https://media.loveitopcdn.com/3128/t...t143738819.png
https://i.imgur.com/DQ304nh.png
Màu khoáng đỏ tươi
https://gihom.com/mau-khoang-cho-son...g-do-tuoi.html
Printable View
Bột Phong Thủy An Lộc Phát
Bột Phong Thủy An Lộc Phát
0/5 0 Đánh giá Đã bán 0
360,000đ
Giao hàng nhanh cùng Viettelpost
Trả hàng 2-3 ngày
Thêm vào giỏ hàng
Gợi ý cho bạn
tủ quần áo gỗ công nghiệp
12,000,000 đ
%
16
-
Giường xếp 3 chân - giường xếp thư giãn - giường xếp văn phòng - giường gấp văn phòng
1,260,000 đ
1,500,000 đ
giường ngủ đẹp
6,600,000 đ
Đèn Chớp Nháy 50m - Dây điện màu trắng - Sáng im - Thế Giới Đèn Nháy
320,000 đ
%
42
-
Ổ Khóa Số SCHONE 4 Số Chính Hãng Thay Đổi Mật Khẩu Tùy Ý (Chính Hãng GERMANY)
99,000 đ
170,000 đ
%
19
-
Combo 10 tấm xốp dán tường giả gạch đỏ
299,000 đ
370,000 đ
%
17
-
Bộ 3 thảm trải ghế gỗ Nỉ nhung thêu hoa văn, bên trong lót lớp bông cao cấp Mặt sau lót cao su trống trơn trượt
477,000 đ
577,000 đ
ĐÈN DẦU LƯU LY HOA CÚC VÀNG
2,901,000 đ
%
26
-
[Hàng New] Combo 10 Bông Hoa Đào, Hoa Mai Giả Trang Trí Ngày Tết
149,000 đ
200,000 đ
%
10
-
Gạt tàn thuốc thông minh -Gạt tàn con Trâu hoạ tiết hoa văn cổ
269,000 đ
299,000 đ
%
31
-
Decal dán bếp cuộn 3mx0.6m - giấy bạc dán bếp tráng nhôm cách nhiệt
45,000 đ
65,000 đ
%
21
-
Ổ Khóa Chụp Chống Cắt Toàn Diện – MODE 2019 – INOX Chống Axit
299,000 đ
380,000 đ
tủ quần áo gỗ công nghiệp
11,000,000 đ
%
39
-
Chai Thủy Tinh đựng Rượu cao cấp TRỤ TRÒN Họa Tiết Nổi 750ML - Vỏ Chai rượu 750ml, bình thủy tinh 750ml trong suốt
109,000 đ
180,000 đ
%
22
-
Thảm lông trải sàn kích thước 1m6x2m - màu trắng
350,000 đ
450,000 đ
Phong Thủy Vũ Phong
Đang hoạt động
Chat ngay
Xem shop
Sản Phẩm
2
Đánh giá
0
Ngày Tham Gia
27/04/2020
THÔNG TIN SẢN PHẨM
Danh mục: Trang trí nhà cửa
Thương hiệu: Không có
Xuất xứ: Viet Nam
Đơn vị tính: Hộp
Trọng lượng: 0.24kg
MÔ TẢ SẢN PHẨM
Hướng dẫn sử dụng bột phong thủy để gia tăng tài lộc may mắn
Với ví tiền
Để 1 gói bột vào trong ví,
Xem them bài viết này để biết cách dọn dẹp cho ví của mình
https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
Với giường ngủ
Dùng bột để nguyên gói để đầu giường tránh âm khí tác động ban đêm
Với xe ô tô
cho 2 gói bột vào túi đỏ treo trong xe,Dùng tới khi hết mùi thơm thì thôi, thường 7-10 ngày
Với nhà cửa
Đun nước lau nhà lau cửa hàng 2-3 ngày 1 lần nếu mà nhiều bụi bẩn thì lau 1 ngày 1 lần mục đích thanh tẩy hết các âm khi trong nhà cửa hàng, nhất là các gậm giường, gậm tủ, các đồ vật cũ kỹ bám bụi thường xuyên. Đun 1 gói bột với 1 lit nước , sôi trong 5 phút xong pha thêm với 3-4 lit nước để lau nhà sàn diện tích 100m2
Lau xong xé 1 túi bột rắc vào các góc tối trong nhà như gậm giường, tủ, sau tủ..
Để vào trong tủ 1 -2 gói bột vừa khử âm khí vừa thơm quần áo. Với tủ dùng hằng ngày thì 15-20 ngày cần thay gói bột, với tủ kín ít dùng có thể để lâu hơn.
Xịt Phòng : Đun 1 gói bột (không xé gói bột ), càng ít nước càng thơm, đun sôi trong 5-10 phút rồi cho nước đó vào bình xịt, xịt phòng hằng ngày khi thức dậy, tối khi đi làm về. chú ý bảo quản nước đo trong tủ lạnh có thể để được khoảng 5 ngày
Mẹo: đun nước lau nhà không xé túi trong 5 phút rồi lấy 300ml để nguội cho vào bình xịt. Sau đó mới xé túi lọc ra để đun tiếp 5 phút nữa lấy nước lau nhà.
(có thể tận dụng lại các gói bột đã để đầu giường, treo xe ô tô, để trong ví)
Xông nhà bằng bột phong thủy, có thể dùng lư xông điện là tốt nhất (1 gói bột có thể xông được 10 tiếng, chia làm 5 lần)
Nếu không có lư xông điện thì dùng đĩa nhỏ đổ 1 gói bột vào tạo hình chóp núi và đốt ở đỉnh, bột sẽ cháy âm ỉ, cầm bột đó đi khắp nhà hoặc văn phòng.
Đun nước ngâm chân (trước khi đi ngủ là tốt nhất)
Xé 1 gói bột ra đun với khoảng 1 lít nước, để sôi trong 5 phút, sau đó pha với nước ấm 40-50độ ( phụ thuộc sức chịu đựng từng người) sao cho ngập mắt cá chân, ngâm trong 15-20 phút, bỏ chân ra khi nước còn ấm. lau khô chân và đi ngủ. Ngâm chân xong nước đó dùng tẩy đi uế khí ở phòng vệ sinh
đun nước tắm
tương tự đun để ngâm chân, nếu có bồn tắm thì nên đun 2-3 gói để ngâm cả người trong 10-20 phút. Tẩy hết các trượt khí trên cơ thể.
Khi ra ngoài (đặc biệt vào buổi tối)
mang theo túi gấm đỏ có chứa bột phong thủy để tránh tà ma, các điều không may.
Với hàng hóa
Rắc lên thùng hàng, hoặc rắc trước cửa của cửa hàng và nói 3 lần một cách thành khẩn có cảm xúc
“hôm nay ngày… tháng … năm 2020 mọi sự may mắn đến với tôi, tôi đạt được…(số tiền kiếm được hay số đơn hàng bán được…). xin cảm ơn cuộc sống tuyệt với mỗi ngày xin cảm ơn xin cảm ơn xin cảm ơn.
Chú ý : không nhất thiết phải rắc hết toàn bộ 1 gói
Sử Dụng Bột phong Thủy Với nhà ở và con người
(học video về phong thủy để thay đổi tâm tính trở nên tích cực
Học về lòng biết ơn để thấy hạnh phúc mỗi ngày)
https://image.voso.vn/users/vosoimag...a12981ef4c6775
https://voso.vn/bot-phong-thuy-an-loc-phat-p649787.html
TÁO ĐỎ TOÀN TẬP
https://file.hstatic.net/1000258789/...77c_grande.jpg
TÁO ĐỎ - ĐẠI TÁO
Các tên khác: đại táo, nam táo, ô táo, hồng táo, hắc táo, can táo, mỹ táo, quế táo, giao táo, nhẫm táo, đường táo, đan táo, lương táo, táo bô, táo cao, khư táo, lộc lô, thiên chưng táo, phác lạc tô, kê tâm, quyết tiết, cẩu nah, bạch táo, tử táo, quán táo, đê táo, t áo du, ngưu đầu, dương giáp.
Có lẽ đây là một trong những vị thuốc có nhiều tên gọi khác nhau nhất trong các vị về thuốc và đồ ăn thức uống. Mỗi tên khác nhau đó dựa trên chữ tượng hình khác nhau, nghĩa là vì nó có những công dụng khác nhau mà người ta đã gán cho nó những ý nghĩa khác nhau và dựa trên đó mà gọi tên. Tuy nhiên cũng còn một ý nghĩa khác là giống táo này có rất nhiều loại, chúng có sự khác nhau nhưng khá giống nhau vd đại táo và hồng táo.
Táo có nhiều loại, đại khái một thứ quả to gọi là Táo, thứ nhỏ gọi là Cức, nghĩa là thứ quả nhỏ, ngọt ít, chua nhiều, cho nên thường gọi là Toan Táo. Vì tính quả táo to to, khí độ nó cao cho nên người ta có ý viết chồng lên trên dưới bằng nhauy 2 chữ Cức, còn thứ nữa là Cức thì thấp kém, chỉ dùng 1 chữ Cứu thôi, tức là chữ Cức. Nhưng mặc dầu hơn kém, những cây nào quả nào cũng ngụ ý như có bó gai châm nên dùng chữ đó mà đặt tên cho nó vậy.
Đại táo có khí ôn, vị cam, không độc
Công hiệu của đại táo nuôi được tỳ, bình được vị, bổ ích cho nguyên khí, nhuận được tâm phế, điều hòa được khí huyết, sinh được tân dịch, thông được các khiếu, bổ được ngũ tạng, làm cho nhan sắc đẹp thêm. Nói tóm lại, nó là vị thuốc của tỳ thổ, mà cũng giúp sức cho cả 12 kinh, hòa giải và nó cũng có thể giúp sức các vị thuốc khác, trừ được chứng trong lòng buồn bực, thuốc thương hàn hay là thuốc bổ dùng nó thêm vào thì sẽ nâng đỡ được khí của tỳ vị lên mạnh. Tính nó giải được chất độc của ô đầu, phụ tử.
Những người nào ói tức đầy hơi, đau ở bên dưới trái tim, cũng những người đang có bệnh úa thổ, hay là người đang bị chứng đau răng thì kiêng nó. (kiểu như ăn ăn đồ ngọt, đường thì gậy đầy hơi, ợ chua, hại răng)
Trẻ con ăn nó cũng tốt nhưng ăn xong phải đánh răng rửa miệng cho sạch không thì sẽ sinh ra chứng sún răng (răng cứ mè rồi mọt dần)
Thuốc uống có đại táo phải kiêng ăn hành sống, nếu không kiêng sẽ sinh ra đông phong hỏa, phát ra nhiều chứng bệnh khác.
Công hiệu của táo, đại bổ tỳ vị, chữa được chứng tả, chứng lỵ, điều hòa được vinh vệ, chữa được chứng sốt rét, chứng âm nuy hay là người thiếu máu.
Tính nó sau khi đã vào rong dạ dày rồi, nó làm nổi nước vị toan, mạnh nhiều lên, làm nên sinh tố, nước đường. Vào đến ruột thì ruốt hấp dẫn suốt vào trong huyết, hiến cho trong huyết, giúp thêm sức khí hóa tăng gia. Bấy giờ, các tế bào nhwof sức đó mà khuếch sung ra vậy. Cho nên dùng táo là một vị thuốc hòa hoãn mà lại có thể tăng cường tráng kiện được nữa.
Chủ trị được chứng tâm phúc có tà khí, tính nó có thể làm yên được trung nguyên, nuôi dưỡng được tỳ khí, điều hòa được vị khí, thông lợi được chính khiếu, giúp cho người khai kinh lạc, bổ cho những chỗ thiếu khí, chỗ ít tân dịch, những chỗ nào trong mình không đủ. Chữa được chứng người bị sợ hãi quá, hay là chứng chân tay nặng nề. Tính nó điều hòa được mọi thứ thuốc. Theo như sách nội kinh nói: tính táo bổ trung ích khí, mạnh sức bền gan, trừ được những chứng phiền buồn, chữa được những chứng dưới tim hình như treo dốc ngược. Nó lại chữa được trứng trường tích.
Thời nhà Đường ông Mạnh Sần viết trong sách bản thảo thực liệu nói rằng: Đại táo tính nó có thể chữa được chứng tiểu nhi mắc bệnh lỵ về mùa thu. Cho nên nó ăn mấy quả táo có sâu mọt là khỏi, nhất là táo đã để lâu 3 năm.
Sách Nhật Hoa chư gia bản thảo nói rằng đại táo tính nó nhuận được tim và phổi, chữa được chứng ho, bổ cho ngũ tạng bị hư tổn, trừ được khí tích ở trong dạ dày và ruột, tính nó hòa với quang phấn mà đốt chữa được chứng cam đi lỵ
Thời nhà Nguyên, ông Vương Hiếu Cổ viết trong sách Thang dịch bản thảo nói rằng đại táo tính nó chủ nuôi được tỳ khí, bổ được tân dịch, làm cho thần khí được thêm, não óc tốt hơn nhớ lâu không quên. Những quả táo nào để được lâu quá 3 năm thì cái nhân ở trong hạt nó có thể chữa được chứng đau bụng hay là chứng trúng phải ác khí, chứng thốt nhiên bị phi thi quỷ chú, chữa được chứng trái tim như bị treo giốc lên.
Sách Nội-kinh nói rằng tính nó giúp được 12 kinh lạc, chữa được chứng tà khí ở trong tâm phcus, hòa được hàng trăm thứ thuốc, thông lợi được cửu khiếu, bổ được cho khí phần không đủ.
Nhưng mà táo ăn nói khi còn sống thì nó có thể làm cho người ta bụng phải trướng đầy, có khi làm ra chứng tả. Trái lại, nếu chưng nó thực chín rồi phơi khô thì lại bổ được trường vị, điều hòa được trung nguyên, ích cho khí lực.
Nhưng phàm những người nào hễ ở trong đã đầy thì không nên ăn nó, cũng như ăn của ngọt vì những thức ngọt thì làm cho người ta bị đầy thêm. Vì thế cho nên khi dùng bài Đại-kiến-trung thang mà thấy bệnh nhân ở bên dưới trái tim bị bí đầy thì tất nhiên phải giảm đường và đại táo đi.
Thời nhà Nguyên, ông Lý Đông Viên viết trong sách Dụng dược pháp tượng nói rằng đại táo tính nó có thẻ hòa hợp được âm dương, điều chỉnh được vinh vệ, làm cho người ta sinh được tân dịch.
Thời nhà MInh, ông Cù Hy Ung viết trong sách Bản thảo kinh sơ nói rằng sở dĩ đại táo nó bẩm thụ được cái khsi sung hòa của hành thổ, cũng như là cái khí tiết tốt lành của đất, nó lại gồm cảm ứng được cái khí vi dương của trười để mà sinh sống. Cho nên trong sách bản kinh nói rằng đại táo vị nó cam, khí bình, không có chi là độc cả. Đến như ông Đông Viên hay ông Mạnh Sần đều nói rằng tính nó ôn, khí vị đều hậu, đó là bởi nó thuộc về dương. Nó vào kinh túc thái âm và kinh túc dương minh (kinh này suy thì tóc bạc).
Sách Nội kinh nói rằng Những người mà ở trung nguyên không dủ sức, thì phải dùng những vị cam để mà bổ vào đó. Lại nói rằng, những chỗ hình thể mà không đủ, thì nên dùng vị ôn, để giúp lấy cái khí đó. Vì rằng cam thì nó hay bổ được trung nguyên, mà ôn thì nó làm cho ích được khí. Thế cho nên những vị cam ôn nó hay bổ được tỳ vị, mà nó có thể sinh được tân dịch nữa.
Nếu những điều kiện như thế thì trong 12 kinh mạch tự nhiên nó thông, và cả trong cửu khiếu tự nhiên nó lợi, chân tay đều hòa mà sung sướng cả.
Bởi vị một khi mà chính khí nó đã đầy đủ thì tất nhiên là thần huồn cũng được yên lành, cho nên những khi ở tâm phúc có tà khí hay là khi gặp việc gì khủng hoảng quá độ. Nếu mà ở trong được sự giúp đỡ, để cho nó hòa hoãn thì những sự phiền buồn phải lui. Cho nên những khi chữa những chứng ở dưới trái tim mường tượng y như là nó treo ngược, nó giốc tiết lên hay là như thể người ít hơi, những hễ mà tỳ kinh nó đã được bổ, thì khí lực nó lại mạnh ngay. Cho nên những trường vị cần phải được thanh, cũng có khi nó làm ra sự trong mình không đủ, hay làm ra chứng tràng tích (táo bón).
Đại táo bởi vì nó vị cam, cho nên nó hay giải được độc, hòa được hàng trăm thứ thuốc, nó có thể làm cho tỳ vị được no đủ, khí huyết được sung túc, kể như năng lực của nó thì về phần hâu thiên sinh khí nó có thể nói được rằng cũng là nhờ có phần doanh dưỡng, cho nên mới nói rằng ai dùng được nó lâu thì có thể nhẹ nhàng thân thể, sống lâu thêm tuổi thọ dáng diệu hầu như là phảng phất thần tiên tự tại, không biết no đói là gì nữa.
Nhưng đó là ý nói rằng những bậc biết tu luyện, những bậc đã tịch cốc chứ không phải là người thường, thì chưa chắc đã được như thế đâu?
Thời nhà Minh, ông Lý Sĩ Tài nói rằng, Đại Táo tính nó cam, nó là vị thuốc của tỳ kinh, nó bổ được cho tỳ, nó làm cho ích được khí, nó nhuận được phổi, làm cho nó khỏi ho, nó sát được phụ tử độc.
Ngày xưa, cụ Trương Trọng Cảnh chữa chứng bón dồn dùng đại táo đó là cụ có ý giúp cho tỳ thổ, dùng nó để mà bình thận khí. Chữa chứng thủy ẩm, làm ra đau nơi cạnh sườn, thì dùng bài thập táo thang là có ý giúp cho tỳ thổ để cho nó thắng được những cái nước bậy bạ. Vậy thì Đại Táo tính nó hay điều hòa được tạng phủ, nó là một vị thiết yếu có thể nói là nó hòa đều hàng trăm thứ thuốc vậy.
Nhưng cũng có điều không nên ăn nó nhiều vì hại răng.
NHỮNG BÀI ĐƠN GIẢN HIỆU NGHIỆM
Táo có nhiều loại, đại khái một thứ quả to gọi là Táo, thứ nhỏ gọi là Cức, nghĩa là thứ quả nhỏ, ngọt ít, chua nhiều, cho nên thường gọi là Toan Táo. Vì tính quả táo to to, khí độ nó cao cho nên người ta có ý viết chồng lên trên dưới bằng nhau 2 chữ Cức, còn thứ nữa là Cức thì thấp kém, chỉ dùng 1 chữ Cức thôi, tức là chữ Cức. Nhưng mặc dầu hơn kém, những cây nào quả nào cũng ngụ ý như có bó gai châm nên dùng chữ đó mà đặt tên cho nó vậy.
Hồng táo thì công hiệu của nó đại khái cũng như đại táo nhưng hiệu lực của nó có phần kém hơn một chút. Người ta dùng nó vào những thứ thuốc chỉ tả thì dùng nó làm thuốc viên.
Thực ra táo đỏ gốc gác không phải ở Tân Cương, nó là giống cây di thực. Cách đây gần trăm năm thì Tân Cương là vùng đất nghèo, chính phủ Trung Quốc có chính sách khai hoang và phát triển kinh tế, họ đã đưa nhiều giống cây đến Tân Cương để trồng thử nghiệm. Trong đó có 2 loại thành công nhất là táo đỏ có nguồn gốc ở Sơn Đông và hoa Lavender. Khi giống táo đỏ được trồng ở Tân Cương nó cho mùi vị khác hẳn với nơi vốn là bản địa của nó. Ngày nay, táo ở Sơn Đông cũng rất nhiều và giá thì rẻ hơn nhiều so với ở Tân Cương.
NHỮNG BÀI ĐƠN GIẢN HIỆU NGHIỆM
Một phương chữa chứng tiều trường khí bí , phát ra đau. Dùng đại táo 1 quả , bỏ hạt, dùng một con Ban miêu cắt đầu bỏ cánh, cho vào trong quả táo, rồi gói giấy ướt nướng cho thật chín, đem bỏ ban miêu đi chỉ lấy táo, dùng thang bằng nước sắc Quế tâm và tất - trừng- già sắc làm thang mà uống. - Xuất ở trực chỉ phương.
Một phương chữa người chữa bệnh thương hàn, bệnh nóng, miệng khô, cổ đau, hay nhổ vặt. Dùng đại táo 20 quả, ô mai 10 quả, đều bóc lấy thịt luyện với mật mà viên, ngậm bằng một hột hạnh nhân, nuốt dần nước cốt rất hay. - Xuất thiên kim phương.
Một chứng chưa người đàn bà bị tạng táo, hay sầu tủi, chỉ trực khóc, giáng như là bị thần linh trách phạt, lại hay ngáp vặt, thì dùng đại táo thang làm chủ. Đại táo 10 quả, gạo tiểu mạch 1 bát, cam thảo 2 lạng, dùng nước sắc kỹ mà uống. Bài này có thể bổ tỳ khí nữa.
Một phương chữa bênh người đàn bà mang bầu đau bụng, dùng tào đỏ 14 quả, đốt cho khô đi rồi làm bột, uống với một chút nước tiểu. - Xuất mai sư phương.
Một phương chữa đại tiện táo kết không đi được, dùng một quả táo to bỏ hạt đi, rồi cho kinh phấn nửa đông cân vào, dùng giấy ướt bọc lại, nước cho thật chín rồi ăn. Nhưng cũng nên dùng nước nầu đại táo uống làm thang mà uống. - Xuất ở trực chi phương.
Một phương chữa người bị chứng biền buồn không ngủ được, dùng 14 quả táo tầu to, hành trắng 7 củ, nước 3 bát sắc thành 1 bát rồi uống. - Xuất ở thiên kim phương.
Một phương bị chứng chữa người bị khí bốc ngược lên rồi làm cho ho hắng, dùng táo tầu to 20 quả, bỏ hạt đi. Dùng sữa bò lạnh, dùng lửa nhỏ nấu rồi cho thịt táo vào, đợi khi sữa ngấm vào táo thì lấy ra dùng. Mội lúc thường ngậm 1 quả, nuột nước cốt dần dần, nuốt suôi xuống là khỏi. - Xuất ở thánh huệ phương.
Một phương chữa người bị phế ung thư, thường nhổ ra máu, bởi người ấy ăn nhiều thứ cay nóng quá đến nỗi phát ra như thế. Dùng táo đỏ để nguyên cả hột đốt cháy thành bột toàn tính, nghĩa là bỏ trong cái lọ nút kín mà đốt, dẫu có cháy vẫn còn tính. Rồi dùng bách dược chiên đốt qua, hai thứ bằng nhau làm ra bột., mỗi lần uống hai đồng cân, uống với nước cơm. - Xuất ở tam nhân phương.
Một phương chữa người bị tai điếc , mũi nghẹt. Không nghe thấy tiếng gì mà cũng không ngửi thấy hương gì cả. Dùng đại táo bóc vỏ ngoài đi chỉ dùng nguyên phần thịt táo, cùng với Tỳ ma tử 300 hạt bỏ vỏ ngoài đi, giã nát hòa đều hai thứ, gói vào miễng vải nhét vào tai và mũi, mỗi ngày 1 lần chừng 30 ngày thì nghe lại và ngửi lại được. Trước cho vào tai , sau mới cho vào mũi, đừng cho vào cả hai chỗ 1 lúc. - Xuất mạnh thần thử liệu phương.
Một phương dùng cho thân thể mình thơm lâu, dùng thịt đại táo với quế lâm và bạch qua nhân, tùng thụ bì, tán bột làm viên, để uống dần dần. - Xuất mạnh sần thực liệu phương.
Một phương chữa chứng mã tẩu cam nha. Dùng táo tàu 1 quả với Hoàng bá , đốt khô ra thành bột hòa với dầu mà bôi. - Xuất vương thập bát tế phương.
Một phương chữa mọi chứng ghẻ lở thối tha, lâu ngày không khỏi. Dùng táo cao 3 bát , dùng nước sắc kỹ ngâm rửa luôn luôn là khỏi. - Xuất ở thiên kim phương
Một phương chữa chứng trĩ đang đau nhức, dùng táo tàu 1 quả bóc vỏ ngoài, lấy thủy ngân để trên lòng bàn tay, dùng nước bột nghiền sao khiến cho nó rất nóng, rồi cho vào quả táo đút vào chỗ hã bộ ít lâu rất có thần hiệu. - Xuất ở ngoại đài bí yếu phương.
Một phương chữa chứng ngứa ở hạ bộ, có trùng, dùng đại táo trưng thành cao, lấy thủy ngân hòa với táo mà nắm lại, dài chừng 3 tấc , lấy bông bọc lấy nó, cứ đến đêm đem đút vào chỗ hạ bộ, đến sáng mai thì sâu hết. - Trửu hậu phương.
Một phương chữa người bị chứng thốt nhiên đau tim. Hải thượng lãn ông có bài quyết :
Nhất cá ô mai nhị cá táo
Thất mai hạnh nhân, nhất xứ đảo
Nam tửu nữ thổ tống hạ chỉ
Bất hại tâm đông trực đáo lão.
Dịch:
Một quả ô mai, hai quả táo
Hạnh nhân 7 hạt tán chung vào
Đàn ông lấy rượu làm thang uống
Phụ nữ dùng ngay giấm khỏi mau
Chữa chứng đau tim hay đáo để
Đến già cũng chẳng thấy còn đau
Nguy nan cấp cứu nên ghi lấy
Hải thượng thần phương thuốc nhiệm màu.
Một phương chữa người ăn Hồ tiêu bế khí thì dùng kinh táo mà ăn tự nhiên giải. - Xuất ở bách nhất tuyển phương.
