thần Quân.
Ngài Ngũ phương Long mạch Tài Thần và chư vị Thần Linh cai quản ở trong xứ này. Cúi xin giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho tín chủ: Tân niên khang thái, trú dạ cát tường. Thời được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN LỄ GIAO THỪA TRONG NHÀ.
Phục duy!
Kính lạy:
- Hoàng Thiên, Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
- Thổ Thần, Thổ Công, Thần linh Thổ Địa, chư vị Tôn Thần.
- Các cụ Tổ Tiên nội, ngoại chư vị tiên linh.
Nay phút giao thừa năm .......................
Chúng con là...........................
Ngụ tại........................................... ..
Phút giao thừa vừa tới, nay theo vận luật, tống cựu nghênh tân, giờ Tý đầu Xuân, đón mừng Nguyên Đán, tín chủ chúng con thành tâm, sửa biện hương hoa phẩm vật, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án, cúng dâng Phật Thánh, dâng hiến Tôn Thần, tiến cúng Tổ Tiên, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con xin kính mời:
Đức Bản Cảnh Thành Hoàng, chư vị Đại Vương, Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa, Thổ công Táo Quân, Ngũ phương Long Mạch Tài Thần và chư vị Thần Linh cai quản ở trong xứ này. Cúi xin giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật. Con lại kính mời các cụ tiên linh Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỷ muội, nội ngoại tộc chư vị hương linh cúi xin giáng về linh sàng hâm hưởng lễ vật.
Tín chủ lại kính mời các vị vong linh Tiền chủ, y thảo phụ mộc ở trong đất này. Nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án chiêm ngưỡng tân xuân, thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho tín chủ: Minh niên khang thái, trú dạ cát tường. Thời thời được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo
VĂN KHẤN THẦN LINH TRONG NHÀ ( MÙNG 1 ).
Phục duy!
Kính lạy:
- Quan đương xứ thổ địa chính thần
- Thành hoàng bản cảnh
- Thần linh Thổ Địa, Thổ Công Táo Quân, Thổ Kỳ Thổ Thị
- Chư vị Tôn Thần.
Hôm nay là ngày mồng 1 tháng Giêng, nhằm ngày Tết Nguyên Đàn đầu xuân, giải trừ gió đông lạnh lẽo, hung nghiệt tiêu tan, đón mừng Nguyên Đán xuân thiên, mưa móc thấm nhuần, muôn vật tưng bừng đổi mới. Nơi nơi lễ tiết, chốn chốn tường trình.
Tín chủ con là ................................
Ngụ tại ..............................................
Nhân tiết minh niên sắm sửa hương hoa, cơm canh lễ vật bày ra trước án, dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần. Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng loà, ân đức rộng lớn. Ngôi cao vạn trượng uy nghi, vị chính mười phương biến hiện. Lòng thành vừa khởi, Tôn Đức càm thông. Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật. Nguyện cho chúng con mọi người hoan hỷ vinh xương, con cháu cát tường khang kiện. Mong ơn Đương Cảnh Thành Hoàng, đội đức Tôn Thần Bản xứ. Hộ trì tín chủ, gia lộc gia ân, xá quá trừ tai. Đầu năm chí giửa, nửa năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN TỔ TIÊN NGÀY MÙNG 1 TẾT.
Phục duy!
Kính lạy:
- Hội đồng gia tiên tiền tổ
- Bà Cô Tổ dòng họ
- Các cụ Cao tằng Tổ Khảo, Cao tằng Tổ Tỷ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỷ muội, nội ngoại chân linh
Nay theo Tuế luật, Âm Dương vận hành, tới tuần Nguyên Đán, mồng Một đầu xuân, mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm, ân đức Tổ Tiên, như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo ba xuân. Do đó chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng lên trước án.
Kính mời các cụ Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá đệ huynh, Cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội ngoại. Cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sàng, hâm hưởng lễ vật. Phù hộ độ trì cho con cháu năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có điềm lành tiếp ứng. Tín chủ lại mời: các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong đất này cùng về hâm hường.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN LỄ TẠ NĂM MỚI ( MÙNG 3 ).
Phục duy!
