cảm ơn bác vinhl rất mong được trao đổi với bác về môn kỳ môn này
trên thực tế bây h ở việt nam tìm được 1 người có đủ say mê để trao đổi nghiên cứu đã là khó chưa nói đến những người giỏi về môn này để mà
Printable View
chào sonnh,
như bạn nói là chưa hiểu được quy luật của thuật Kỳ môn độn giáp này? vì đọc sách cảm thấy khó hiểu như nội dung trong sách đã viết.
hay cho rằng nó không có quy luật logic toán học?
bạn chỉ là giả thuyết nếu mọi thứ rõ ràng có thể lập trình được?
Đó là giả thuyết của của bạn nhưng là thực tế đối với người khác vì đã "toán học hóa" được nó và lập được công thức.
việc lập được bằng máy tính chẳng qua cũng là giúp nhanh các thao tác "bấm tay" tính toán của người xưa thôi.
Vấn đề còn lại vẫn là con người, tùy thuộc vào khả năng luận giải của mọi người.
Có thể do bạn mới thấy Kỳ Môn Độn Giáp được "toán học hóa" nên thấy làm lạ chăng?
nhìn lại tử vi xem, hơn 15 năm trước cũng đã lập trình được rồi, nhưng điều đó có giúp được nhiều hơn giỏi tử vi hơn không? chắc chắn là không? vì trình độ giỏi hay dỡ của ông thầy vẫn không phải phụ thuộc vào máy tính.
mỗi người đều có cái thú đam mê riêng, người đam mê về cái lý, người đam mê cái luận thôi !!!
do đó, việc áp dụng kỳ môn vào thực dụng cũng là tùy thuộc vào mỗi người thôi.
chúc bạn sớm thăng tiến với kỳ môn.
Chào bác Hà Uyên,
Trước hết VinhL xin đăng lại các bài của bác bên vietlyso,
Trích bên vietlyso:
Chào VinhL
Khi nói G.Tý ẩn vào lục Mậu, thì đó là Mậu gì ? M. Tý hay M.Tuất,...
Tôi đã lập bảng quy theo số Cục để thuận tiện khi ứng dụng như sau:
1- G.Tý ẩn lục Mậu:
- Mậu Thìn: 5 - 2 - 5
- Mậu Dần: 6 - 3 - 9
- Mậu Tý: 7 - 4 - 1
- Mậu Tuất: 8 - 5 - 2
- Mậu Thân: 9 - 6 - 3
- Mậu Ngọ: 1 - 7 - 4
2. Giáp Tuất ẩn lục Kỷ
- Kỷ Tị: 6 - 3 - 9
- Kỷ Mão: 7 - 4 - 1
- Kỷ Sửu: 8 - 5 - 2
- Kỷ Hợi: 9 - 6 - 3
- Kỷ Dậu: 1 - 7 - 4
- Kỷ Mùi: 2 - 8 - 5
3. Giáp Thân ẩn lục Canh:
- Canh Ngọ: 7 - 4 - 1
- Canh Thìn: 8 - 5 - 2
- Canh Dần: 9 - 6 - 3
- Canh Tý: 1 - 7 - 4
- Canh Tuất: 2 - 8 - 5
- Canh Thân: 3 - 9 - 6
4. Giáp Ngọ ẩn lục Tân:
- Tân Mùi: 8 - 5 - 2
- Tân Tị: 9 - 6 - 3
- Tân Mão: 1 - 7 - 4
- Tân Sửu: 2 - 8 - 5
- Tân Hợi: 3 - 9 - 6
- Tân Dậu: 4 - 1 - 7
5. Giáp Thìn ẩn lục Nhâm:
- Nhâm Thân: 9 - 6 - 3
- Nhâm Ngọ: 1 - 7 - 4
- Nhâm Thìn: 2 - 8 - 5
- Nhâm Dần: 3 - 9 - 6
- Nhâm Tý: 4 - 1 - 7
- Nhâm Tuất: 5 - 2 - 8
6. Giáp Dần ẩn lục Quý:
- Quý Dậu: 1 - 7 - 4
- Quý Mùi: 2 - 8 - 5
- Quý Tị: 3 - 9 - 6
- Quý Mão: 4 - 1 - 7
- Quý Sửu: 5 - 2 - 8
- Quý Hợi: 6 - 3 - 9
Tới đây, VinhL có thể truy tìm được quy luật theo nghĩa của chữ "độn".
VinhL tham khảo thêm.
Hà Uyên
Trích bên vietlyso:
Chào các bạn, chào vinhL
Tiêu chí mà chúng ta cần quan tâm trước, nên chăng đó là hai chữ "Tam kỳ".
Vậy, nội dung của Tam kỳ gồm những gì ?
1- Thiên kỳ: Giáp - Mậu - Canh
2- Địa Kỳ: Ất - Bính - Đinh
3- Nhân kỳ: Tân - Nhâm - Quý
Ví dụ Tam kỳ thuộc về tuần Giáp Tý như sau:
- Thiên kỳ thuộc tuần Giáp Tý: trị số cục vận hành theo quy luật:
7 - 2 - 4
4 - 8 - 1
1 - 5 - 7
- Địa kỳ thuộc tuần Giáp Tý: trị số cục vận hành theo quy luật:
8 - 9 - 1
5 - 6 - 7
2 - 3 - 4
- Nhân kỳ thuộc tuần Giáp Tý: trị số cục vận hành theo quy luật:
5 - 6 - 7
2 - 3 - 4
8 - 9 - 1
Khi chúng ta nắm bắt rõ được quy luật vận hành của Tam kỳ, thì việc phối hợp với Lục nghi thuận lý hơn.
VinhL tham khảo thêm
Hà Uyên
Nay thì VinhL đã hiểu những con số đó từ đâu ra.
Trước hết tuần Giáp Tý ẩn lục Mậu:
- Mậu Thìn: 5 - 2 - 5(8 mới đúng)
- Mậu Dần: 6 - 3 - 9
- Mậu Tý: 7 - 4 - 1
- Mậu Tuất: 8 - 5 - 2
- Mậu Thân: 9 - 6 - 3
- Mậu Ngọ: 1 - 7 - 4
Tuần Giáp Tý Dương Độn Thương Nguyên 1 cục: Giáp ẩn ở Mậu Thìn cung 5
Tuần Giáp Tý Dương Độn Trung Nguyên 7 cục: Giáp ẩn ở Mậu Thìn cung 2
Tuần Giáp Tý Dương Độn Hạ Nguyên 4 cục: Giáp ẩn ở Mậu Thìn cung 8
Cho nên bác có số 5-2-8
Củng trong Thượng Nguyên Dương Độn 1 cục, Giáp Tý 1, Ất 2, ...., đến Giáp Tuất khởi ở cung 2 đến Mậu Dần thì ở cung 6, Trung Nguyên thì Giáp Tuất khởi ở cung 8, và Mậu Dần ở cung 3, và Hạ Nguyên Giáp Tuất khởi ở cung 5, đến Mậu Dần thì ở cung 9, cho nên bác có
Mậu Dần : 6-3-9
Các can Mậu kia củng tính tương tự.
Quy luật này củng lập lại có tất cảc Giáp còn lại.
Nay tới vấn đê Thiên Kỳ, Địa Kỳ, và Nhân Kỳ
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh
Địa Kỳ Ất Bính Đinh
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý
Trung Nguyên Dương Đôn 7 cục thì ta có:
Giáp 7 (ẩn ở Mậu 2), Ất 8, Bính 9, Đinh 1, Mậu 2, Kỷ 3, Canh 4, Tân 5, Nhâm 6, Quý 7
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 7-2-4
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 8-9-1
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 5-6-7
Hạ Nguyên Dương Độn 4 cục thì ta có:
Giáp 4, Ất 5, Bính 6, Đinh 7, Mậu 8, Kỷ 9, Canh 1, Tân 2, Nhâm 3, Quý 4
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 4-8-1
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 5-6-7
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 2-3-4
Thượng Nguyên Dương Độn 1 cục thì ta có
Giáp 1, Ất 2, Bính 3, Đinh 4, Mậu 5, Kỷ 6, Canh 7, Tân 8, Nhâm 9, Quý 1
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 1-5-7
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 2-3-4
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 8-9-1
Vì vậy
Thiên Kỳ là
7-2-4
4-8-1
1-5-7
Địa Kỳ là
8-9-1
5-6-7
2-3-4
Nhân Kỳ là
5-6-7
2-3-4
8-9-1
Theo VinhL nghỉ lại còn thêm một cách diễn ra các số theo Thiên Can (tức không đi theo Can Chi. Trong Kỳ Môn thì Trực Sủ bay theo Chi Giờ)
Như Dương Độn Thương Nguyên 1 cục, Can Mậu ở cung 1, cho nên Giáp ẩn ở cung 1
Dương Độn Trung Nguyên 7 cục, Can Mậu ở cung 7, cho nên Giáp ẩn ở cung 7
Dương Độn Hạ Nguyên 4 cục, Can Mậu ở cung 4, nên Giáp ẩn ở cung 4
Giáp Tý ẩn ở 1-7-4
Giáp Tuất ẩn ở 2-8-5
Giáp Thân ẩn ở 3-9-6
Giáp Ngọ ẩn ở 4-1-7
Giáp Thìn ẩn ở 5-2-8
Giáp Dần ẩn ở 6-3-9
Giáp Tý ẩn ở 7-4-1
Giáp Tuất ẩn ở 8-5-2
Giáp Thân ẩn ở 9-6-3
Giáp Ngọ ẩn ở 1-7-4
Giáp Thìn ẩn ở 2-8-5
Giáp Dần ẩn ở 3-9-6
Giáp Tý ẩn ở 4-1-7
Giáp Tuất ẩn ở 5-2-8
Giáp Thân ẩn ở 6-3-9
Giáp Ngọ ẩn ở 7-4-1
Giáp Thìn ẩn ở 8-5-2
Giáp Dần ẩn ở 9-6-3
và tuần hoàn trở lại 1-7-4
Như vậy ta có
Giáp Tý, Giáp Ngọ 1,4,7
Giáp Tuất, Giáp Thìn ở 2,5,8
Giáp Thân, Giáp Dần 3,6,9
Trở lại 6 bản lục nghi của bác phía trên, nhận thấy Địa Chi củng có quy luật như sau:
Tý, Mão, Ngọ, Dậu, 1,4,7
Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, 2,5,8
Dần, Tỵ, Thân, Hợi, 3,6,9
Củng theo các Can ta có Trung Nguyên Dương Đôn 7 cục thì
Mậu (Giáp) 7, Kỷ 8, Canh 9, Tân 1, Nhâm 2, Quý 3, Đinh 4, Bính 5, Ất 6
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 7-7-9
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 6-5-4
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 1-2-3
Tương tự ta có Hạ Nguyên Dương Đôn 4 cục thì
Mậu (Giáp) 4, Kỷ 5, Canh 6, Tân 7, Nhâm 8, Quý 9, Đinh 1, Bính 2, Ất 3
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 4-4-6
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 3-2-1
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 7-8-9
Và Thượng Nguyên Dương Độn 1 cục thì
Mậu (Giáp) 1, Kỷ 2, Canh 3, Tân 4, Nhâm 5, Quý 6, Đinh 7, Bính 8, Ất 9
Thiên Kỳ Giáp Mậu Canh: 1-1-3
Địa Kỳ Ất Bính Đinh: 9-8-7
Nhân Kỳ Tân Nhâm Quý: 4-5-6
Những số này có ý nghĩa gì đây??? Vẫn còn đang nghiên cứu.
Kính.
bác nói hoàn toàn chính xác môn tử vi là một ví dụ , sách là 1 chuyện ứng dụng là một chuyện, tôi thấy các thầy tử vi giỏi, những gợi mở để ứng dụng hết sức đơn giản mà nhiều khi mình ko ngờ tới, cũng như các cao thủ võ lâm,học thì nhiều nhưng đến khi ứng dụng thì lại hết sức đơn giản... đại loại chỉ một hai chiêu còn lại quên hết bài quyền nọ thế đánh kia
vì vậy tôi cũng muốn thử tìm hiểu xem kỳ môn có bí ẩn gì mà người ta lại ca ngợi thế bao nhiêu phần thật bao nhiêu phần ảo trong huyền sử
tôi thấy một số sách viết về kỳ môn sau khi lập xong phù sử gia địa bàn thì đều thống nhất được kết quả
giả thiết 9 tinh an theo vòng tròn
nếu xoay vòng tròn thì vấp phải vấn đề nếu ví dụ thiên cầm / 6 thì các sao còn lại gia như thế nào.
còn một phương pháp nữa như của bác vinhl ...
...
tôi thấy bác có rất nhiều sách về kỳ môn chứng tỏ bác nghiên cứu môn này cũng lâu rồi nêu cũng muốn hỏi ý kiến bác
thực ra tất cả các môn học tôi đều quan tâm đến tính ứng dụng của nó bởi qua ứng dụng thực tiến mới biết được giá trị của nó , bao nhiêu phần thực bao nhiêu phần ảo bao nhiêu điểm cổ nhân cố ý giấu hoặc thậm chí cố ý viết sai hoặc đơn giản bởi sách sai...bởi nếu thuật toán rõ ràng thì chỉ trong 5 phút có thể lập được quẻ kỳ môn
vậy tai sao các sách không viết rõ ràng ra ......
nếu rõ ràng rồi thì ứng dụng sẽ ra sao, chả nhẽ bao nhiêu cao thủ đều nhầm
hay chỉ đơn giản như chuyện cụ rùa ở hồ hoàn kiếm bao nhiêu công trình khoa học của giáo sư hà đình đực xếp hạng xuất sắc mà vẫn chưa xác định được là rùa đực hay cái , có một con hay nhiều hơn ...(xin lỗi đã mang chuyên này ra làm thí dụ)
rõ ràng cụ rùa mà bác đức gọi là rùa lê lợi ko thể có độc một cụ mà sinh trưởng được... và chắc cũng ko phải cụ ngậm thanh kiếm
bây h ko cần giáo sư mà chỉ cần một top thợ xắn tay lên làm là ra kết quả ngay ....
nhưng ý tôi nói là nên làm rõ ràng ra
và chân lý thường đơn giản, và chỉ khi nó áp dụng thành công vào thực tiến thì mới có giá trị
tôi vẫn nghĩ bao nhiêu người như vậy khó có thể nhầm lẫn được và có một giá trị nào đó ẩn sau các huyền sử
đôi khi chân lý thường rất đơn giản
có thể gia cát lượng , trương lương áp dụng thuật kỳ môn để giành thiên hạ...
nên về sau danh tiếng mới lưu truyền như vậy
nhưng nếu gia cát ko gặp lưu bị, chỉ đi cày hoặc buôn bán nhì nhằng thì thuật kỳ môn có thể áp dụng vào buôn bán , cày cấy , nhà cửa...
cũng như cụ rùa chắc trước đây có khắp vùng đồng bằng sông hồng , nhưng do bị săn bắt hết nên chỉ ở hồ gươm và đồng mô là còn tìm thấy do được bảo vệ
rất muốn trao đổi cùng bác để xóa đi lớp bụi thời gian tìm được vẻ đẹp lung linh của viên ngọc ẩn sau những huyền sử về kỳ môn .
bác có thể feel free khi liên hệ với tôi bằng pm, hoặc e mail
sorry trong lúc viết tôi edit nên hơi lộn một ý :sau khi tìm được phù sử gia thiên địa 2 bàn thì đều thống nhất nhưng an cửu tinh thì lại khác
tóm lại có 3 phương trình thì đến phương trình thứ 3 thường không ra kết quả giống sách
Những số này có ý nghĩa gì đây ???