Trường hợp phải kiêng đại táo:
Trẻ con nhiều bệnh cam, bụng to đầy trướng hay người có chứng đờm nhiệt, cùng là có chứng đau rang, sâu răng, vì ăn nhiều táo quá, trẻ con sinh ra sún răng, ăn nó nhiều rất hại răng, khi ăn xong phải cho súc miệng sạch. Những quá táo còn sống ăn vào rất hại, giống nó phải đồ lên thật chín mới dùng, chớ dùng chung với hành, làm cho người ta 5 tạng không hòa, chớ ăn cùng lúc với cá làm cho đau lưng, đau bụng.
(chỗ này hiểu nó như là ăn đường. Đường thì có nhiều loại và mặc dù đường táo là loại lành hơn đường mía nhưng nó vẫn là chất ngọt. Nhưng đồ ngọt làm trệ khí, đầy bụng khó tiêu và nóng nên không hợp với các trường hợp như trên. Chính vì thế mà cần phải có cách chế biến phù hợp chứ không phải cứ xơi luôn một "cục đường". Chúng ta cũng vừa thấy họ nói bổ tỳ vị mà lại vừa nói ai đầy bụng khó tiêu thì ko nên ăn, thật là mâu thuẫn. Bởi thứ nào tốt hay xấu nó còn phụ thuộc vào cách chế biến nữa. Đôi khi dùng thế này không được mà thế kia lại tốt. )
https://bimatthucduong.com/blogs/news/tao-do-toan-tap
KHOÁNG VẬT LÀM THUỐC
http://caythuocvn.com/Khoangvat%20lamthuoc.html
Huyền không đại quái trạch nhật pháp
Huyền không đại quái trạch nhật pháp phương pháp này không cần lý sẽ mỗi bên giống như thần sát ( ngoại trừ tuổi phá sát bên ngoài ) , chỉ cần đối sơn gia cùng người bị hại có lợi cho dù xu thế cát , nếu có thể phối hợp chính thể ngũ hành càng thêm dệt hoa trên gấm .
Tam nguyên huyền không đại quái trạch nhật học lý , xuất tại triều tấn quách phác mà lớn nhiều không biết , đường dương dụng của tạo phúc cho dân , khiến nó hướng bần đêm phú , cố hữu cứu bần tiên sinh danh xưng . Dương hình bí bản 《 thiên ngọc kinh » bên trong truyện trung nói:"Duy có chịu tinh là quý nhất , tiết lộ thiên cơ chặt chẽ . Thiên cơ nếu như thế gắn ở bên trong, nhà sống lúc phú quý . Thiên cơ nếu như thế gắn ở bên ngoài , nhà sống dần lui bại . Ngũ tinh hợp với cửu tinh tên , thiên hạ mặc cho hoành hành ."Từ trạch nhật quan điểm mà nói , huyền không đại quái trạch nhật pháp tức chịu tinh pháp , này bí mật truật kinh thiên động địa , quỷ khóc thần sợ , tiết hết vậy trạch nhật thiên cơ . Thiên cơ nếu như thế gắn ở nội giả , tức"Sinh ra nhập khắc nhập tên là vượng"( khắc nhập thì phải vượng khí khắc nhập vuông lấy cát luận ); thiên cơ nếu như thế gắn ở ngoại giả , tức"Sinh ra khắc xuất là thoái thần". Bí ẩn trong đó chặt chẽ tất cả nguyên không đại Quẻ nội ,"Ngũ tinh hợp với cửu tinh tên"Nhân , huyền không ngũ hành1 6Thủy ,2 7Hỏa ,3 8Mộc ,4 9Kim ,5 1 0Thổ . Này ngũ hành phối cửu vận , hợp thiên địa của chánh khí , đối sở tác chi sơn hướng mới nói , dù cho có sát , đều năng lực tự động hoá hiểu , cho nên nói"Thiên hạ mặc cho hoành hành".
《 thanh nang áo nói 》 nói:"Minh huyền không , chỉ ở trong ngũ hành . Biết phương pháp này , không cần phải tìm nạp giáp". Nắm giữ huyền không đại quái trạch nhật bí quyết , muốn tìm tài đinh quý cát khóa , không cần lại từ trong bát quái tìm nạp giáp rồi, có thể thấy được nó trân quý vô so .
Tam nguyên huyền không đại quái trạch nhật ( gọi chung năm thứ ba đại học nguyên ) , nguyên là một môn bí truyền trạch nhật học , hiểu rõ huyền cơ bắt đầu được nhập môn , nó một dạng, nhật khóa của hiệu quả cùng phê chuẩn nghiệm độ thì không cách nào có thể so . Nhưng trước mắt chân chính hiểu được huyền không đại quái trạch nhật nhân không nhiều , bởi vì cổ đại không phải sư đồ hoặc thân thuộc quan hệ một dạng, không truyền . Dù cho truyền thụ , chọn đồ vậy tương đối nghiêm ngặt , đệ tử học thành hậu cũng không cho phép tiết lộ thiên cơ .
Hiện tại đem nó phối quẻ chi pháp cùng như thế nào vận dụng công bằng tại lòng người , để cho người hữu duyên được này bí mật truật , có thể vì phổ la đại chúng phục vụ , hồi quỹ xã sẽ, chớ loạn truyền bất nhân bất nghĩa nhân , nhẹ tiết sóng lớn thị , định hồi thiên khiển .
Một ,Huyền không số lý
Huyền không đại quái trạch nhật nguyên vận tính toán
Nguyên vận
Giá trị quẻ
Giá trị năm
Gần nhất năm
Một vận
Khôn
6+6+6= 18Năm
1664---- 188 1
Hai vận
Tốn
9+9+6=24Năm
1682---- 19 0 5
Ba vận
Ly
9+6+9=24Năm
19 0 6---- 1929
Bốn vận
Đoái
6+9+9=24Năm
193 0 ---- 1953
Sáu vận
Cấn
9+6+6=2 1Năm
1954---- 1974
Bảy vận
Khảm
6+9+6=2 1Năm
1975----- 1995
Bát vận
Chấn
6+6+9=2 1Năm
1996-----2 0 16
Cửu vận
Càn
9+9+9=27Năm
2 0 17-----2 0 43
Huyền không đại quái của nguyên vận , là lấy tiên thiên quẻ phối Lạc sách số được đến . Càn9Khôn1Chấn8Tốn2Khảm7Ly3Cấn6Đoái4 Quẻ vận của lưu chuyển , theo như số chữ , 495 0 5 15 254555657 thuận hành .
Thường vận chỗ đáng năm số cũng không giống nhau , theo như tiên thiên quẻ họa của hào ba , dương hào là9Năm , âm hào là6Năm . Thượng trung hạ hào ba thu về đến chính là 詃 quẻ chỗ đáng năm số
Một hai ba bốn vận , là thượng nguyên , thượng nguyên lấy một hai ba bốn là vượng , sáu, bảy tám chín là suy .
Sáu, bảy tám chín vận , là hạ nguyên , hạ nguyên lấy sáu, bảy tám chín là vượng , một hai ba bốn là suy .
Từ 49575 năm 754 đưa đến 5 0 484 năm 954 , là hạ nguyên tám vận , lấy tiên thiên chấn vị , tức đông bắc phương là chánh thần vuông , lấy cùng nhau mà nói của tây nam vuông là số không thần vuông .
Huyền không đại quái trạch nhật cùng 64 quẻ luận
Nên huyền không đại quái trạch nhật , là tiên lấy nhật thời hóa thành tứ trụ , tứ trụ lại hóa thành 64 quẻ . Là lấy có sáu mười giáp tử phối 64 quẻ chi pháp , sáu mười giáp tử phối 64 quẻ , lấy 64 quẻ tiên thiên hình đồ , cùng mười hai địa chi là cơ sở . Nhưng 64 quẻ so với sáu mười giáp tử nhiều bốn , trong đó càn , khôn , Khảm , ly về sau của một quẻ là không cần , phân biệt là cấu , che , trùm , cách . Địa chi của tử , cùng 64 quẻ khôn , đều là đến âm ở bắc phương , lấy giáp tử phối quẻ khôn là mở đầu , thuận đếm năm tử , được bính tử phối di , mậu tử phối truân , canh tử phối ích , nhâm tử phối chấn . Năm tử về sau , thuận đếm ngũ sửu , được ất sửu phối cắn cắn , đinh sửu phối tùy , kỷ sửu phối không vọng , tân sửu phối rõ ràng di , quý sửu phối bí . Ngũ sửu về sau , thuận đếm năm dần phối tiên thiên quẻ , một mực phối đến năm hợi là chỉ .
Huyền không số lý ( trong ngoài ) của giáp tử1Thủy khôn là địa một khôn; ất sửu3Mộc Hỏa Lôi Phệ Hạp sáu tốn loại là như thế này đoán đấy,"Giáp tử"Đại biểu sáu mười hoa giáp , bao quát năm tháng ngày lúc, tiên thiên số là1, ngũ hành thuộc thủy , 64 quẻ là quẻ khôn , chịu tinh quẻ vận thuộc một vận đương mùa , hậu thiên bát quái là khôn , ngoài ra suy luận tương tự .
Học qua 《 dịch kinh 》 nhân đều biết"Khôn là địa vi mẫu", vạn vật đều kém nó mà thai nghén . Chấn là động , mà sống , làm trưởng tử , động tất sinh phát trưởng thành . Giáp là thập can đứng đầu; tử là thập nhị chi chi thủy , đứng hàng bắc , là hàn là thủy , cho nên khí hậu dục sinh ra vạn vật . Cho nên , giáp tử là quẻ khôn chi thủy , cũng là nằm quẻ thai nghén ban đầu . Mẫu thai nghén đầu thai làm trưởng tử , là phục quẻ ( quẻ khôn động sơ hào vậy ); hai thai trung nữ là rõ ràng di quẻ ( quẻ khôn động hào hai vậy ); ba thai thiếu nữ là địa trạch lâm quẻ ( quẻ khôn động hào ba vậy ) . Thiên địa giao hợp mà làm quá quẻ , hợp tác thai nghén trưởng nữ là thăng quẻ ( địa thiên thái quẻ động sơ hào vậy ) , kế trong lúc mang thai nam sư quẻ , lại sinh thiếu nam khiêm quẻ . Là cho nên lấy trường tử chấn cầm đầu: chấn Ly đoái càn tốn khảm cấn khôn là tự , lấy năm tử là bắt đầu , thập can độn dụng . Tức giáp tử , bính tử , mậu tử , canh tử , nhâm tử; ất sửu , đinh sửu , kỷ sửu , tân sửu , quý sửu . Giáp bính mậu canh nhâm dần; ất đinh kỷ tân quý mão---Hơn suy luận tương tự sắp xếp mười hai địa chi .
Từ phục quẻ bắt đầu sắp xếp giáp tử , di quẻ sắp xếp bính tử , truân quẻ sắp xếp việt tử , ích quẻ sắp xếp canh tử , quẻ chấn sắp xếp nhâm tử . Nó quy luật chương trình là: từ tử vừa mới dương sinh , từ âm dần dần dương chín . Tiên thiên càn cư hậu thiên nam Ly là dương; tiên thiên khôn cư hậu thiên bắc Khảm là âm . Mà tiên thiên của quẻ tự là, càn1Đoái2Ly3Chấn4Tốn5Khảm6Cấn7Khôn8. Này lại là từ dương đến âm từ ngọ đến tử . Từ hại được dương từ tử đến ngọ tức là , khôn8Cấn7Khảm6Tốn5Chấn4Ly3Đoái2Càn1. Ở trên nói đến , khôn là mẫu thai nghén đầu thai trường tử chấn , chấn là ban đầu mà sinh phát , cho nên lấy quẻ chấn là bắt đầu từ âm mà dương nghịch sắp xếp bát quái . Tức là giáp tử Địa Lôi Phục lại là khôn tâm ý . Vì cái gì giáp tử có hai quẻ đâu? Ngoại trừ vậy giáp tử bên ngoài , canh dần , giáp ngọ , canh thân cũng có hai quẻ . Bởi vì sáu mười giáp tử chỉ xứng sáu mười quẻ , cho nên nhất định phải có bốn tổ can chi có dấu hai quẻ mới có khả năng phối xong 64 quẻ . Nhưng trạch nhật phương diện chỉ có sáu mười giáp tử , cho nên chỉ dụng lục mười quẻ , ngoài ra bốn quẻ đôi tám hai vận không được dụng , giáp tử1Tám phục , giáp ngọ9Tám cấu; canh dần4Hai cách , canh thân6Hai trùm . Có thể căn cứ thực tế lấy hay bỏ , cái nào tốt dụng thì lấy cái nào . Bính Tử Sơn sét di , mậu Tý thủy sét truân , canh tử phong lôi ích , nhâm tử chấn là sét---Các loại, này chính là căn do vậy. Hơn có thể suy luận tương tự .
Phối biểu hiện
Giáp tử
Ngũ hành
Quẻ vận
Quẻ tên
Hậu thiên
Giáp tử
Ngũ hành
Quẻ vận
Quẻ tên
Hậu thiên
Giáp tử
1Thủy
Một
Địa vi khôn
Khôn
Giáp ngọ
9Kim
Một
Thiên là càn
Càn
Giáp tử
1Thủy
Tám
Địa Lôi Phục
Khôn
Giáp ngọ
9Kim
Tám
Thiên Phong Cấu
Càn
Ất sửu
3Mộc
Sáu
Hỏa Lôi Phệ Hạp
Tốn
Ất mùi
7Hỏa
Sáu
Thủy Phong Tỉnh
Chấn
Bính dần
2Hỏa
Bốn
Phong hỏa người nhà
Tốn
Bính thân
8Mộc
Bốn
Lôi Thủy Giải
Chấn
Đinh mão
6Thủy
Chín
Sơn trạch tổn hại
Cấn
Đinh dậu
4Kim
Chín
Trạch Sơn Hàm
Đoái
Mậu thìn
9Kim
Sáu
Thiên trạch lý
Cấn
Mậu tuất
1Thủy
Sáu
Địa Sơn Khiêm
Đoái
Kỉ tỵ
8Mộc
Hai
Sét thiên đại cường tráng
Khôn
Kỷ hợi
2Hỏa
Hai
Phong Địa Quán
Càn
Canh ngọ
8Mộc
Chín
Lôi Phong Hằng
Chấn
Canh tử
2Hỏa
Chín
Phong lôi ích
Tốn
Tân mùi
9Kim
Ba
Thiên Thủy Tụng
Ly
Tân sửu
1Thủy
Ba
Địa hỏa rõ ràng di
Khảm
Nhâm thân
1Thủy
Bảy
Địa thủy sư
Khảm
Nhâm dần
9Kim
Bảy
Thiên Hỏa Đồng Nhân
Ly
Quý dậu
2Hỏa
Bảy
Đỉnh núi dần dần
Cấn
Quý mão
8Mộc
Bảy
Lôi Trạch Quy Muội
Đoái
Giáp tuất
7Hỏa
Hai
Thủy Sơn Kiển
Đoái
Giáp thìn
3Mộc
Hai
Hỏa trạch khuê
Cấn
Ất hợi
3Mộc
Ba
Hỏa Địa Tấn
Càn
Ất tị
7Hỏa
Ba
Thủy thiên cần
Khôn
Bính tử
6Thủy
Ba
Sơn sét di
Tốn
Bính ngọ
4Kim
Ba
Trạch Phong Đại Quá
Chấn
Đinh sửu
4Kim
Bảy
Trạch sét theo
Chấn
Đinh mùi
6Thủy
Bảy
Gió núi cổ
Tốn
Mậu dần
8Mộc
Sáu
Lôi Hỏa Phong
Khảm
Mậu thân
2Hỏa
Sáu
Phong Thủy Hoán
Ly
Kỷ mão
7Hỏa
Tám
Thủy Trạch Tiết
Khảm
Kỷ dậu
3Mộc
Tám
Hỏa Sơn Lữ
Ly
Canh thìn
1Thủy
Chín
Địa thiên thái
Khôn
Canh tuất
9Kim
Chín
Thiên Địa Bĩ
Càn
Tân tị
3Mộc
Bảy
Hỏa Thiên Đại Hữu
Càn
Tân hợi
7Hỏa
Bảy
Ruộng nước so với
Khôn
Nhâm Ngọ
2Hỏa
Một
Gió là tốn
Tốn
Nhâm tử
8Mộc
Một
Sét là chấn
Chấn
Quý mùi
4Kim
Tám
Trạch Thủy Khốn
Đoái
Quý sửu
6Thủy
Tám
Sơn hỏa bí
Cấn
Giáp thân
3Mộc
Chín
Hỏa Thủy Vị tế
Ly
Giáp dần
7Hỏa
Chín
Thủy hỏa đã tế
Khảm
Ất dậu
9Kim
Bốn
Thiên Sơn độn
Càn
Ất mão
1Thủy
Bốn
Địa trạch lâm
Khôn
Bính tuất
6Thủy
Một
Sơn là cấn
Cấn
Bính thìn
4Kim
Một
Trạch là đoái
Đoái
Đinh hợi
8Mộc
Tám
Lôi Địa Dự
Chấn
Đinh tị
2Hỏa
Tám
Gió thiên tiểu súc
Tốn
Mậu tử
7Hỏa
Bốn
Thủy sét truân
Khảm
Mậu ngọ
3Mộc
Bốn
Hỏa Phong Đỉnh
Ly
Kỷ sửu
9Kim
Hai
Thiên sét vô vọng
Tốn
Kỷ mùi
1Thủy
Hai
Địa Phong Thăng
Chấn
Canh dần
3Mộc
Một
Hỏa là Ly
Ly
Canh thân
7Hỏa
Một
Thủy là Khảm
Khảm
Canh dần
4
Hai
Trạch hỏa cách
Ly
Canh thân
6
Hai
Sơn Thủy Mông
Khảm
Tân mão
2Hỏa
Ba
Phong Trạch Trung Phu
Cấn
Tân dậu
8Mộc
Ba
Lôi Sơn Tiểu Quá
Đoái
Nhâm thìn
6Thủy
Bốn
Sơn Thiên Đại Súc
Cấn
Nhâm tuất
4Kim
Bốn
Trạch Địa Tụy
Đoái
Quý tị
4Kim
Sáu
Trạch thiên quyết
Khôn
Quý hợi
6Thủy
Sáu
Sơn Địa Bác
Càn
Chú thích: đôi tám hai vận có bốn quẻ không được dụng , giáp tử1Tám phục , giáp ngọ9Tám cấu; canh dần4Hai cách , canh thân6Hai trùm . Có thể căn cứ thực tế lấy hay bỏ , cái nào tốt dụng thì lấy cái nào .
Huyền không đại quái trạch nhật , nhất định phải rục 64 quẻ , phối sáu mười giáp tử hao phí . Đông chí trước giáp tử nhật tại quẻ khôn , đông chí hậu giáp tử nhật tại Địa Lôi Phục quẻ . Hạ chí trước giáp ngọ nhật tại thiên phong hậu quẻ , hạ chí hậu giáp ngọ nhật tại quẻ càn . Kinh thẳng trước canh dần nhật tại quẻ ly , kinh thẳng hậu canh dần nhật tại trạch hỏa cách quẻ . Bạch lộ trước canh thân nhật tại quẻ khảm , bạch lộ hậu canh thân nhật tại Sơn Thủy Mông quẻ .
Sáu mười giáp tử phối quẻ ca
Giáp tử giáp ngọ khôn càn gặp, ất sửu ất mùi khạp giếng ngay cả . Bính dần bính thân người nhà hiểu , đinh mão đinh dậu tổn hại mặn trước . Mậu thìn mậu tuất lý khiêm là, kỉ tỵ kỷ hợi hùng vĩ vậy . Canh ngọ canh tử hằng ích tại , tân mùi tân sửu tụng di liên . Nhâm thân nhâm dần sư đồng xuất , quý dậu quý mão dần dần muội thêm . Giáp tuất giáp thìn kiển khuê đến , ất hợi ất Kỷ tấn cần thiên . Bính tử bính ngọ di lỗi nặng , đinh sửu đinh mùi tùy chung cứng . Mậu dần mậu thân phong hoán tốt, kỷ 邜 kỷ dậu tiết lữ điền . Canh thìn canh tuất quá phủ quẻ , tân tị tân hợi có so với ngay cả . Nhâm Ngọ nhâm tử tốn chấn sẽ, quý mùi quý sửu khốn bí trước . Giáp thân giáp dần mùi đã tế , ất dậu ất mão độn lâm thiên . Bính tuất bính thìn cấn đoái đủ , đinh hợi đinh tị dự tiểu súc . Mậu tử mậu ngọ truân đỉnh lộc , kỷ sửu kỷ mùi vọng thăng phúc . Canh dần canh thân ly khảm sai , tân mão tân dậu phu chuyện nhỏ . Nhâm thìn nhâm tuất đại súc tập , quý tị quý hợi quái lột mệt mỏi . Này là huyền không chân bí quyết , người không có đức thề không nói.
Hai , quẻ cùng quẻ giao thông quan hệ:
Huyền không đại quái trạch nhật pháp của nội dung trung tâm tại tại quẻ cùng quẻ ở giữa giao thông . Cái gọi là giao thông , liền là thông qua một loại nào đó đường lối , thực hiện hai cái mục đích:
1, là thực hiện quẻ cùng quẻ ở giữa liên kết , khiến nó trở thành một đoàn kết hữu lực của chỉnh thể .
2, là thực hiện quẻ cùng quẻ ở giữa năng lực lượng chuyển vận , năng lượng tương hỗ chuyển vận , khiến quẻ cùng quẻ thực sự trở thành một cái chỉnh thể .
Huyền không đại quái của phương thức giao thông , từ chỗ lớn nếu mắt có bốn loại:
(1) , ngũ hành phương thức giao thông .
(2) , quẻ vận phương thức giao thông .
(3) , thân duyên phương thức giao thông .
(4) , thất tinh đánh kiếp .
Nhật khóa của tổ hợp chính là ứng dụng lần này phương thức giao thông , thực hiện quẻ cùng quẻ ở giữa liên kết , trở thành một đoàn kết hữu lực của chỉnh thể , đồng thời quẻ cùng quẻ ở giữa năng lực lượng vậy bắt đầu tương hỗ thẩm thấu , cuối cùng chân chính nối thành một thể . Nhật khóa cùng sơn gia cùng chủ mệnh của giao thông là như thế này , chủ mệnh cùng sơn gia của giao thông vậy là như thế này . Nhật khóa của năng lực lượng chuyển vận cho chủ mệnh , cho nên chủ mệnh có thể thu được nhật khóa của phúc; sơn gia của năng lực lượng chuyển vận cho chủ mệnh , cho nên chủ mệnh có thể thu được địa lý của phúc . Đồng thời , chủ mệnh của năng lực lượng vậy chuyển vận cho nhật khóa , sơn gia , năng lực lượng ở giữa tương hỗ chuyển vận thẩm thấu , cuối cùng khiến thiên(Nhật khóa), địa(Sơn gia), người(Chủ mệnh), tam tài liên kết trở thành một hữu lực của chỉnh thể , vinh nhục cùng tổng cộng , họa phúc tổng cộng hưởng . Quyển sách từ cạn nhập sâu , từng bước từng bước hướng các ngươi biểu hiện ra huyền không đại quái trạch nhật pháp của bí mật , tin tưởng độc giả đọc thông toàn thư về sau, trạch nhật công phu đem lên cao cái tầng thứ .
Ba , huyền không đại quái cách cục ba định luật thiên quẻ hợp cách định luật:
(1) huyền không thiên quẻ hợp cách định luật
1, hợp âm dương hòa hợp ( hợp mười ) vợ chồng chính phối là vượng khí về trung cát cách .
A, tứ trụ hợp thiên địa định vị ( quẻ càn , quẻ khôn ) chín hợp lại mười cát cách;
B, tứ trụ hợp sơn trạch thông khí ( quẻ cấn , quẻ đoái ) 64 hợp mười cát cách;
C, tứ trụ hợp lôi phong cùng nhau mỏng ( quẻ chấn , quẻ tốn ) tám hai hợp mười cát cách;
D, tứ trụ hợp thủy hỏa bất tương xạ ( quẻ khảm , quẻ ly ) bảy tam hợp mười cát cách .
2, hợp quẻ khí tương thông ( hợp năm , hợp mười lăm ) là thông khí cát cách
A, tứ trụ là càn quẻ , quẻ cấn ( chín lục hợp mười lăm ) cát cách;
B, tứ trụ quẻ khôn , quẻ đoái ( một bốn hợp năm ) cát cách;
C, tứ trụ quẻ ly , quẻ tốn ( ba hai hợp năm ) cát cách;
D, tứ trụ quẻ chấn , quẻ khảm ( tám bảy hợp mười lăm ) cát cách .
3, hợp âm dương xứng đôi cát cách
A, tứ trụ quẻ khôn , quẻ khảm ( một bảy ) âm dương cát cách;
B, tứ trụ quẻ tốn , quẻ cấn ( hai sáu ) âm dương cát cách;
C, tứ trụ quẻ ly , quẻ càn ( tam cửu ) âm dương cát cách;
D, bốn quẻ quẻ đoái , quẻ chấn ( bốn tám ) âm dương Cát cách
4, hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách ( Long Sơn thủy hướng , hà đồ ngũ hành giống nhau , quẻ vận giống nhau , nhiều phối hợp loan đầu tình thế chọn dụng , khóa cách chỉ có thanh thuần )
A, tứ trụ toàn quẻ càn nhân , hợp Càn sơn càn hướng , dòng nước càn , một quẻ thuần thanh cát cách;
B, tứ trụ toàn quẻ khôn nhân , hợp khôn Sơn khôn hướng , khôn dòng nước , một quẻ thuần thanh cát cách;
C, tứ trụ toàn quẻ khảm nhân , hợp Tử Sơn tử hướng , Tý thủy đến, một quẻ thuần thanh cát cách;
D, tứ trụ toàn quẻ ly nhân , hợp ngọ Sơn ngọ hướng , ngọ thủy đến, một quẻ thuần thanh cát cách;
E, tứ trụ toàn quẻ chấn nhân , hợp mão Sơn mão hướng , mão nguồn gốc thủy , một quẻ thuần thanh cát cách;
F, tứ trụ toàn quẻ tốn nhân , hợp tốn Sơn tốn hướng , dòng nước tốn , một quẻ thuần thanh cát cách .