Kính lạy:
- Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
- Quan Đương niên hành khiển
- Quan đương xứ thổ địa chính thần
- Bản Cảnh Thành Hoàng
- Thổ công Táo Quân, Thần Linh Thổ Địa, chư vị tôn thần.
- Hội đồng gia tiên tiền tổ.
- Bà Cô Tổ dòng họ ......
Hôm nay là ngày mồng ba tháng Giêng năm ............
Tín chủ chúng con ..........................
Ngụ tại ..........................................
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, kính dâng trước án. Kính cẩn thưa trình: Tiệc xuân đã mãn, Nguyên Đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngân, lễ tạ Chư vị Tôn Thần, rước tiễn vong linh gia tiên tiền tổ trở về Âm giới.
Kính xin: lưu phúc lưu ân, phù hộ độ trì, dương cơ âm mộ, mọi chỗ tốt lành. Cháu con được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng. Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo!
http://thienynhiemmau.com.vn/archive...hp/t-2522.html
-
Sự tích Ông Địa
Trong đời sống trước đây của dân tộc Việt thì phần lớn dựa vào nông nghiệp, mà nông nghiệp thì lại phụ thuộc rất nhiều các điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu… trong đó có thể nói, đất đai được xem là yếu tố cơ bản cấu tạo nên vạn vật, giúp cho người ta có được cuộc sống ấm no và sung túc. Vì vậy, thần Đất hay Thổ Thần là một trong những vị thần được cư dân nông nghiệp luôn để tâm đến trước nhất.
sự tích ông địa
Như chúng ta đã biết, Nam Bộ là một vùng đất mới, ngay từ những bước chân đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này thì vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đầm lầy nê địa, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ tràn đầy… Mọi thứ ở đây hoàn toàn lạ lẫm đối với họ, từ tiếng chim kêu, tiếng cá vẫy vùng… đến tiếp cọp rống, gió rít đều gây cho họ một cảm giác lo sợ.
“Tới đây xứ sở lạ lùng,
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê”
Người dân lúc đó nghĩ vùng đất Nam Bộ này, từ khu rừng, con sông, vùng đất… đâu đâu cũng có các vị thần cai quản. Để được yên ổn làm ăn, họ phải khấn vái, cúng kiến cho các thần để các thần phù hộ cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an. Vì lẽ đó mà Thổ Địa được họ sùng kính và tôn thờ. Họ xem Thổ Địa như là một vị thần bảo hộ cho một mảnh vườn, thửa ruộng của họ….
Về hình tượng Ông Địa ở Nam Bộ thì tượng Ông Địa hay tranh vẽ thường là một người trung niên mập mạp, bụng bự, vú lớn, miệng cười hể hả, tay cầm quạt, tay cầm điếu thuốc lá… trông có vẻ phương phi, hào sảng và mang đầy chất phong thịnh. Và nó cũng mang chút hơi hướm của sự hài hước. Đây cũng là một đặc trưng trong tính cách của người Nam Bộ.
su tich ong dia
Người Nam Bộ thường có tâm lý tin vào thần thánh nhưng đôi khi họ cũng không tuyệt đối hóa sự thờ phụng này. Khi họ tin vào Ông Địa, họ thờ cúng Ông Địa quanh năm nhưng đôi khi mùa màng thất bát, buôn bán lỗ lã họ van vái Ông Địa nhiều lần, nhưng cuộc sống vẫn không khá hơn, họ sẵn sàng đem Ông Địa bỏ ở gốc cây, kẹt đá, hoặc quăng xuống sông.
Vì lẽ đó mà Ông Địa ở Nam Bộ dường như có khoảng cách rất ngắn với con người, ông như một vị thần dân dã luôn gần gũi với cuộc sống của con người. Chính điều này đã dẫn đến hàng loạt các giai thoại về Ông Địa do dân gian sáng tác, nhằm giải thích các đặc điểm về hình thể ông cũng như để giải thích một số sự việc, hiện tượng mà người ta không thể lý giải được trong cuộc sống của mình.
Trong “Sự tích Ông Địa bụng bự” có kể rằng:
“Ngày xưa, Ông Địa cũng có cái bụng bình thường như bụng của mọi người. Thuở đó, Ông Địa có kết thân với Hà Bá. Trong vùng có một mụ góa bụa, tính khí rất chua ngoa, nhưng mụ lại có cô con gái rất đẹp. Mụ mắc phải cái tật, hễ cất tiếng chửi con thì y như có mấy lời đầu lưỡi:
– Má mày Hà Bá!