Vẫn còn đang nghiên cứu.
Có đối tất có ngẫu,
Nhị đối phối tứ lập
Mười sáu có ba hai,
Một mùa hai tư khí
Hà Uyên
Chào bác Hà Uyên,
Mong bác cho ý kiến về bài viết tiếng Hán này:
Nguồn: www.liansanyi.com
Tạm dịch Hán Việt như sau:Code:去五行生克论
《连山归藏》铁版佐证
金、木、水、火、土,中国古代的思想家把这五种物质作为构成万物的元素,但源起于春秋时的五行相生相胜的思想,在西汉被京房的《京氏易传》在八卦中贯以世、应、伏、飞等解说爻、卦的术数理论穿凿五行生克制化统御八卦形成了新的“朴素哲学”、“唯物论”。其实这种理论凭据实在不可在八卦中推敲,以致中国的术士应用“五行”2000多年之久,其间竞无人提出太多疑问,至今在中国九家易理唯物朴素哲学体系中亦无人置疑它。
五行者,本周舞也。秦始皇二十六年更名曰:五行其舞人冠冕衣服法五行色。在商周时又有五刑之法即:“古代五行刑法”。而中医学理论的《黄帝内经》的五行辩证(症)理论体系是存立的,因黄帝内经论:“肺”属金、“肝”属木、“胃”属土、“心”属火、“肾”属水,这五种物体的代表都是存在于一个人体之内的实物,假如肺热有火,就可用汤药凉性之物以制之,或西药皆可,这是一种实物对实物在同一肌体内的客观辩证(症),如肾虚不济、心肾不交,则可以通过用补肾温通之法来用药也是实物对实物,就是说在《黄帝内经》的五行理论都是客观存在的实物相胜相生论,这种理论可存在于一个有效的客观实物范畴内。
而当下的五行理论也是一种“朴素”“唯物”论,在四季中早有定性五行划分的春属木、秋属金、夏属火、冬属水、中央戊己属土,把它们混起来生克制化我们看看结果怎样:
用秋天的金去克春天的木,一年四季中秋在春之后,春在秋之前,早已是时过境迁的两个概念,怎么把春秋二季搞在一起比高下,这是个概念问题,有人说我可以拿斧子(属金)去砍木头,不就金克木了吗?古人也好、今天也好,我们论的这五行是客观自然状态下的朴素哲学观,就是说存在于一定空间时间状况下的自然物质永远是自然的,斧子是人为的东西,你用人为去一厢情愿的制造出一种“非客观”理论,就成了“唯心论”。这就是中国的易学多少年来摘不掉迷信帽子的隐忧。
金克木,金原本不存在,地球人从公元前3000多年才有了冶炼技术、青铜出现,那时尚不能绕开石器的使用,也就是说金的自然形式是“石”,原应以石、木、水、火、土论五行五种自然物质才对,其实金本是人为的东西了,金的存在是非自然界原生态的东西,那何可论“朴素”哲学。再说了,中国有新旧石器时代,是很漫长的时期,中国的有文字可考的文化应该更早上溯到七、八千年前,朴素而唯物的自然科学体系早在夏代时已经形成,那时形成的历法即“夏历”我们今天仍在沿用,这是古代天文学的代表作,可证明其在西汉2000多年前五行理论形式之先,中国应该有一套非常完善的唯物哲学来指导先民的客观行为,那就是早已失传的《连山经易》。
《连山经易》不论五行论六气即:温、热、寒、凉、署、燥,风为媒界(载体)推动六气在自然界运行万物生息。《连山经易》把一年中以正月建寅立春为一阳初发,把立秋定为阴消阳之势,这与当下易书中以子午定阴阳的理论大不相同,即《连山经易》是论一年四季中寅申定阴阳的。另《连山经易》的阳卦为乾系:艮、离、巽,阴卦坤系:震、坎、兑。
具体完善的《连山经易》著已横空出世,这是既2200年前秦焚书后,《连山经易》的传人把这套本属于全民族的人类朴素唯物观哲学体系还其本来面目,以正当下易学之乱象,以非常具体的客观实物论、摸看论、数理论证明《连山经易》并未失传。
我们再论石(金)克木,自然界的石怎么能在自然条件下克木呢?显然不能,倒是“咬定青山不放松”的树木根系不断的生长扎根而会使石裂崩化,这亦能叫木克金。
木克土。木依土生,土以培木,相互依存,木的本性是长、伸、延、展,尽可能的依土而亲和,做到我在你中,并不会使土有半点损耗,反而由于木的存在土不会被水冲刷流失,怎能说是木克土呢?
土克水。土水相依,水中有土,土中有水,水性下流而土挡聚之堵使之不泛滥,从某种意义上讲土是可以治水,但不能论克,第一:土是水之根,若无土涵水,水之不保,第二:占地球面积七成的海洋不可不谓水之浩淼,以土来治,何可为也?第三:土若无水滋润必燥,尘埃荡荡,难为本性,所以水土本是共存一体的比和关系,如六十四卦“水地比”可说明这一点。
水克火更是不可理喻,太阳为火,为真火,一个是恒星照耀天光,寒冷的冰水靠太阳之火来熔化暖之才能使其活性自如,温度再高时水可升腾气化成云致雨,循环于自然界中,何可水能克火,退一步说:地壳之下地核内部的岩浆温度高达几千摄氏度,试问地球上哪座海洋中的活火山被海水浇熄过。证明水不能克火。
火克金。早先讲地球客观“自然朴素”,咱们就论“朴素自然”,不能人为参加什么改造自然的想法(如风电、水电等只是利用)。金本是指石,地球形成之初石之遍布地表,从有了冷热气流的对流风才形成,再经过几十亿年的风化剥落,土壤也形成了。如果说石(金)最后剥落成土是风化的能量使之然也,这与火克石(金)有什么关系呢?
金生水。原来是说古人看到的水自山石中出,中国的三江源出于西山、川藏、青海之地(兑为石、石为金、金中出水),而水的本源在大海之中,由台风、季风再把湿热的洋流带向大陆,遇冷空气成霜雪雨雾而滋养万物或渗存于地下,怎么论也看不出石(金)生水逻辑,只能是说水就是水,水的流动为风能而起,亦讲“风生水起”。
水生木半成立,但细说是水滋养万物,并不能独生,首先就论植物之生长,必然有土培、阳光,温度再加适当的水称湿度,单是一个水能独生万物乎?亦只可论滋养。
木生火。太阳之火经科学验证是核能,是不断核聚变所产生与木生火并无关系,地壳下的赤热岩浆亦不是木能生的。非得说自然中的森林大火,那也是要看第一:自然中天干物燥自燃行为,第二:雷电使之燃也,抛开人为的点燃,木在自然界中生了火之说也太局限,再说万物生长靠太阳,太阳热能经光合作用转化成树木植物,这说明地球上几乎一切的生物动物都是太阳之子,木主仁,仁同人。是火生了木,亦可论火成就了木,木何能何德可生火也?只能说木具有可燃性。
火生土,地球在宇宙大爆炸之始为混沌之尘埃状,目前科学界仍不能定论恒星火生了行星土,所以这火生土也不能成立,至于木燃化灰成土之说只是自然界的局限现象成因之一。
土生金。土与矿物是经过漫长的地壳地理客观变化而基本固定下来的储藏形态,一座山里面,一块地该是金矿既是金、该是铁矿既是铁,就是万万年也不能再生新贵,“土生金”只能说是金自土出而并不能生,也不会长。
再看中国当下的八卦,乾、坎、艮、震、四男卦,加巽、离、坤、兑四女卦,八的存在是证明有九的成立,因为八卦为人发明所造设,八卦若不为戊己(无己)服务,己是我们自己,中央“戊己土”,发明八卦的古人开始定是以人为本的利己观,八卦九宫也就有存在的意义,既然是八卦加中央“戊己土”九个概念,却被加上五行又变成五个概念,一下子由九种理论退回来变作五种概念。这说明从西汉时,以京房为代表的易学或有意无意的制造了一种“伪朴素哲学”五行生克论,因那时庶人是不可论天文的,一直到三国的曹魏时代,演天文者都是重罪。他们以五行统八卦,把中国易学的九个概念弄成五个,这样一直传了下来到今天,除《白话易经》中没有五行理论外,其余几乎所有易著都用五行生克。
八卦是论的天下时空、四季、元运的变化概念,时光一去永不回,你用夏天的火去克秋天的金这怎么可以追得上去克?这是概念问题,决非实物的相互论证、印证可解释,在《连山经易》中就把六气的概念问题谈的非常明白,“天下乾坤而统六气,吉凶祸福随四时而发,虽天下万物而纷纭,莫过乎六气而旺衰,万物而生息,不过六气而运通。”让我们试目以待《连山易》这本巨著横空出世后之见真去伪。
五行理论中把八卦以人为本的哲学概念搞的非常混乱而可笑,坤卦后天八卦位居西南代表老太太,艮卦后天八卦中位居东北代表少男,看看五行是如何搓合为一个 “土”字代表,两卦把艮坤都当作土来划为一类,试想八卦为古代人本社会更好的生存哲学观可设,你把一个老奶奶和一个生命力极强的少男放在一起这如何能成立?五行口口声声是朴素哲学,怎么到这就讲不通理了,这是朴素哲学吗?再看另一个不能让人解释的五行“客观”凭据,后天八卦乾为老头居西北,兑为少女居正西,一个老头和一个少女同划为金,甚至连性别都不顾胡乱捏作,真的太可气人;巽为木为长女,震为木为长男,二个异姓男女现在只报一个人的户口,谁可以解释这五行之父怎么生出这样五个五不像的产物?
八卦演变之始,原本是要先搞清楚一年四季与阴阳变化的规律定义,再进行完善自然概念的理论框架,这是中国农本社会在以农耕为主要社会任务下创建的科学种田观。是当时社会急需的一个具有实用性纲领性的指导学说,《连山经易》中的八卦理论体系主要是讲政家法家如何御民、兵家如何征战、农家如何适时耕种收获、教育家如何教人成才、阴阳家如何教人顺应天道与时偕行、天文学家如何预知吉凶祸福、自家如何衍繁生息、医家如何辩证施治、道家、养生家如何延寿天年等。
《连山经易》不论五行生克制化,它的卦词除乾卦一卦有同《白话易经》其余63个卦的卦词、训词、爻词与《白话易经》无一相同,以宫变、象变为演卦的基本推理步骤,把三易之冠《周易》、《连山易》、《归藏易》之首《连山易》成著以示世人。把2200年以来口口相传密而不宣的江湖派理论绝秘文献公诸于世,这部《连山易》将会对当今流行的九家易,以五行生克制化为代表的理论体系进行一次大变革。自汉以来传说失传遁隐于江湖真正的唯物朴素哲学代表作《连山易》现已公布于天下。
正逢祖国六十华诞,运行艮八白运第七年2009-2010年为丑寅艮卦所主。为连山延绵,《连山易》重出面世必将对中国今后几千年的文化思想有着非常巨大的推动和影响,使历经22个世纪以来连山传人孜孜不悔忠实原著,保存中华文明史瑰丽篇章的先师们英灵得以告慰,他们将永垂青史。连山近代先祖师“白胜玉”曾留诗谶给当代宗师韩艺先生曰:
连山归藏本应藏,
真言不藏恐余殃;
十二九宫连山岁,
应是连山焕新装。
自秦始皇焚书那年始,为公元前213年到今天2009年,共是经过了2223年,《连山易》隐世遁于江湖12个九宫运又63年,即180年乘以12得2160年再余为3个小运60年(20年为1小运)又3年《连山经易》再度出版。
以《连山易》再出江湖铁版佐证五行生克之功过。
Khứ ngũ hành sinh khắc luận
《 liên sơn quy tàng 》 thiết bản tá chứng
Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, trung quốc cổ đại đích tư tưởng gia bả giá ngũ chủng vật chất tác vi cấu thành vạn vật đích nguyên tố, đãn nguyên khởi vu xuân thu thì đích ngũ hành tương sinh tương thắng đích tư tưởng, tại tây hán bị kinh phòng đích 《 kinh thị dịch truyện 》 tại bát quái trung quán dĩ thế, ứng, phục, phi đẳng giải thuyết hào, quái đích thuật sổ lý luận xuyên tạc ngũ hành sinh khắc chế hóa thống ngự bát quái hình thành liễu tân đích"Phác tố triết học", "Duy vật luận" . Kỳ thực giá chủng lý luận bằng cư thực tại bất khả tại bát quái trung thôi xao, dĩ trí trung quốc đích thuật sĩ ứng dụng"Ngũ hành" 2000 đa niên chi cửu, kỳ gian cạnh vô nhân đề xuất thái đa nghi vấn, chí kim tại trung quốc cửu gia dịch lý duy vật phác tố triết học thể hệ trung diệc vô nhân trí nghi tha.