G, tứ trụ toàn quẻ cấn nhân , hợp cấn Sơn cấn hướng , cấn thủy đến, một quẻ thuần thanh cát cách;
H, tứ trụ toàn quẻ đoái nhân , hợp dậu Sơn dậu hướng , dậu thủy triều , một quẻ thuần thanh cát cách .
( 2 ) , huyền không đại quái ngũ hành định luật:
Huyền không đại quái ngũ hành bí quyết: càn chín đoái bốn đều là kim , Ly ba chấn bát mộc thành rừng . Tốn hai Khảm bảy tiên thiên hỏa , khôn một cấn sáu thủy là thật . Điều đường nét hướng trung ương qua , có thổ không cần lặp lại tìm .
Pháp quyết này thanh minh huyền không đại quái ngũ hành lấy tiên thiên ngũ hành làm chuẩn , ở trên quẻ tiên thiên số định . Càn chín đoái bốn Ly ba chấn tám tốn hai Khảm bảy khôn một cấn sáu của định luật . Này chính là chân chính của đại ngũ hành vậy. Vô duyên không đức nhân , gì sao biết được này?
1, hợp sanh thành vượng khí cát cách
(1) khóa trung toàn 16 nhân ( tứ trụ là quẻ khôn , quẻ cấn nhân ) , hợp cộng tông vượng khí cát cách .
(2) khóa trung toàn 27 nhân ( tứ trụ là quẻ tốn , quẻ khảm nhân ) , hợp đồng đạo vượng khí cát cách .
(3) khóa trung toàn 38 nhân ( tứ trụ là quẻ ly , quẻ chấn nhân ) , hợp thành bằng vượng khí cát cách .
(4) khóa trung toàn 49 nhân ( tứ trụ là quẻ đoái , quẻ càn nhân ) , hợp thành bạn bè vượng khí cát cách .
(5) khóa trung tứ trụ là đôi tám , ba bảy , bốn sáu , nhất cửu nhân , là hợp mười về trung vượng khí cát cách .
(6) khóa trung toàn trời đất quẻ nhân , hợp thiên địa định vị vượng khí nhân cát cách .
(7) khóa trung toàn quẻ cấn đoái nhân , hợp sơn trạch thông khí vượng khí cát cách .
(8) khóa trung toàn chấn quẻ tốn nhân , hợp lôi phong cùng nhau mỏng vượng khí cát cách .
(9) khóa trung toàn khảm ly quẻ nhân , hợp thủy hỏa bất tương xạ vượng khí cát cách .
2, hợp sinh ra nhập khắc nhập tên là tiến khí cát cách
A, năm trụ , nguyệt trụ , lúc trụ huyền không ngũ hành ngày sinh trụ huyền không ngũ hành , hợp sinh ra nhập vào khí cát cách .
B, năm trụ , nguyệt trụ , lúc trụ huyền không ngũ hành kỳ kạn trụ huyền không ngũ hành , hợp khắc nhập vào khí cát cách .
C, nhật trụ huyền không ngũ hành năm sinh trụ , nguyệt trụ , lúc trụ huyền không ngũ hành , hợp sinh ra thoái khí hung cách .
D, nhật trụ huyền không ngũ hành khắc năm trụ , nguyệt trụ , lúc trụ huyền không ngũ hành , hợp khắc xuất thoái khí hung cách .
( 3) , thiên vận định luật:
Huyền không đại quái quẻ vận bí quyết:
Tham lang không thay đổi một chở tới ( trên dưới hai quẻ quẻ hào giống nhau nhân , làm một vận quẻ , như càn , khôn , cấn . . . )
Cửu vận hoàn toàn thay đổi bật hẳn là ( trên dưới hai quẻ quẻ hào cùng nhau ngược lại nhân , là cửu vận quẻ , như tổn hại , ích , quá . . . )
Hai vận cự môn thượng trung biến ( trên dưới hai quẻ quẻ hào nó thượng hào trung hào cùng nhau ngược lại là hai vận quẻ , như cường tráng , thăng . . . )
Bát vận phụ tinh sơ hào nhận ( trên dưới hai quẻ chỉ có sơ hào cùng nhau ngược lại nhân , là bát vận quẻ , như tiết , bí . . . )
Ba vận lộc tồn trên dưới biến ( trên dưới hai quẻ trên dưới hào cùng nhau ngược lại nhân , là ba vận quẻ , như tấn , cần . . . )
Bảy vận phá quân biến trung thai ( trên dưới hai quẻ chỉ có trung hào cùng nhau ngược lại nhân , là bảy vận quẻ , như sư , dần dần . . . )
Bốn vận trung hạ văn khúc chỗ ( trên dưới hai trong quẻ hào hạ hào cùng nhau ngược lại nhân , là bốn vận quẻ , như người nhà , cần độn . . . )
Sáu vận vũ khúc thượng hào nhấc ( trên dưới hai quẻ chỉ có thượng hào cùng nhau ngược lại nhân , là sáu vận quẻ , như lý , lột . . . )
Này là huyền không đại quái quyết
Hợp số không chính phát đinh tài
Cái này 64 trong quẻ bao quát vậy phụ mẫu con nối dõi ba bàn quẻ; trong đó một vận quẻ là phụ quẻ , cửu vận quẻ là cái quẻ , tám , bảy , sáu vận quẻ là giang đông quẻ , hai , ba, bốn vận quẻ là sông phương tây quẻ , chọn giờ dạy học , hạ nguyên giang đông quẻ tọa sơn chọn giang đông quẻ nhật khóa , thượng nguyên chọn phụ mẫu quẻ nhật khóa , hạ nguyên giang phương tây quẻ tọa sơn lựa chọn sử dụng sông phương tây phụ mẫu quẻ nhật khóa , mà không tuyển lựa sông phương tây con nối dõi quẻ nhật khóa , bởi vì nghịch tử trên dưới quẻ không phải thuần âm chính là thuần dương , dễ dàng tạo thành liệt nửa người .
Dịch quái trạch nhật chút tử pháp của chọn khóa yêu cầu: tiên thiên làm thể , hậu thiên là dụng , nhật khóa cùng sơn gia , thiên địa định vị , sơn trạch thông khí , lôi phong cùng nhau mỏng , thủy hỏa bất tương xạ . Khóa cách tiên hậu thiên vợ chồng giao cấu , phụ mẫu gặp con nối dõi , phụ tử họ công tôn , một nhà xương thịt kén rể , không sợ hình trùng khắc hại , bất kị ngũ hoàng , tam sát , tuổi phá .
1, hợp nhất quẻ thuần thanh ( quẻ không ra vị trí ) cùng nguyên một mạch cát cách
A, tứ trụ chịu tinh vận toàn một vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
B, tứ trụ chịu tinh vận toàn hai vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
C, tứ trụ chịu tinh vận toàn ba vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
D, tứ trụ chịu tinh vận toàn bốn vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
E, tứ trụ chịu tinh vận toàn năm vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
F, tứ trụ chịu tinh vận toàn sáu vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
G, tứ trụ chịu tinh vận toàn bảy vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
H, tứ trụ chịu tinh vận toàn bát vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
I, tứ trụ chịu tinh vận toàn cửu vận nhân , hợp nhất quẻ thuần thanh cát cách
2, hợp đảo ngược chịu tinh ( cách vị trí xứng đôi ) xương thịt một nhà cát cách
A, tứ trụ chịu tinh một vận , ba vận nhân , hợp đảo ngược chịu tinh cát cách
B, tứ trụ chịu tinh hai vận , bốn vận nhân , hợp đảo ngược chịu tinh cát cách
C, tứ trụ chịu tinh sáu vận , bát vận nhân , hợp đảo ngược chịu tinh cát cách
D, tứ trụ chịu tinh bảy vận , cửu vận nhân , hợp đảo ngược chịu tinh cát cách
3, hợp đối đãi ( hợp mười ) thiên tâm chính vận cửu tinh cát cách
A, tứ trụ chịu tinh một vận , cửu vận nhân , hợp chịu tinh tham lang cát cách
B, tứ trụ chịu tinh hai vận , bát vận nhân , hợp chịu tinh cự môn cát cách
C, tứ trụ chịu tinh ba vận , bảy vận nhân , hợp chịu tinh lộc tồn cát cách
D, tứ trụ chịu tinh bốn vận , sáu vận nhân , hợp chịu tinh văn khúc cát cách
E, tứ trụ chịu tinh sáu vận , bốn vận nhân , hợp chịu tinh võ khúc cát cách
F, tứ trụ chịu tinh bảy vận , ba vận nhân , hợp chịu tinh phá quân cát cách
G, tứ trụ chịu tinh bát vận , hai vận nhân , hợp chịu tinh tả phụ cát cách
H, tứ trụ chịu tinh cửu vận , một vận nhân , hợp chịu tinh hữu bật cát cách
Cửu tinh cát cách là nhật trụ chịu tinh chi danh
4, hợp năm , hợp mười lăm thông khí cát cách
A, tứ trụ chịu tinh một vận , bốn vận nhân , hợp năm thông khí cát cách
B, tứ trụ chịu tinh hai vận , ba vận nhân , hợp năm thông khí cát cách
C, tứ trụ chịu tinh bát vận , bảy vận nhân , hợp mười lăm thông khí cát cách
D, tứ trụ chịu tinh cửu vận , sáu vận nhân , hợp mười lăm thông khí cát cách
5, hợp quẻ không ra vị trí , có thể dụng không thể dụng cát cách
A, tứ trụ đáng vận vượng khí nhân , là có thể dụng cát cách
B, tứ trụ thoái khí không làm vận nhân , vì không có thể dụng hung cách
C, tứ trụ đáng vận vượng khí , sinh ra , khắc xuất đều lấy cát luận
D, tứ trụ không làm vận vượng khí , sinh ra , khắc xuất lấy hung đoạn
Bốn , xem khóa nhập cách bí yếu:
1, huyền không đại quái quẻ vận giống nhau một mạch thuần thanh cát cách .
Một vận , càn , Khảm , cấn , chấn , tốn , Ly , khôn , đoái tham lang thuần thanh .
Cửu vận , quá , không , bình thường , ích , mặn , tổn hại , mùi tế , đã tế bật tinh thuần thanh .
Hai vận , vọng , cường tráng , thăng , xem , cách , khuê , kiển , trùm cự môn thuần thanh .
Bát vận , khốn , tiết , bí , lữ , phục , dự , tiểu súc , cấu phụ tinh thuần thanh .
Ba vận , di , di , phu , cần , tụng , lỗi nặng , chuyện nhỏ , tấn lộc tồn thuần thanh .
Bảy vận , sư , cùng , muội , có , so với , dần dần , theo , cổ phá quân thuần thanh .
Bốn vận , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâm văn khúc thuần thanh .
Sáu vận , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêm vũ khúc thuần thanh .
2, huyền không đại quái ngũ hành một quẻ thuần thanh cách .
1Sư Khiêm Phục Thăng Di Lâm Quá Khôn Quẻ khôn một quẻ thuần thanh .
9Tụng Độn Vọng Cấu Cùng Không Lý Càn Quẻ càn một quẻ thuần thanh .
2Hoán Dần dần Ích Nhà Xem Phu Tiểu súc Tốn Quẻ tốn một quẻ thuần thanh .
8Hiểu Chuyện nhỏ Bình thường Phong Dự Muội Cường tráng Chấn Quẻ chấn một quẻ thuần thanh .
3Mùi tế Lữ Cắn Đỉnh Tấn Khuê Có Ly Quẻ ly một quẻ thuần thanh .
7Kiển Truân Giếng Đã tế So với Tiết Cần Khảm Quẻ khảm một quẻ thuần thanh .
4Khốn Mặn Quái Tập Theo Lỗi nặng Cách Đoái Quẻ đoái một quẻ thuần thanh .
6Trùm Di Cổ Lột Tổn hại Đại súc Bí Cấn Quẻ cấn một quẻ thuần thanh .
3, vợ chồng hợp mười cát cách
1, quẻ vận hợp mười cát cách
Một , càn , Khảm , cấn , chấn , tốn , Ly , khôn , đoái .( hợp mười vợ chồng )
Chín , quá , không , bình thường , ích , mặn , tổn hại , mùi tế , đã tế
Hai , vọng , cường tráng , thăng , xem , cách , khuê , kiển , trùm( hợp mười vợ chồng )
Tám , khốn , tiết , bí , lữ , phục , dự , tiểu súc , cấu .
Ba , di , di , phu , cần , tụng , lỗi nặng , chuyện nhỏ , tấn( hợp mười vợ chồng )
Bảy , sư , cùng , muội , có , so với , dần dần , theo , cổ
Bốn , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâm( hợp mười vợ chồng )
Sáu , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêm
2, huyền không ngũ hành hợp mười cát cách
1Sư Khiêm Phục Thăng Di Lâm Quá khônThiên địa định vị .
9Tụng Độn Vọng Cấu Cùng Không Lý Càn
2Hoán Dần dần Ích Nhà Xem Phu Tiểu súc tốnLôi phong cùng nhau mỏng
8Hiểu Chuyện nhỏ Bình thường Phong Dự Muội Cường tráng Chấn
3Mùi tế Lữ Cắn Đỉnh Tấn Khuê Có Ly
7Kiển Truân Giếng Đã tế So với Tiết Cần KhảmThủy hỏa bất tương xạ
4Khốn Mặn Quái Tập Theo Lỗi nặng Cách Đoái
6Trùm Di Cổ Lột Tổn hại Đại súc Bí cấnSơn trạch thông khí
3, đảo ngược chịu tinh cát cách
(1) , càn , Khảm , cấn , chấn , tốn , Ly , khôn , đoáiMột ba tương thông
(3) , di , di , phu , cần , tụng , lỗi nặng , chuyện nhỏ , tấn .
(2) , vọng , cường tráng , thăng , xem , cách , khuê , kiển , trùmHai bốn tương thông
(4) , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâm .
(4) , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâmBốn sáu tương thông
(6) , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêm
(6) , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêmSáu tám tương thông
(8) , khốn , tiết , bí , lữ , phục , dự , tiểu súc , cấu
(7) , sư , cùng , muội , có , so với , dần dần , theo , cổBảy chín tương thông
(9) , quá , không , bình thường , ích , mặn , tổn hại , mùi tế , đã tế
4, quẻ vận hợp năm hợp mười lăm cát cách:
Một , càn , Khảm , cấn , chấn , tốn , Ly , khôn , đoáiMột bốn hợp năm
Bốn , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâm
Hai , vọng , cường tráng , thăng , xem , cách , khuê , kiển , trùmHai ba hợp năm
Ba , di , di , phu , cần , tụng , lỗi nặng , chuyện nhỏ , tấn
Sáu , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêmLục cửu hợp mười lăm
Chín , quá , không , bình thường , ích , mặn , tổn hại , mùi tế , đã tế
Bảy , sư , cùng , muội , có , so với , dần dần , theo , cổBảy tám hợp mười lăm
Tám , khốn , tiết , bí , lữ , phục , dự , tiểu súc , cấu
5, huyền không ngũ hành hợp5, hợp mười lăm cát cách .
1Sư Khiêm Phục Thăng Di Lâm Quá khôn1,4Hợp5
4Khốn Mặn Quái Tập Theo Lỗi nặng Cách Đoái
2Hoán Dần dần Ích Nhà Xem Phu Tiểu súc tốn2,3Hợp5
3Mùi tế Lữ Cắn Đỉnh Tấn Khuê Có Ly
6Trùm Di Cổ Lột Tổn hại Đại súc Bí cấn6,9Hợp15
9Tụng Độn Vọng Cấu Cùng Không Lý Càn
7Kiển Truân Giếng Đã tế So với Tiết Cần Khảm7,8Hợp15
8Hiểu Chuyện nhỏ Bình thường Phong Dự Muội Cường tráng Chấn
6, quẻ vận hợp sanh thành số cát cách
(1) , càn , Khảm , cấn , chấn , tốn , Ly , khôn , đoáiNhất lục cộng tông
(6) , cắn , phong , quái , lý , giếng , hoán , lột , khiêm
(2) , vọng , cường tráng , thăng , xem , cách , khuê , kiển , trùm
(7) , sư , cùng , muội , có , so với , dần dần , theo , cổ27 cùng một đường
(3) , di , di , phu , cần , tụng , lỗi nặng , chuyện nhỏ , tấn
(8) , khốn , tiết , bí , lữ , phục , dự , tiểu súc , cấu38 là bằng
(4) , truân , nhà , đại súc , đỉnh , hiểu , độn , tập , lâm
(9) , quá , không , bình thường , ích , mặn , tổn hại , mùi tế , đã tế49 là bạn
7, huyền không ngũ hành hợp thành số cát cách
1Sư Khiêm Phục Thăng Di Lâm Quá khôn1,6Cộng tông
6Trùm Di Cổ Lột Tổn hại Đại súc Bí cấn
2Hoán Dần dần Ích Nhà Xem Phu Tiểu súc tốn
7Kiển Truân Giếng Đã tế So với Tiết Cần Khảm2,7Cùng một đường
3Mùi tế Lữ Cắn Đỉnh Tấn Khuê Có Ly
8Hiểu Chuyện nhỏ Bình thường Phong Dự Muội Cường tráng chấn3,8Là bằng
4Khốn Mặn Quái Tập Theo Lỗi nặng Cách Đoái
9Tụng Độn Vọng Cấu Cùng Không Lý càn4,9Là bạn
Ở trên chư cách , là huyền không đại quái trạch nhật pháp của bí quyết không dễ của cát cách , hợp kể trên cách cục thì cát , không hợp kể trên cách cục , sâu sắc của nó không ngũ hành lại không phải là sống nhập , vượng khí khắc nhập của khóa , thì không phải hòa hợp khóa vậy . Nhớ lấy: khóa cách liên quan đến của huyền không ngũ hành định luật cùng trụ trung hợp quẻ vận chi pháp , nhất định phải truyền miệng trong đó chân quyết , mật chỉ mới có khả năng vận dụng thoả đáng , tạo phúc vuông có thể ứng nghiệm có phê chuẩn vậy . Không phải thật truyền nhân , chớ tự cho là thông minh , cứng nhắc vận dụng mà lộng khéo thành vụng , lầm kỷ làm hại người vậy .
Ở trên tam đại định luật , chính là không dễ của cát cách , ngoài ra, gặp không hề có thể phối hợp này tam đại định luật của khóa nhân , cho dù không phải hòa hợp khóa , lúc chế hóa lấy dụng hắn. Rộng phương tây ngọc lâm thị lý thăng Lâm đại sư nói: "Buôn bán hùng thượng nhờ có tổn hại , huyền không đại quái có thần kì cơ !" "Thần sát sôi nổi nhưng như thế nào , một quẻ thuần thanh mập ra nhiều" . Hữu duyên của**, nhất định phải lập thệ vuông được , được dạy nhân , nhất định phải ngăn chứa giấu của , kim khẩu ổn của , không được được loạn truyền hậu thế thượng vô e rằng chỉ có nhân . Nếu không hồi thiên phạt tai.
Năm , cát hung cách bộ phận luận
Huyền không đại quái trạch nhật ngũ hành lấy hà lạc số phối quẻ là dụng .1, Mệnh cùng tứ trụ luận1, mệnh cùng tứ trụ luận2, tọa sơn cùng tứ trụ luận3, mệnh cùng tọa sơn luận
Cát khóa ( cát cách bộ phận ):
Huyền không đại quái cát khóa phải có hai cái yếu điểm .
Một , cát hung
49 . Nhật chủ của huyền không ngũ hành , sanh thành , sinh ra nhập , khắc nhập , bỉ hòa nhân mệnh quẻ huyền không ngũ hành .
5 0 . Thời của huyền không ngũ hành , sanh thành , sinh ra nhập , khắc nhập , bỉ hòa nhật chủ của huyền không ngũ hành .
5 1 . Nguyệt của huyền không ngũ hành , sanh thành , sinh ra nhập , khắc nhập , bỉ hòa nhật chủ của huyền không ngũ hành .
52 . Năm huyền không ngũ hành , sanh thành , sinh ra nhập , khắc nhập , bỉ hòa nhật chủ của huyền không ngũ hành .
Huyền không đại quái nhật khóa của cát hung , muốn tham khảo thi nhân mệnh quẻ . Nhân mệnh quẻ lấy người trong cuộc năm sinh ra của can chi , theo sáu mười giáp tử phối quẻ đạt được tương quan của huyền không ngũ hành . Chính là nhân mệnh quẻ huyền không ngũ hành .
Trong đó 49 cùng 5 0 là bắt buộc , hợp phù này hai hạng , Kỷ có thể kế là có thể dụng của cát khóa . Như năng lực gia tăng thượng 5 1 hoặc 52 , liền có thể xem như thượng cát của nhật khóa .
Hai , năng lực
Nhật khóa năng lực của lớn nhỏ lấy bốn khóa trung được nguyên vận vượng ngươi khóa hơn ít có quan . Rõ ràng thời là phía dưới nguyên tám vận , lấy bốn khóa trung được 56 cùng 545557 quẻ vận của khóa càng nhiều , là năng lực càng lớn . Quẻ vận lấy hợp thập là đắc lực . Như khóa bên trong có quẻ vận là 56 , lấy gặp 5 0 là cát . Nó hợp thập cũng cùng , hợp thập chủ cát hung năng lực trường viễn .Mặt khác có một khí thuần rõ ràng , cùng một khóa hợp thập là đặc biệt cách cục . Nhất khí thuần rõ ràng là bốn khóa quẻ vận giống nhau . Một khóa hợp thập chỉ bốn khóa của quẻ vận cũng là cùng một tổ hợp mười ,
Tỷ như: Năm tháng ngày thời
565 0 565 0
56565 0 5 0
5656565 0
565 0 5656
Vân vân vân vân cũng là , còn có nó rất nhiều của tổ hợp . Trong đó cũng lấy 565 0 hợp thập này một nhóm , kỳ lực gửi cường lại trường viễn , nó mỗi bên tổ năng lực cũng có thể trường viễn , nhưng bằng không 565 0 đang thời tuân lệnh của năng lực cường đại .Ba khóa được hợp thập , mà trong đó bao quát nhật trụ ở bên trong , cũng xem như hợp thập cách , cũng chủ kỳ lực trường viễn .
Huyền không đại quái trạch nhật(Sáu)Khóa Ví dụ làm mẫuGiả thiết nhân mệnh là giáp dần năm , vào cuối tháng(2 0 0 7Năm tháng Thân)Nội tìm.Trong đó
Can chi:NămNguyệtNhậtThời
Đinh hợiMậu thânĐinh tịGiáp thìn
Huyền không ngũ hành8Mộc2Hỏa2Hỏa3Mộc
Quẻ vận8682
Đầu tiên xem cát hung: sinh năm nhật cát; nguyệt bỉ hòa nhật cát; Giờ sinh nhật cát; năm tháng ngày đều được êm xuôi,Là huyền không đại quái đại cát của nhật khóa .
Lấy người mệnh quẻ phân tích: này khóa ngày hôm đó chủ đích huyền không ngũ hành là2Hỏa , nhân mệnh quẻ là giáp dần năm đã tế,Huyền không ngũ hành là7,Nhật chủ của huyền không ngũ hành cùng nhân mệnh quẻ huyền không ngũ hành hợp mười,Đại cát.
Lại xem năng lực: lấy bình thường phương pháp phân tích,Khóa trung tam trụ gặp hạ nguyên quẻ vận,Kỷ có thể tính tương đương hữu lực , Gia tăng năm ngoái nhật thời thành882Hợp 10 ván,Càng chủ sức mạnh lớn mà trường viễn .
Này khóa là huyền không đại quái của đại cát nhật khóa,Rất thích hợp lấy huyền không đại quái làm cơ sở của vượng trạch thủ pháp chỗ dụng , nhưng như lấy chính ngũ hành nhật khóa phân tích,Này khóa là tuế phá nhật.Nhật nguyên cũng không tính cường thịnh,Cũng không là vạn chuyện lớn cát của khóa .Huyền không đại quái của vượng trạch thủ pháp,Ngoài văn lại tường thuật.
Tam nguyên nhật khóa Lạc số muốn hợp thành bốn đại cách cục một quẻ thanh thuần , thích hợp sinh ra nhập , khắc nhập , là cát khóa . Quẻ vận muốn một quẻ thanh thuần , hợp mười âm dương , là cát khóa .
Tứ trụ khóa trung:1, quẻ chở một khí cách , không câu nệ sinh vượng suy chết đều cát .2, ngũ hành một quẻ thuần thanh cách , không câu nệ sinh vượng suy chết đều cát .3, hợp sanh thành vợ chồng cách , không câu nệ sinh vượng suy chết đều cát .4, hợp mười vợ chồng cách , không câu nệ sinh vượng suy chết đều cát .5, hợp đảo ngược chịu tinh cách , không câu nệ sinh vượng suy chết đều cát .