Thấy vậy, Ông Địa mới tìm gặp Hà Bá, vừa thiệt, vừa giỡn, bảo rằng:
– Nè Hà Bá, anh tốt phước quá! Ở đây, ngày nào cũng có người nói muốn hiến con gái cho anh đó. Mà lại con gái đẹp kia chớ.
Hà Bá mừng quá liền hỏi:
– Thiệt vậy không? Mà ai vậy? Nhờ anh làm mai dùm tôi liền đi nghe.
Ông Địa bằng lòng và dẫn Hà Bá đi.
Hôm sau, trời vừa sáng, Hà Bá theo Ông Địa đến cổng nhà mụ góa nọ. Còn sớm, cô con gái út ngủ chưa dậy, chỉ mới có bà mẹ dậy quét dọn sân nhà. Giữa sân có con chó cái, ý chừng phải thức canh nhà nên vẫn còn nằm lì ở đó, đuổi chẳng chịu đi. Đuổi hoài chẳng được, mụ ta nổi xung trở cán chổi đập con chó một cái, chửi:
– Cái đồ Hà Bá!
Thiệt nào ngờ? Hà Bá giận quá chừng liền đạp cho Ông Địa một đạp và chửi:
– Đồ khốn! Dám lừa tao! Dẫn tao đi để gả cho con chó cái này hả?
Ai ngờ mới có một đạp, Ông Địa đã rớt tỏm xuống kinh. Không tính tới sự oái oăm này, nên Ông Địa mắc cười quá, té xuống kinh mà vẫn cười ngất, thành thử ông uống phải nước kinh nhiều quá. Đến nỗi, cái bụng ông phình ra, rồi cứ lần lần bự dần, đến chang bang như bây giờ”.
ong-dia-11
Trong suốt chiều dài lịch sử, tín ngưỡng thờ Thần Đất nói chung, thờ Ông Địa nói riêng đã có nhiều thay đổi, nó không còn giữ nguyên sơ của dạng tín ngưỡng ban đầu. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, Ông Địa được xem là một vị phúc thần, không chỉ có vai trò bảo vệ đất đai, ruộng vườn mà còn có nhiệm vụ đưa rước Thần Tài đến nhà, nghĩa là làm cho gia chủ phát đạt giàu có, và kiêm luôn việc giúp cho gia chủ mau lành bịnh và tìm kiếm được những món đồ đã mất. Do đó mà sáng sớm khi mở cửa nhà, cữa tiệm thì Ông Địa lại thường được gia chủ tặng thưởng cho một ly cà phê đen bên cạnh, một điếu thuốc lá trên tay, có khi là cà phê sữa ngon và một gói thuốc ba số 555 hẳn hoi. Có lúc được thưởng cả bánh bao, thịt heo quay nữa….
Theo tín ngưỡng dân gian cho rằng thờ ông Địa để Địa phù hộ buôn may bán đắc, thật ra theo các tôn giáo Á Đông ông Địa lại là vị thần cai quản các địa phương hoặc là thần bảo vệ của mỗi gia đình. Ở các cấp độ cao hơn thì ông Địa trở thành vị thần hộ trì cho những người lương thiện, những bậc tu hành được bình an trên đường giáo dân độ thế, hiểu theo nghĩa này thì ông Địa lại là một vị thần có sứ mạng về mặt tâm linh.
Cũng có nhiều nơi theo ảnh hưởng của Trung Hoa còn gọi Ông Địa là ông Thần Tài (Mọi thứ đều sinh từ đất mà ra – Tấc đất là tất vàng).
Vì Thổ Công là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Nếu đứng ở ngoài nhìn vào thì Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.
Thông thường, mỗi khi làm việc gì có đụng chạm đến đất đai như đào ao, đào giếng, xây cất, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt… thì tất cả đều phải cúng vị thần này.
ong-dia-5
Việc cúng ông Địa Cũng là 1 vấn đè khá lý thú với người Việt Nam ta. Đối với người miền Nam và với những người Hoa Kiều mỗi khi cúng ông Địa thì họ thường bẻ ăn trước một miếng rồi mới mang cúng, vì theo 1 vài sự tích thì Ông Địa bị đầu độc nên chết, vì thế ông rất sợ bị chết, nên khi cúng kiến ông thì phải bẻ ăn một miếng trước thì ông mới dám ăn).