Ngũ hành giả, bản chu vũ dã. Tần thủy hoàng nhị thập lục niên canh danh viết: ngũ hành kỳ vũ nhân quan miện y phục pháp ngũ hành sắc. Tại thương chu thì hựu hữu ngũ hình chi pháp tức: "Cổ đại ngũ hành hình pháp" . Nhi trung y học lý luận đích 《 hoàng đế nội kinh 》 đích ngũ hành biện chứng ( chứng ) lý luận thể hệ thị tồn lập đích, nhân hoàng đế nội kinh luận: "Phế" chúc kim, "Can" chúc mộc, "Vị" chúc thổ, "Tâm" chúc hỏa, "Thận" chúc thủy, giá ngũ chủng vật thể đích đại biểu đô thị tồn tại vu nhất cá nhân thể chi nội đích thực vật, giả như phế nhiệt hữu hỏa, tựu khả dụng thang dược lương tính chi vật dĩ chế chi, hoặc tây dược giai khả, giá thị nhất chủng thực vật đối thực vật tại đồng nhất cơ thể nội đích khách quan biện chứng ( chứng ), như thận hư bất tể, tâm thận bất giao, tắc khả dĩ thông quá dụng bổ thận ôn thông chi pháp lai dụng dược dã thị thực vật đối thực vật, tựu thị thuyết tại 《 hoàng đế nội kinh 》 đích ngũ hành lý luận đô thị khách quan tồn tại đích thực vật tương thắng tương sinh luận, giá chủng lý luận khả tồn tại vu nhất cá hữu hiệu đích khách quan thực vật phạm trù nội.
Nhi đương hạ đích ngũ hành lý luận dã thị nhất chủng"Phác tố" "Duy vật" luận, tại tứ quý trung tảo hữu định tính ngũ hành hoa phân đích xuân chúc mộc, thu chúc kim, hạ chúc hỏa, đông chúc thủy, trung ương mậu kỷ chúc thổ, bả tha môn hỗn khởi lai sinh khắc chế hóa ngã môn khán khán kết quả chẩm dạng:
Dụng thu thiên đích kim khứ khắc xuân thiên đích mộc, nhất niên tứ quý trung thu tại xuân chi hậu, xuân tại thu chi tiền, tảo dĩ thị thì quá cảnh thiên đích lưỡng cá khái niệm, chẩm yêu bả xuân thu nhị quý cảo tại nhất khởi bỉ cao hạ, giá thị cá khái niệm vấn đề, hữu nhân thuyết ngã khả dĩ nã phủ tử ( chúc kim ) khứ khảm mộc đầu, bất tựu kim khắc mộc liễu mạ? Cổ nhân dã hảo, kim thiên dã hảo, ngã môn luận đích giá ngũ hành thị khách quan tự nhiên trạng thái hạ đích phác tố triết học quan, tựu thị thuyết tồn tại vu nhất định không gian thì gian trạng huống hạ đích tự nhiên vật chất vĩnh viễn thị tự nhiên đích, phủ tử thị nhân vi đích đông tây, nhĩ dụng nhân vi khứ nhất sương tình nguyện đích chế tạo xuất nhất chủng"Phi khách quan" lý luận, tựu thành liễu"Duy tâm luận" . Giá tựu thị trung quốc đích dịch học đa thiểu niên lai trích bất điệu mê tín mạo tử đích ẩn ưu.
Kim khắc mộc, kim nguyên bản bất tồn tại, địa cầu nhân tòng công nguyên tiền 3000 đa niên tài hữu liễu dã luyện kỹ thuật, thanh đồng xuất hiện, na thì thượng bất năng nhiễu khai thạch khí đích sử dụng, dã tựu thị thuyết kim đích tự nhiên hình thức thị"Thạch", nguyên ứng dĩ thạch, mộc, thủy, hỏa, thổ luận ngũ hành ngũ chủng tự nhiên vật chất tài đối, kỳ thực kim bản thị nhân vi đích đông tây liễu, kim đích tồn tại thị phi tự nhiên giới nguyên sinh thái đích đông tây, na hà khả luận"Phác tố" triết học. Tái thuyết liễu, trung quốc hữu tân cựu thạch khí thì đại, thị ngận mạn trường đích thì kỳ, trung quốc đích hữu văn tự khả khảo đích văn hóa ứng cai canh tảo thượng tố đáo thất, bát thiên niên tiền, phác tố nhi duy vật đích tự nhiên khoa học thể hệ tảo tại hạ đại thì dĩ kinh hình thành, na thì hình thành đích lịch pháp tức"Hạ lịch" ngã môn kim thiên nhưng tại duyên dụng, giá thị cổ đại thiên văn học đích đại biểu tác, khả chứng minh kỳ tại tây hán 2000 đa niên tiền ngũ hành lý luận hình thức chi tiên, trung quốc ứng cai hữu nhất sáo phi thường hoàn thiện đích duy vật triết học lai chỉ đạo tiên dân đích khách quan hành vi, na tựu thị tảo dĩ thất truyện đích 《 liên sơn kinh dịch 》.
《 liên sơn kinh dịch 》 bất luận ngũ hành luận lục khí tức: ôn, nhiệt, hàn, lương, thự, táo, phong vi môi giới ( tái thể ) thôi động lục khí tại tự nhiên giới vận hành vạn vật sinh tức. 《 liên sơn kinh dịch 》 bả nhất niên trung dĩ chính nguyệt kiến dần lập xuân vi nhất dương sơ phát, bả lập thu định vi âm tiêu dương chi thế, giá dữ đương hạ dịch thư trung dĩ tử ngọ định âm dương đích lý luận đại bất tương đồng, tức 《 liên sơn kinh dịch 》 thị luận nhất niên tứ quý trung dần thân định âm dương đích. Lánh 《 liên sơn kinh dịch 》 đích dương quái vi kiền hệ: cấn, ly, tốn, âm quái khôn hệ: chấn, khảm, đoái.
Cụ thể hoàn thiện đích 《 liên sơn kinh dịch 》 trứ dĩ hoành không xuất thế, giá thị ký 2200 niên tiền tần phần thư hậu, 《 liên sơn kinh dịch 》 đích truyện nhân bả giá sáo bản chúc vu toàn dân tộc đích nhân loại phác tố duy vật quan triết học thể hệ hoàn kỳ bản lai diện mục, dĩ chính đương hạ dịch học chi loạn tượng, dĩ phi thường cụ thể đích khách quan thực vật luận, mạc khán luận, sổ lý luận chứng minh 《 liên sơn kinh dịch 》 tịnh vị thất truyện.
Ngã môn tái luận thạch ( kim ) khắc mộc, tự nhiên giới đích thạch chẩm yêu năng tại tự nhiên điều kiện hạ khắc mộc ni? Hiển nhiên bất năng, đảo thị"Giảo định thanh sơn bất phóng tùng" đích thụ mộc căn hệ bất đoạn đích sinh trường trát căn nhi hội sử thạch liệt băng hóa, giá diệc năng khiếu mộc khắc kim.
Mộc khắc thổ. Mộc y thổ sinh, thổ dĩ bồi mộc, tương hỗ y tồn, mộc đích bản tính thị trường, thân, duyên, triển, tẫn khả năng đích y thổ nhi thân hòa, tố đáo ngã tại nhĩ trung, tịnh bất hội sử thổ hữu bán điểm tổn háo, phản nhi do vu mộc đích tồn tại thổ bất hội bị thủy trùng xoát lưu thất, chẩm năng thuyết thị mộc khắc thổ ni?
Thổ khắc thủy. Thổ thủy tương y, thủy trung hữu thổ, thổ trung hữu thủy, thủy tính hạ lưu nhi thổ đáng tụ chi đổ sử chi bất phiếm lạm, tòng mỗ chủng ý nghĩa thượng giảng thổ thị khả dĩ trì thủy, đãn bất năng luận khắc, đệ nhất: thổ thị thủy chi căn, nhược vô thổ hàm thủy, thủy chi bất bảo, đệ nhị: chiêm địa cầu diện tích thất thành đích hải dương bất khả bất vị thủy chi hạo miểu, dĩ thổ lai trì, hà khả vi dã? Đệ tam: thổ nhược vô thủy tư nhuận tất táo, trần ai đãng đãng, nan vi bản tính, sở dĩ thủy thổ bản thị cộng tồn nhất thể đích bỉ hòa quan hệ, như lục thập tứ quái"Thủy địa bỉ" khả thuyết minh giá nhất điểm.
Thủy khắc hỏa canh thị bất khả lý dụ, thái dương vi hỏa, vi chân hỏa, nhất cá thị hằng tinh chiếu diệu thiên quang, hàn lãnh đích băng thủy kháo thái dương chi hỏa lai dong hóa noãn chi tài năng sử kỳ hoạt tính tự như, ôn độ tái cao thì thủy khả thăng đằng khí hóa thành vân trí vũ, tuần hoàn vu tự nhiên giới trung, hà khả thủy năng khắc hỏa, thối nhất bộ thuyết: địa xác chi hạ địa hạch nội bộ đích nham tương ôn độ cao đạt kỷ thiên nhiếp thị độ, thí vấn địa cầu thượng na tọa hải dương trung đích hoạt hỏa sơn bị hải thủy kiêu tức quá. Chứng minh thủy bất năng khắc hỏa.
Hỏa khắc kim. Tảo tiên giảng địa cầu khách quan"Tự nhiên phác tố", cha môn tựu luận"Phác tố tự nhiên", bất năng nhân vi tham gia thập yêu cải tạo tự nhiên đích tưởng pháp ( như phong điện, thủy điện đẳng chích thị lợi dụng ). Kim bản thị chỉ thạch, địa cầu hình thành chi sơ thạch chi biến bố địa biểu, tòng hữu liễu lãnh nhiệt khí lưu đích đối lưu phong tài hình thành, tái kinh quá kỷ thập ức niên đích phong hóa bác lạc, thổ nhưỡng dã hình thành liễu. Như quả thuyết thạch ( kim ) tối hậu bác lạc thành thổ thị phong hóa đích năng lượng sử chi nhiên dã, giá dữ hỏa khắc thạch ( kim ) hữu thập yêu quan hệ ni?
Kim sinh thủy. Nguyên lai thị thuyết cổ nhân khán đáo đích thủy tự sơn thạch trung xuất, trung quốc đích tam giang nguyên xuất vu tây sơn, xuyên tàng, thanh hải chi địa ( đoái vi thạch, thạch vi kim, kim trung xuất thủy ), nhi thủy đích bản nguyên tại đại hải chi trung, do thai phong, quý phong tái bả thấp nhiệt đích dương lưu đái hướng đại lục, ngộ lãnh không khí thành sương tuyết vũ vụ nhi tư dưỡng vạn vật hoặc sấm tồn vu địa hạ, chẩm yêu luận dã khán bất xuất thạch ( kim ) sinh thủy la tập, chích năng thị thuyết thủy tựu thị thủy, thủy đích lưu động vi phong năng nhi khởi, diệc giảng"Phong sinh thủy khởi" .
Thủy sinh mộc bán thành lập, đãn tế thuyết thị thủy tư dưỡng vạn vật, tịnh bất năng độc sinh, thủ tiên tựu luận thực vật chi sinh trường, tất nhiên hữu thổ bồi, dương quang, ôn độ tái gia thích đương đích thủy xưng thấp độ, đan thị nhất cá thủy năng độc sinh vạn vật hồ? Diệc chích khả luận tư dưỡng.
Mộc sinh hỏa. Thái dương chi hỏa kinh khoa học nghiệm chứng thị hạch năng, thị bất đoạn hạch tụ biến sở sản sinh dữ mộc sinh hỏa tịnh vô quan hệ, địa xác hạ đích xích nhiệt nham tương diệc bất thị mộc năng sinh đích. Phi đắc thuyết tự nhiên trung đích sâm lâm đại hỏa, na dã thị yếu khán đệ nhất: tự nhiên trung thiên kiền vật táo tự nhiên hành vi, đệ nhị: lôi điện sử chi nhiên dã, phao khai nhân vi đích điểm nhiên, mộc tại tự nhiên giới trung sinh liễu hỏa chi thuyết dã thái cục hạn, tái thuyết vạn vật sinh trường kháo thái dương, thái dương nhiệt năng kinh quang hợp tác dụng chuyển hóa thành thụ mộc thực vật, giá thuyết minh địa cầu thượng kỷ hồ nhất thiết đích sinh vật động vật đô thị thái dương chi tử, mộc chủ nhân, nhân đồng nhân. Thị hỏa sinh liễu mộc, diệc khả luận hỏa thành tựu liễu mộc, mộc hà năng hà đức khả sinh hỏa dã? Chích năng thuyết mộc cụ hữu khả nhiên tính.
Hỏa sinh thổ, địa cầu tại vũ trụ đại bạo tạc chi thủy vi hỗn độn chi trần ai trạng, mục tiền khoa học giới nhưng bất năng định luận hằng tinh hỏa sinh liễu hành tinh thổ, sở dĩ giá hỏa sinh thổ dã bất năng thành lập, chí vu mộc nhiên hóa hôi thành thổ chi thuyết chích thị tự nhiên giới đích cục hạn hiện tượng thành nhân chi nhất.
Thổ sinh kim. Thổ dữ quáng vật thị kinh quá mạn trường đích địa xác địa lý khách quan biến hóa nhi cơ bản cố định hạ lai đích trữ tàng hình thái, nhất tọa sơn lý diện, nhất khối địa cai thị kim quáng ký thị kim, cai thị thiết quáng ký thị thiết, tựu thị vạn vạn niên dã bất năng tái sinh tân quý, "Thổ sinh kim" chích năng thuyết thị kim tự thổ xuất nhi tịnh bất năng sinh, dã bất hội trường.
Tái khán trung quốc đương hạ đích bát quái, kiền, khảm, cấn, chấn, tứ nam quái, gia tốn, ly, khôn, đoái tứ nữ quái, bát đích tồn tại thị chứng minh hữu cửu đích thành lập, nhân vi bát quái vi nhân phát minh sở tạo thiết, bát quái nhược bất vi mậu kỷ ( vô kỷ ) phục vụ, kỷ thị ngã môn tự kỷ, trung ương"Mậu kỷ thổ", phát minh bát quái đích cổ nhân khai thủy định thị dĩ nhân vi bản đích lợi kỷ quan, bát quái cửu cung dã tựu hữu tồn tại đích ý nghĩa, ký nhiên thị bát quái gia trung ương"Mậu kỷ thổ" cửu cá khái niệm, khước bị gia thượng ngũ hành hựu biến thành ngũ cá khái niệm, nhất hạ tử do cửu chủng lý luận thối hồi lai biến tác ngũ chủng khái niệm. Giá thuyết minh tòng tây hán thì, dĩ kinh phòng vi đại biểu đích dịch học hoặc hữu ý vô ý đích chế tạo liễu nhất chủng"Ngụy phác tố triết học" ngũ hành sinh khắc luận, nhân na thì thứ nhân thị bất khả luận thiên văn đích, nhất trực đáo tam quốc đích tào ngụy thì đại, diễn thiên văn giả đô thị trọng tội. Tha môn dĩ ngũ hành thống bát quái, bả trung quốc dịch học đích cửu cá khái niệm lộng thành ngũ cá, giá dạng nhất trực truyện liễu hạ lai đáo kim thiên, trừ 《 bạch thoại dịch kinh 》 trung một hữu ngũ hành lý luận ngoại, kỳ dư kỷ hồ sở hữu dịch trứ đô dụng ngũ hành sinh khắc.