Hung khóa ( hung cách bộ phận ):
Tứ trụ khóa trung:1, phạm âm dương sai lầm nhân , đều hung bại2, phạm âm dương tăng theo cấp số nhân nhân , đều hung bại3, phạm âm thịnh dương suy , dương thịnh âm suy nhân , đều hung bại4, phạm số không chính đảo ngược nhân , đều hung bại5, phạm phục ngâm , ngược lại phục ngâm nhân , đều hung
Tỷ như: bạch thạch một nông hộ vận dụng bốn canh thìn nhật khóa , lầu mới vào nhà ở , ở hậu đến nay một phái phồn thịnh an lành của mới cảnh tượng , chính hiện ra ở trước mắt của hắn ,
Liệt khóa như sau: Canh Thìn 49 Chín Canh Thìn 49 chín Canh Thìn 49 chín Canh Thìn 49 chín Thân Sơn 5 1 Chín
Phân tích: này khóa huyền không đại quái tiên thiên ngũ hành một quẻ thuần thanh , hậu thiên quẻ vận lại được một quẻ thuần thanh , làm vượng luận . Hậu thiên quẻ vận , cửu vận quẻ bật tinh một mạch , thiên địa đồng lưu cách , không đáng huyền không đại quái trạch nhật của kị , hơn nữa hợp huyền không đại quái trạch nhật , khóa trung tứ trụ trời đất quẻ nhân , hợp thiên địa định vị vượng khí cát cách . Bản cát khóa nếu như hợp tọa nhà , hợp tạo mệnh , có cát thủy khí tụ của hình cục khởi công dựng thẳng tạo nhân , cùng nhà mới vào nhà ở nhân , ngày sau tử tôn tất như thế hưng vượng phát đạt , phú so với thạch sùng .
Tỷ như: mười năm trước bạch thạch cát phim ảnh , có vị tại huyện thành công tác người , từ huyện thành mời về một phong thủy đại sư , là hắn khai sơn táng tổ . Mới mở mộ phần huyệt , tọa khôn hướng cấn , 64 quẻ , là Thiên Thủy Tụng quẻ . Chọn chọn ngày cưới là bính năm Tý , sơ giao mùa xuân của thiên, giờ dần đở kim an táng mộ tổ . Này khóa cách dụng hậu ngay cả tổn hại già, trung niên, trẻ mấy người , thật không biết là mệnh vậy. Cục vậy. Hoặc phong thủy trùng hợp vậy . Liệt khóa như sau; Giáp Dần 55 Chín Mậu Dần 56 Sáu Canh Dần 5 1 Một Bính Tử 54 Ba Khôn Sơn 57 Ba
Bản nhật khóa dụng khôn Sơn Thiên Thủy Tụng quẻ tọa hướng , mùa không thích đáng, lại vận dụng mậu dần nhật chủ , 64 quẻ nạp Lôi Hỏa Phong đại quẻ , giáp giờ dần được thủy hỏa đã tế quẻ , theo huyền không đại quái trạch nhật kiến thức luận , phạm đầy bàn hình trùng khắc hại , lại phạm âm dương sai lầm họa , tất có theo lý không làm của thần kì .
Sáu , huyền không đại quái trạch nhật phương pháp cùng yêu cầu
Chủ yếu phương pháp:
(1) nhật khóa lấy nhật trụ thiên quẻ huyền không ngũ hành làm chủ ( là ta ) , phùng niên trụ , nguyệt trụ , lúc trụ thiên quẻ ngũ hành sinh ra nhập ( sinh ra ta ) nhân , hoặc khắc nhập ( khắc ta ) nhân mà sống nhập khắc nhập ( tiến khí ) cát cách , thích hợp dụng .
( 2 ) nhật trụ thiên quẻ huyền không ngũ hành đi sống hoặc khắc năm trụ , nguyệt trụ , lúc trụ thiên quẻ huyền không ngũ hành nhân mà sống xuất khắc xuất ( thoái khí ) hung cách , không thể làm dụng . Nhưng gặp hợp mười thiên vận định luật cát cách nhân , tức thích hợp dụng không sao .
( 3) quẻ lý tổng số cát hung thần kì đoạn ."Vạn vật đều có số vậy", số từ cùng nhau cuối cùng tại mười , tuần hoàn vô tận , đây là đại vũ trụ của thật lý . "Thập" gọi là "Doanh" số , cùng "Số không" giống nhau , tự một tới chín là số cơ sở , cửu cửu tăng theo cấp số nhân của tám mười một số , là số lý số lượng , không phải số lượng số lượng , kỳ sổ có hàm súc vũ trụ đại lực lượng thiên nhiên , kỳ lực có cát hung phân chia . Tại trạch nhật ở bên trong, số lý của cát hung số có một chút của hướng dẫn lực , đại có thể làm tham khảo của dụng , lấy tăng thêm lòng tin . Nhưng hết thảy khóa cách đều phải lấy huyền không đại quái tổ hợp cát hung làm trọng . Đại quẻ hung , không thể dụng , đại quẻ cát số lý cát có thể bắt đầu dệt hoa trên gấm chi tác dụng , không thể quá câu tại số lý của cát .
( 4 ) huyền không đại quái tứ trụ trạch nhật có thể phối hợp tọa sơn quẻ vận cùng mệnh chủ quẻ chở tới vận dụng , đều lấy sinh vượng tọa sơn quẻ vận cùng mệnh chủ can năm chi bản mệnh quẻ vận là cát , vị của vượng sơn vượng mệnh hoặc tu bổ Sơn tu bổ mạng lớn cát .
(5) tại thiên vận ở bên trong, lấy đương vận lúc vượng là cát , nhất là nhật trụ , như bây giờ là phía dưới nguyên bát vận , tại vượng sơn vượng mệnh của trên cơ sở , dụng kỷ mão bảy tám số , đinh hợi bát bát số là vượng vận hoặc dụng canh thìn nhất cửu số canh tuất cửu cửu số vì tức giận vận . Cũng vận dụng ba bàn quẻ ( cửu tinh quẻ vận ) riêng là phụ mẫu quẻ , quẻ khí thâm hậu .
(6) huyền không đại quái "Tam giác vàng" trạch nhật pháp . Đây là phong thuỷ danh gia từng tử nam , sắp đặt thơ sinh ra của trạch nhật phép mầu . Cái gọi là "Tam giác vàng" chính là thiên vận sắp tới khóa ( thời gian ) , địa vận chỉ tọa sơn ( không gian ) , người vận chỉ người mệnh ( niên canh ) . Nhật khóa lấy nhật trụ làm trung tâm , thiên, địa, nhân "Tam tài ", theo "Tam giác vàng" trạch nhật pháp , là lấy người vận làm trung tâm , thiên vận , địa vận đều phải là nhân vận phục vụ , thiên vận đương nhiên cũng phải vì địa vận phục vụ . Phương pháp này yêu cầu cao , nhiều lấy hợp số , so với vượng cùng sanh thành số là thích hợp . Chỉ có dạng này , chủ nhân mới có khả năng từ thiên vận cùng địa vận nơi đó thẳng lấy được phúc .
Hiệu ứng: sinh ra nhập khắc nhập vào khí , sinh ra khắc xuất thoái khí , hợp năm hợp mười lăm thông khí , bỉ hòa vượng khí , hợp mười vượng khí về trung . ( hợp số đều lấy sinh ra nhập là nhất cát ) . Sinh ra nhập sinh con trai , khắc nhập Quan quý , bỉ hòa phát tài , hợp mười sanh tức gia tăng thọ .
Cụ thể yêu cầu:
(1) trạch nhật trước, đầu tiên đoán sơn gia thuộc gì quẻ ngũ hành , sau đó căn cứ sơn gia ngũ hành mà định ra nhật khóa cát hung .
( 2 ) trạch nhật trước, muốn xem xét cùng năm chỗ nắm quyền chi sơn nhà lợi nhuận cùng bất lợi . Phàm sơn gia lâm tuổi phá , tam sát , xung Sơn vì không lợi nhuận .
( 3) trạch nhật trọng điểm lấy tu bổ rồng đở Sơn cùng nhau chủ làm chủ , lấy nó sinh vượng khí , sinh ra nhập , so với vượng là lớn cát . Trạch nhật lúc muốn tra tháng nào đối sơn gia êm xuôi , như núi nhà được nguyệt tiên thiên ngũ hành sinh ra nhập so với vượng càng cát .
( 4 ) huyền không đại quái trạch nhật không cần lý hội thần sát . Chỉ cần phối đắc lợi sơn gia , cùng hợp quẻ cát cách thì có thể dụng .
(5) phàm sơn gia bất lợi , ngoại trừ tuổi phá bên ngoài , có thể mượn vị trí chọn ngày lành tháng tốt nắm quyền , tương tự có thể xu thế cát lấy được phúc . Bây giờ năm tọa bắc triều nam nơi ở , là tọa sát hướng sát , trạch nhật tại lợi nhuận sơn gia dưới tình huống , có thể trước tiên ở đông vừa khởi công thì đại cát . Cái này là tránh sát nghênh cát pháp tắc .
(6) dụng huyền không đại quái trạch nhật , tốt nhất có thể kết hợp chính ngũ hành phương pháp đi vận dụng , chọn xuất của nhật khóa thì sẽ càng là cát lợi nhuận .
(7) bày bàn làm việc của trạch nhật phương pháp , không cần lý sẽ sơn gia phương vị , chỉ phải căn cứ cá nhân niên kỉ mệnh tiên thiên ngũ hành chọn dụng tức là có lợi .
(8) trạch nhật phải phối hợp mệnh chủ niên canh , như có thể kết hợp mệnh chủ của dụng thần , thì phối dụng của nhật khóa là nhất lợi nhuận . Trạch nhật như không cách nào chiếu cố , thì lại lấy sơn gia làm chủ .
(9) huyền không đại quái trạch nhật , hoàn toàn lấy hà đồ ngũ hành , tiên thiên bát quái phối Lạc số mà sống khắc của ứng dụng , không cần cân nhắc tam hợp pháp quyết , thiên can của sinh ra khắc , địa chi chi hình xung không sao , cũng thích hợp dụng . Thiên can ngũ hợp , địa chi lục hợp có thể phối hợp tiên thiên 64 quẻ là dụng ( vượng sơn vượng mệnh ) . Như không cách nào kết hợp chính ngũ hành đến vận dụng , có thể bỏ chính ngũ hành mà dụng huyền không quẻ trạch nhật pháp .
(10) phàm sơn gia phạm tuổi phá , xung Sơn ( thìn tuất sửu mùi không sợ xung ) , thì đở của không dậy nổi , nhật khóa lành nhất cũng không dụng .
Ví dụ một: Càn sơn tốn hướng kiêm hợi tị , tịnh dương , canh tuất phân kim , chính thể thuộc kim , mậu quý hóa bính hỏa nguyên thần , huyền không đại quái Thiên Địa Bĩ quẻ ( quẻ hạ ) , canh tuất cửu cửu số , chủ nhà quý mùi năm , trạch cùng nhau năm giáp ngọ .
Chọn hai tám năm ngày hai mươi tám tháng bảy giờ thìnThiên vận
Mậu Canh Canh CanhCanh Quý Giáp
Tử Thân Tử ThìnTuất Mùi Ngọ
7721949Địa vậnNgười vận
Bốn Một Chín ChínChín Tám Một
Ngày này khóa là khắc nhập , so với vượng , hợp mười , hợp sanh thành số . Thiên vận hợp , thiên vận hợp địa vận , thiên vận hợp người vận , địa vận hợp người vận , hợp "Tam giác vàng" trạch nhật pháp , lại chỉ như cửu vận sinh khí quẻ , là vượng sơn vượng mệnh . Từ chính ngũ hành tới nói , thiên can ba bằng cách , địa chi tam hợp cục , thành cách thành cục , tháng bảy kim vượng , Càn sơn thuộc kim , vi nguyệt vượng sơn nhà , mậu thổ sinh ra canh kim , canh kim sinh ra Nhâm Quý thủy , địa chi vừa là thủy cục , cũng là vượng sơn vượng mệnh , tử tôn hưng vượng phát đạt , lại có lộc đến mệnh chủ , cho nên là thượng thượng cách nhật khóa .
Ví dụ hai: canh Sơn giáp hướng kiêm dậu mão , tịnh âm , canh thân phân kim , ất canh hợp hóa canh kim nguyên thần . Huyền không đại quái khảm là nước quẻ ( quẻ hạ ) , canh thân thất nhất số . Chủ nhà nhâm dần năm , trạch cùng nhau bính thìn năm .
Chọn hai tám năm mùng ba tháng tám nhật giờ mãoThiên vận
Mậu Canh Ất KỷCanh Nhâm Bính
Tử Thân Tị MãoThân Dần Thìn
7777794Địa vậnNgười vận
Bốn Một Ba TámMột Bảy Một
Ngày này khóa là so với vượng , khắc nhập , hợp mười mấy , đặc điểm là một quẻ thuần thanh , hợp "Tam giác vàng" trạch nhật pháp , là vượng sơn vượng mệnh . Từ chính ngũ hành tới nói , trạch tọa trường sinh , lộc đáo sơn đầu , thiên can ất canh hợp hóa kim , địa chi tị thân hợp hóa thủy , nửa tam hợp thủy cục , nguyệt vượng sơn nhà , chủ nhà bản mệnh quý nhân đến , Lộc Mã quý nhân tụ lại , tài đinh quý toàn , cũng là vượng sơn vượng mệnh cách cục , cho nên là thượng thượng cách nhật khóa .
Nó Ví dụ:
Huyền không nhật khóa khóa Ví dụ một: âm lịch 76 năm tháng hai hai mươi tám nhật giờ mão
Sáu mười giáp tử Quẻ tênQuẻ vậnNgũ hành
Đinh mãoTổn hạiChín6Thủy
Quý mãoQuy muộiBảy8Mộc
Kỷ hợiXemHai2Hỏa
Kỷ mãoTiếtTám7Hỏa
Rồng sơn hướng thủy
Huyền không nhật khóa khóa Ví dụ hai: âm lịch 76 năm tháng sáu nhập hai ngày giờ mùi
Sáu mười giáp tử Quẻ tên Quẻ vận Ngũ hành
Đinh mãoTổn hạiChín6Thủy
Đinh mùiCổBảy6Thủy
Đinh mãoTổn hạiChín6Thủy
Đinh mùiCổBảy6Thủy
Rồng sơn hướng thủy: tọa ất Sơn Đinh mão phân kim Tổn hại Chín6ThủyTổn hại quẻ thứ sáu hào , tiên mệnh Nhâm Ngọ Tốn Một2Hỏa
Bảy , huyền không đại quái trạch nhật phối hợp vượng trạch thủ pháp:
Tám vuông số không thần thủyBây giờ là tám vận,Tám vận của vận quẻ là chấn,Chấn tiên thiên là đông bắc,Cho nên tám vận của chánh thần tại đông bắc.Chánh thần của đối diện,Tây nam vuông chính là số 0 thần .
Huyền không đại quái của nguyên lý,Là Sơn lấy vượng là vượng,Thủy lấy suy là vượng,Cho nên số không thần chính là thủy của vượng thần,Thủy tại số không thần mới là êm xuôi của.Tám vận trong vòng,Cư thất của tây nam vuông gặp thủy,mà nói trạch nội vượng khí có tương đương gia tăng.Mặt khác,Động thái của hoàn cảnh,Cùng khai dương trống trải,Vậy hợp số không thần phương vị .
Tám vuông số không thần thủy của an trí,Cũng là lợi dụng số không thần lợi nhuận gặp thủy của nguyên lý.Thủy lấy động thủy là nguyên tắc,Tỷ như phong thủy xe,Hóa vụ khí,Ngật xe dụng loại đó hương phân cơ(Không phải dụng sức nóng loại đó) .Lấy thủy sẽ lớn lượng huy phát là hợp .
Phương pháp trước trạch hợp nắm quyền nhân mạng huyền không đại quái cát khóa,Tại cát khóa của thời gian nội khởi động động thủy.Như dụng hóa vụ khí hoặc hương phân cơ,Chỉ khai cát khóa một ít thời gian kỷ có thể(Hóa vụ khí không thích hợp tại bên trong phòng một thời gian dài mở ra,Hiển khí quá mạnh) .Như là phong thủy xe,Có thể5Thiên trong vòng không ngừng khởi động,Nhưng như trong đó có tạm nghỉ,Thì nếu lại tuyển một cái khác cát khóa mới có thể lại khởi động .
Hiệu quả chủ yếu gia tăng cá nhân vận thế,Như khóa thức có sống thành,Hoặc là nhật quẻ huyền không ngũ hành cùng nhân mệnh làm sanh thành,Vậy hội tương đối tăng cường công việc sự nghiệp địa vị vậy một mặt,Như khóa thức có hợp thập,Hoặc cùng nhân mệnh huyền không ngũ hành hợp thập,Thì hội tương đối tăng cường thu nhập đắc lợi tài lợi nhuận phương diện .
Huyền không đại quái trạch nhật pháp có nó đặc biệt của nghiêm ngặt chọn khóa tiêu chuẩn , tức: lấy tiên thiên làm thể , hậu thiên là dụng , nhật khóa cùng sơn gia , thiên địa định vị , sơn trạch thông khí , lôi phong cùng nhau mỏng , thủy hỏa bất tương xạ . Khóa cách tiên hậu thiên vợ chồng giao cấu , phụ mẫu gặp tử tức , phụ tử họ công tôn , một nhà xương thịt kén rể , không sợ hình trùng khắc hại , bất kị ngũ hoàng , tam sát , tuổi phá , hai năm đan xen , sáu, bảy giao kiếm , chín bảy hợp rút lui , hai ba đấu bò rất nhiều thần sát , bởi vì nó thúc phúc lực hồng , tự thành một trường phái riêng , độc chiếm vị trí đầu ! Bản thân hữu duyên theo thầy học tập thuật này , thông qua gần vài chục năm của tự mình thực tiễn , cảm giác hiệu quả quả thật không tệ !
Nói rõ:
1, trạch nhật chỉ hạn tại âm , dương hai trạch ( như: xây nhà , vào nhà ở hoặc an táng , lập bia vân vân );
2, ghi chú rõ nắm quyền sở tại ( như:XXThiếuXXThị hoặcXXHuyện );
3, cung cấp chuẩn xác hai mươi bốn Sơn tọa hướng cùng tọa sơn quẻ ( như: dậu Sơn kiêm tân Trạch Sơn Hàm quẻ );
4, nói rõ mô phỏng nắm quyền giai đoạn ( kế hoạch âm lịch tháng năm---Tháng mười );
5, khai sơn lập hướng bất hội đoán quẻ bàn của Dịch hữu , xin đừng nên khiến dụng bản nhật khóa;
6, dụng trung châm lập hướng của Dịch hữu , xin đừng nên khiến dụng bản nhật khóa;
7, khiến dụng bản nhật khóa , trước hết từ nên khóa cách cùng tướng phối của quái vị lúc đầu khởi công , mới có khả năng thúc phúc có phê chuẩn , nhớ lấy !
Vận dụng huyền không trạch nhật pháp , đầu tiên phải chọn tốt nhật tử , bài xuất niên, nguyệt, nhật, thời can chi , lại đến quan sát chọn chọnvCủa nhật tử , thuộc về64Trong quẻ gì quẻ , nó là không phát vượng đương vận , tiếp lấy lại phối hợp có hay không hợp hướng cửa , phòng ốc phương vị , cuối cùng nhất phối hợp người trong cuộc can năm sinh chi tại sao , có hay không hợp sinh ra nhập , khắc nhập , hợp mười , sanh thành , cùng vượng , như thếIChính là đại công cáo thành . Ở trong đó có chút lớn sư sẽ gia tăng thượng kỳ môn độn giáp trạch nhật cùng chọn lúc phối hợp , để cho trạch nhật pháp càng xu thế với nghiêm cẩn .
Chọn chọn năm trụ , nguyệt trụ , lúc trụ ngày sinh trụ của huyền không ngũ hành , lợi dụng sinh ra nhập , khắc nhập , hợp mười , hợp sanh thành , cùng vượng là cát , sinh ra , khắc xuất , tam sát là hung . Ví dụ: công lịch1978Năm mậu ngọ sinh năm người trong cuộc , muốn chọn2 0 0 5Năm âm lịch7Nguyệt1 0Nhật ( là dương lịch8Nguyệt14Nhật ) sớm thượng7Điểm đến9Điểm nắm quyền , người chủ trì không thuộc mộc , năm là kim , kỳ kạn chủ mộc , thuộc tại khắc nhập vào khí , nguyệt là mộc cùng nhật chủ cùng thuộc mộc là cùng vượng , thì thuộc Thủy là Sinh nhập . Người chủ trì quẻ vận là4, năm tháng ngày lúc quẻ vận là4999, "49 là bạn" . Cho nên chọn nên nhật nắm quyền đối đương sự đều có lợi .
THUẬT DU HỒN VÀ MỘNG DU ĐẠI PHÁP CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG
04-01-2011, 11:41 AM Copyright http://caodaibanchinhdao.org/forumcu...read.php?t=543
Phương pháp Mộng Quán Thành Tựu là một trong Naropa Lục pháp ; Phương pháp nầy của Mật Tông Tây Tạng đem tâm lý , khí , mạch của con người và chú ngữ kết hợp lại ; đây là một phương pháp huấn luyện dùng để kết hợp tâm , sinh lý và linh lực của con người lại làm một ; trong quá trình huấn luyện phương pháp nầy sẻ mang ý thức của con người đi sâu vào trạng thái siêu thức ; và chỉ khi con người đi vào được trạng thái siêu thức , thì các loại siêu năng lực , siêu ý thức sẽ là cơ bản cho việc khai phóng năng lực tâm linh và những khả năng tiềm ẩn của con người .
Tuy nhiên , sự hoạch đắc siêu năng lực tâm linh xuyên qua mộng quán thành tựu không phải là mục đích cuối cùng ; mà khi con người đi sâu vào giấc ngũ , đưa tâm thức lên đến trạng thái siêu ý thức , để làm hiển lộ tự tính quang minh là bản lai diện mục của mình , từ đó sẻ hiểu thấu được sự bí mật của nhân sinh vũ trụ , nắm được con đường siêu xuất thoát ly sanh tử luân hồi , tự giác tiến hành cuộc biến hóa thăng hoa cho sanh mạng của mình , biến sự lưu chuyển của sanh tử , thay đổi những khổ nảo không viên mản của sanh mạng thành Thường – Lạc – Ngả – Tịnh , hưởng được hạnh phúc vĩnh hằng , một sanh mạng tự do tuyệt đối viên mản . Đó mới là mục đích cuối cùng trong quá trình phấn đấu và sự trở về cuối cùng của một sanh mạng được phát triển và được tiến hóa viên mản .
Nói đến Mộng Du , thì nhiều người liên tưởng đến một chứng bệnh mộng du . Chứng bệnh nầy được các nhà sinh lý học trong phòng thí nghiệm khám phá ra rằng , người đang trong cơn mộng du , thì thật ra là người nầy đang ở trạng thái ngũ mê rất sâu đến thời kỳ thứ 3- 4 trầm sâu trong giấc ngũ mê . Đối với chứng mộng du , Đông Y nhận rằng : Tâm chủ Huyết mà tàng Thần trí , Gan tàng Huyết và là nơi ngụ của Hồn ; tức tâm tàng Thần , Can tàng Hồn ; khi khí cơ của hai tạng Tâm và Can không điều hoà , thì Thần không chủ vị và hồn không có chổ dựa , nên Thần và hồn không an ; nên Hồn đi theo sự dẩn dụ của Thần trí trong lúc ngũ mà tạo nên chứng mộng du .
Nhưng chúng ta nói ở đây , không phải là chứng bệnh mộng du thường tình , mà chúng ta đang nói đến Mộng Quán Thành Tựu Pháp là một pháp môn tu trì cao cấp của Mật Tông Tây Tạng , còn gọi là Mộng Du Càn Khôn đại pháp .
Sinh mạng của con người do Thọ Mạng – Thân Nhiệt và Tâm Thức hợp thành , khi ba yếu tố nầy giải thể , thì con người bị chết . Trong thực tế , chỉ có sự phân ly của Ý thức và Thân Nhiệt ; do đó thân nhiệt nơi nào trên thân thể người chết cuối cùng biến mất , thì nơi đó là cửa ngỏ cuối cùng cho thần thức con người rời khỏi cơ thể . Theo đó , người ta nói rằng : Đỉnh Thánh , Nhản Thiên Sanh , Tâm Nhân , Phúc Tu La , Giang Quỷ , Tất Súc Sinh , Lưởng Túc Đọa Địa Ngục ;Trên đỉnh đầu là Thánh , mắt là sanh trên trời , ở tim là người , ở bụng là quỷ tu la , ở hậu môn là quỷ , ở đầu gối là súc sinh , ở hai chân là đọa địa ngục ; nếu Thần thức đi ra ở đỉnh đầu thì sẻ được siêu phàm nhập Thánh , được vãng sanh về Tịnh Độ Phật Quốc .
Mọi người đều có nghe Phật Sống tái sinh , khi một vị Phật sống viên tịch , linh hồn lìa khỏi xác , sẻ chuyển qua trong một cơ thể của một trẻ sơ sinh vừa mới chào đời ; đứa trẻ nầy là Phật sống được tái sinh , được xem là hóa thân của Phật , để tiếp tục hóa độ chúng sanh .
Linh hồn được nói đến ở đây , thực tế là đệ bát thức là A lại Da Thức của con người sau khi chết ; khi bảy thức đầu đả tan rả , thì thức thứ tám nầy là A lại Da Thức , sẻ do sự dẩn dắt của nghiệp lực Thiện Ác , đi thọ báo trong sáu nẻo luân hồi .
Khi có cơ hội nhân duyên hòa hợp , sẻ được tái sanh vào nhân đạo , và bản ngả sẻ được tạo nên do sự hòa hợp của ngũ uẩn , và ngũ uẩn là căn bản của sự tổ hợp và hình thành thế gian và cấu thành vũ trụ vạn hữu .
Ngũ uẩn gồm có Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức ; mà Sắc là chỉ nhục thân của con người , do tứ đại Đất – Nước – Gió – Lửa tạo thành : Đất là chỉ những vật rắn , cứng chắc trong thân con người như xương cốt , da thịt ; Nước chỉ máu huyết , các chất nội tiết , mồ hôi , các chất bài tiết ...., nói chung những chất lỏng trong cơ thể ; Lửa là chỉ thân nhiệt cùng sinh mạng lực chu lưu trong cơ thể con người ; Gió là chỉ khí hô hấp và các loại khí lực trong cơ thể .