Còn với người miền Bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.
Dù sao Ông Địa cũng gắn bó với cư dân Nam Bộ trong suốt chiều dài lịch sử, đồng hành cùng cư dân Nam Bộ khẩn hoang lập ấp ngót ba trăm năm nên Ông Địa tỏ ra rất gần gũi với cư dân Nam Bộ. Mặc dù họ vẫn tôn thờ ông như thuở nào nhưng trong thâm tâm họ, ông luôn gần gũi, hiền từ, ít trách cứ ai… nên họ mới tạc nên hình dáng ông như vậy và khi người ta làm việc gì hết mình, hoặc chơi hết mình người ta hay nói vui rằng: “Chơi mát trời ông Địa luôn”…!
http://truyencotich.vn/truyen-co-tic...h-ong-dia.html
-
Chùa Ông Miếu Thổ Thần
Chùa ông tọa lạc tại P5 TPVL, thờ ông Quan Thánh Đế và những vị thần, phật khác. Ngôi chùa nhỏ nổi tiếng gần xa là rất linh thiên, vào tết nguyên đán sau khi đón giao thừa xong mọi người hay rủ nhau đến chùa ông xin quẻ lộc đầu năm nên lúc này chùa đông nghịt người và khói nhang lan ra ấm cả khoảng sân rộng. Ngày thường vẫn có khách gần xa đến viếng hay xin quẻ nhưng thưa hơn. Mấy năm gần đây mình cũng xuống đây xin quẻ, mình thấy quẻ hiện đúng lắm. Trong chùa chỉ có 2 bác từ già chung tay chăm nôm, quét dọn, nhìn qua sự tận tâm của 2 bác mình nghĩ chắc 2 bác đã gắn bó với chùa một thời gian dài.
- Đây là nhận xét từ Thành Viên trên Foody, không phải từ Foody Corp. -
Thích
Thảo luận
Báo lỗi
8.8
Duy @Khoa
via iPhone 22/8/2016 12:45
Chùa Ông Miếu Thổ Thần
Hồi đợt tháng 7 mình nghe đứa bạn nói chùa ở đây linh thiêng lắm nên cũng đến thắp hương và xin xâm. Không gian chùa yên tĩnh lắm, chùa mang lại cảm giác thanh bình lắm. Bước vào trong chùa phải cởi dép ra nhé, nhang thì được xếp thành bó sẵn nên chỉ cần lấy và đốt thôi, ở đây có ông từ sẽ hướng dẫn bạn đốt nhang từ những vị trí nào trước theo đúng phong tục luôn. Nhang không tính phí nhé. Ở đây có xin xâm và giải xâm cho mình luôn. Mà bên ngoài không có chỗ giữ xe nên khoá xe cẩn thận rồi hẵn vào nhé
- Đây là nhận xét từ Thành Viên trên Foody, không phải từ Foody Corp. -
Thích
Thảo luận
Báo lỗi
8.6
Ron Swift
via Android 8/2/2016 7:50
Chùa Ông Miếu Thổ Thần
Chùa ông, miếu thổ thần là một trong những ngôi chùa lâu đời nhất ở vĩnh long. Xuống dốc cầu thiền đức quẹo tay trái đi khoảng 10m bạn sẽ bắt gặp chùa ông. Đây cũng là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất. Mỗi năm, dịp xuân về mọi người thường hay đi lễ chùa ở đây để cầu tài lộc, may mắn, bình an cho bản thân và gia đình. Ở tại đây cũng có xin keo ( 1 dạng giống như xin xăm) và cũng có người giải keo nên khi gặp chuyện khó khăn mình cũng hay đến đây xin thử, một chút tâm linh cũng giúp ta mạnh mẽ hơn để giải quyết khó khăn.
- Đây là nhận xét từ Thành Viên trên Foody, không phải từ Foody Corp.
https://www.foody.vn/vinh-long/chua-ong-mieu-tho-than