Bát quái thị luận đích thiên hạ thì không, tứ quý, nguyên vận đích biến hóa khái niệm, thì quang nhất khứ vĩnh bất hồi, nhĩ dụng hạ thiên đích hỏa khứ khắc thu thiên đích kim giá chẩm yêu khả dĩ truy đắc thượng khứ khắc? Giá thị khái niệm vấn đề, quyết phi thực vật đích tương hỗ luận chứng, ấn chứng khả giải thích, tại 《 liên sơn kinh dịch 》 trung tựu bả lục khí đích khái niệm vấn đề đàm đích phi thường minh bạch, "Thiên hạ kiền khôn nhi thống lục khí, cát hung họa phúc tùy tứ thì nhi phát, tuy thiên hạ vạn vật nhi phân vân, mạc quá hồ lục khí nhi vượng suy, vạn vật nhi sinh tức, bất quá lục khí nhi vận thông." Nhượng ngã môn thí mục dĩ đãi 《 liên sơn dịch 》 giá bản cự trứ hoành không xuất thế hậu chi kiến chân khứ ngụy.
Ngũ hành lý luận trung bả bát quái dĩ nhân vi bản đích triết học khái niệm cảo đích phi thường hỗn loạn nhi khả tiếu, khôn quái hậu thiên bát quái vị cư tây nam đại biểu lão thái thái, cấn quái hậu thiên bát quái trung vị cư đông bắc đại biểu thiểu nam, khán khán ngũ hành thị như hà tha hợp vi nhất cá "Thổ" tự đại biểu, lưỡng quái bả cấn khôn đô đương tác thổ lai hoa vi nhất loại, thí tưởng bát quái vi cổ đại nhân bản xã hội canh hảo đích sinh tồn triết học quan khả thiết, nhĩ bả nhất cá lão nãi nãi hòa nhất cá sinh mệnh lực cực cường đích thiểu nam phóng tại nhất khởi giá như hà năng thành lập? Ngũ hành khẩu khẩu thanh thanh thị phác tố triết học, chẩm yêu đáo giá tựu giảng bất thông lý liễu, giá thị phác tố triết học mạ? Tái khán lánh nhất cá bất năng nhượng nhân giải thích đích ngũ hành"Khách quan" bằng cư, hậu thiên bát quái kiền vi lão đầu cư tây bắc, đoái vi thiểu nữ cư chính tây, nhất cá lão đầu hòa nhất cá thiểu nữ đồng hoa vi kim, thậm chí liên tính biệt đô bất cố hồ loạn niết tác, chân đích thái khả khí nhân; tốn vi mộc vi trường nữ, chấn vi mộc vi trường nam, nhị cá dị tính nam nữ hiện tại chích báo nhất cá nhân đích hộ khẩu, thùy khả dĩ giải thích giá ngũ hành chi phụ chẩm yêu sinh xuất giá dạng ngũ cá ngũ bất tượng đích sản vật?
Bát quái diễn biến chi thủy, nguyên bản thị yếu tiên cảo thanh sở nhất niên tứ quý dữ âm dương biến hóa đích quy luật định nghĩa, tái tiến hành hoàn thiện tự nhiên khái niệm đích lý luận khuông giá, giá thị trung quốc nông bản xã hội tại dĩ nông canh vi chủ yếu xã hội nhâm vụ hạ sang kiến đích khoa học chủng điền quan. Thị đương thì xã hội cấp nhu đích nhất cá cụ hữu thực dụng tính cương lĩnh tính đích chỉ đạo học thuyết, 《 liên sơn kinh dịch 》 trung đích bát quái lý luận thể hệ chủ yếu thị giảng chính gia pháp gia như hà ngự dân, binh gia như hà chinh chiến, nông gia như hà thích thì canh chủng thu hoạch, giáo dục gia như hà giáo nhân thành tài, âm dương gia như hà giáo nhân thuận ứng thiên đạo dữ thì giai hành, thiên văn học gia như hà dự tri cát hung họa phúc, tự gia như hà diễn phồn sinh tức, y gia như hà biện chứng thi trì, đạo gia, dưỡng sinh gia như hà duyên thọ thiên niên đẳng.
《 liên sơn kinh dịch 》 bất luận ngũ hành sinh khắc chế hóa, tha đích quái từ trừ kiền quái nhất quái hữu đồng 《 bạch thoại dịch kinh 》 kỳ dư 63 cá quái đích quái từ, huấn từ, hào từ dữ 《 bạch thoại dịch kinh 》 vô nhất tương đồng, dĩ cung biến, tượng biến vi diễn quái đích cơ bản thôi lý bộ sậu, bả tam dịch chi quan 《 chu dịch 》, 《 liên sơn dịch 》, 《 quy tàng dịch 》 chi thủ 《 liên sơn dịch 》 thành trứ dĩ kỳ thế nhân. Bả 2200 niên dĩ lai khẩu khẩu tương truyện mật nhi bất tuyên đích giang hồ phái lý luận tuyệt bí văn hiến công chư vu thế, giá bộ 《 liên sơn dịch 》 tương hội đối đương kim lưu hành đích cửu gia dịch, dĩ ngũ hành sinh khắc chế hóa vi đại biểu đích lý luận thể hệ tiến hành nhất thứ đại biến cách. Tự hán dĩ lai truyện thuyết thất truyện độn ẩn vu giang hồ chân chính đích duy vật phác tố triết học đại biểu tác 《 liên sơn dịch 》 hiện dĩ công bố vu thiên hạ.
Chính phùng tổ quốc lục thập hoa đản, vận hành cấn bát bạch vận đệ thất niên 2009-2010 niên vi sửu dần cấn quái sở chủ. Vi liên sơn duyên miên, 《 liên sơn dịch 》 trọng xuất diện thế tất tương đối trung quốc kim hậu kỷ thiên niên đích văn hóa tư tưởng hữu trứ phi thường cự đại đích thôi động hòa ảnh hưởng, sử lịch kinh 22 cá thế kỷ dĩ lai liên sơn truyện nhân tư tư bất hối trung thực nguyên trứ, bảo tồn trung hoa văn minh sử côi lệ thiên chương đích tiên sư môn anh linh đắc dĩ cáo úy, tha môn tương vĩnh thùy thanh sử. Liên sơn cận đại tiên tổ sư"Bạch thắng ngọc" tằng lưu thi sấm cấp đương đại tông sư hàn nghệ tiên sinh viết:
Liên sơn quy tàng bản ứng tàng,
Chân ngôn bất tàng khủng dư ương;
Thập nhị cửu cung liên sơn tuế,
Ứng thị liên sơn hoán tân trang.
Tự tần thủy hoàng phần thư na niên thủy, vi công nguyên tiền 213 niên đáo kim thiên 2009 niên, cộng thị kinh quá liễu 2223 niên, 《 liên sơn dịch 》 ẩn thế độn vu giang hồ 12 cá cửu cung vận hựu 63 niên, tức 180 niên thừa dĩ 12 đắc 2160 niên tái dư vi 3 cá tiểu vận 60 niên (20 niên vi 1 tiểu vận ) hựu 3 niên 《 liên sơn kinh dịch 》 tái độ xuất bản.
Dĩ 《 liên sơn dịch 》 tái xuất giang hồ thiết bản tá chứng ngũ hành sinh khắc chi công quá.
VinhL,
Xin anh đừng có dừng giữa chừng nhé.
Anh đang có một đệ tử đấy
Anh có thể giới thiệu giúp tôi chương trình nào lập Thái Ất chuẩn nhất hiện nay không? Nếu có chỉ tôi chỗ download
hi các bác trước hết cho em cảm ơn được tiếp chuyện cùng các bác
thứ hai bác nào có quyển dịch ẩn trọn bộ bằng word hay pdf cho em xin một bản
em xin cảm ơn
Chào Anh Minh Co,
Về phần Kỳ Môn thì vẫn đang lập các bản cho Kỳ Ất và mấy cửa còn lại, sau đó tới Kỳ Bính, Đinh và 8 cửa.
Về Thái Ất thì lúc trước củng có nghiên cứu và viết bài "Tự Học Thái Ất" bên vietlyso, chưa xong vì còn trong vòng nghiên cứu. Hình như bạn Maphuong có lập trình Thái Ất thì phải. Anh thư liên lạc với bạn ấy. Bác Hà Uyên củng nghiên cứu Thái Ất đấy, nếu huynh gặp khó khăn, cần cứu nơi bác ấy nhé.
Chào bạn Sonnh,
Có một điều chắc bạn quên là vào các thời đại phong kiến, sách về Tam thức, Thái Ất, Kỳ Môn, đều bị cấm đoán vì tất cả 3 môn đều có sự ứng dụng cho binh chiến, nói theo thời đại hiện nay thì có liên quan đến Defense, an ninh quốc phòng. Cũng vì vậy không có bao nhiêu người đọc được các môn này nói chi học được nó còn hi hửu hơn. Mấy ông hoàng đế thời xưa ai mà không muốn ngồi trên cái ghế vàng mãi mãi đâu, trăm ngàn phi tần phục vụ, sơn hào mỹ vị, củng vì củng cố địa vị cho nên những kiến thức có hại tốt hơn là nên cấm đoán hết. Có lẻ vì vậy mà môn Huyền Không không dám coi Kỳ Môn là nguồn gốc của mình, nhưng nếu đọc các sách về Huyền Không cao cấp sẻ thấy nói đến Huyền Không Đại Quái và Hoàng Thạch Công. Cổ nhân nói Kỳ Môn là Địa Học không lẻ chỉ nói xuyên hay sao. Các phái phong thủy, Bát Trạch, Tam Hợp, Huyền Không nếu truy nguyên về gốc thì không ngoài Dịch và Kỳ Môn. Bát Trạch dùng Cung Phi, đó là Niên Cục của Kỳ Môn, Bát San Họa Phúc đó là Dịch. Huyền Không Vận Tinh, củng là Cục của Kỳ Môn, Huyền Không Đại Quái đó là củng là Dịch, nguồn gốc từ cái bảng vòng tròn của 64 quái thuận nghịch mà ngài Thiệu Khang đã thuyết. Tam Hợp phái Xuyên Sơn Thấu Địa củng là diễn Kỳ Môn. Tất cả các thuật phong thũy tại sao không nhắc đến Kỳ Môn, chắc có lẻ nguyên do là sự cấm đoán về Kỳ Môn vào thời phong kiến nên nguồn gốc xuất xứ từ Kỳ Môn đã bị xóa, nếu không chắc Phong Thũy củng bị cấm tuyệt luôn.
Nguyên do của sự khác biệt về Thiên Bàn của Kỳ Môn là do sự thiếu xót về dẫn giải của tiền nhân. Phù gia Thời Can, Sử gia thời Chi thì các phái đều giống nhau là gì nó được lập ra trong các bản liệt kê Phù Sử rõ ràng. Sau đó cách dịch chuyển địa bàn để tạo thiên bàn thì đa số sách xưa lại không có dẫn giải, nên mỗi phái mạnh ai nấy có phương pháp riêng của mình, và đều tự cho là chánh tông.
Sách Kỳ Môn được dịch ra tiếng Việt thì chỉ có vài quyển, Kỳ Môn Đôn Giáp của tác giả Nguyễn Mạnh Bảo, Độn Giáp Lược Giải của tác giả Đổ Quân, Độn Giáp Kiềm Đầu (không thấy đề tác giả là ai), Kỳ Môn Độn Giáp Bí Kíp Toàn Thư, v.v... thì chỉ có Kiềm Đầu và Bí Kíp là đáng được nghiên cứu nhiều hơn. Hai quyển của tác giả Nguyển Mạnh Bảo và Đô Quân thì đọc để nhập môn thì được, nhưng đi xâu vào thì bị cùng đường (VinhL đã lâm cảnh này hết vài năm sau đó chuyển qua học đọc sách Hán mới có thể thông được). Phương pháp dùng bản số để lập quẻ trong sách của tác giả Nguyển Mạnh Bảo
1 Mậu----4 Tân------7 Đinh
2 Kỷ------5 Nhâm---8 Bính
3 Canh---6 Quý-----9 Ất
sẻ tạo ra nhiều phiền phức thay vì dùng 9 cung trên bàn tay hay vẻ ra bản 9 cung hình vuông (hoặc tròn). Theo VinhL nghỉ tác giả có thể dùng nó để làm cho vẫn đề được dể hiểu hơn, nhưng khi lâp thiên bàn, gia Bát Thần thì sẻ tăng thêm phiền phức. Cả hai cuốn đều thiếu phần luận về 100 cách Can gia Can, và các điều luận đoán khác.
Các thí dụ trọng hai quyển sách đó đa số đều không chính xác, nhất là quyển Độn Giáp Lược Giải.
Quyển Bí Kíp thì VinhL đã có so sánh với 3 bản của sách tiếng Hán, có thể nói 95% là dịch đúng theo sách, vì vậy quyển này chính là quyển cần được nghiên cứu nhất nếu bạn muốn đi sâu vào Kỳ Môn. Tiếc thay quyển này thì lại không có dẫn giải cách lập quẻ Kỳ Môn. Nhưng nếu bạn muốn tìm được cách lập quẻ của quyển này thì phải nghiên cứu đến phần 72 Cục của Hoàng Thạch Công vì trong đó có nhiều thí dụ có cả Năm tháng ngày giờ và cục.
Củng theo phương pháp của Hoàng Thạch Công 72 Cục, sau khi lập công thức toán, bạn có thể đơn giản hóa để tìm ra sự bí ẩn trong đó. Đó chính là sự tuần hoàn của 8 cửa và 9 sao không phụ thuộc vào Cục Số, tiết khí, mà chỉ căn cứ vào Dương Độn (Sau Đông Chí), Âm Độn (Sau Hạ Chí), và Can Chi của giờ. Từ đó thì bạn chỉ cần biết Can Chi giờ thì có thể lập bản Thiên Bàn 8 cửa 9 sao mà không cần biết đến Tiết hay Cục Số.
Chúc bạn may mắn
hế hê vào top này thấy toàn bác đọc được tiếng hán đã thấy nể rồi, em có học dịch nhưng toàn bằng sách tiếng việt áp dụng có,vào quẻ tỷ lệ thành công khá cao nhưng vẫn có những chỗ sai, hôm nay tình cờ phát hiện ra một điều thú vị trong mộ quyển sách nửa hán nửa việt, hôm nào tiện em xin được góp cùng các bác
về Thái ất, theo như anh VinhL đã có nói rõ, thời điểm đó, maphuong cũng đã hoàn thành xong trình lập thái ất và cũng go live !