Thọ – Tưởng – Hành – Thức là chỉ tinh thần tức là Tâm ; Thọ là do tiếp xúc với cảnh vật mà sinh ra trạng thái tâm lý của sự cảm thọ , tương đương với cảm tình trong môn Tâm lý Học . Tưởng là do sự thu nhận những hình tượng bên ngoài rồi từ đó hình thành ra những khái niệm về những hình tượng đó . Hành là đối cảnh mà sinh ra sự quyết định của nội tâm làm ngôn ngữ và hành vi được phát sanh ra ; Thức là chỉ sự phân biệt của ý thức , được gọi là sự nhận thức trong tâm lý học .
Trong ngũ uẩn thì Thức được xem như là Bản ngã của con người , nó có khả năng nhận thức được Sắc – Thọ – Tưởng – Hành là những sở thuộc của nó ; nói một cách khách quan , những đối tượng nhận thức gồm Thức và Danh Sắc ; Sự nhận thức đối tượng chủ quan hay khách quan không phải là hai vật khác nhau ; vì Thức là Thức trong Danh Sắc và Danh Sắc là Danh Sắc trong Thức ( Thí dụ như ta thấy bông hoa , thì cái ta thấy không phải là bông hoa thiệt , vì hình bông hoa được ta nhận thức chỉ do sự phản chiếu của ánh sáng đi vào mắt ta , và chuyển thành những tín hiệu sinh hóa điện trường sau đó hiện ra ở vùng hậu nảo , mà trở thành sự nhận thức về bông hoa mà thôi , chứ cái mà ta nhận thấy chỉ là thức của ta nhận thấy , chứ cái ta thấy không phải là bông hoa thật ) ; cho nên nói : Thức duyên Danh Sắc , Danh Sắc duyên Thức , cái nầy sanh thì cái kia sanh , cái nầy diệt thì cái kia diệt ; vạn pháp duy tâm tạo vậy .
Thức được phân chia ra thành bát thức : Mắt – Tai – Mủi – Miệng – Thân – Ý – Mạt Na – A Lại Da ; mà A Lại Da thông thường người ta cho là Linh hồn , còn gọi là Thần thức hay là Linh Thể , trong Duy Thức Học còn có thức thứ chín là Cưu Ma La Thức được dịch là Vô Cấu Thức – Bạch Tịnh Thức là căn bản của sự giải thoát để thành Phật ; Thức nầy có khả năng hội chứng được chân tâm của thực thể ; Thức nầy không sanh không diệt , thanh tịnh vô nhiểm ; thức nầy được gọi khác đi là Chân Tâm ; nhưng đa số công năng của nó lại được nhiếp vào A lại Da thức để sở tàng vô lậu chủng tử .
Vấn đề tu trì căn bản trong Phật Pháp là Tu trì cái “ Thức”, từ đó để thoát ly sanh tử , siêu xuất lục đạo luân hồi , minh tâm kiến tánh , tịnh hóa bát thức tâm điền , chuyển thức thành trí , thường lạc ngã tịnh vậy .
Trong Mật Tông Tây Tạng có Pháp Bổn Tôn , pháp nầy có thể tu tập trong một thời gian ngắn , dùng nội khí tu luyện có thể hình thành “ Thiên Thân ” đồng hình với Bổn Tôn của mình ; mà Vô Thượng Du Già gọi là “Ảo Thân ” .
Ngoài ra , Vô Thượng Du Già của Tạng Mật còn có một số pháp môn đặc thù có thể giúp con người siêu xuất sanh tử luân hồi như Pháp Phowa – Trung Ấm Thành Tựu Pháp – Hoán Thể Pháp – Tự Tại Chuyển Thân Pháp – Đoạt Xả Pháp .......
PHÁP PHOWA
颇哇法
Pháp Phowa , được dịch ý là Chuyển Thức Pháp ; lợi dụng con người trong lúc chết , dùng Thần Thức hợp cùng Nội Khí đi ra khỏi cơ thể từ đỉnh đầu mà vảng sanh Phật quốc , đạt được sự giải thoát khỏi sanh tử . Trong lúc còn sống bình thường dùng quán tưởng phối hợp cùng phương pháp đề khí để đả thông con đường ở đỉnh môn , tức là Khai Đảnh , quán tưởng Phật A Di Đà đang ngồi trên đỉnh đầu ; khi tu tập được thành tựu ; có thể làm chủ được sanh tử ; sau khi thành tựu được pháp nầy , cần tu phối hợp với pháp Trường Thọ Phật ; Để khi lâm chung hay muốn vảng sinh sớm theo ý muốn của mình , có thể y theo pháp nầy , đem Thần Thức của mình đi theo con đường quen thuộc đã được thực tập thường ngày , đưa lên đỉnh đầu nhập vào trong tim của Bổn Tôn , tức thì có thể vảng sanh đến ngay nơi tịnh độ của Bổn Tôn . Pháp nầy có thể tu hành thành tựu ngay lập tức trong 7 đến 21 ngày , là một con đường ngắn và nhanh nhất để thành Phật .
Những hành giả đã từng tu Tạng Mật Đại Thủ Ấn , Đại Viên Mản ... đang ở trình độ trung cấp , nếu tập thêm pháp nầy , có thể giúp hành giả nhanh chóng đạt đến sự giải thoát sanh tử ngay .
TRUNG ẤM THÀNH TỰU PHÁP
中阴成就法
Trung Ấm Thành Tựu Pháp , còn gọi là Trung Ấm Thành Phật Pháp , Bí pháp nầy sẻ được xử dụng khi con người khi sắp chết , dùng Vọng Niệm Chỉ Tức , Bản Tính Quang minh tự hiển lộ , gọi là Tử Thời Quang Minh ( tức Ánh Sáng trong lúc chết ) – Thực Tướng Trung Hữu .
Hằng ngày trong tu tập , hành giả vào trong Thiền Định với trạng thái siêu giác , hành giả thường chú tâm để thể nhận sự hiển lộ của Lâm Tử Bát Tướng , tức tám hiện tượng của trạng thái cận tử ; từ đó thực tập lập lại quá trình nầy thường xuyên cho đến mức thuần thục ; đương nhiên trong lúc sống hành giả chưa thể kiến đạo thành Phật , nhưng khi đến lúc cận tử , hành giả tự nhiên sẻ chú ý thể nhận mà hòa nhập vào Bản Tính Quang Minh để tức thời có thể siêu thoát sanh tử .
Các Bài Viết Khác:
ƯU BÀ TẮC NGŨ GIỚI TƯỚNG 21/05/2014
中 級 佛 學 ( 慈 悲 觀 ) 15/03/2013
Khất Thực Là Gì? 05/06/2012
Thiền Tông Lục Tổ - Phim Hoạt Hình 14/05/2012
KHOA HỌC NÓI VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA 31/12/2011
Hòa thượng Thích Thanh Tứ viên tịch (2011) 03/12/2011
THƠ THIỀN VUA TRẦN NHÂN TÔNG 詩 禪 王 陳 仁 宗 ... 09/06/2011
kính Mừng Phật đản phật lịch 2555 07/05/2011
Hóa độ một kẻ giang hồ khét tiếng ( Phật... 05/05/2011
chú trừ bùa ngãi thư ếm 10/01/2011
Trả lời với trích dẫn
#2
Cũ 04-01-2011, 11:42 AM
nguyenhung871 nguyenhung871 đang ẩn
Junior Member
Tham gia ngày: Dec 2010
Bài gửi: 17
nguyenhung871 is on a distinguished road
Mặc định tiếp
HOÁN THỂ PHÁP
换体法
Là một phương pháp thành tựu bí mật của hành giả du già , khi cơ thể̀ đã xuy thối , hành giả có thể dùng phương pháp nầy để hoán đổi chuyển di , mà có thể còn được sinh hoạt tồn tại trên cỏi nhân gian ; Tại Ấn Độ và trong giới Đạo Gia cũng có nhiều người tu trì phương pháp nầy .
Phương pháp nầy , đầu tiên cần tìm một xác chết , không phải chết vì bệnh tật của một thanh niên khõe mạnh , sau đó dùng thuật Phowa , đem thần thức của hành giả xuất ra ngoài , rồi tiếp đến nhập vào xác chết nầy , như vậy xác chết của thanh niên nầy sẻ sống trở lại và thân xác củ của hành giả vừa rời khỏi sẻ bị chết đi , mặc dù thể xác củ của của hành giả đã bị chết đi , tướng mạo cùng danh tính bên ngoài nay đã bị thay đổi ; nhưng nhân cách cùng ý thức của hành giả lúc trước vẩn còn giử được đầy đủ .
TỰ TẠI CHUYỂN SANH PHÁP :
自在转生法
Do thành tựu của sự tu học , hành giả có thể dể dàng chuyển sanh tại trần thế để tiếp tục hoằng dương Phật pháp ; hành giả nhờ đã nắm chắc và nhận thức được các cảnh giới trung hữu cùng các ảo tướng của nó , thông qua đó hành giả có thể chọn đúng cha mẹ nào có duyên với mình ; hành giả dùng chỉ định nhập thai pháp , khởi đảo tưởng để nhập vào bào thai mới , như vậy hành giả đã tự tại chuyển sanh hay là đã hóa sanh rồi vậy . Đây là một phương pháp , mà đa số giới Phật giáo tại Tây Tạng thường dùng , mà người đời thường gọi những linh đồng chuyển thế nầy là Phật sống .
ĐOẠT XẢ PHÁP
夺舍法
Là đợi lúc đứa bé trong lúc mới sanh hay sau khi sanh , hành giả dùng oai lực phước đức thần thông của mình , thỉnh cầu thần thức của đứa bé rời khỏi , rồi sau đó hành giả đi vào trong nhục thể mới nầy , nhờ đó hành giả được sinh tồn trên cỏi trần mà vẩn còn bảo tồn được toàn bộ ký ức và ý thức củ .
Do đó , phương pháp đoạt xả nầy , là chiếm lấy nhục thể của người khác ; nhưng cơ hội nầy rất khó sở đắc , cùng phương pháp nầy rất ẩn mật , không dể gì mà truyền lại cho người khác ; nên có rất ít người nắm vững rỏ ràng về phương pháp nầy .
Trong pháp du già của Mật Tông Tây Tạng , hành giả có thể chuyển di thần thức của mình ra khỏi thân thể để đi đến một nơi nào đó và làm những việc , mà nhục thân của hành giả không thể đi đến đó làm được , sau khi hoàn tất công việc hành giả trở về nhục thân của mình như trước ; phương pháp nầy được gọi là Linh Thể Xuất Du hay Thần Thức Xuất Du ; còn bên Đạo Gia gọi là Nguyên Thần Xuất Khiếu .
Thần Thức Xuất Du Pháp
hay Mộng Du Đại Pháp
Sau đây là phương pháp tập Thần Thức Xuất Du Pháp tức Mộng Du Đại Pháp , mà Mộng Du Đại Pháp là một tiểu pháp môn , nằm trong Mộng Quán Thành Tựu Pháp của Naropa Lục Pháp :
Khi hành giã đã tu tập thành công đại pháp nầy rồi , hành giả có thể xuất thần thức du hành khắp mọi nơi và có thể trở về một cách an toàn .
Phương pháp tu tập :
Mổi đêm trước khi đi ngủ , hành giả dành thì giờ tương ứng thích hợp rộng rải cho bài tập . Trước tiên , Hành giả ngồi cho ngay ngắn , chắp hai tay lại trước ngực , dùng tưởng tượng đem trái tim của mình dời đến ngay giửa ngực , tức là Tâm Luân giữa trung mạch , tiếp đến hành giả tưởng tượng trái tim của mình biến thành một hoa sen trắng nằm trên một đài hoa màu xanh lá cây , sau đó hành giả tưởng tượng trong hoa sen đó hiện lên một chủng tử tự của Bổn Tôn đã ban cho , chủng tử tự nầy hiện ra thật tinh khiết và rỏ ràng .
Tiếp đến hành giả lại tưởng tượng , ở trên đỉnh đầu của mình có một hoa sen khác , trên hoa sen nầy có Bổn Tôn của mình đang ngồi ; trong tâm niệm của hành giả lúc nầy phải tưởng niệm tam vị nhất thể là Thượng Sư – Bổn Tôn – Đại Nhật Như Lai ; hành giả tưởng tượng trung mạch của Bổn Tôn tương thông cùng trung mạch của hành giả , đường tuyến dưới cuối cùng trung mạch của Bổn Tôn cùng cùng tuyến dưới cuối trung mạch của hành giả tương thông , hành giả tưởng tượng ở chính giửa hoa sen của Bổn Tôn cũng có một đóa chủng tử tự được hình thành bởi minh điểm màu trắng .
Sau đó hành giả niệm thỉnh văn sau đây :
Kính thỉnh chư Thượng Sư , thí cho đại gia trì
Mộng trung du càn khôn , phổ chúng chư chung thổ
Tiếp đến , hành giả tưởng tượng minh điểm của Bổn Tôn phát quang chiếu sáng cùng minh điểm của hành giả tương chiếu , như hút lấy lẩn nhau vậy ; tiếp đến hành giả tưởng tượng minh điểm chủng tử tự của hành giả bị minh điểm của Bổn Tôn hút lấy , kéo minh điểm chủng tử tự của hành giả lên trên và nhập làm một với minh điểm của Bổn Tôn thành nhất thể . Một lúc sau , hành giả tưởng tượng , đài hoa sen màu xanh lá cây có hoa sen trắng đang nằm ở tâm luân của hành giả , lúc nầy nó phát sanh ra một sức hút rất mạnh , nó hút lấy minh điểm chủng tử tự của hành giả đang nhập một với Bổn Tôn , phải tách rời ra và đi theo ánh sáng trong trung mạch mà đi lần xuống , trở lại nằm trong hoa sen trắng trên đài sen xanh nơi tâm luân của hành giả .
Hành giả cứ tiếp tục thực tập như thế mổi buổi tập 21 lần , một thăng một giáng là tính một lần .
Đến cuối cùng , hành giả tưởng tượng đức Bổn Tôn cùng hoa sen trên đỉnh đầu , đang chiếu sáng quang minh sáng ngời tủa ra khắp nơi và hình ảnh nầy từ từ đi hạ xuống nhập làm một vào trong minh điểm của hành giả , tức Đức Đại Nhật Như Lai – Bổn Tôn – Thượng Sư cùng minh điểm của hành giả hợp thành tứ vị nhất thể vậy .
Lúc nầy , hành giả có thể nằm xuống để ngủ , tốt nhất là nằm với tư thế của phương pháp Đại Thán Thi , tức hành giả nằm ngữa , hai tay để xuôi xuống hai bên thân mình , hai chân hơi dang ra , mời ngón chân hướng lên trời ; lúc nầy hành giả phải có quyết tâm và ý tưởng mạnh là muốn nguyên thần của mình xuất du ra ngoài trong khi hành giả đã ngủ , để nguyên thần của hành giả đi đến một nơi nào đó mà hành giả muốn đến .
Trước khi hành giả đi vào giấc ngũ , toàn thân của hành giả phải buông thả thư thái , hành giả tập tưởng tượng nguyên thần của mình đi ra khỏi thể xác từ nơi đỉnh đầu ; trong quá trình nguyên thần xuất ra khỏi thể xác , cơ thể lúc đó có thể bị rung động mạnh , hoặc xuyên qua sự rung động nầy có thể làm chiếc giường nằm cũng bị rung động theo ; hoặc có khi hành giả cảm thấy cơ thể của mình hình như bị xé nát ; một điều quan trọng là hành giả nên nhớ , hành giả thấy bất cứ điều gì có xảy ra , hành giả vẩn cứ bình tỉnh , đừng nên lo sợ mà cứ tiếp tục tu tập ; sau khi luyện tập được vài lần , hành giả có thể an nhiên đi vào giấc ngũ , đến một lúc nào đó hành giả sẻ đi đến một cảnh giới siêu giác nào đó trong giấc ngũ , tức nguyên thần xuất du . Trong lúc hành giả luyện tập , nếu lở hành giả có vô tình rơi vào giấc ngũ , thì cứ việc ngũ tự nhiên mà vô ngại , không sao cả .
Có một số người trong những giấc ngũ bình thường , cơ thể đột nhiên bị chấn động mảnh liệt và người nầy có một cảm giác như mình vừa bị rớt xuống từ trên cao ; thì đó là một hiện tượng nguyên thần của người nầy đang sắp xuất ra khỏi cơ thể , nhưng đã bị nhục thể của họ hút trở lại . Thông thường người nào , thường có những hiện tượng trên trong lúc ngũ , thì khi tập phương pháp nầy sẻ dể dàng xuất nguyên thần hơn .
Khi nguyên thần đã thực sự xuất khỏi cơ thể , thì có thể nhìn thấy nhục thể của mình vẩn còn nằm trên giường , và mình vẩn cảm thấy bình thường , không phải vừa đi ra và đang ở ngoài cơ thể , mà chỉ thấy là mình vẩn bình thường và cơ thể đang ở ngoài mình vậy . Khi nguyên thần thật sự xuất ra ngoài rồi , khi đi du hành đến đâu , thì hành giả sẻ có cảm giác bình thường như lúc đi du hành bằng nhục thân vậy .
Do đó , hành giả cần phân biệt các trạng thái của Linh Thể Xuất Du và trạng thái Nhập Định Mộng Trung Viển Thị hoặc trạng thái đi vào Siêu Giác , đem về những thông tin từ xa , có những khác biệt với những giấc mộng , có những cảnh mộng mị bình thường khác .
Bình thường hành giả đi dạo chơi đến một nơi nào đặc biệt và ưa thích , hành giả cần lưu tâm quan sát các chi tiết và tối về trước khi đi ngủ , hành giả thành khẩn phát tâm nguyện mảnh liệt , là trong giấc ngũ nguyên thần của hành giả sẻ đi đến dạo chơi nơi đó ; đây cũng là những bài tập bổ ích hổ trợ cho việc thành tựu Mộng Du Đại Pháp vậy .
Khi hành giả tập phương pháp nầy , cơ thể hành giả cần mặc quần áo rộng rải , nằm cho thoải mái , loại bỏ những mệt nhọc của cơ thể và những tình cảm căng thẳng , như vậy sẻ dể xuất nguyên thần hơn .
Trong lúc tập Mộng Du Đại Pháp , Linh Thể của hành giả lần đầu xuất ra ngoài , thì chỉ nên đi vòng vòng quanh nhà hay chỉ đi đến những nơi gần ; khi nào đã quen thuộc việc xuất nhập , thì lúc đó hành giả chỉ cần tâm niện muốn đến nơi nào thì hành giả sẻ hiện diện tại nơi đó ngay lập tức . Trong khi nguyên thần hành giả xuất du , thì có một sợi dây ánh sáng nối liền nguyên thần của hành giả với nhục thể , trong khi đó nếu có ai chạm hay nhúc nhích nhục thể của hành giả , thì nguyên thần sẻ được sợi dây ánh sáng nầy kéo về nhập một với nhục thân ngay tức khắc .
Hành giả không nên lo sợ khi đả xuất nguyên thần ra ngoài cơ thể , mà trong tâm hành giả lúc nào cũng thường thành khẩn , tâm niệm mình cùng Đức Đại Nhật Như Lai , Bổn Tôn , Thượng Sư , tứ vị nhất thể , tức mình cùng các vị nầy là một vậy , thì niềm tin hộ trì của các vị nầy sẻ hộ trì cho tâm hành giả được an định .
Khi hành giả nguyên thần xuất du , bất ngờ gặp những tình huống kinh hải , thì hành giả chỉ cần niệm tụng chú ngử của Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng sư là được ; nếu do tình trạng quá căng thẳng , nguyên thần của hành giả không thể nhập trở về nhục thân , thì hành giả cũng chỉ cần niệm tụng chú ngử của Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng sư , thì nguyên thần của hành giả sẻ tức tốc được nhập trở về nhục thân một cách thuận lợi .
Giai đoạn kết thúc bài tập :
Sáng hôm sau , trước khi thức dậy , hành giả vẩn nằm trong tư thể củ và kết thúc buổi tập , bằng cách quán tưởng hoa sen từ từ thu búp lại , bao bọc lấy minh điểm chủng tử tự vào trong giửa hoa sen , và hoa sen từ từ hóa trở lại hình trái tim của hành giả và hành giả đưa trái tim của mình trở về vị trí của nó ở bên trái lồng ngực như củ . Như vậy buổi tập đã hoàn tất , hành giả có thể từ từ mở mắt , nhúc nhích chân tay và từ từ ngồi dậy , với một cảm giác kiết tường , an lạc , khõe mạnh và một ngày vui tươi đầy may mắn .
(st)
Tài liệu bên trên chỉ có tính cách nghiên cứu và tham khảo , mọi sự tu tập cần có sự hướng dẩn và chăm sóc của Minh Sư . Tất cả những bất trắc , thiệt hại xảy ra cho thân tâm cá nhân người tập hoàn toàn tự nhận mọi hậu quả do tự mình gây ra.
Hoài niệm Tây Ninh
Nhớ thuở hoa niên thời trung học. Chạnh lòng hoài niệm đất Tây Ninh- VV.Ký
Ảnh Tư Liệu (10)Bai st từ mạng (1221)Bài viết (789)Đặcsan (29)hình ảnh cũ (15)Nhạc (9)Tết 2018 (20)Tết 2019 (29)Tết 2020 (22)thông tin (279)Thơ (2216)tìm người thân (2)Tôn giáo : Cao Đài (27)video (72)Xuán - 2016 (35)
Thứ Tư, 6 tháng 2, 2019
LIỄN DÁN CÁC BÀN THỜ - Đỗ Chiêu Đức
Inline image
Hằng năm cứ đến ngày đưa ÔNG TÁO về trời là sau khi cúng tiễn TÁO QUÂn xong, thì tất cả chưn nhang đều được nhổ ra, chỉ chừa lại 3 cây trong lư hương mà thôi, còn lại thì thiêu hóa chung với giấy tiền vàng bạc và giấy cò bay ngựa chạy để theo ông Táo về trời, kể cả đôi liễn dán hai bên bàn thờ ông Táo cũng thế. Và không riêng gì bàn thờ ông Táo mà tất cả bàn thờ trong nhà cũng vậy ! Dẹp hết để chưn nhang khỏi đùn quá cao, vừa mất mỹ quan vừa dễ gây hỏa hoạn. Sẵn làm vệ sinh lau chùi khảm thờ cho sạch sẽ, rồi... dứt luôn nhang khói...
Mãi cho đến tận chiều ba mươi Tết, khi cúng rước Ông Bà về ăn Tết với con cháu, thì mới dán liễn mới lên để đón Giao Thừa và tiếp tục nhang khói như thường lệ.
Công việc của tôi hàng năm là tân trang và viết lại các đôi liễn mới nầy. Nào, ta bắt đầu từ trước sân nhà nhé. Một cây cột lửng được đóng giữa sân, trên gát một miếng ván vuông hoặc chữ nhật, có lư hương nhỏ hoặc một cái lon sửa bò đổ đầy cát để cắm nhang. Những nhà khá hơn thì cột được xây bằng gạch tiểu, trên gác một miếng gạch Tàu đo đỏ, còn nhà cửa khang trang hoặc phố chợ thì bàn thờ ÔNG THIÊN được đặt sát bên trái hoặc bên phải của cửa ra vào... Nhưng dù như thế nào thì trên bài vị hoặc trên thân cây cột để bàn thờ đều phải có 4 chữ : THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC 天官賜福, có nghĩa các vị quan trên trời sẽ ban phát phước lành xuống cho gia chủ.
Inline image Inline image
Thường thì tôi chỉ đổi mới 4 chữ THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC mà thôi, vì bàn thờ Ông Thiên bình dân thông thường không có câu đối, chỉ có nhà giàu hoặc ở các Đạo Quan, bàn thờ Ông Thiên lớn hơn, nên mới có câu đối 4 chữ như sau :
吉庆有余, Kiết khánh hữu dư,
受天百祿. Thụ thiên bách lộc.
Có nghĩa :
Điều lành điều tốt có thừa,
Hưởng nhận trăm lộc của trời ban.
Bên dưới ngay cửa đi vào là bàn thờ Thổ Địa. Bước vào phòng khách thì ở bên trong ngay lối vào là bàn thờ của Thần Tài xây mặt ra cửa cái. Thường thì Thổ Địa và Thần Tài được thờ chung ở nơi đây, nên bài vị thường viết là :
Ngũ phương ngũ thổ long thần, 五方五土龍神,
Tiền hậu địa chủ tài thần. 前後地主財神.
Ngũ phương ngũ thổ là chỉ 5 phương hướng : Đông Tây Nam Bắc và Trung Ương; còn Tiền Hậu là chỉ phía trước và phía sau.
Bên trên khảm thờ là 3 chữ TỤ BẢO ĐƯỜNG 聚寶堂, câu đối 2 bên thường là như thế nầy :
Kim chi sơ phát diệp, 金枝初發葉,
Ngân thọ chánh khai hoa. 銀樹正開花。
Có nghĩa :
Cành vàng vừa trổ lá,
Cây bạc lúc ra hoa.
Inline image
Hoặc là câu đối thật hay lấy từ bài Đằng Vương Các Tự của VƯƠNG BỘT đời Đường như sau :
Vật hoa thiên bảo nhật, 物華天寶日,
Nhân kiệt địa linh thời. 人傑地靈時。
Có nghĩa :
Đây là những ngày vật đẹp như là tinh hoa báo vật của trời.
Cũng là lúc đất đai linh hiển nên sinh ra người giỏi ( hào kiệt ).
Đó là bàn thờ Thần tài Thổ Địa ở trong nhà, còn nếu là Miếu thờ Thổ Địa hoặc Thổ Thần cho cả làng xóm thì câu đối liễn sẽ hay hơn. Sau đây là liễn dán miếu Thổ Thần :
THỔ Vượng nhân tòng vượng, 土旺人從旺,
THẦN an trạch tự an. 神安宅自安。
Có nghĩa :
Đất có vượng thì người cũng sẽ hưng vượng theo,
Thần có yên thì người tự nhiên cũng sẽ được bình yên.
Và... Sau đây là liễn thờ miếu Thổ Địa :
THỔ năng sanh bạch ngọc, 土能生白玉,
ĐỊA khả xuất hoàng kim. 地可出黃金。
Có nghĩa :
Đất có thể sanh ra ngọc trắng,
Đất cũng có thể cho ra vàng ròng.
Bạch Ngọc là Ngọc Trắng, một loại đá quí. Bạch Ngọc còn có thể hiểu đó là hạt gạo trắng tinh như Ngọc dùng để nuôi sống con người ! Và...
Hoàng Kim là Vàng ròng, kim loại quí, Nếu biết siêng năng trồng trọt canh tác thì : " Tất đất sẽ cho Tất Vàng " như chơi !
Tùy theo gia đình, thường thì phía trên cùng của phòng khách là nơi thờ Thần Thánh, nếu nhà có lầu thì thờ ở trên lầu trong căn phòng phía trước. Các Vị Thần Thánh được thờ thường là Bà Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai, nhưng thông thường nhất là Bàn Thờ ÔNG, ÔNG ở đây là Ông QUAN CÔNG, tức QUAN VÂN TRƯỜNG thời Tam Quốc.
Năm nào tôi cũng phải lau chùi quét dọn và viết lại bộ liễn của Bàn Thờ Ông. Bộ liễn khá bài bản và nghiêm trang như sau : Phía trên cùng của khảm thờ là 2 vòng tròn giấy đỏ trên viết 2 chữ CHÍNH KHÍ 正氣 để chỉ cái khí tiết chính trực của Quan Công, phía dưới 2 chữ Chính Khí là 4 chữ TRUNG TÂM QUÁN NHẬT 忠心貫日, có nghĩa : Lòng trung thành vằng vặc như mặt trời. Liễn 2 bên thì như vầy :
Inline image Image result for 關聖帝君 Inline image
Chí tại Xuân Thu công tại Hán,
志在春秋功在漢,
Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng thiên.
忠同日月義同天。
Có nghĩa :
Chí thì như ở đời Xuân Thu( muốn làm nên nghiệp lớn ), nhưng công lao thì ở đời Hán.
Lòng trung thành như mặt trăng mặt trời, còn nghĩa thì cũng cao tợ trời xanh.
Một đôi liễn thường thấy ở Bàn Thờ Ông nữa là :
Thiên thu nghĩa dõng vô song sĩ, 千秋義勇無雙士,
Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhơn. 萬古精忠第一人。
Có nghĩa :
Cái nghĩa khí và vũ dũng ngàn năm không có được 2 người,
Lòng trung thành tuyệt đối muôn đời là người số 1 duy nhất.
Hai người đứng 2 bên Quan Công, người râu rìa mặt đen là Châu Thương cầm Thanh Long Yễm Nguyệt Đao, người mặt trắng đẹp trai là Quan Bình, tay bưng cái ấn Hớn Thọ Đình Hầu. Theo dị đoan thì lưỡi của Thanh Long Yễm nguyệt Đao phải xây về hướng nước ròng, tức là phải chém ngược dòng nước để chặn những ác thần.
Nếu là bàn thờ Phật Tổ Như lai hay Quan Thế Âm
Bồ Tát, thì ta thường thấy đôi câu đối sau đây :
Tử trúc lâm trung quan tự tại, 紫竹林中觀自在,
Bạch liên đài thượng hiện như lai. 白蓮台上現如來.
Có nghĩa :
Bồ tát Quan Tự Tại, Quan Thế Âm ở trong rừng trúc tía,
Phật Tổ Như lai hiện lên trên đài hoa sen trắng.
Câu đối trên còn được viết là :
Tử trúc lâm trung quan tự tại, 紫竹林中觀自在,
Bồ đề thọ hạ kiến như lai. 菩提樹下見如來.
Có nghĩa :
Trong rừng trúc tía Quan Âm hiện,
Dưới cội Bồ Đề Phật Tổ ngồi.
Inline image Inline image
Dưới các khảm thờ của Thần Thánh mới là bàn thờ Tổ Tiên. Bàn thờ Gia Tiên thường đặt một hoặc nhiều bài vị của Tổ Tiên các đời, phía trên thường thấy 3 chữ ĐỨC LƯU PHƯƠNG 德流芳. Chữ LƯU 流 là Chảy, là Dòng Chảy, chứ không phải LƯU 留 là GIỮ, là ĐỂ Lại. Nên có nghĩa là : Cái ĐỨC phải sống động như dòng chảy tỏa mùi hương từ đời nầy sang đời khác, tức là muốn con cháu các đời đều phải TÍCH ĐỨC, chứ không phải chỉ trông chờ để hưởng cái ĐỨC của ông bà để lại. Vì hễ cái gì LƯU để lại thì cũng phải có ngày khánh kiệt, như gia tài chẳng hạn, ĐỨC cũng vậy, để ĐỨC lại cho con cháu mà con cháu không biết TÍCH ĐỨC thì ĐỨC đó cũng sẽ bị hao mòn khánh kiệt mà thôi !. Nếu không phải là Đức Lưu Phương thì là Đức Lưu Quang 德流光, có nghĩa : Cái Đức của Cha Ông còn chiếu sáng mãi về sau để cho con cháu noi theo; đại khái thì nghĩa cũng giống như là 4 chữ Đức Lưu Phương mà thôi. Bên dưới 3 chữ ĐỨC LƯU PHƯƠNG hay ĐỨC LƯU QUANG là 4 chữ CỮU HUYỀN THẤT TỔ 九玄七祖 thật to. Hai bên của 4 chữ CỬU HUYỀN THẤT TỔ là 2 câu đối. Thường thì hai câu đối nầy đều ca ngợi công đức của cha ông và khuyên con cháu nên noi theo mà làm người cho phải đạo. Nhớ ...
Có lần tôi đọc được đôi câu đối thật hay trong gia đình của một người bạn ở xã Nhơn Ái, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) như sau :
Kính thất tổ thiên niên bất tận, 敬七祖千年不盡,
Trọng cửu huyền nội ngoại tương đồng. 重九玄內外相同。
Có nghĩa :
Lòng kính trọng Thất Tổ ngàn năm không dứt,
Tôn trọng Cửu Huyền của 2 bên nội ngoại như nhau.
Image result for Bàn thờ Gia Tiên Image result for Bàn thờ Gia Tiên Image result for Bàn thờ Gia Tiên
Có người hỏi : CỬU HUYỀN THẤT TỖ chỉ những AI, và gồm có những AI ?!. Xin thưa :
CỬU HUYỀN THẤT TỔ 九玄七祖 gồm có 9 đời Con Cháu và 7 đời Cha Ông, như sau :
* CỬU HUYỀN là :
Tử, Tôn, Tằng, Huyền, Lai, Côn, Nhưng, Vân, Nhĩ.
九玄 : 子、 孫、 曾、 玄、 來、 昆、 仍、 雲、 耳 .
là : Con, cháu, chắc, chít ...
* THẤT TỔ là :
Phụ, Tổ, Tằng, Cao, Thái, Huyền, Hiễn.
七祖 : 父、祖、 曾、 高、 太、 玄、 顯 .
là : Cha, Ông Nội, Ông Cố, Ông Sơ ...
Inline image Inline image
Cuối cùng, ở phía sau nhà, nơi bếp nút củi lửa là bàn thờ ông Táo. Ta còn gọi là Thần Bếp, Vua Bếp, Táo Quân... Bên trên bàn thờ là 4 chữ : NGŨ KỴ CHI THỦ 五祀之首, Bên dưới là các chữ : Định Phước TY MỆNH TAO QUÂN 定福司命灶君, hay Ty Mệnh ĐỊNH PHƯỚC TÁO QUÂN 司命定福灶君. Có nghĩa : Được ủy thác mệnh lệnh (từ Thiên Đình) để định cái Phước (về ăn uống) mà làm vua bếp. Hai bên là đôi liễn mà tôi đã có dịp trình bày trong bài TỐNG TÁO THI là :
有德能司火, Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời ( để trình tấu mọi việc ).
Inline image Inline image Inline image
Một câu đối rất hay để dán bàn thờ Ông Táo nữa là :
Thượng thiên ngôn hảo sự, 上天言好事,
Hạ giới bảo bình an. 下界保平安。
Có nghĩa :
- Lên trên trời chỉ trình báo những việc tốt, còn...
- Xuống thế gian thì bảo đảm cho gia chủ được bình an.
Nói thêm :
Theo Hán Văn mới đề nghị đọc là : THƯỚNG (dấu sắc) THIÊN 上天 là Lên Trời; HÁ ( dấu sắc) GIỚI 下界 là xuống Thế. Nhưng xét thấy đọc như thế vừa cầu kỳ, vừa trúc trắc khó đọc, vừa đi ngược lại tập quán của ông cha đã đọc ngày trước... nên, tôi thích đọc là "Thượng Thiên" và "Hạ Giới" nghe cho nó ... xuôi tai hơn.
Còn về ...
NGŨ KỴ : là 5 chỗ cần phải cúng tế ở trong nhà, đó là : MÔN,HỘ là Cổng, cửa ( nơi ra vào ), TỈNH, TÁO là Giếng, Bếp ( nơi ăn uống ), và TRUNG LƯU là phần giữa nhà ( nơi ngủ nghỉ ). Xưa thì cho rằng CỔNG là nơi đứng đầu cần phải cúng tế, nhưng sau với khuynh hướng " Dĩ thực vi thiên ", thì Bếp đứng đầu, nên bàn thờ Táo Quân mới có được 4 chữ " NGŨ KỴ CHI THỦ 五祀之首 " đứng đầu năm nơi cúng tế là vì thế ! Một điều thú vị nữa là : Người Triều Châu khi rước cô dâu về nhà, sau khi làm lễ Thiên Địa ở trước cửa xong, cô dâu phải đi thẳng ra sau bếp để lạy ra mắt Táo Quân trước, rồi mới làm lễ gia tiên và ra mắt cha mẹ sau... Cho thấy vai trò Ngũ Kỵ Chi Thủ của Táo Quân quan trọng biết chừng nào, và cuộc đời của cô dâu trong tương lai sẽ gắn liền với ông Vua Bếp ở nhà chồng cho đến khi thành ... Bà Nội, Bà Cố của nơi nầy.
Đỗ Chiêu Đức
https://hoainiemtayninh.blogspot.com...hieu-uc_6.html
Đ𝗜̣𝗔 𝗖𝗛𝗨̉ 𝗧𝗛𝗔̂̀𝗡 𝗧𝗔̀𝗜 (地主財神) - 𝗩𝗜̣ 𝗧𝗛𝗔̂̀𝗡 𝗧𝗥𝗢̂𝗡𝗚 𝗖𝗢𝗜 𝗡𝗛𝗔̀ 𝗖𝗨̛̉𝗔
Theo tín ngưỡng nhân gian người Hoa , Địa Chủ Thần Tài (地主財神), đọc là “tì chuỷa tsòi xành”, là vị thần bảo trợ nhà cửa, nhà máy, công ty hoặc cửa hàng. Nếu các bạn để ý thì trên bài vị thờ Địa Chủ sẽ viết tên đầy đủ của ngài là 𝗡𝗴𝘂̃ 𝗣𝗵𝘂̛𝗼̛𝗻𝗴 𝗡𝗴𝘂̃ 𝗧𝗵𝗼̂̉ 𝗟𝗼𝗻𝗴 𝗧𝗵𝗮̂̀𝗻, 𝗧𝗶𝗲̂̀𝗻 𝗛𝗮̣̂𝘂 Đ𝗶̣𝗮 𝗖𝗵𝘂̉ 𝗧𝗵𝗮̂̀𝗻 𝗧𝗮̀𝗶 (五方五土龍神,前後地主財神), tức là vị thần cai quản 5 hướng, phía trước phía sau nhà cửa.
Thế tại sao lại là 5 hướng ?
Vì theo cách tính các phương hướng thời cổ đại Trung Quốc, ngoài với 4 hướng cơ bản ĐÔNG, TÂY, NAM, BẮC thì còn một hướng nữa chính là TRUNG (tức là trung tâm). Ngũ phương này cũng tương ứng với ngũ hành trong phong thuỷ .
Khác với vị thần Thổ Địa (土地) mà các gia đình hay thờ trước cửa nhà, vị thần Địa Chủ lại có phạm vi cai quản nhỏ hơn, chỉ gói gọn trong phạm vi một căn nhà. Giúp canh giữ , trừ tà,... Chính vì ngài là cai quản nhà cửa, giúp các công ty, của hàng hoặc xưởng làm ăn phát tài nên cũng được xem là một vị thần mang đến tài lộc cho mọi nhà .
Do một số điển tích thời xưa khi giao thoa văn hoá giữa Việt - Hoa, nên người Kinh có một sự hiểu khác về vị thần này chính là Thần Tài, ngoài ra còn có cả Ông Địa nữa . Chính vì thế, được chia làm hai luồng tín ngưỡng vào ngày mùng 10 :
- Người Kinh tin rằng mùng 10 tháng Giêng chính là ngày Vía Thần Tài (Có quan niệm cho rằng Thần Tài này là một dạng thổ thần kiểu Thần Đất)
- Người Hoa tin rằng mùng 10 tháng Giêng chính là ngày Vía Địa Chủ, còn mùng 5 tháng Giêng mới là ngày Vía Thần Tài.
Đây không phải ai đúng ai sai, chỉ là do tín ngưỡng ở các vùng miền khác nhau mà thôi ❤ Dù gì thì nhà nhà cũng cúng cùng một vị trí, chỉ khác tí là ngày đi mua vàng cầu may thôi .
Vẫn có một số gia đình người Hoa thờ cả Ông Địa. Hồi nhỏ cứ tưởng Ông Địa chính là Địa Chủ Thần Tài, sau này lớn lên mới biết Ông Địa chỉ có trong tín ngưỡng của người Việt thôi hihi . Có ai bị nhầm như mình không ?
https://scontent.fsgn5-1.fna.fbcdn.n...91&oe=603CA783
https://i.imgur.com/l72clEN.jpg
https://www.upsieutoc.com/images/202...61006336_n.jpg
https://www.facebook.com/cholondownt...1402931103607/
_____________________
NGHI LỄ NHẬP TRẠCH QUY HỎA
10:21 Phong tục nghi lễ
新居入伙 (TÂN CƯ QUY HỎA)
人們在搬家搬屋時,都希望日後可以 居樂業,順順利利,所以一些搬屋時 禁忌,必須留意:
搬屋要選擇良辰吉日,可查閱通勝;
開始搬屋時,孕婦應該離場;
搬傢俬雜品時戶主最好不要主動向人 招呼;
搬屋當日戶主及家人都要心平氣和, 可發脾氣,講些好意頭說話;
搬舊屋的傢俬最好由他人代勞搬出;
搬入新屋時,最好由自己及家人親手 入,切忌一家大細空手入屋;
如請人幫忙,最好是屬雞或屬龍,取 「起家」和「龍鳳呈祥」之意。
也可在屋內放盆萬年青,用紅紙貼於 上。
搬屋的時間最好選在中午之前,更要 日落之前完成,切忌夜晚入屋。
入宅前選一吉日安置瓦斯爐等炊具, 宅後再開火煮湯圓或甜茶討吉利。
Mọi người khi dời nhà,dời chỗ ở (về nhà mới)… đều có hy vọng mong mỏi là sẽ được an cư lạc nghiệp, công việc làm ăn thuận lợi. Cho nên, phải lưu ý đến những điều cấm kỵ mà tránh, chọn việc tốt mà làm.
Thực hành những điều sau đây:
1.- Chọn ngày giờ tốt theo Lịch Thông Thắng (coi ngày).
2.- Lúc mới về nhà mới, đàn bà có thai không nên cùng theo về ( nên để sau vài giờ).
3.- Chủ nhà không được kêu la quát tháo người nhà khi chuyển đồ đạc vào trong .
4.- Ngày về nhà mới, mọi người không được giận dỗi, rầy rà nhau, nên vui vẻ hòa thuận, nói năng nhỏ nhẹ với nhau.
5.- Những đồ vật ở nhà cũ, tốt nhất mượn người bên ngoài mang giùm đến.
5.- Khi bước vào nhà mới, mọi người từ chủ hộ đến thành viên, mỗi người đều có cầm một vật dụng gì trên tay, tuyệt đối không đi tay không vào nhà.
6.- Nếu phải nhờ người ngoài, cố gắng mượn cho được hai người có tuổi Thìn và tuổi Dậu mang đồ đạc vào giùm, biểu trưng cho hai ý “Khởi gia” (bắt đầu gầy dựng gia đình) và “Long phụng trình tường” (rồng phụng tốt lành).
7.- Có thể đặt ở giữa nhà một bồn “Vạn niên thanh”, dùng chỉ đỏ vắt ngang trên bồn nầy.
8.- Giờ vào nhà mới nên chọn buổi sáng (trước 12 giờ), tránh chọn buổi chiều, tối kỵ là về ban đêm.
9.- Trước ngày về nhà mới, nên chọn một ngày tốt để đặt sẵn một hỏa lò và đủ dụng cụ củi lửa, để khi về nhà mới là bắt đầu nổi lửa, nấu “Xôi nước đỏ” hay “Trà ngọt” mà cúng.
擇日:
家人生肖是否與搬家之日有所沖煞。
一般選擇以水日為主,較少用火日。
時辰陽日以陰時,陰日以陽時。
方位與日子:
坐東:不選己酉丑三合金局之日。
坐西:不選亥卯未三合木局之日。
坐南:不選申子辰三合水局之日。
坐北:不選寅午戊三合火局之日。
應避開天罡四殺及回頭貢殺:
天罡四殺:寅五戊命,丑日丑時;
申子辰命,未日未時;
亥卯未命,戊日戊時;
己酉丑命,辰日辰時。
回頭貢殺:丑命人,不可見寅午戊四 中三字金;
辰命人,不可見己酉丑四柱中三字金
未命人,不可見申子辰四柱中三字金
戊命人,不可見亥卯未四柱中三字金
TRẠCH NHẬT (CHỌN NGÀY)
1.- Ngày về nhà mới không được xung kỵ tuổi của chủ nhà.
2.- Nên chọn ngày thuộc hành Thủy, tránh chọn ngày thuộc hành Hỏa.
3.- Nếu là ngày thuộc dương (can chi dương) thì chọn giờ can chi âm và ngược lại.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NGÀY CHỌN
1.- Nhà hướng Đông:- không chọn những ngày của tam hợp :- Tỵ, Dậu, Sửu ( thuộc kim , khắc mộc).
2.-Nhà hướng Tây :- không chọn những ngày của tam hợp :- Hợi, Mão, Mùi ( thuộc mộc , bị kim khắc ).
3.- Nhà hướng Nam:- không chọn những ngày của tam hợp :- Thân, Tí, Thìn ( thuộc thủy , khắc hỏa).
4.- Nhà hướng Bắc:- không chọn những ngày của tam hợp :- Dần, Ngọ, Tuất ( thuộc hỏa , bị thủy khắc ).
*Tránh ngày “THIÊN CƯƠNG TỨ SÁT” và ngày “HỒI ĐẦU CỐNG SÁT”
Là những ngày sau đây:-
A/- Thiên cương tứ sát:-
1.-Tuổi Dần, Ngọ, Tuất gặp ngày Sửu giờ Sửu.
2.- Tuổi Thân, Tí, Thìn gặp ngày Mùi giờ Mùi.
3.- Tuổi Hợi, Mão, Mùi gặp ngày Tuất giờ Tuất.
4.-Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu gặp ngày Thìn giờ Thìn.
B/- Hồi đầu cống sát:-
1.- Người tuổi Sửu, không nên chọn những ngày Dần, Ngọ, Tuất mà có ba thiên can thuộc Kim. Ví dụ:- năm Canh Dần, tháng Canh Ngọ, ngày Canh Tuất.
2.- Người tuổi Thìn, không nên chọn những ngày Tỵ, Dậu, Sửu, có ba thiên can thuộc Kim. Ví dụ:- năm Tân Tỵ, tháng Tân Dậu, ngày Tân Sửu.
3.- Người tuổi Mùi , không nên chọn những ngày Thân, Tí, Thìn, có ba thiên can thuộc Kim. Ví dụ:- năm Canh Thân, tháng Canh Tí, ngày Canh Thìn.
4.- Người tuổi Tuất, không nên chọn những ngày Hợi ,Mão, Mùi, có ba thiên can thuộc Kim. Ví dụ:- năm Tân Hợi, tháng Tân Mão, ngày Tân Mùi.
新居入伙前:
搬家前先將房子打掃一番,門窗打開 三天,使空氣流通,引進吉氣。
新屋入伙前可先「拜四角」,意思是 貌地向新屋的土地神明打個招呼。
住過的舊屋或者是村屋,角位較為潮 陰暗,而在祭祀時, 焚香燒衣有助驅走蛇蟲鼠蟻,消毒環 ,或是趕走不潔的東西。
CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI DỜI CHỖ Ở
-Trước khi dời đến chỗ ở mới, phải quét dọn phòng ốc sạch sẻ, mở các cửa ra hai ba ngày cho thoáng khí, làm cho khí tốt lưu thông khắp nhà.
-Trước khi dời đến chỗ ở mới, phải làm lễ cúng Thần minh Thổ Địa nơi nhà mới, gọi là hành lễ “Bái Tứ Giác”. (lạy bốn góc)
-Nhà mà trước đây đã có người ở, hoặc nhà ở nông thôn, bốn góc nhà thường tụ tập mùi xú uế do ẩm thấp tạo ra. Nhờ làm động tác “Bái tứ giác” mà có thể tẩy bớt mùi vị hôi hám, xua đuổi ruồi bọ côn trùng…ra khỏi nhà, cùng là hóa giải những tà khí xâm nhập vào nhà, vào đồ dùng trong nhà v.v…
「拜四角」祭品:
生果一個、花生一堆、糖果五粒及連 毛的肥豬肉一小件。
祭品擺放在大廳的四角及中央,合共 份,大廳中央要特別加放燒酒三杯。
到紙札舖買一套四角衣,如單位較為 暗潮濕,則要買多些溪錢、金銀元寶 天神衣及地主衣各一套,這樣可以燒 旺家宅,除去霉氣。
PHẨM VẬT CÚNG LỄ “BÁI TỨ GIÁC”
-trái cây tươi, một tô đậu phọng nấu, năm miếng đường, một miếng thịt heo còn dính da lông . (năm phần như thế)
-Bày phẩm vật ở bốn góc và giữa trung tâm căn nhà thành ra năm chỗ, đặc biệt ở giữa phải có thêm ba chun rượu hâm nóng.
-Mua một bộ giấy áo tứ giác, hoặc nếu nơi đó quá ẩm thấp lâu ngày, nên mua thêm các loại giấy tiền vàng bạc, giấy áo Thiên thần y, Địa chủ y … để đốt, mới trừ khử hết mùi hôi khí độc tích tụ lâu ngày.
「拜四角」的儀式:
燃點二十一支香,面向正門,由左手 起,繞著全屋用香薰一次,包括廁所 廚房,心中默默禱告許願,如家宅安 康,夫妻和氣等 。
將薰過屋的香,在東南西北四個角落 別插三支香,大廳中央則插上九支, 共二十一支香,蠟燭方面,則每處放 一對,合共五對,在單位中央或後樓 焚燒衣紙,化完衣紙後,各種祭品不 取回。
用一支新買的掃把,打掃一下現場, 除的方向是由大廳每個角位開始掃, 垃圾掃到大廳中央,再掃出大門口, 此舉象徵把不潔的東西掃去。
NGHI THỨC CÚNG LỄ “BÁI TỨ GIÁC”
-Đốt hai mươi mốt cây nhang, chấp cầm bằng hai tay, mặt hướng về phía cửa cái, đi từ phía bên trái sang phía phải, đi hết bốn góc nhà, kế là đi vào các nơi khác như nhà bếp, nhà vệ sinh …để cho khói hương xông lên, vừa đi vừa khấn nguyện van vái cho gia trạch bình an, vợ chồng con cái hòa thuận…
Sau khi đi đủ chỗ, trở lại cắm nhang tại bốn góc nhà, mỗi góc ba cây nhang, còn lại chín cây cắm ngay giữa trung ương, tổng cộng là hai mươi mốt cây nhang. Ngoài ra, mội góc còn phải đốt hai cây đèn cầy (sáp), tính luôn ở giữa tổng cộng là năm đôi đèn. Giấy tiền vàng bạc có thể đốt ở giữa nhà hoặc đem ra phía sau nhà mà đốt. Những vật cúng xong , không lấy lại đem về (bỏ lại đó).
Dùng một cây chổi mới mua, quét hiện trường sạch sẻ. Quét bằng cách từ bốn góc quét rác vào chính giữa trung ương, rồi từ đó quét đưa thẳng ra cửa cái, tống xuất tất cả ra ngoài.
Động tác nầy mang ý nghĩa quét sạch những thứ xấu xa nhơ nhớp ra khỏi nhà.
新居入伙要帶備的物品:
搬家當日要準備几種物品,而且必須 其它東西還未搬進屋內時,先將這几 物品搬到廚房,其它東西才能一一搬 進屋內:
用米桶裝八分滿的米。
紅包一包放在米桶上面,代表入住後 以衣食豐足。
舊屋用過的碗筷,每人一套,上面綁 紅紙,保佑家人飲食健康,無病無痛
火爐一個以祈求家庭興旺。
在入伙前一天,裝一桶水放在廳中, 後開風扇吹著,代表風生水起。
帶一些舊屋的泥土送到新屋,以防與 居水土不服。
畚箕和新的掃帚一對,上面綁上紅布 用作拜完四角之後的清潔。
NHỮNG ĐỒ VẬT CẦN CHUẨN BỊ MANG VÀO NHÀ MỚI
Ngày về nhà mới cần phải chuẩn bị trước một số đồ vật, đặt sẵn trước cửa nhà. Đúng giờ tốt mới đem vào.