địa chỉ:
http://maphuong.com/dichly/thaiat/index.php
yêu cầu nhập username / password là map/map
Công thức được tính cho các sao được tổng hợp từ 3,4 quyển Thái ất và các bài viết của anh VinhL.
- Thái Ất Thần Kinh
- Thái Ất Đào Kim Ca
- Thái Ất Thống Tông Đại Toàn
- Thái Ất Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành
....
Vẫn còn nhiều chức năng chưa được tiếp tục phát triển.
ngoài ra, còn có 1 trình lập thái ất bằng excel nữa, do Lê Trung Tú thực hiện sau dựa trên quyển Thái Ất Thần Kinh. Bản này có thể tìm trong diễn đàn này đã có đăng.
maphuong
tôi đã thử cách phi long tại thiên theo phi tinh ra kết quả giống ví dụ đầu tiên của bác,như vậy là dương độn bay thuận lường tiên xích còn âm độn bay nghịch phải không bác,
tuy nhiên đây mới chỉ là giả thuyết của chúng ta .
Tôi đọc lại quyển kỳ môn bí kíp đại toàn trên mạng không thấy có các ví dụ phong phần 72 cục của hoàng thạch công và một số hình vẽ cũng bị biến mất
bác có thể cho tôi xin bản của bác theo e mail của tôi được không
cam ơn bác
tuy nhiên đấy mới chỉ là giả thuyết của chúng ta
hình như còn phương pháp theo vòng tròn thì sao thiên cầm sẽ gửi vào cửa tử hoặc của sinh tùy theo âm hoặc dương độn phải không bác?
trước hết cứ thống nhất là có 2 phương pháp như vậy
nhưng ta cũng không nên câu nệ một phương pháp nào , nếu áp thử vào ứng dụng mà phương pháp nào cho kết quả chính xác thì ta cứ tạm coi phương pháp đó có xác xuất đúng cao hơn
vâng,mời các bạn,đạo hữu,tín đồ... tham gia topic http://www.thegioivohinh.com/diendan...708#post307708
Cám ơn anh Maphuong.
Có thể cho tôi xin bản code được không? Sắp tới có thể tôi sẽ không thể truy cập Internet được.
Tình hình tài liệu đến đâu rồi?
Anh đọc topic bản đồ TG tương lai ấy. Nó không có sai đâu. Nếu chúng ta có thể lấy được càng nhiều thì càng tốt, không thì kiến thức nhân loại xưa nay lại bị thất truyền đi nhiều.
Trong đó không ít kiến thức của người Việt xưa (gồm cả người Việt nam chúng ta hiện nay)
Tôi rất tiếc là không biết tiếng Trung để có thể đề nghị anh cho tham gia. Mấy lần học được một hai tháng lại có việc đi xa phải bỏ. Bây giờ thì bận việc khác và già mất rồi.
Biết là già vẫn có thể học nhưng tâm chưa tĩnh.
chào bác Minh Co,
về trình chạy online của maphuong thì không chạy như ứng dụng desktop được.
Rất tiếc là chưa có bản chạy offline, hy vọng trong thời gian tới có phiên bản chạy offline, nhưng cũng tuỳ vào có thời gian nữa.
tạm thời bác Minh Co dùng bản của LTT,
Đây là trình Excel lấy lá số Thái ất của tác giả Lê Trung Tú
http://www.mediafire.com/?4scij4b42u5o7qu
Cảm ơn.
72 cục Kỳ Môn của Hoàng Thạch Công
Nhưng có cục có ví dụ ,có cục lại không có ví dụ :
Kỳ Ất :
*CỤC 1.
Kỳ Ất cùng sao Phụ tới cửa Hưu gọi là Phi long tại thiên :chủ tướng quân vào đất Kinh ,lợi đất ngàn dặm,4 phương tiến quân đánh doanh trại >Ra cửa có 2 chim cùng kêu ,thành được công huân kỳ lạ.
-độn dương ,cục 5,ngày Giáp Kỷ ,giờ Ất Hợi,cần không có thần Cửu Địa
-độn dương ,cục 3 ,ngày Ất Canh ,giờ Bính Tuất ,cần không có HUyền Vũ
-độn âm ,cục 3 ,ngày bính tân ,giờ mậu tý
-độn dương ,cục 3 ,ngày giáp kỷ ,giờ ất hợi có Thiên PHụ .
*Cục 2.
Kỳ ất cùng cửu thiên ,sao Trụ tới của Sinh,gọi là Thanh vân đắc lộ :xuất quan 3 lần đại thắng ,chém đầu người 5.000,có đất trăm dặm.Ra của gặp bà già bên trái đường ,quân đi 5 dặm có rượu thịt đem đến đón,cát.
*Cục 3.
Kỳ Ất cùng sao Nhậm ,Thái âm tới của Thương ,gọi là Thái âm đương quyền.Chủ đại tướng ra quân được thắng ,thu được các xe ,truy lượm lương thực <Quân đi cung Khảm 500 dặm có mây trên đỉnh ,4 phương có tiếng nhạc thì đại lợi .
*Cục 4 .
Kỳ Ất cùng Trực phù sao Ương tới cửa Đổ gọi là Tích lịch lôi toàn .Nên để phó tướng ra quân ,chính tướng ở giữ doanh .Được đất 40 dặm ,đầu người trên 5.000.Quân nên đi cung đoài .Ra cửa có đạo nhân cùng gặp ,bản doanh có cờ gãy ,đại lợi .
-độn dương ,cục 6 ,ngày bính tân ,giờ Ất Vị
-độn âm ,cục 2 ,ngày ất canh ,giờ ất dậu
*Cục 5 .
Kỳ Ất cùng lục hợp tới cửa Cảnh gọi là Thiên mã trì tinh .Quân đi nên ra cung Đoài ;cung Tốn ngồi doanh ,.Có người lạ hiến kế sách ,.Được quân ,ngựa ở Kinh ,.Ra cửa có gió to.Đi tới 500 dặm mưa lớn tới mau thì cát .
-độn dương ,cục ,ngày Mậu Quý ,giờ Ất Mão ,có ứng sao Thiên PHụ (?)
-độn âm ,cuc 4 ,ngày Mậu Quý ,giờ Ất Mão ,cũng cục lại là Thiên Nhuế
*Cục 6:
Kỳ Ất cùng bạch hổ,sao Tâm tới cửa Tử,gọi là Ngũ hổ lâm môn,.Nên ra phương Tị,ngồi cung Ngọ.Chính tướng đại thắng ,được đất,đầu người,xe ngựa ,của cải.Quân đi ra cửa có khí mây tía,,đi 3 dặm có người che tán vàng đến thì đại cát.
*Cục 7:
Kỳ Ất cùng Thái âm ,sao Cầm tới cửa Kinh ,gọi là Nguyệt xuất thiên cù ,.Quân hành nên ra cung Kìên,ngồi doanh cung Tị ,công thành lợi ở Tây bắc,đoạt đất lợi ở Đông Nam,.Ra cửa có 3 người bay đến báo tin tức ,có nhạn kêu thì đại lợi.
*Cục 8:
Kỳ Ất cùng cửu thiên,sao Phụ tới cửa Khai gọi là Thái âm đắc lệnh ,đến như nhà vua ngự giá thân chinh ,,trù kẻ khg theo phép.
-độn âm ,cục 3 ,ngày Giáp Kỷ ,giờ Ất Sửu
*Cục 9 :
Kỳ Ất cùng sao Trụ ,Trực phù tới cửa Hưu gọi là Bạch hổ giương uy :Nên cướp doanh trại người ,đoạt lương thảo đại thắng .Nên xuất trận cung Khảm ,ngồi doanh cung Tốn,chủ tướng có công.Ra cửa x dặm có con chim Thanh tước bay nhảy trên đường,gặp lửa cháy :đại cát.
-độn dương ,cục 3,ngày Đinh Nhâm ,giờ Ất Tị
-độn âm ,cục 3 ,ngày Giáp Kỷ ,giờ Ất Hợi
*Cục 10 :
Kỳ Ất cùng Cửu thiên ,sao Trụ tới cửa Sinh gọi là Thiên la Địa võng.Chủ đại tướng xuất trận trăm chiến trăm thắng.Được đất ngàn dặm,thành trì hơn 10,hướng đâu lợi đó,.Quân hành ra cửa có gió lớn nổi tụ Tây Bắc,Đônh Bắc có tiếng sấm cùng ứng :đại cát .
*Cục 11:
Kỳ Ất cùng Thái âm ,sao Trụ tới cửa Thương ,gọi là Lục hợp đồng xuân.Xuất quân có tổn,giao chiến nên lo bên địch có quân ,cung nỏ mai phục Đông Tây ,ra quân nên phòng.Ra đi mà có mây vàng 4 mặt nổi dậy vào giờ Thìn Tị thì lợi
*Cục 12 :
Kỳ Ất cùng Lục hợp ,sao Trụ tới cửa Đổ gọi là Ngõ nử quy quan .Xuất trận thì đại tướng có thương .Lợi Đông Bắc ,khg lợi Tây Nam.Quân hành ,ra cửa có mưa nhỏ thì khg lợi.
*Cục 13 :
Kỳ Ất cùng Cửu thiên sao Cần tới cửa Cảnh gọi là Thiên thước tranh sào (chim khách ) .Lợi dùng hỏa công,sau cướp doanh trại người,được người và khí giới ,đạn dược rất nhiều.Quân hành nên giờ Ngọ ,ra cửa nên giờ Mùi ,.Binh đi 3 dặm gặp thỏ thì đại cát .
* cục 14 :
Kỳ Ất cùng Chu tước ,sao Nhậm tới cửa Tử gọi là Điểu chiêm khô chi ..Xuất quân chủ sỉ tốt tan tác .Việc làm khg toại ,chiến khg thành công .Quân hành ,ra cửa có Nhạn từ Nam bay lại thì khg cát .
-độn dương ,cục 9 ,ngày Ất Canh ,giờ Bính Tý
*Cục 15 :
Kỳ Ất cùng Đằng xà ,sao Phụ tới cửa Kinh gọi là Hoàng long thăng thiên .Xuất quân nên thủy chiến,khg nên lục chiến.Thủy chiến mà có gió Đông là được trời trợ ,lợi hỏa công .Quân hành 500 dặm có sắc mây tía là đại cát.
*Cục 16 :
Kỳ Ất cùng Thái âm ,sao Bồng đến cửa Khai gọi là Thiên hổ tư hành .Lợi thủ công ,khg lợi chiến.Chính tướng ra quân thì có lo ,Lợi ra cung Tốn,đốt phù Đinh Giáp có thể tránh được .Giữa đường thấy mây x ,mặt trời hồng thì khg lợi .
*Cục 17 :
Kỳ Ất cùng Cửu địa ,Nhuế tới cửa Hưu gọi là Thiên Khu trực nhật .Quân đi nên ra cung Càn ,ngồi cung Tị .Khg lợi công thành ,nhưng nếu gặp tiết Đại hàn thì lại lợi về công thành .Quân hành mà ra cửa gặp người có ngủ sắc đến thì đại lợi .
-độn dương ,cục 3 ,ngày Giáp Kỷ ,giờ Ất Hợi
*Cục 18 :
Kỳ Ất cùng Thái âm ,sao Xung tới cửa Sinh gọi là Bạch lộ hoành giang ..Nên ra cung Khảm hoặc cung Ngọ ,dùng nước Phù mà phun .Lợi thủy chiến ,có thể được đầu người 2.000,thuyền xe hàng trăm ,.Ra cửa có cá trắng vào thuyền thì đại lợi .
*Cục 19 :
Kỳ Ất cùng Lục hợp, sao Cầm tới cửa Thương gọi là Phong tán bách hoa .Khg nên ra quân vì khg lợi .Chủ tướng có ách hao quân ,lật thuyền .Quân hành ,ra cửa gặp gió Tây .Có gió ác khg lợi hành quân .Nếu gặp việc bất đắc dĩ phải ra quân thì ra cungTốn ,trước thư phù sáu Giáp ,phun hay đốt đi thì có thể kị hung sát .
-độn âm ,cục 4 ,ngày Mậu Quý ,giờ Ất Mão
*Cục 20 :
Kỳ Ất cùng Bạch hổ sao Phụ tới cửa Đổ gọi là Hổ khiếu sinh phong .Quân hành nên ra cung Dần,ngồi cung Tị .Lợi lục chiến ,x dặm có phục binh :nên lui ,khg nên tiến .Ra đi có người mà đến thì có lợi nhỏ.
*Cục 21 :
Kỳ Ất cùng Cửu thiên ,sao Nhậm tới cửa Cảnh thì gọi là Phi nga phác hỏa (con ngài bay vồ lửa).Không lợi thủ thành ,nên tử chiến.Giữ thành phá địch thì có thể.Nếu địch có kẻ phản gián thì khg thể theo.Ra của mà có chó trắng đứng ở cửa thì khg lợi
*Cục 22 :
Kỳ Ất cùng sao Trụ tới cửa Tử thì gọi là Thi hoành biến dã (thây nằm khắp đồng ).Khg nên ra quân ,nên cố thủ doanh lũy.hảy đề phòng cẩn thận 2 phương Tây Bắc .Có giặc cướp doanh trại vào giờ Ngọ .Không lợi,
-độn dương thì Chu Tước ,độn âm thì Huyền Vũ
-độn âm ,cục 6 ,ngày Ất Canh ,giờ Ất Dậu
*Cục 23 :
Kỳ Ất cùng Đằng xà ,sao Nhậm tời cửa Kinh gọi là Côn trùng biến hóa .Nên ra phương Tây .Thủy ,Lục đều lợi.Thành trì có thể phá .Đại tường có thể bắt sống .Ra cửa có mây trắng trên khg,đi 3 dặm ,trời có mưa lất phất thì đại lợi .
*Cục 24 :
Kỳ Ất ,sao Nhậm ,Trực phù tới cửa Khai gọi là Thiên môn đại khai .Đại tướng ra quân được thành trì ,đầu người hàng trăm.Quân hành nên theo cung Khảm,nghe tiếng trống tiếng nhạc,có người quê hiến kế sách thì đại lợi .