Trước tiên mang số vật dụng dùng để nấu ăn , đem vào đặt ở nhà bếp, kế tiếp mới mang những thứ khác :-
*Đặt một cái thùng (lu, khạp …) trong đựng đầy gạo ít nhất tám phần mười . Đặt một gói “lì-xì” đỏ bên trên thùng gạo, tượng trưng cho sau khi về nhà mới được ấm no sung túc.
*Chén đũa đã dùng ở nhà cũ, mỗi người một bộ, trên có đặt sợi chỉ đỏ, tượng trưng cho mọi người khi về ở chỗ mới, việc ăn uống đầy đủ, sức khỏe tốt , không bệnh hoạn đau ốm.
*Một cái bếp lò mới, cầu cho gia đình hưng vượng.
*Trước khi về nhà mới một ngày, đặt một thùng nước đầy tại giữa nhà, mở quạt trần cho gió thổi vào thùng, tượng trưng cho “phong sanh thủy khởi” (gió sanh ra, nước dấy lên, ý nói có việc làm tốt, tiền bạc vào nhiều)
*Nên đem theo một bếp lò cũ để vào nhà bếp, phòng khi thủy thổ chỗ ở mới không hợp. Đặt lò cũ kế lò mới, bên trên hai lò phủ một tấm vải đỏ. Làm xong lễ “Bái tứ giác” ngày trước, hôm sau mới bắt đầu sử dụng.
新居入伙的傳統法則:
如家中有神位或祖先牌,要預先搬入 屋。
准備一些硬幣銅錢,於良辰一到踏進 門時,口唸:「雙腳踏入來,富貴帶 來。」然後將硬幣撒向地下,口唸: 「滿地黃金,財源廣進,錢財豐盈。
安床要擇吉時,如未擇吉時,就先放 地上,等選好時辰再移動床位。
搬入新屋當晚,應先在床上躺臥五至 分鐘左右,然後再起身走動一下才返 睡,保佑入住後較少病痛。
傢俬雜物擺妥後,應開始安放由舊屋 來的祖先神位等,進行一次拜祭,希 在新環境裡繼續保佑家宅平安。
參加入宅儀式的親友越多越好,多點 氣可收旺宅之效。
搬家時可在大門兩側掛一對大菜頭, 首掛一個鳳梨,取其「好采頭」、「 來」之意,或者在門上掛一張八仙彩 討喜。
搬家完成後的當日下午要祭拜地基主 也就是所謂的「宅神」,每一座房子 有,拜他則能得到護佑。地基主就是 原先住在這塊土地的鬼魂,一般尊稱 為「宅神」。祭拜地基主是希望能夠 他和平相處,不要對居住者作祟。
到了夜晚,應將所有燈光全部打開至 日,以使氣旺而不息。
PHƯƠNG THỨC DỌN ĐỒ ĐẠC VÀO NHÀ MỚI THEO TRUYỀN THỐNG
Nếu nhà có bài vị thờ tổ tiên, thì nên mang bài vị nầy vào trước.
Chuẩn bị sẵn một số tiền xu (xưa cũ càng tốt) , lúc bắt đầu bước vào nhà, gia chủ cầm túi tiền vừa đi vừa niệm “Song cước đạp nhập lai, Phú quí đái tiến lai” (Hai chân bước vào nhà, Giàu sang cũng theo vào) . Kế đem rãi những đồng tiền ấy khắp nhà, vừa rãi vưa niệm:- “Mãn địa huỳnh kim, tài nguyên quảng tiến, tiền tài phong doanh” ( Vàng ròng đầy đất, nguồn tiền bạc rộng chảy đến, tiền bạc luôn sung túc) .
*Đặt giường thì cũng phải chọn ngày (thường dùng trực Nguy), nếu chưa chọn được ngày thì đặt tạm đâu đó, chờ đúng ngày tốt mới đặt vào chỗ chính thức.
*Trong buổi tối ngày về nhà mới, chủ nhà phải nằm trên giường độ khoảng năm đến mười phút, ngồi dậy đứng lên vận động tay chân mình mẫy một lúc, rồi mới trở lại nằm ngủ chính thức, tượng trưng cho việc đến ở nhà mới ít bị bệnh hoạn.
*Sau khi đã an bài xong mọi thứ, tất cả người nhà tập họp lại trước bàn thờ tổ tiên vái lạy, cầu nguyện ông bà phù hộ về chỗ mới nầy được bình an thịnh vượng.
*Những động tác kể trên, cố gắng thực hành được càng đủ càng tốt.
*Ngày về nhà mới, trước cổng treo một cặp “đại thái đầu” (bắp cải lớn), cửa nhà treo một cặp trái “Phượng lê”, ý cầu mong cho được “lành tốt nhất” (hảo thái đầu) và “thịnh vượng đến” (vượng lai). Hoặc có thể treo một tấm ảnh tượng “Bát Tiên” trước cửa cũng được.
*Buổi chiều ngày về nhà mới, nhớ phải cúng lễ “Bái Địa Cơ Chủ” (nói ở bài trước), còn gọi là “Thần giữ nhà”. Như vậy thì mới tỏ ra hòa bình thân thiện với “chủ cũ”, mang lại bình an hạnh phúc.
*Đêm đầu tiên ở nhà mới, nên mở tất cả các đèn cháy sáng đến hôm sau, làm cho vượng khí không bị gián đoạn.
公司開張 :
開張又稱「開幕」,也就是公司或商 正式對外營業的第一天。
開張這一天對所有的公司或商店來說 都是視為很重要的大日子,除了代表 個新事業的誕生外,好的開始就是成 功的一半,因此許多公司或店家在開 這一天都會張燈結綵,甚至舉行特賣 來吸引人潮,增進買氣,祈望未來能 夠財源廣進。
為了討個好彩頭,一般公司都會根據 民曆,選個適宜開市的良辰吉日、吉 來舉行開幕儀式。開張前並要印製柬 帖,邀請親朋好友前來參加,以活躍 氣。
而各親友、廠商甚至民意代表也會致 花籃、花圈、盆栽或匾額祝賀。
開張日除了舉行開幕酒會、剪綵等活 外,拜神儀式更是不可或缺。一個事 的成功與否,除了盡人事,仰賴全體 員工的努力外,更希望冥冥中能夠獲 神明的保佑與協助。因此,開張當日 要舉行拜拜儀式,由公司或店家負責 人率領全體員工一同為事業的前景祝 。
開張日主要祭拜的神明是土地公,土 公雖然神格不高,但卻是各行各業共 的守護神。土地公左手捧金元寶,右 手持如意,專司發財如意,是如意發 的財神。一般公司或店家除了開張這 要祭拜土地公外,以後每月的農曆初 二、十六也都要祭拜土地公,稱為「 牙」,農家則是在初一、十五祭拜
KHAI TRƯƠNG CÔNG TY
Khai trương còn gọi là khai mạc, nghĩa là ngày đầu tiên công ty ra mắt với mọi người bên ngoài, giới thiệu sự hoạt động chính thức của công ty mình.
Ngày hôm ấy quả thật là vô cùng trọng đại đối với công ty, có thể nói một cách không quá đáng là, nó chiếm tỷ lệ đến năm mươi phần trăm kết quả công việc về sau của công ty !
Do đó, phần lớn công ty chuẩn bị tổ chức ngày khai trương rất cẩn thận, kỹ lưỡng, to lớn… để thu hút sự chú ý của quan khách và xã hội, đồng thời cũng tạo nên một thứ “sinh khí tốt lành” cho hậu vận công ty được phát triển bền vững.
Việc đầu tiên là chọn ngày. Hầu hết đều dựa vào ngày âm lịch (nông lịch), chọn ra một ngày “Khai Thị” (mở cửa chợ) thật tốt, giờ lành để khai trương. Soạn chương trình buổi lễ, phân công người phụ trách ….Tiếp theo là in ấn thiệp mời gởi cho quan khách, thân hữu, mối mang đối tác ... theo danh sách đã chọn lọc kỹ (nếu cần, có khi còn phải tập dượt trước…)
Ngày khai trương, quan khách đến dự, tặng giỏ hoa, vòng hoa, biển biểu chúc tụng…, tiến hành chương trình buổi lễ .
Nhưng quan trọng nhất vẫn là “nghi thức cúng bái thần minh” là một chi tiết không thể thiếu sót được. Bởi vì ai cũng biết công việc làm ăn thì ai ai cũng cố gắng phấn đấu siêng năng giỏi dắn, ngoài thì giao tế khéo léo, trong thì đoàn kết nội bộ tốt …nhưng nếu không có sự “phù hộ độ trì” của thần minh, thì cũng không dám bảo đảm là công ty ấy phất lên được. Do đó, ngày này vị Giám Đốc phải suất lãnh toàn thể nhân viên tiến hành nghi lễ cúng bái thật chu đáo.
Ngày khai trương phải cúng tế Thổ Địa Công là chủ yếu . Thổ Địa chức trách không cao lắm , nhưng là vị “Thần Thủ Hộ” quan trọng nhất cho công ty vậy.
Thổ Địa Công tay trái cầm “kim nguyên bảo” (vàng khối), tay phải cầm “Ngọc Như Ý” mang nghĩa là “phát tài như ý”. Cho nên Thổ Địa cũng chính là “Thần Tài” quan trọng.
Sau đó, vào ngày mùng hai và mười sáu âm lịch hàng tháng, công ty cũng phải lo việc cúng bái Thổ Địa Công đầy đủ mới tốt. Động tác ấy gọi là “Tố Nha” (tạo đầu mốt).
Việc cúng bái vào hai ngày nầy là biến thể từ tập quán xưa của nông dân, cúng Thổ Địa vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng.
http://www.phongthuychanthu.com/2018...h-quy-hoa.html
Tín ngưỡng dân gian với việc thờ Thần
Trong đời sống tâm linh người Việt thì tháng Chạp và tháng Giêng là những tháng tập trung nhiều ngày Lễ, Hội. Việc này hình thành, tồn tại từ lâu đời và mấy năm gần đây càng rộ nở bởi nó có cội nguồn từ vấn đề “tín ngưỡng” và “tôn giáo”. Tế, Lễ, Thờ, Cúng là những vấn đề nhậy cảm và không ít người tuy tham gia, đôi khi khá tích cực nhưng đâu đã hiểu hết cội nguồn, ý nghĩa của nó.
1. Trước hết về ngữ nghĩa:
Theo đa số các Từ điển thì:
Đạo (H: 道,宗敎, A: The absolute principle - The religion, P: Le principle absolu - La religion) hay Đạo lý có nhiều cách giải thích với mỗi tôn giáo khác nhau. Nhưng chung quy lại đó là một cái lẽ nhất định ai cũng phải noi đấy mà theo. Như “nhân đạo chủ nghĩa” 人道主義 cái chủ nghĩa về đạo người , “Vương đạo” 王道 đạo lý của vương giả, “bá đạo” 霸道 đạo lý của bá giả, các nhà tôn giáo đem các lẽ hay trong tôn giáo mình nói cho người biết mà theo gọi là “truyền đạo” 傳道.
Tín ngưỡng (H: 信仰, A: The religious belief, P: La croyance religieuse) là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng Việt Nam giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt Nam đều mang những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp. Đó là: Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên nên sùng bái tự nhiên; Hài hòa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời-Đất, Tiên-Rồng, ông đồng-bà đồng,...; Đề cao phụ nữ: thể hiện ở rất nhiều nữ thần như các Mẫu Tam phủ ( Trời-Đất-Nước), Mẫu Tứ phủ (Mây-Mưa-Sấm-Chớp),...; Tính tổng hợp và linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần như trong nhiều tôn giáo khác.
Tôn giáo (H: 宗敎, A: The religion, P: La religion) là một tổ chức lo việc tu hành, dạy con người làm điều lành, lánh điều dữ, hiền hòa để trở thành bậc cao thượng. Một tôn giáo cần phải có khởi xướng, gọi là Giáo chủ; có hệ thống giáo lý bao gồm tín ngưỡng và tín điều; được tổ chức thành giáo hội để truyền bá giáo lý và có một khuôn mẫu lễ nghi thờ phượng và tế tự.
Tín đồ (H: 信徒, A: Adept, disciple, P: Adepte, disciple) là người tin theo một tôn giáo và gia nhập vào tôn giáo ấy. Trong đó có Thiện nam Tín nữ (H: 善男信女, A: The believers, P: Les croyants) chỉ những nam giới, phụ nữ có tín ngưỡng tôn giáo, tức là nam, nữ tín đồ của một tôn giáo.
Trên thực tế tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Tuy cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng đều là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu nhiên”, đối lập với cái “trần tục” mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Song thực ra tín ngưỡng thì mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn và không tổ chức hặt chẽ như tôn giáo. Chỉ khi phát triển đến một mức độ nào đó thì tín ngưỡng có thể thành tôn giáo.
Do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử Việt Nam ta có những tôn giáo ngoại nhập và cả những tôn giáo bản địa. Tôn giáo ngoại nhập đông tín đồ là: Đạo Lão, Đạo giáo (H: 道教,老教, A: Taoism, P: Taoisme), Đạo Khổng, Nho giáo (H: 儒教, 儒教, A: Confucianism, P: Confucianisme), Đạo Phật, Phật giáo (zh. 佛教, sa. buddhaśāsana, pi. buddhasāsāna, bo. sangs rgyas bstan pa སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་, A: Buddhism, P: Bouddhisme), Đạo Thiên Chúa (còn gọi là Công giáo, Ki-tô giáo hoặc Cơ Đốc giáo (H: 天主敎, 公敎, A: The Christianism (Catholicism), P: Le Christianisme (Catholicisme), Đạo Tin Lành (H: 新教, A: Protestantism, P: Protestantisme). Còn tôn giáo bản địa có: Đạo Cao Đài (H: 高臺大道, A: The Great Way of Caodaism, P: La Grande Voie du Caodaisme), Đạo Phật Hòa Hảo 和好教.
Trong tín ngưỡng dân gian thì việc thờ Thần (H: 神靈, A: The spirits, P: Les esprits, các Đấng thiêng liêng trong thế giới vô hình) và thờ cúng Tổ tiên (H: 祖宗, A: The ancestors, P: Les ancêtres) của người Việt gần như được nâng lên thành tôn giáo và rất được người Việt chăm lo, cẩn trọng. Vấn đề Thờ cúng Tổ tiên còn được gọi là “Đạo Ông Bà” thì ai cũng rõ và đã từng được phổ biến nhiều trên sách báo và cả trang này nhưng còn việc thờ Thần thì chưa được tìm hiểu thấu đáo và phổ biến nhiều.
2. Thờ Thần trong tín ngưỡng dân gian của người Việt:
Thờ Thần 神 là tín ngưỡng như là một “đạo thuần Việt”, khởi nguồn từ người Việt cổ và luôn đồng hành cùng dân tộc.
Từ thủa sơ khai, người Việt tin là có thần linh ở khắp mọi nơi, mọi chốn và họ thờ phụng tất cả các sức mạnh ấy. Do vậy mới có Thần Núi, Thần Sông, Thần Đất, Thần Bếp…Đạo thờ Thần không có giáo chủ, không có giáo điều cũng tương tự như đạo thờ cúng tổ tiên về ngôi vị thờ và nghi lễ cúng bái. Một số vị thần linh trong nhà, trong làng và các vị thần chung mà người Việt thờ cúng:
2.1. Thổ Công:
Táo quân (H: 灶君 - 灶王, A: The genii of kitchen, P: Les génies du foyer) là vua bếp, tức là vị Thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà.
Thổ Công-Thổ Địa-Thổ Kỳ (H: 土公 - 土地 - 土祇, A: The Genii of the home, P: Les Génies de la maison) là ba vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất, là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Một số giả thuyết cho rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện sự tích Táo Quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng mới là Thổ Công (trông coi việc bếp núc, còn gọi là “vua bếp”), người chồng cũ là Thổ Địa (trông coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà
Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình, nhằm tránh hồn ma quỷ xâm nhập quấy nhiễu gia chủ. Tổ tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai. Bàn thờ Thổ Công gồm một hương án kê sát tường. Trên hương án có một mâm nhỏ, ba đài rượu có nắp đậy; phía trước là bình hương hoặc đỉnh trầm; hai bên bình hương là đôi nến; đằng sau là bài vị Thổ công. Bài vị có thể là một cái mũ (có thể là 3 cỗ mũ – mũ có cánh chuồn dán trên một bộ áo và đôi hia), ghi đủ danh vị 3 ngài là: “Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ Phúc đức chính thần” hay ghi gọn là 定福灶君”Định phúc Táo quân”. Hai bên bài vị có đôi câu đối 有德能司火, 無私可達天 “Hữu Đức năng ti Hỏa, Vô tư khả đạt Thiên”. Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải về với đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra).
Người Việt cúng Thổ công vào những ngày giỗ tết, sóc, vọng. Lễ cúng tùy theo gia chủ. Có thể là chay hay mặn và khấn đủ danh vị 3 ngài nói nôm na là Ba vị Táo. Khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.
Những gia đình không lập bàn thờ riêng thì ngày 23 Chạp có cúng. Có thể đủ 3 bộ hay chỉ 1 bộ của Thổ công. Mầu mũ hia thay đổi từng năm: năm hành Kim (Canh, Tân) mầu vàng; Mộc (Giáp, Ất) mầu trắng; Thủy (Nhâm, Quý) mầu xanh; Hỏa (Bính, Đinh) mầu đỏ, Thổ (Mậu, Kỷ) mầu đen. Nhưng thực tế, ngày nay đồ vàng mã ngày càng nặng về lòe loẹt, mấy ai chú ý đến mầu phù hợp cho từng năm! Khi cúng xong hóa kèm cả cá vàng.
2.Thần tài
Thần tài (H: 神財, A: The Genius of fortune , P: Le Génie de fortune) là vị thần mang tài lộc đến cho gia đình và bàn thờ thường được thiết lập ở nơi xó xỉnh góc nhà hàng hiên. Tục thờ Thần tài được người Tàu truyền cho dân ta, với nhiều sự tích nhưng dân gian thường nhắc hai sự tích: một cô gái tên là: Như Nguyện ở hồ Thanh Thảo; là ông Triệu Công Minh ở núi Võ Đang. Khi thờ Thần tài, người Việt sáp nhập Thần tài vào các Thần bản gia như: Thổ địa, Ông Địa, Ông Táo.
Nơi thờ Thần tài là một chiếc khám nhỏ có dán bài vị bằng giấy hay kính đỏ, chữ nhũ vàng có đề các chữ sau:
- Bên trên vẽ một cái cổng mà hai trụ có rồng quấn, trên cổng có chữ: 聚寶堂 “TỤ BẢO ĐƯỜNG”, nghĩa là ngôi nhà có tụ lại những thứ quí báu, phía dưới có vẽ một cái TỤ BẢO BỒN là cái chậu huyền diệu chứa của báu.
-Hai hàng chữ lớn ở chính giữa là danh hiệu của các Thần bản gia thờ: 五方五土龍神 (Ngũ Phương ngũ Thổ Long thần, tức: Hoàng đế ở Trung ương, Bạch đế ở hướng Tây, Hắc đế ở hướng Bắc, Thanh đế ở hướng Đông, Xích đế ở hướng Nam, Thổ Công chủ nền nhà, Thổ Thần chủ khu đất, Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà, Thổ Phủ bảo hộ các kho hàng và Thổ Kỳ cai quản mặt đất nói chung); 前後地主財神 (Tiền hậu địa chủ Tài thần, tức Thần tài chủ đất trước kia và Thần tài chủ đất hiện nay); quanh hai dòng này là các chữ 招財 ( Chiêu tài: mời gọi tiền của), 進寶 (Tiến bảo: dâng hiến bảo vật), 如意吉祥 (Như ý cát tường: tốt lành như mong muốn), 一帆風順 (Nhất phàm phong thuận: thuận buồm xuôi gió), 四季平安 (Tứ quí bình an: bốn mùa bình an).
- Hai bên khám có đôi câu đối: 土能生白玉 (Thổ năng sinh Bạch ngọc, Đất thường sanh ngọc trắng) 地可出黃金 ( (Địa khả xuất Hoàng kim, Đất khá xuất vàng ròng). Ngoài bài vị Thần Tài còn có: tượng Ông Địa và tượng Ông Thần Tài. Trong khám còn có đèn nến, ly nước, ly rượu, mâm bồng đặt hoa quả bánh kẹo. Việc cúng Thần tài thực hiện quanh năm, đặc biệt những ngày giỗ, tết, sóc, vọng, mỗi dịp xuất vốn làm ăn buôn bán. Khi đó gia chủ thắp hương, khấn vái cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc.
2.3.Tiên sư, Thánh sư hay Nghệ sư
Là thờ người có công lớn đối với một nghề nào đó hoặc giúp phát triển hoặc sáng tạo ra nghề đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập. Đây chính là đạo “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt. Bàn thờ này được đặt ở bên cạnh bàn thờ Gia tiên, phía bên kia là bàn thờ Thổ công. Bài vị của Thánh sư có thể là một bức ảnh của vị Thánh sư.
Ngoài những ngày giỗ tế, người ta cúng Thánh sư vào kỵ nhật của Thánh sư; để nhớ ngày qua đời của ông tổ nghề của mình.
2.4.Tiền chủ
Là việc thờ chủ cũ 前主 của ngôi nhà để cầu mong vong hồn họ khỏi về quấy rối. Bàn thờ là cây hương đặt ngoài sân, không có bài vị. Cúng vào ngày 01, rằm với hương hoa quả. Khi khấn chỉ cần “Bản gia tiền chủ”.
2.5. Thờ Quan Công, Thần Hổ, Sơn thần, Mộc tinh:
Nếu thờ Thần Hổ có thể thờ Bạch Hổ hay Ngũ Hổ và khi cúng phải có thịt sống hoặc trứng sống. Khi còn ở quê tôi thấy nhà Cậu Cả, anh trai Mẹ tôi có thờ thần Hổ.
2.6.Thành hoàng làng:
Thành hoàng Thần (H: 城隍神, A: The tutelary spirit of a city, P: Le génie tutélaire d'un cité) là vị Thần có trách nhiệm ủng hộ (về phương diện thiêng liêng) dân chúng sống trong một cái thành, trong một thị trấn, hay trong một vùng dân cư. Nếu Thành hoàng ủng hộ dân chúng trong một làng, một xã thì gọi là Thần hoàng bổn cảnh (H: 神隍本境, A: The tutelary Genius of a village, P: Le Génie tutélaire d'un village) tương tự như việc thờ tổ tiên và Thổ Công trong mỗi gia đình.
Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng, xã đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ những người lý lịch không “hay ho” gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp... nhưng họ chết vào “giờ thiêng”. Những vị này được triều đình xem xét, Vua (đứng vào hàng Thánh nên có quyền phong Thần cho các bề tôi có công lớn) ban sắc chỉ cho làm Thành hoàng trong địa phương đó, để phù hộ dân chúng trong làng ấy và hưởng được cúng tế của dân làng. Việc phong Thần nầy phù hợp lòng dân, vừa thúc đẩy nhân tài ra giúp nước, lập công với triều đình.
2.7. Tứ bất tử:
Tứ bất tử (H: 四不死, A: The four immortals, P: Les quatre immortels) là Bốn vị thánh bất tử mà tiếng tăm tốt vẫn lưu truyền mãi mãi trong cõi nhân gian từ đời nầy qua đời khác, gồm: Tản Viên (biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội), Thánh Gióng (biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm), Chử Đồng Tử (biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất) và Liễu Hạnh (biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần). Nhưng có ý cho rằng đó là bốn bậc không bao giờ chết, là: Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Như vậy, tuy không có giáo chủ, giáo lý, giáo hội nhưng tín ngưỡng dân gian hình thành và tồn tại cùng dân tộc, nó có sức mạnh lớn lao. Trong đó việc thờ Thổ Công và Thờ cúng Tổ tiên là phổ cập nhất. Đây là những tập tục gần như trở thành tôn giáo của người Việt. Mặc dù theo hay không theo một tôn giáo nào nhưng mọi gia đình Việt đều quan tâm và trân trọng việc thờ cúng này. Trong điều kiện hiện đại, tuy có những biến đổi mới nhưng những gì tốt đẹp, chắt lọc qua bao đời vẫn chứng tỏ được sức trường tồn của nó. Những cán bộ (như anh em tôi chẳng hạn) tự ghi trong lý lịch là không theo tôn giáo nào nhưng ai mà không nhớ ngày giỗ của Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, ai mà không cúng Ông Táo Ông Công ngày 23 tháng Chạp tới, ai chưa từng vãng cảnh Đền, Phủ, Miếu?
Đáng buồn là việc thờ Thần ngày nay có xu hướng “thương mại hóa” và tốn kém không ít tiền của, đâu còn nét nguyên sơ đầy tính nhân văn vốn có.
(Lương Đức Mến biên soạn từ nhiều nguồn tham khảo, dùng trong Gia tộc)
http://holuongduclaocai.blogspot.com...-tho-than.html
Quả Chuối
POSTED ON 16/04/2015 BY TRẦN TUẤN THANH
https://namnguyenduoc.com/wp-content...ng-610x462.jpg
Tên khoa học Quả Chuối
Tên Hán Việt: Hương Tiêu 香蕉
Tên khoa học: Musa Paradisiaca L
Tên ngoại quôc: Banana.
Tên Malay: pisang
Tên khác: Khung tiêu, Hương Nha Tiêu, Tiêu Tử, Tiêu Qua.
Họ: Chuối. Musa
Tính Vị: Ngọt, Sáp Hàn.