-đôn dương ,cục 8,ngày Giáp Kỷ ,giờ Ất Sửu
-độn âm ,cục 4 ,ngày Mậu Quý ,giờ Ất Mão
-độn âm ,cục 7 ,ngày Mậu Quý ,giờ Ất Mão
=0=
Kỳ Bính :
*Cục 25 :
Kỳ Bính cùng Lục hợp sao Nhuế tới cửa Hưu gọi là Ngũ tinh tụ hội .Đại tướng ra quân nên ra cung Khôn,ngồi cung Tốn,được đầu người 5.000 ,lại được 1 danh tướng biết thiên văn địa lý có thể chiêu phục được .Đại tướng ra quân nên gặp tuyết lớn,xuân gặp mưa nhỏ ,có 2 con chó từ phương Tây lại .
-độn âm ,cục 9,ngày Đinh Nhâm ,giờ Bính Ngọ
*Cục 26 :
Kỳ Bính cùng Chu tước ,sao Nhậm tới cửa sinh gọi là Như ngư thất thủy .Đại tướng ra quân khg lợi .Chủ sĩ tốt bị thương vì tên lửa .Nếu việc gấp khg thể dừng thì ra cung Khảm .Nên thư phù nước Đinh -Giáp mà chế đi thì có thể phản hung ra cát .Ra cửa kị gặp người mang vật nhiều màu sắc lại ,sẽ khg lợi .
*Cục 27 :
Kỳ Bính cùng Trực phù ,sao Tâm tới cửa Thương gọi là Đắc xuất thiên la .Đại tướng ra quân nên ra phương Nam .Ngồi chính Bắc mới khỏi bất lợi .Chủ giờ Ngọ được quân nhu ,khí giới .Giữa đường gặp đạo nhân áo xanh,cầm thư hiến kế sách tới đón thì đại cát .
*Cục 28 :
Kỳ Bính cùng Trực phù sao Nhuế tới cửa Đổ gặp ngày Giáp Kỷ gọi là Lục giáp phùng thời .Ra quân có thương nhỏ ,sỉ tốt đều có sắc lo lắng .Giờ ngọ xuất binh đại lợi ,được đất cát ,phá thành người,lòng người quy thuận .Ra cửa 500 dặm có người đàn bà mặc áo màu từ phương Tây lại thì đại lợi .
-độn dương ,cục 8 ,ngày Bính Tân ,giờ Bính Thân
*Cục 29 :
Kỳ Bính cùng Câu trận ,sao Bồng tới cửa Cảnh thì gọi là Ngư Long biến hóa .Chủ tướng ra quân 1 mình 1 ngựa,phá thành giặc ,được đầu người hàng chục .Trong doanh nên ngồi cung Khôn .Quân hành ra cửa gặp đạo nhân có dáng tiên thì đại lợi .
-độn dương thì Câu Trận ,độn âm thì Bạch Hổ
-độn âm ,cục 8,ngày Bính Tân ,giờ Đinh Dậu
*Cục 30 :
Kỳ Bính cùng Câu trận ,sao Ương tới cửa Tử,gặp ngày giờ Ngọ,Mùi thì gọi là Bảo kính trùng ma (gương báo lại xoa nhau ) .Đại tướng ra quân thì trước bại sau thắng .Được đất 5000.Nên ra cung Chấn.Ra cửa gặp đạo nhân áo vàng cưởi ngựa trắng đến thì đại lợi .
-độn dương ,cục 2 ,ngày Bính Tân ,giờ Bính Thân
-độn âm ,cục 2 ,ngày Bính Tân ,giờ Mậu Tuất ,Kỷ Hợi cũng cùng.
*Cục 31 :
Kỳ Bính cùng Thái âm tới cửa Kinh gọi là Xà nhập long huyệt .Chủ tướng ra quân có thể vào thành trị người ,được vàng ,báu hàng vạn .Quân hành ra cửa phương tây có tiếng trống ,mây trắng vào Đẩu (xá Đẩu) ,mây vàng che đỉnh đầu thì đại lợi .
-độn dương ,cục 9,ngày Mậu Quý ,,giờ Bính Thìn ,cục này thiết sót tên sao ,không biết có phải là Thiên Trụ hay không ?
*Cục 32 :
Kỳ Bính cùng cửu cung (?),lục hợp tới cửa Khai gọi là Hồng hạc xung thiên .Chủ đại tướng ra quân thì đại thắng ,có thể đoạt đất người ,chém tướng ,nhổ cờ ,.Trong quân có người về doanh .Ra cửa phương Đông Nam có vầng mống vút vào tòa Thiên thị Viên thì đại lợi .
-độn âm ,cục 5 ,ngày Đinh Nhâm ,giờ Bính Ngọ ,Cửu Thiên trùng xuất cố phải không? Thiếu sót Thiên Trụ ?
*Cục 33.
Kỳ Bính cùng Đằng xà ,Nhuế tới cửa Hưu gặp ngày giờ Nhâm Tý gọi là Thiên cương trạch địa .Chủ tướng trước hung sau cát ,có bị thương cung tên đến giờ cát thì thắng .Có thể được đất ,giết người đầy đồng .quân hành ra cửa 3 dặm có mưa phơi phới :đại cát .
*Cục 34 :
Kỳ Bính cùng Cửu địa ,sao Nhậm tới cửa Sinh ,gọi là Xà nhập yến sào .Không thể xuất quân .Có kẻ địch phục binh vào trong doanh làm thương phó tướng .Quân đi 3 dặm ,phương Nam có tiếng trống ,chủ trong quân có lửa cháy :khg lợi .
*Cục 35 :
Kỳ Bính cùng Lục hợp ,sao Phụ tới cửa Thương gọi là Thiên môn đại khai.Đại tướng từ cung Chấn ra ,có thể trói đầu địch ,có công bắt vua ,trảm tướng .Quân hành có khí đen khởi ở cung Chấn thì đại lợi .
*Cục 36 :
Kỳ Bính cùng Lục hợp sao Nhậm tới cửa Đỗ gặp ngày giờ Canh thân gọi là Khô mộc phùng xuân .Chủ tong chiến trận :quân đã bị phá ,phải chỉnh đốn lại ,rồi lại ra trận thì mới thành đại lợi .Quân hành ra cửa 3 dặm có tiếng quạ kêu bay qua thì đại lợi .
*Cục 37 :
Kỳ Bính cùng Cửu thiên sao Nhuế tới cửa Cảnh gọi là Giao long thất thủy (rồng Giao mắc cạn ).Chủ ra quân khg lợi ,xe ngựa gảy ,lương thảo tổn.Nếu việc gấp thì nên hướng cung Đoài mà ra ,lấy hành thủy mà giải cũng được 1/2 cát .Quân hành ra cửa gặp nắng bức ,đi đến 10 dặm có tiếng trống :đại lợi .
*Cục 38 :
Kỳ Bính cùng Chu tước sao Phụ tới cửa Tử gọi là Thiên xung lâm trận .Ra quân nên từ cung Chấn ,chủ kẻ địch lui 3 xá ,được đầu người 40,được 1 viên danh tướng .Ra cửa Tây Bắc có tiếng sấm lớn 20 dặm thì đại cát .
*Cục 39 :
Kỳ Bính cùng Trực phù ,sao Nhuế tới cửa Kinh ,gặp ngày giờ Mảo Mùi gọi là Phong Vân tụ hội .Chủ đại tướng ra quân ,bỏ Tây Bắc ,ra Đông Nam phục binh có thể được đầu người 500.quân hành ra cửa 3 dặm có 9 hạc đồng (dã hạc ) bay lại :đại cát .
-độn dương ,cục 2 ,ngày Giáp Kỷ ,giờ Bính Dần
-độn âm ,cục 2 ,ngày Ất Canh ,giờ Bính Tý
*Cục 40 :
Kỳ Bính cùng Cửu thiên sao Nhuế tới cửa Khai gọi là Quần dương bác Hổ .Ngày giờ Thìn Tuất xuất binh thì thua to .Hại ngựa ,lính :3.000.Khg nên chiến .quân hành gặp hổ thì khg lợi .
*Cục 41 :
Kỳ Bính cùng Thái âm sao Bồng tới cửa Hưu gọi là Thiên nhật chiếu lâm .Chủ binh đượcthắng ,trói 1 viên đại tướng ,được đất 30 dặm ,thành trì có thể phá .Quân hành nên từ cung Cấn ra ,ngồi cung Khôn .Đi tới 500 dặm có mưa gió lớn ,10 dặm có mưa gió nhỏ .
-độn dương ,cục 8,ngày Mậu Quý ,giờ Bính Thìn
-độn âm ,cục ngày giờ như trên
*Cục 42 :
Kỳ Bính cùng Lục hợp ,sao Xung tới cửa sinh gọi là Thu phong tứ khởi ..Quân hành nên ra từ cung Cấn ,ngồi thì ở cung Đoài đón đường phục binh phá bại địch 500 quân ,ngựa ,đều khg lợi thủy chiến .Quân hành ,ra cửa có 1 người đem hiến bức du đồ :đại lợi .
*Cục 43 :
Kỳ Bính cùng Chu tước vào cửa Thương ,gặp ngày giờ Ngọ Mùi gọi là Hà khôi đoạt phách .Chủ tướng nên ra từ cung Ly ,ngồi cung Khảm .lợi thủy chiến ,có thể đoạt được thuyền bè.Quân hành ,ra cửa phương Tây có lửa bốc lên thì đại lợi .
độn dương ,cục 1 ,ngày Ất Canh , giờ Bính Tý ,Có phải sao Nhậm hay không ?(tra ngày giờ Bính Tuất cũng cùng)
*Cục 44 :
Kỳ Bính cùng cửu cương (?) sao Tâm tới cửa Đổ ,gặp ngày giờ Giáp tý gọi là Thiên Ất từ xung .quân hành nên đi ra cung Đoài ,ngồi cung Chấn ,có thể được đất 5.000 dặm .Ra cửa có người áo vàng từ phương Nam lại ,báo cho biết tin tức thì đại lợi .
*Cục 45 :
Kỳ Bính cùng Thái âm ,sao Ương tới cửa Cảnh gọi là Hỏa phần Côn cuơng .Chủ đại tướng ra quân 100 gặp phá trại ,chém đầu .Ra cửa gặp người áo vàng từ Tây lại :đại cát .
-độn dương ,cục 2 ,ngày Mậu Quý ,giờ Bính Thìn
-độn âm ,cục 7 ,ngày Mậu Quý ,giờ Bính thìn
*Cục 46 :
Kỳ Bính cùng Lục hợp sao Trụ tới cửa Tử ,gặp ngày giờ Mảo Mùi gọi là Thiên hà chuyển vận.Ra quân khg lợi ,chủ thương quân lính ,xe ngựa .Quân hành ,ra cửa có mưa nhỏ ,đi đến 300 dặm thấy đàn ngựa từ Bắc bay lại :khg lợi .
*Cục 47 :
Kỳ Bính cùng Chu tước sao Nhậm tới cửa Kinh gọi là Thái ất đắc lệnh .Quân hành ,ra cửa là có thể được thành trì ,chiến tất thắng ,công tất lấy được .Vì ở thời tiết Kinh trập ,quân đi có mây vàng từ cung Tốn nổi lên:đại cát .
*Cục 48:
Kỳ Bính cùng Câu trận sao Tâm tới cửa Khai vào trước Vũ thủy gọi là Hà khôi trực thời .Lợi thủy chiến ,có thể trói đầu địch .Quân đi qua phương Tây có tiếng trống :đại cát
-độn dương ,cục 8,ngày Bính Tân ,giờ Đinh Dậu
-độn âm ,cục 4 ,ngày giờ cùng
-độn dương ,cục 1 ,ngày Bính Tân ,giờ Giáp Ngọ
=0=
Kỳ Đinh :
*Cục 49:
Kỳ Đinh cùng Trực phù ,sao Nhậm tới của Hưu ,gặp ngày giờ Sửu Mùi gọi là Vũ tế thương giang (mưa tạnh trên sông Thương ).Ra quân nẻn cung Khảm ,ngồi cung Khôn :có thể đoạt trại,đốt lương ,dùng kế phục binh ,đại thắng .Quan đi 3 dặm có mưa nhỏ,gió Tây ,đại cát.
-độn dương ,cục 7 ,ngày Ất Canh ,giờ Đinh Sửu
-độn âm ,cục 4,ngày Mậu Quý ,giờ Đinh Tị
*Cục 50:
Kỳ Đinh cùng Thái âm sao Cầm tới cửa Sinh gọi là Thắng quang tranh vị .Ra quân khg lợi,chủ đại tướng gặp tai ương ,quân lính nhiều ách nạn .Quân hành nên thoái ,khg nên tiến.Ra cửa thấy gió Bắc nổi to :bất lợi .
-độn dương ,cục 8 ,ngày Đinh Nhâm ,giờ Ất Tị
*Cục 51 :
Kỳ Đinh cùng Lục hợp sao Nhậm tới cửa Thương gọi là Quần kê hóa Phượng .Chủ tướng nên ra cửa Chấn ,ngồi cung Ly :có thể phá địch 500 quân kị .,gặp gió Ngọ Mùi càng thắng .Quân đi ,có người già dắt con lại gặp :đại cát .
*Cục 52 :
Kỳ Đinh cùng Chu tước tới cửa Đổ ,gặp ngày giờ Dần Mão gọi là Hỏa luyện kim đan .Đại tướng ra quân từ cung Đoài :trước hung sau cát .Quân hành ra cửa gặp người đàn bà ôm con lại ,có đàn quạ bay kêu:đại cát .
-độn âm ,cục 4,cùng cách cục ,không biết có phải thiên bồng hay không?
-độn dương ,cục 2 ,ngày Bính Tân ,giờ Mậu Tý ,cùng độn dương cục 4 giống nhau.
*Cục 53 :
Kỳ Đinh cùng Câu trận sao Cầm tới cửa Cảnh gọi là Thử lạc khang bàn (chuột lạc bàn trầu ).Xuất quân thì trước thắng sau bại ,khg thành đại công .Quân ra cửa ,thấy phương Tây có gió bốc :khg lợi .
*Cục 54 :
Kỳ Đinh cùng Cửu thiên sao Ương tới cửa Tử ,gặp ngày giờ Tý Ngọ gọi là Cô chu độ giang .Đại tướng xuất quân nên ra cung Khảm ,ngồi doanh phương Đông ,có thể được đại tướng 3 viên ,chém đầu 3.000.Thiên tử ra quân có thể phục muôn nước .Xuất binh thấy phương Nam có mây năm sắc :đại cát .
*Cục 55 :
Kỳ Đnh cùng Lục hợp sao Tâm tới cửa Kinh gọi là Thái tuế tọa doanh .Nên xuất đại binh,8 phương đều lợi ,có thể được đất hàng ngàn dặm,quét sạch địch binh.Quân ra phương Nam có gió lớn nổi lên ,mây trắng trên đầu :đại cát .
*Cục 56 :
Kỳ Đinh cùng Trực phù sao Phụ tới cửa Khai gọi là Bắc biến Nam sơn .Chủ tướng ra quân đại thắng .Quân hành nên ra cung Tị ,ngồi doanh cung Chấn.Ra cửa có 2 bé con từ Bắc lại :đại cát .
-độn dương ,cục 3 ,ngày Ất Canh ,giờ Đinh Sửu
-độn âm ,cục 9 ,ngày Mậu Tý ,giờ Đinh Tị
*Cục 57:
Kỳ Đinh cùng Thái âm sao Bồng tới cửa Hưu,gặp ngày giờ Sửu Mùi gọi là Lôi chấn bách lý .Đại tướng ra quân đại lợi .Nên ra cung Chấn,được đất 200 dặm,chém đầu 500.Ra cửa gặp người đàn bà mặc áo hồng từ phương Tây lại :đại cát .
-độn dương ,cục 7 ,ngày Đinh Nhâm ,giờ Bính Tuất
-độn dương ,cục 3 cùng .
*Cục 58 -59 :
Kỳ Đinh cùng Lục hợp sao Phụ tới cửa Sinh gọi là Lục hợp lâm trận .Chủ đại tướng ra quân đại thắng .Quân ra cung Ly ,ngồi cung Chấn đánh thẳng vào dịch đầu,dùng công được .Ra cửa có gà gáy :đại cát .
-độn âm ,cục 3 ,ngày Đinh Nhâm ,giờ Canh Tý
*Cục 60:
Kỳ Đinh cùng Lục hợp sao Tâm tới cửa Đổ gọi là Ngọc nử phản diện.Chủ đại tướng ra quân khg lợi .Quân ra cung Tốn ,ngồi doanh cung x :có chút cát .Quân ra cửa ,đi 5 dặm gặp mưa nhỏ có gió ,đi 10 dặm có địch lại chiến :khg lợi .
*Cục 61 :
Kỳ Đinh cùng Chu tước sao Nhậm tới cửa Cảnh gọi là Lục Đinh xung trận .Xuất quân nên hướng về phương Tây ,ngồi doanh có địch phục ở phương Bắc .Có thể được đất 3 xứ .Ra cửa ,trên khg có mây 5 sắc .Đi được 3 dặm có đàn lợn :đại lợi .
*Cục 62 :
Kỳ Đinh cùng sao Nhậm tới cửa Tử gọi là Kim cương tảo địa (vàng cứng quét đất).Xuất quân nên hướng Nam ,lại nên ngồi cung Chấn .Chủ trước hung sau cát .Có thể được đầu người 5.000.Quân ra cửa gặp vị thuật sĩ hiến kế ách :đại lợi .
*Cục 63 :
Kỳ Đinh cùng Cửu thiên sao Phụ tới cửa Kinh gọi là Hà lạc trình tường .Nên xuất quân phương Nam ,ngồi doanh phương Đông .Nếu công thành cũng nên hướng cung Chấn ,3 ngày báo tiệp .Quân ra cửa 3 dặm thấy có khí lành (thụy khí ) từ Đông Nam lại :đại cát .
*Cục 64 :
Kỳ Đinh cùng Cửu thiên sao Cầm tới cửa Khai ,gọi là Thái bạch thùy quang (thái bạch rọi sáng ).Ra quân được thắng ,được nhiều vàng, báu .Quân hành nên ra cung Chấn ,ngồi doanh cung Càn .Đi 5 dặm có đàn chim Triện kêu ,đi 200 dặm ,người nhặt được đồ vật :đại cát .
*Cục 65 :
Kỳ Đinh cùng sao Bồng tới cửa Hưu,gặp ngày giờ Thìn Tuất gọi là Huỳnh hoặc sinh quang .Nên xuất trận cung Ly ,ngồi doanh cung Khảm .Nếu dùng hỏa công,có thể phá ấp địch ,bắt được thượng tướng .Ra cửa ,thấy người áo vàng từ Bắc lại thì khg lợi .
*Cục 66 :
Kỳ Đinh cùng trực phù sao Phụ tới cửa Sinh gọi là La hầu quá độ(sang sông) .Nên ra quân cung Tốn,ngồi doanh cung Khôn ,chủ phá địch 30 quân kị ,được đất 100 dặm,chém đầu 3.000.Ra quân cửa có 1 trận gió to thì khg lợi .
*Cục 67 :
Kỳ Đinh cùng Chu tước sao Tâm tới cửa Thương gọi là Nguyệt bột dương không (trăng lóe chổi trên khg ) .Ra quân khg lợi .Việc gấp chẳng thể dừng thì lấy bàn tay quỷ phù thủy (dĩ quỷ chưởng phù thủy ) phun phương Bắc thì có thể ra.Đi được 3 dặm ,có người kiểng chân từ tây Bắc lại báo thì đại lợi .
*Cục 68 :
Kỳ Đinh cùng Câu trận sao Cầm tới cửa Đổ gọi là Nguyệt đức lâm môn .Nên cho phó tướng ra trận có thể được đất 5 ngàn dặm.Ngồi doanh cung Đoài .Xuất quân phương Đông ,hướng Tây mà đi,có tiếng sấm ứng thì đại cát .
*Cục 69 :
Kỳ Đinh cùng Cửu thiên sao Nhậm tới cửa Cảnh gọi là Thiên Đức chiếu môn .Lợi phó tướng ra trận .Đi 5 dặm gặp phục binh ,khg thể chiến .Đi 2 dặm ,phương Đông có lửa sáng thì khg lợi .
*Cục 70 :
Kỳ Đinh cùng Cửu địa sao Trụ tới cửa Tử gọi là Âm dương bất giao .chủ Đại tướng ra quân có tai nạn cung tên .Quân ra khg nên phương Bắc ,lợi phương Tây Nam .Ngồi doanh cung Cấn có thể khỏi tai nạn ấy .Đi 3 dặm có người công sai cưởi ngựa :đại cát .
*Cục 71 :
Kỳ Đinh cùng Cửu thiên sao Nhậm tới cửa Kinh gọi là Tam thai đắc vị .Ra quân đại thắng .Nên xuất quân cung Cấn,ngồo doanh cung Khảm ,có thể được quân ngàn đầu ,đất ngàn dặm .Ra cửa có mưa nhỏ :đại cát .
*Cục 72 :
Kỳ Đinh cùng Câu trận sao Phụ tới cửa Khai gọi là Thụy sinh cửu đỉnh (ngọc sinh 9 đỉnh ).Chủ ra quân đại thắng ,4 phương đềulợi ,được thành trì đất cát ,lại được đầu thượng tướng .Quân đi 3 dặm có mây trắng từ Tây Bắc lại ,phương Đông gió nổi :đại cát ./.
Chào bạn Sonnh,
Bạn thử phương pháp xoay tròn, kết quả đăng cho mọi người biết nhé.
Vì sao VinhL nghỉ Phương Pháp Phi Tinh là Chân Truyền?
1) Phép Tôn trong Thái Ất củng đi theo Phi Tinh.
2) Nhật Gia Kỳ Môn củng đi theo Phi Tinh.
3) Huyền Không Đại Quái xuất từ Hoàng Thạch Công, củng dùng Phi Tinh.
Thật ra lúc trước (vài năm trước) VinhL đây củng dùng phương pháp vòng tròn vì nghỉ rằng sao trên trời thường thì quay vòng chứ sao lại đi theo đường Lường Thiên Xích của Phi Tinh. Nhưng càng đi sâu vào thì thấy càng có nhiều chứng cứ Phi Tinh chính là phương pháp chân truyền.
http://users.accesscomm.ca/john/galaxypattern.gif
The Galaxy Pattern is a spherical pattern created when a ring of 16 equally spaced members is rotating at a constant rate and at the same time is precessing at 90 degrees to the rotational plane around the same center at exactly twice that rate. It is composed of eight identical closed pathways separated by 45 degrees. Each pathway contains two members, which are always opposite each other and moving in exactly opposite directions. All members are of course always in the same two-dimensional plane.
Bạn vào đây xem hình Animation của Atom và Galaxy quay như thế nào nhé.
http://users.accesscomm.ca/john/meth...animation.html
The Galaxy Pattern is a spherical pattern created when a ring of 16 equally spaced members is rotating at a constant rate and at the same time is precessing at 90 degrees to the rotational plane around the same center at exactly twice that rate. It is composed of eight identical closed pathways separated by 45 degrees. Each pathway contains two members, which are always opposite each other and moving in exactly opposite directions. All members are of course always in the same two-dimensional plane.
Dịch lại (igoogle)
Kiểu Thiên Hà là một mẫu hình cầu tạo ra khi một vòng 16 khoảng cách bình đẳng với các thành viên luân chuyển tốc độ không đổi và đồng thời precessing tại 90 độ với mặt phẳng quay quanh tâm cùng chính xác hai lần tỷ lệ đó. Đô thị này gồm tám con đường giống hệt nhau đóng ngăn cách bởi 45 độ. Mỗi lộ trình có chứa hai thành viên, luôn có đối đầu với nhau và chuyển động trong cách chính xác đối diện với phương hướng. Tất cả các thành viên là tất nhiên luôn luôn trong cùng một máy bay hai chiều.
Bát Quái, Âm Dương Thuậnt Nghịch 16 đường????
Kỳ Ất Thiên Địa Cửa Tữ
+Sao_T1(6,6,6,6,6,6,8,6,4), -Sao_T1(7,7,7,7,7,7,5,7,9), ThầnKT = 9
+Sao_T2(7,7,7,7,7,7,9,7,5), -Sao_T2(6,6,6,6,6,6,4,6,8), Thần KT = 8
+Sao_T3(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -Sao_T3(5,5,5,5,5,5,3,5,7), ThầnKT = 7
+Sao_T4(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -Sao_T4(4,4,4,4,4,4,2,4,6), ThầnKT = 6
+Sao_T5(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -Sao_T5(3,3,3,3,3,3,1,3,5), ThầnKT = 5
+Sao_T6(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -Sao_T6(2,2,2,2,2,2,9,2,4), ThầnKT = 4
ThầnKT(9,8,7,6,5,4)
ThầnKĐ(9,8,7,6,5,4,3,2,1)
+CụcKT_T1(7,7,7,7,7,7,9,7,5), -CụcKT_T1(6,6,6,6,6,6,4,6,8)
+CụcKT_T2(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -CụcKT_T2(5,5,5,5,5,5,3,5,7)
+CụcKT_T3(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -CụcKT_T3(4,4,4,4,4,4,2,4,6)
+CụcKT_T4(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -CụcKT_T4(3,3,3,3,3,3,1,3,5)
+CụcKT_T5(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -CụcKT_T5(2,2,2,2,2,2,9,2,4)
+CụcKT_T6(3,3,3,3,3,3,5,3,1), -CụcKT_T6(1,1,1,1,1,1,8,1,3)
+CụcKĐ_Tx(7,8,9,1,2,3,6,5,4), -CụcKĐ_Tx(6,5,4,3,2,1,7,8,9)
Kỳ Ất Thiên Địa Cửa Thương
+Sao_T1(7,7,7,7,7,7,9,7,5), -Sao_T1(8,8,8,8,8,8,6,8,1), ThầnKT = 9
+Sao_T2(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -Sao_T2(7,7,7,7,7,7,5,7,9), Thần KT = 8
+Sao_T3(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -Sao_T3(6,6,6,6,6,6,4,6,8), ThầnKT = 7
+Sao_T4(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -Sao_T4(5,5,5,5,5,5,3,5,7), ThầnKT = 6
+Sao_T5(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -Sao_T5(4,4,4,4,4,4,2,4,6), ThầnKT = 5
+Sao_T6(3,3,3,3,3,3,5,3,1), -Sao_T6(3,3,3,3,3,3,1,3,5), ThầnKT = 4
ThầnKT(9,8,7,6,5,4)
ThầnKĐ(9,8,7,6,5,4,3,2,1)
+CụcKT_T1(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -CụcKT_T1(7,7,7,7,7,7,5,7,9)
+CụcKT_T2(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -CụcKT_T2(6,6,6,6,6,6,4,6,8)
+CụcKT_T3(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -CụcKT_T3(5,5,5,5,5,5,3,5,7)
+CụcKT_T4(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -CụcKT_T4(4,4,4,4,4,4,2,4,6)
+CụcKT_T5(3,3,3,3,3,3,5,3,1), -CụcKT_T5(3,3,3,3,3,3,1,3,5)
+CụcKT_T6(2,2,2,2,2,2,6,4,2), -CụcKT_T6(2,2,2,2,2,2,9,2,4)
+CụcKĐ_Tx(8,9,1,2,3,4,7,6,5), -CụcKĐ_Tx(7,6,5,4,3,2,8,9,1)
Chào các bạn
Chúng ta cùng đi tìm hai cách Kỳ Ất gặp Cửa Tử nhé.
Sắp xếp lại bản Kỳ Ất Thiên Địa Cửa Tử theo Kỳ Địa, hoặc Kỳ Thiên để dể dùng.
Kỳ Ất Thiên Địa Cửa Tữ
+Sao_T1(6,6,6,6,6,6,8,6,4), -Sao_T1(7,7,7,7,7,7,5,7,9), ThầnKT = 9
+Sao_T2(7,7,7,7,7,7,9,7,5), -Sao_T2(6,6,6,6,6,6,4,6,8), Thần KT = 8
+Sao_T3(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -Sao_T3(5,5,5,5,5,5,3,5,7), ThầnKT = 7
+Sao_T4(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -Sao_T4(4,4,4,4,4,4,2,4,6), ThầnKT = 6
+Sao_T5(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -Sao_T5(3,3,3,3,3,3,1,3,5), ThầnKT = 5
+Sao_T6(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -Sao_T6(2,2,2,2,2,2,9,2,4), ThầnKT = 4
ThầnKT(9,8,7,6,5,4)
+CụcKT_T1(7,7,7,7,7,7,9,7,5), -CụcKT_T1(6,6,6,6,6,6,4,6,8)
+CụcKT_T2(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -CụcKT_T2(5,5,5,5,5,5,3,5,7)
+CụcKT_T3(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -CụcKT_T3(4,4,4,4,4,4,2,4,6)
+CụcKT_T4(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -CụcKT_T4(3,3,3,3,3,3,1,3,5)
+CụcKT_T5(2,2,2,2,2,2,4,2,9), -CụcKT_T5(2,2,2,2,2,2,9,2,4)
+CụcKT_T6(3,3,3,3,3,3,5,3,1), -CụcKT_T6(1,1,1,1,1,1,8,1,3)
ThầnKĐ(9,8,7,6,5,4,3,2,1)
+CụcKĐ_Tx(7,8,9,1,2,3,6,5,4), -CụcKĐ_Tx(6,5,4,3,2,1,7,8,9)
+: Dương Độn
-: Âm Độn
(,,,): Phi Can Giờ = (Mậu,Kỷ,Canh,Tân,Nhâm,Quý,Đinh,Bính,Ất)
Sao: Bồng 1, Nhuế 2, Xung 3, Phụ 4, Cầm 5, Tâm 6, Trụ 7, Nhậm 8, Anh 9
Cửa: Hưu 1, Tử 2, Thương 3, Đổ 4, Trung 5, Khai 6, Kinh 7, Sinh 8, Cảnh 9
Thần: Phù 1, Xà 2, Âm 3, Hợp 4, Trận/Hổ 5, Thường 6, Tước/Vũ 7, Địa 8, Thiên 9
ThầnKT: Thần khi dùng Kỳ ở Thiên Bàn
ThầnKĐ: Thần khi dùng Kỳ ở Địa Bàn
CụcKT: Cục khi dùng Kỳ ở Thiên Bàn
CụcKĐ: Cục khi dùng Kỳ ở Địa Bàn.