Toàn thân chuối tác dụng y học
Thanh nhiệt giải độc, Lợi niệu tiêu thủng, an thai, tiết dịch âm đạo, động thai, chữa viêm, thấp khớp, bệnh tiểu đương, hạ huyết áp,
Trái chuối chưa chín có tác dụng cầm và chữa tiêu chảy.
Nước ép của quả chuối có công dụng như 1 loại thuốc giải độc rắn cắn.
Các công dụng khác như chữa hen suyễn, bỏng, tiểu đường, bệnh lỵ, kinh nguyệt quá nhiều,
Lá chuối được sử dụng điều trị ho và viêm phế quản.
Rể có thể cầm ho ra máu và cá tác dụng cầm máu mạnh mẻ.
Vỏ và cuống Trị áp huyết cao.
Chuối có ít cho trẻ con và người lớn bị suy nhược còi cọc.
Giúp cho hệ xương cốt sinh trưởng tốt, dưỡng sức cho người già và người lao động trí óc.
Chuối có thể ăn theo khẩu phần hằng ngày.
Phân Bố
Chuối là 1 trong những loại cây được trồng nhiều nhất trên thế giới trên 107 quốc gia. Có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay nó được trồng khắp vùng nhiệt đới.
Mặc dù những quả chuối dại có nhiều hột lớn và cứng, nhưng hầu hết loại chuối được buôn bán để ăn thiếu hột có hai loại chuối cơ bản: các dạng chuối tráng miệng có màu vàng và được ăn khi chín, còn các loại chuối nấu được nấu khi còn màu xanh.
Hầu hết chuối được xuất khẩu thuộc về loại đầu tiên. Tuy nhiên, chỉ khoảng 10–15% tổng sản lượng chuối được xuất khẩu. Hoa Kỳ và các nước trong Liên minh châu Âu nhập khẩu chuối nhiều nhất.
Thực vật học
Cây chuối thuộc về họ Chuối. Nó được trồng chủ yếu để lấy trái cây của nó, và ở mức độ ít hơn là thân và để trang trí.
Vì cây thường mọc lên cao, thẳng, và hơi vững, nó thường bị lầm lẫn với thân cây thật, trong khi “thân” chính của nó là một “thân giả” (tiếng Anh: pseudostem).
Thân giả của một số loài có thể cao tới 2–8 m, với lá kéo dài 3,5 m. Mỗi thân giả có thể ra 1 buồng chuối màu vàng, xanh, hay ngay cả màu đỏ, trước khi chết và bị thay bằng thân giả mới.
Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới 20 quả, và mỗi buồng có 3–20 nải.
Các nải nhìn chung gọi là một buồng, nặng 30–50 kg.
Một quả trung bình nặng 125 g, trong số đó vào khoảng 75% là nước và 25% là chất khô.
Mỗi quả riêng có vỏ dai chung quanh thịt mềm ăn được. .
Vỏ và thịt đều ăn được ở dạng tươi hay đã qua chế biến (nấu).
Những người phương Tây thường ăn thịt chuối còn tươi và vứt vỏ, trong khi một số nước Á Đông nấu rồi ăn cả vỏ và thịt.
Quả chuối thường có nhiều sợi (gọi là bó libe) nằm giữa vỏ và thịt. Chuối chứa nhiều vitamin B6, vitamin C và kali.
Công dụng của chuối trên thế giới
Ở Ấn Độ người ta dùng chuối xanh phơi khô tán bột làm thuốc chữa tiêu chảy cấp và mãn tính, và các bệnh về viêm đường ruột, loét dạ dày.
Y học dân gian việt nam còn dùng củ chuối giã lấy nước uống chữa chứng phiền khát, chữa phổi nhiệt, chữa chứng người sưng tấy lên vì nhiệt. dùng ruột cây chuối già đâm nhuyễn đắp vào vết thương để cầm máu.
Ở Nhật Bản người ta khuyến cáo mọi người một ngày mỗi người nên ăn 1 hoặc 2 trái chuối thật chín. Vì ăn Chuối chín làm tăng số lượng tế bào máu trắng, đẩy mạnh sức miễn dịch của cơ thể và sản xuất ra chất chống ung thư, đễ tăng sức miễn dịch của cơ thể chống lại các bệnh như cảm lanh, cúm và những bệnh khác
Theo một nghiên cứu gần đây của hội MIND ( Association for Mental Health) nhiều người bị bệnh trẩm càm thấy dễ chiụ hơn sau khi ăn một trái chuối. Đó là vì trong chuối có chất trytophan, một loại protein mà cơ thể chuyển hoá thành chất serotonin có tính chất làm thư giãn, tăng cường hưng phấn, và làm cho con người ta cảm thấy hạnh p húc hơn.
Chuối chứa nhiều chất sắt nên có thể kích thích sự sản xuất huyết cầu tố trong máu và do đó giúp trị bệnh thiếu máu.
Đắp mặt trong vỏ chuối vào mụn cóc, rồi dùng băng keo dán lại , sau một thời gian mụn cóc sẽ mất!
Kali là một chất khoáng rất cần thiết giúp bình ổn chứng ợ nóng, đưa oxy lên não và điều chỉnh lượng nước cân bằng trong cơ thể. Chất potassium trong chuối sẽ giúp lập lại quân bình.
Công thức làm mặt nạ từ chuối:
1 trái chuối chín
1 muỗng canh mật ong
1 lòng đỏ trứng
1 muỗng cà phê dầu mầm lúa mì
1 muỗng canh tinh bột yến mạch
1 muỗng cà phê nước cốt chanh
1 giọt tinh dầu hoa hồng cần thiết
Cách Thực Hiện
Gọt vỏ và ngâm chuối.
Thêm mật ong, lòng đỏ trứng, dầu mầm lúa mì, yến mạch,
Nghiền hổn hợp để tạo thành một dán kem mịn.
Thêm các loại tinh dầu cuối cùng, và khuấy trộn đều.
Để sử dụng
Áp dụng để làm sạch mặt và cổ, tránh vùng mắt và miệng.
Nghỉ ngơi trong 10 phút, hoặc lâu hơn nếu da của bạn rất khô. Rửa sạch bằng nước ấm.
quả chuối
quả chuối
Công dụng khác của quả chuôi (news .zing .vn)
Áp lực động mạch ổn định
Chuối giúp cải thiện và phòng ngừa bệnh huyết áp cao bởi thực tế, chúng chứa khoảng 420 mg kali.
Kali giúp điều hòa cân bằng nước và điện giải, giúp duy trì hoạt động bình thường của hệ tim mạch, cơ bắp, hệ tiêu hóa, bài tiết. Mặt khác, kali còn giúp giảm huyết áp hiệu quả.
Giảm chất béo dư thừa
Chuối rất giàu chất xơ, làm cho bạn không còn cảm giác đói. Chuối cũng có chứa loại tinh bột làm giảm sự thèm ăn và ngăn cơ thể tăng cân.
Chuối làm giảm lượng đường trong máu và tăng sự nhạy cảm của cơ thể với insulin. Nếu tế bào của cơ thể không nhạy cảm với insulin, chúng ta không thể hấp thụ glucose, và tuyến tụy bắt đầu sản sinh ra insulin với số lượng lớn hơn. Cơ thể càng tiết ra nhiều insulin, bạn càng tăng nguy cơ béo phì và mắc bệnh tiểu đường.
Giảm nguy cơ thiếu máu
Tac dung khi an hai qua chuoi moi ngay hinh anh 1
Chuối chứa rất nhiều dưỡng chất lành mạnh cho cơ thể. Ảnh: Brightside.
Thiếu máu gây ra cảm giác lờ đờ, mệt mỏi và khó thở. Đó là kết quả của việc giảm tế bào hồng cầu và nồng độ hemoglobin trong máu thấp.
Chuối chứa rất nhiều sắt, kích thích sự sản sinh ra các tế bào hồng cầu. Loại quả này cũng có chứa vitamin B6, thành phần giúp điều chỉnh lượng đường trong máu, giúp ích rất nhiều cho người thiếu máu.
Chuối chứa rất nhiều dưỡng chất lành mạnh cho cơ thể. Ảnh: Brightside.
Cải thiện hệ tiêu hóa
Chuối dễ tiêu hoá và không gây kích ứng đường tiêu hóa. Tinh bột kháng có nhiều trong chuối không bị tiêu hóa và được giữ lại trong ruột già, thúc đẩy lợi khuẩn. Vì vậy, chuối rất tốt cho người bị viêm dạ dày và ợ nóng, giúp khôi phục lại các chất khoáng bị mất cho người mắc bệnh tiêu chảy.
Giảm căng thẳng
Chuối chứa tryptophan, chất được cơ thể chuyển hóa thành serotonin – “hormone hạnh phúc” – giúp điều chỉnh tâm trạng, giảm căng thẳng và tức giận.
Trung bình, mỗi quả chuối cũng chứa khoảng 27 mg magiê. Khoáng chất này có tác dụng tạo ra một tâm trạng thoải mái và ngủ ngon.
Tăng cường vitamin
Tac dung khi an hai qua chuoi moi ngay hinh anh 2
Chuối chứa lượng vitamin C không hề kém cạnh so với dâu tây hay cam. Ảnh: Crop Trust.
Chuối rất giàu vitamin B6. Trung bình, một quả chứa khoảng 20% nhu cầu hàng ngày của bạn về vitamin B6. Điều này giúp cơ thể sản sinh ra insulin, hemoglobin và các axit amin cần thiết cho việc duy trì tế bào khỏe mạnh.
Mặc dù chúng ta thường nghĩ rằng cam và dâu tây chứa lượng vitamin C lớn nhất, nhưng sự thực là chuối chứa 15% nhu cầu vitamin C hàng ngày của cơ thể.
Vitamin C là một chất chống oxy hóa quan trọng, trung hòa các gốc tự do gây hại. Nó cũng giúp giữ cho mạch máu khỏe mạnh và tạo ra collagen.
Bổ sung năng lượng
Kali có trong chuối bảo vệ cơ bắp của bạn khỏi chuột rút, trong khi carbohydrate rất giàu có trong loại hoa quả này cung cấp cho bạn đủ năng lượng để trải qua một bài tập nặng.
https://namnguyenduoc.com/dong-y/thao-duoc/chuoi/
https://scontent.fsgn5-1.fna.fbcdn.n...91&oe=603CA783
https://i.imgur.com/l72clEN.jpg
https://www.upsieutoc.com/images/202...61006336_n.jpg
THẦN-TÀI CHƠN NGÔN / ĐỊA-TÀI CHƠN NGÔN / ĐỊA-CHỦ CHƠN NGÔN / ĐỊA-CHỦ TÀI-THẦN CHƠN NGÔN / THỔ-ĐỊA-TÀI-THẦN CHƠN NGÔN / THỔ-THẦN CHƠN NGÔN
( 神財真言 - 神财真言/ 地財真言 - 地财真言 / 地主真言 / 地主財神真言 - 地主财神真言 / 土地財神真言 - 土地财神真言 / 土神真言 )
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
. 南摩三滿哆布馱南: 布米帕第梭哈 / 布米帕第娑婆诃
. Nam-mô tam mãn, đa một đà nẫm: Bố-Mễ-Phạ-Đệ Tóa-ha / Bố-Mễ-Phạ-Đệ Sa-Bà-Ha
. NAMAH SAMANTA-BUDDHĀNĀM: BHŪMIPATI SVĀHĀ
======================
https://i.imgur.com/pqONupM.png
https://www.upsieutoc.com/images/2021/01/31/T.png
BHŪMIPATI SVĀHĀ
『地主』Bhumipati。
Chuyển luân vị (Chủ nhân mặt đất) – sa bdag, Phạn: bhumipati, một tinh linh chiếm cứ một địa điểm.
(*)Cước Chú:
*Theo " Bộ Đồ Tượng " của Cố HT.Kiến Châu dịch:
ĐỊA-THIÊN cũng là Hoan-Hỷ-Thiên ở Trung-Ương Chánh-Điện của TỲ-SA-MÔN Thiên: BHUS'IHAJI SVAHA ( Hoan-Hỷ-Thiên là 1 tên gọi khác của Ngài ĐỊA THẦN - ĐỊA THIÊN, chứ đích thật ra KHÔNG phải là Ngài Hoan-Hỷ-Thiên - GANAPATI )
http://www.phatphapthuchanh.com/show...id=1&styleid=2
https://blog.xuite.net/etazen888/twblog/145829760
http://shengmiao.cn/bbs/forum.php?mo...ead&tid=155056
http://blog.sina.cn/dpool/blog/s/blo...v0zo.html?vt=4
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page27
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A1p/page53
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A1p/page54
左将军黄仙良方
Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương (tên gọi dân gian là xăm thuốc)
Xăm thuốc cứu người !
Chủ Nhật, 20/1/2013 06:38 GMT+7
Đầu Xuân năm mới, người đi lễ thường xin những quẻ xăm để dự đoán về công danh, tài lộc, vận may trong năm mới. Nhưng ít ai biết rằng còn có một loại xăm hết sức đặc biệt khác, đó là Xăm Thuốc. Khu di tích Lịch sử cấp quốc gia Lăng Ông Bà Chiểu nằm bên cạnh chợ Bà Chiểu, quận Bình Thạnh TPHCM. Là một trong những nơi còn lưu truyền tục lệ này, với những câu chuyện tưởng như đùa...
Đầu Xuân năm mới, người đi lễ thường xin những quẻ xăm để dự đoán về công danh, tài lộc, vận may trong năm mới. Nhưng ít ai biết rằng còn có một loại xăm hết sức đặc biệt khác, đó là Xăm Thuốc. Khu di tích Lịch sử cấp quốc gia Lăng Ông Bà Chiểu nằm bên cạnh chợ Bà Chiểu, quận Bình Thạnh TPHCM. Là một trong những nơi còn lưu truyền tục lệ này, với những câu chuyện tưởng như đùa...
https://photo-cms-baophapluat.zadn.v...98__ng_x_m.jpg
xăm
quẻ xăm
Thỉnh ý thần linh
Ngày xưa khách thập phương đến viếng Lăng muốn biết trước thời vận thì có thể xin xăm tại Nhà Hương, Trung điện hoặc Tây điện. Bên vách tường có giá treo các ống tre, bên trong chứa những thanh tre vót mỏng đánh số từ 1 đến 100.
Sau khi hành lễ , khách bắt đầu kính cẩn đưa ống xăm lên lắc cho đến khi chỉ có một thẻ rơi ra. Sau đó kiểm tra lại bằng cách xin keo là ném hai miếng gỗ nhỏ hình bầu dục. Khi đạt một xấp một ngửa là chắc chắn mình được quẻ xâm ấy rồi lạy tạ và ra phòng ngoài thỉnh xâm.
Loại xăm này là Xăm Thường có tên là Tướng quân Linh Sám, gồm 100 lá. Xăm có nội dung cho biết Thần ý về bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bệnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo và mất trộm…Xăm Thường được chia làm 3 loại, Thượng, Trung và Hạ. Xăm Thượng là loại tốt nhất gồm 38 lá màu đỏ. Xăm Trung là loại trung bình có 50 lá màu cam. Xăm Hạ là loại không tốt có có 12 lá màu vàng.
Theo các vị cao niên và kinh nghiệm của các thầy bàn xăm cho biết: Màu sắc hay số của quẻ xăm không quan trọng. Nội dung câu chữ thể hiện Thần ý trong xăm mới là đáng lưu tâm nhất. Các thầy bàn giải mã được những câu chữ đầy ẩn dụ trong quẻ mới có thể giúp người xin hóa giải được những vấn đề mong muốn của mình….
Loại xăm thứ hai rất độc đáo và chỉ có ở Lăng Ông thời trước đó là Xăm Thuốc, có tên là Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương. Xăm Thuốc gồm 100 lá đánh số theo thứ tự. Xăm chỉ có một màu vàng, nội dung không phân biệt tốt xấu. Xăm Thuốc cho biết thần ý về mọi loại bệnh tật. Ngày trước người vào lăng để xin thường là những phụ nữ cầu con, cầu an dưỡng thai, các học trò cầu thông minh sáng suốt để học hành thi cử và nhiều trường hợp bệnh nan y hay người bị tai nạn bất ngờ…
Thoát chết nhờ xăm thuốc
Người có cơ duyên kỳ lạ được cứu mạng bằng bài xăm thuốc là ông Lê Văn Nở năm nay 72 tuổi. Ông Nở kể: Cách đây khoảng 60 năm, dân cư vùng này đa số ở nơi khác đến lập nghiệp. Sản vật quanh vùng trù phú lắm nhưng cuộc sống vẫn rất khó khăn nhất là việc khám chữa bệnh. Quanh lăng có nhiều ao hồ lớn, tôm cá, cây trái ngút ngàn.
Năm đó ông 12 tuổi, trong một lần cùng đám bạn chạy chơi đùa nghịch. Giữa trưa hè ông hái và ăn trái sabôchê. Do mải đùa, ông hóc phải hột, trôi vào nằm chẹn ngang cổ. Nghẹt thở, ông sợ quá chạy về nằm mẹp trong nhà. Không ăn uống được gì, nhưng vì sợ cha mẹ la rầy nên ông cố giấu.
Đêm hôm đó, hạt sabôchê lại làm khổ ông. Mỗi khi khi chuyển động cổ họng lại đau thắt, hai mắt ông cứ trợn trừng, nước giãi chảy ra đầy mép, đau và nghẹt thở đến mức ông đã vài lần ngất lịm. Cho đến sáng khi được mẹ phát hiện thì người ông đã mềm nhũn…Vừa đúng lúc ông ngoại sang chơi, thay vì được đưa đi bệnh viện thì ông ngoại lại bế ông đi thẳng vào Lăng…
Ông ngoại đặt ông nằm trước Trung điện rồi kính cẩn đốt nhang khấn vái ngài Tả quân. Sau đó ông bắt đầu lắc ống xin quẻ. Quẻ xăm thuốc xin được có tên “Ngưu hoàn” nội dung lá xăm toàn bằng chữ Hán, phải nhờ đến các thầy bàn đọc và giải nội dung.
Quẻ khuyên hốt thuốc theo các vị kê trong xăm đồng thời bới trong tro của chiếc lư hương lớn trước điện tìm đủ 7 hòn sỏi nhỏ, mang về bỏ vào sắc chung với thuốc. Liền đó ông ngoại của ông ra tiệm thuốc Bắc hiệu Hai Con Gà Tre gần chợ Bà Chiểu hốt thuốc và thực hiện đúng như hướng dẫn.
Trong khoảng thời gian này, ông Nở vẫn liên tục bị cơn đau hành hạ khó thở và chốc chốc lại lên cơn co giật. Thuốc sắc xong, ông được người nhà banh miệng đổ vào. Thuốc thấm thì ông liền thiếp đi, ngủ mê man, không biết gì.
Đến nửa đêm, ông thấy quanh mình nóng như lửa đốt, giật mình mở mắt ra ông thấy chỗ đang nằm sáng rực. Ông bật dậy, lên cơn ho rồi ói như mưa, hạt sa bô chê văng ra ngoài. Cả nhà chạy vào, lượm được cái hạt sabôchê hai đầu nhọn hoắt đã biến màu và mềm oặt…
Hôm sau, ông đã khỏe mạnh bình thường và được ông ngoại dẫn vào Lăng lễ tạ. Từ đó ông Nở phát nguyện sẽ luôn làm việc thiện giúp người và khi đủ cơ duyên ông đã xin về làm công quả hầu chuông để tạ ơn ngài.
Ông Nở tâm sự: Vì là người được cứu mạng cho nên tôi biết sự kỳ diệu của những lá xăm này. Rất tiếc là sau một thời gian dài với nhiều biến cố lịch sử, đến nay những lá xăm thuốc của lăng đã thất lạc hết.
Ngày nay với nền Y học phát triển vượt bậc và các phương tiện khám chữa bệnh hiện đại, thì những quẻ xăm thuốc đã lùi sâu vào quá khứ là tất nhiên. Tuy vậy, ông Nở vẫn cất công tìm đến các hiệu thuốc Bắc ngày trước để hỏi xin các lá xăm mà mỗi khi hốt thuốc thường được lưu lại.
Đó là tiệm Hai Con Gà Tre, tiệm Vạn Xuân Đường biểu tượng Hai Con Rít ở đường Vũ Tùng gần chợ Bà Chiểu và vài tiệm thuộc vùng Chợ Lớn, quận 5 nhưng tất cả theo thời gian cũng đều bị thất lạc hết…
Ông Nở rất buồn, vì không thể tìm lại được những lá xăm từng là niềm hy vọng của nhiều người. Ngoài những điều kỳ diệu rất tâm linh, thì đó còn là những dấu tích văn hóa đậm nét và rất quý giá chứa đựng nhiều thông tin lịch sử của một thời. Đó chính là nguồn tư liệu trực tiếp và độc đáo mà các nhà nghiên cứu có thể khai thác và sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác…
Hoàng Hùng Dũng
https://baophapluat.vn/song-khoe/xam...oi-166177.html
Bàn về xin xâm đầu năm
Xin xâm là dạng bói toán có xuất xứ từ ...Tàu
Xâm chữ Hán là 籤 (thiêm )
Thiêm (籤) là cái thẻ tre mà đình chùa dùng để cho người xốc lên xem xấu tốt.
Người Nam Kỳ kêu là xâm từ chữ “sám” của tiếng Quảng Đông
Ta có “trừu thiêm” 抽籤 là rút xăm, “cầu thiêm” 求籤 là xin xăm
Xin xâm là dạng bói toán giải đáp cho những thắc mắc về tương lai của bá tánh trong năm mới
Như vầy,ngày nay có cách bói toán in trên giấy,có bói trên mạng ,vậy xâm là dạng bói toán viết trên thẻ tre
Người bình dân rất thích xâm vì nó dễ hiểu
Ngày xưa có 49 thẻ xăm cả thảy,sau con người hỏi nhiều nên nó từ 49 thẻ thành 64 thẻ theo Dịch quái, rồi thành 100 thẻ để dự đoán thế sự
Tại Sài Gòn mình xin xâm nổi tiếng nhứt là ở Lăng Ông Bà Chiểu ,tức lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt
Xâm ở Lăng Tả Quân có tên là Tướng Quân Linh Sám (xâm thường) và Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương (xâm thuốc)
Ngày nay chỉ thấy có Tướng Quân Linh Sám
Tướng Quân Linh Sám gồm có 100 lá xâm, đánh số từ 1 tới 100 hỏi về bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bịnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo và mất trộm
Có 3 loại:
-Xâm thượng, màu đỏ ,là tốt
-Xâm trung, màu cam
-Xâm hạ, màu vàng tươi, là loại ...xấu
Xâm thượng có 38 lá từ:
1,2,7,8,9,10,11,19,21,22,24,30,32,40,45,50,54,55,5 7,58,60,64,65,66,68,69,74,78,79,80,87,89,92,93,97, 98,99,100
Xâm trung 50 thẻ từ
3,5,12,13,16,18,20,23,26,27,28,29,31,33,34,35,36,3 7,39,41,42,43,44,46,48,51,52,53,56,61,62,63,67,71, 72,73,75,76,77,81,82,83,84,85,86,88,90,91,94,95.
Xâm hạ (Hung-xấu) có 12 thẻ:
4,6,14,15,17,25,38,47,49,59,70,96
Tức là có 12 lá thẻ là xấu thôi
Trên lăng Ông có những ống đựng thẻ xâm và hai cục cây hình nữa cái hột vịt
Trước khi xin xâm bạn phải xin keo ,là xin quẻ âm dương
Lạy ba lạy,sau đó cầm 2 miếng cây úp lại dưa lên đầu rồi quăng xuống chiếu
Hai miếng cây này phải có một cái sấp một cái ngữa mới đặng
Nếu nó sấp hết hoặc ngữa hết thì bạn phải khấn lại từ đầu
Hạn trong ba lần gieo âm dương, nếu không được sấp ngữa tức là thiên cơ và Tả Quân không cho ,bạn phải chờ tháng sau mới được xin lại
Sau khi gieo âm dương sấp ngữa thì bạn lấy ống xâm ,hai tay nâng ống xăm quá đầu để xốc cho đến khi có một thẻ văng ra ,nếu ra hai hoăc ba thẻ thì không tính, phải xốc lại,cũng được 3 lần
Sau đó coi thẻ số mấy,ra ngoài Tây Lang kiếm tờ giải đáp lá xâm của mình
Có những bạn được xâm thương thì cười toe toét,hên trong năm.Nhưng lỡ đụng xâm hạ thì ...méo mặt ,ám ảnh
Tuy nhiên có cách hóa giải,bạn cứ lấy lá xâm hạ đó đem ra mộ Tả Quân đốt và vái rằng “Xui qua,xui qua”
Thiệt ra ngày Tết người ta tâm lý lắm,đem giấu mất biệt 12 thẻ xâm hạ ,thành ra bá tánh không ai xui hết
Xin xâm là dạng “bói’ vui ngày Tết ,nó mang tính chất hên xui,thành ra bạn đừng để tâm trí vô nó quá
Chuyện Trời Đất là căn nguyên,là số phận từng cá nhơn đã có lá sớ lưu lại trên ...Trời lận,thành ra xâm không nói lên được cái gì
Xin xâm là dạng vui Xuân mà thôi
Bạn nên nhớ câu này :
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
(Nguyễn Gia Việt)
https://www.facebook.com/Saigontrong...8588212136497/
先 姑 先 友 之 神 位 : Tiên Cô Tiên Hữu Chi Thần Vị
“Tiên cô tiên hữu nam chư thần vị “
https://dangnho.com/kien-thuc/phong-...n-tho-dia.html
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/...vUUtRZy9nQSEh/
===============
=> 先 姑 先 友 之 神 位 : Tiên Cô Tiên Hữu Chi Thần Vị
https://i.imgur.com/fZSdjcy.png
https://www.upsieutoc.com/images/2021/01/31/SAFWA.png
https://m.facebook.com/Gwongdungjan/...?locale2=ar_AR