*Cục 6: Ất + Tử + Tâm + Bạch Hổ (Câu Trần)
Kỳ Ất cùng bạch hổ,sao Tâm tới cửa Tử,gọi là Ngũ hổ lâm môn,.Nên ra phương Tị,ngồi cung Ngọ.Chính tướng đại thắng ,được đất,đầu người,xe ngựa ,của cải.Quân đi ra cửa có khí mây tía,,đi 3 dặm có người che tán vàng đến thì đại cát.
Dùng Kỳ Thiên ta xem Bát Thần, Trận/Hổ là số 5, tra ThầnKT(9,8,7,6,5,4) thì số 5 ở vào tuần Giáp Thìn tức _T5, nhưng +Sao_T5(1,1,1,1,1,1,3,1,8), -Sao_T5(3,3,3,3,3,3,1,3,5), ThầnKT = 5, lại không có sao Tâm (số 6), nhưng vậy phương pháp dùng Kỳ Thiên sẻ không bao giờ có Cách Ngũ hổ lâm môn!!!
Nay ta dùng Kỳ Địa, xem Bát Thần ThầnKĐ(9,8,7,6,5,4,3,2,1), thì thấy số 5 ở Phi Can là Nhâm, tức ta phải xem ở các hàng +/-Sao_T1 đến +/-Sao_T6, vị trí của Phi Can Nhâm có sao Tâm (tức số 6).
Ta thấy được số 6 ở Phi Can Nhâm hai dãy sau:
+Sao_T1(6,6,6,6,6,6,8,6,4), _T1 là Giáp Tý, nên Nhâm là Nhâm Thân
-Sao_T2(6,6,6,6,6,6,4,6,8), _T2 là Giáp Tuất, nên Nhâm là Nhâm Ngọ
Tra các dãy cục ta có
+CụcKĐ_Tx(7,8,9,1,2,3,6,5,4), -CụcKĐ_Tx(6,5,4,3,2,1,7,8,9)
Dương Độn 2 Cục, giờ Nhâm Thân
Âm Độn 2 Cục, giờ Nhâm Ngọ
Đúng ra thì chỉ có Âm Độn mới dùng Bạch Hổ, vì Dương Độn thì Thần là Câu Trận
* cục 14 : Ất + Tử + Nhậm + Tước
Kỳ Ất cùng Chu tước ,sao Nhậm tới cửa Tử gọi là Điểu chiêm khô chi ..Xuất quân chủ sỉ tốt tan tác .Việc làm khg toại ,chiến khg thành công .Quân hành ,ra cửa có Nhạn từ Nam bay lại thì khg cát .
-độn dương ,cục 9 ,ngày Ất Canh ,giờ Bính Tý (Bính Tuất chứ không phải Bính Tý, vì Bính Tý, Ất gặp Nhậm, cửa Thương+Cửu Địa)
Dùng Kỳ Thiên, ta tra ThầnKT(9,8,7,6,5,4), Tước/Vũ là số 7 ở vị trí thứ 3, tức tuần Giáp Thân.
Ta tra tuần Giáp Thân, xem có sao Nhậm (số 8) không:
+Sao_T3(8,8,8,8,8,8,1,8,6), -Sao_T3(5,5,5,5,5,5,3,5,7), ThầnKT = 7
Ta thấy từ Mậu đến Quý, và Phi Can Bính đều gặp sao Nhậm. Xét cục ta thấy tuần _T3 Giáp Thân
+CụcKT_T3(9,9,9,9,9,9,2,9,7), -CụcKT_T3(4,4,4,4,4,4,2,4,6)
từ Mậu đến Quý, và Bính đều là Dương 9 Cục.
Vậy theo Kỳ Thiên ta có
Dương 9 Cục, giờ Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, ..., Quý Tỵ, và Bính Tuất đều có cách Điểu Chiêm Khô Chi, Ất + Tử + Nhậm + Tước.
Dùng Kỳ Địa, ta tra ThầnKĐ(9,8,7,6,5,4,3,2,1), thì Tước/Vũ 7 ở vị trí số 3, tức Phi Can Canh, ta xét các dãy sao thì +Sao_T3(8,8,8,8,8,8,1,8,6) có sao Nhậm (số 8) ở vị trí Canh. Tuần _T3 Giáp Thân, Canh là Canh Dần
Tra bản Cục cho Dương Độn thì +CụcKĐ_Tx(7,8,9,1,2,3,6,5,4), Canh phải là 9 Cục.
Như vậy theo Kỳ Địa thì ta có
Dương Độn 9 Cục, giờ Canh Dần
Giờ Canh Dần Dương Độn 9 Cục, Kỳ Ất Thiên hay Địa đều có Sao Nhậm và cửa Tử, như vậy đây là giờ Phục Ngâm vì Giáp Thân Canh gia Thời Can Canh, vì vậy ta thấy lời bàn cho nên Cục 14 nói:
Xuất quân chủ sỉ tốt tan tác .Việc làm khg toại ,chiến khg thành công .Quân hành ,ra cửa có Nhạn từ Nam bay lại thì khg cát. Gặp Nhạn (điềm của Tước) bay từ Nam lại thì ứng điềm xấu rồi!!!
易者,日月也。经者,过也、顺也, 日月的经过。是华夏民族对客观事物 总结。也是对农耕开始的指南,何时 耕种收取的记时表。发象莫过四时( 四季)法象乃办法,就是这种办法, 天地运转来比喻,也是其大无外,其 小无内。悬象莫过乎日月,就比如悬 天空的太阳和月亮来坐准绳,去感觉 气之变化。变象莫过四时,也就是用 太阳的变化分出寒热温凉,亦称四时 四季寒暑往来。四季分八节,定八卦 分阴阳,把八个节气和八种人物来比 喻天道之运转,称天人和一,去合自 融合,求生存的一种概念叫易经。
八卦者,天、地、风、雷、水、火、 、泽是八种客观物质和时空。天代表 大雄壮,持之一恒的日复一日。地代 表坤卦,它能乘载万物生生不息为万 生灵所付出,称为坤。顺乎于天,明 着人们要孝发这一精神,生生不息、 寒来署往、源源不断的生息。风是风 ,在卦为巽,它主宰着四季之变化, 气之传送,缓急有恒,永不静止的为 万物生灵而润通,执万物生灵生死之 柄。雷为震卦,是震动万物生息之警 ,(惊蛰时雷声始)。万物潜藏时它 可震醒万物而促春归,给万物之告令 机和无私之奉献。水是坎卦它可润万 而生,使生灵生命得以延续之本,源 源不断的奉献之德,故坎劳也。
火为太阳,在卦为离。它持之一恒永 不息的为万物照耀天光,使万物光彩 不偏不离的奉献它的伟大。山在卦为 艮,是高大林立于大地,也是宝藏之 。泽在卦为兑为海洋河溪,它孕育万 生灵之源泉是大地通畅之所,是推陈 出新和变化之本。
华夏的易经是一本客观微物哲学,是 种客观物质的阐述,是四季寒热温凉 分辨。又分了八宫,其各有词,更精 细的推演了爻变爻词,是告戒人们如 对待自然变化,并演绎人物做事等。
古云:美玉亦有玷结,易经虽精细, 在日常中所占之事于卦中的词毫无相 之处。古人则动心思,想办法去完美 它。就加入了五行,(自秦焚书后, 山遁藏,无法可推。)这样“五行” 成了断之准绳。五行在八卦的位置至 高无上,使八卦机械呆板。更严重的 把八卦变成了五卦。他们的办法是我 者为子孙,生我者为父母,我克者为 妻才,克我者为官鬼,比和者为兄弟 木克土,土克水,水克火,火克金, 克木说来到去,就是生和克的五种关 系,非常明白的成了五卦。我也不论 能说六国不反,你能上天入地,这所 八卦是八种概念,眼下只剩下五个概 念,明白的丢了三个概念。三个概念 八卦是不能分开的,八卦本来是八, 在推算时,却逢五进一,什么时候也 不能逢八进一。单言之旷世之欺诈, 白的魔术易经。其实华夏民族的易经 无五行的立足地。而后世的文仕墨客 从中周旋,叫什么文王八卦,卜筮正 ,火珠林等,他们又吹嘘着这是文王 著,他是皇上。郭璞著,他是大官, 能的很,火珠林是麻衣道所著,亦为 神。假如这些书真是他们所著,那他 也是个数盲。
当今社会,已经能上天入地了,还有 识十个数的呆子。但是这群呆子,有 别已成名人,忽悠术已成功。还有一 群人受骗而头痛,他们不知所措的彷 ,实不知金什么时候克木,木什么时 克土,什么时候木悔金,土悔木。家 中的钱财毫尽,还是一盆污水。我有 个学员,他学过邵伟华的八卦预测, 过程儒善的金锁玉关,学过李涵臣的 四柱,杜茂征的宫廷奇门,学过黄鉴 鬼魂等。向我学连山时他老婆一听又 八卦非常生气,就说反正是五行生克 ,不能再学。后来她才知道,这次学 不是五行,非常高兴的说,当事者迷 原来我就感觉不对,你们学八卦怎能 用五行呢?八和五成什么比例呀。我 学中医的,五行在医学里是实体对客 ,而八卦八个,五行五个,这概念不 成正比。我如何说他就不信,结果花 家中聚蓄后才知是上当。
我非常看重这位家庭主妇,她是旁观 就清楚了八卦中的五行是欺诈,很了 起。我告诉她,我们的连山学说不论 五行,我比你更清楚所谓的八卦必须 八个概念,绝不能用五个概念,用五 去偷梁换柱,是欺人欺己。五行是对 易经的歪曲,是很多人头痛不解的难 。只有等连山出版方见分晓。
theo tôi nghĩ thì cũng không cần phải tranh luận đâu là phương pháp chân truyền làm gì bởi vì ngay trong các môn thuật số cũng chia ra làm nhiều môn như độn giáp lục nhâm, tử vi.
Ta hãy cứ coi như đấy là tồn tại của lịch sử và đây là hai chi phái khác nhau trong môn độn giáp.
Quan trọng là nó giúp ích được đến đâu trong ứng dụng.
Tuy nhiên tôi chỉ nói là tôi thấy phương pháp của bác là chân truyền nhưng cách tính còn một số điểm chưa ổn chứ ko nói ff xoay vòng là chân truyền.
Xét một cách biện chứng thì ta cũng không nên thần thánh hóa quá mức một cá nhân mà nên có cái nhìn biện chứng 1 chút
Ta cứ coi hoàng thạch công là một bộ óc siêu việt thời cổ được nhắc đến như là thủy tổ của môn độn giáp, tuy rất có thể ông kế thừa và tổng hợp từ nhiều nguồn khác nữa mà ta chưa biết.
Vậy thì những đời sau mấy ngàn năm của trung quốc tất nhiên là cũng có nhiều bộ óc siêu việt mà ta chưa biết như lưu bá ôn...hoặc nhiều nhân vật khác nữa mà ta chưa biết thì việc phát triển một học thuật của hoàng thạch công thành những môn học mới cũng là chuyện bình thường của sự phát triển khoa học như các môn khoa học tây âu mà thôi. Có điều các môn học của tây âu thường được chứng minh và nghiệm thu bởi viện hàn lâm và hội đồng khoa học. Tuy nhiên cũng có những cái không chứng minh được (như bổ đề cơ bản chẳn hạn) mà chỉ tạm được công nhận.
Thì ở đây những môn học của trung hoa cổ tôi nghĩ cũng như vậy, vẫn có những bí mật(cả á và âu) và tính huyền bí và chính những cái đó mới tạo nên sức hấp dẫn
Chào bạn Sonnh,
Rất mong bạn đăng ra những chổ chưa ổn trong cách tính để chúng ta cùng bàn luận.
Thanks
thực ra tôi mới nghiên cứu kỳ môn và kiến thức về môn này cũng chưa được nhiều,nhất là trong box này toàn các bác thông thạo về hán học và trình độ tài liệu cũng nhiều nên tốt nhất tôi nghĩ tôi cứ nói ít nghe nhiều cái đã.
Thỉnh thoảng tôi cũng cứ mạnh bạo nói thẳng ý nghĩ của tôi để có một cái nhìn và không khí mới nào đó về môn này hay chăng.
Rất cảm ơn các bác đã mở topic này để những người muốn học có chỗ giao lưu.
Nhũng trao đổi chi tiết bác có thể liên lạc với tôi bằng PM hoặc Mail.
Chào bạn Sonnh,
Bạn đừng ngại, cứ đăng lên để chia sẻ kiến thức với nhau, tuy bạn nghỉ những gì bạn biết đối với bạn là cơ bản, không quan trọng, nhưng nó có thể là một khía cảnh mới, một cái nhìn ở góc độ khác. Chúng ta chỉ bàn luận về học thuật, không đã kích, khinh thường ai cả. Thật ra ở phía trên khi mình nói :
"Bạn thử phương pháp xoay tròn, kết quả đăng cho mọi người biết nhé"
là với sự thành tâm, không phải ý coi thường bạn đâu. Bạn đừng hiểu lầm.
Nhiều năm trước thì mình củng như bạn thôi, kiến thức lờ mờ, đụng đâu hỏi đó, có hỏi thì mới có hiểu sâu hơn mà, bạn đừng sợ người ta nói mình không biết gì, đừng sợ sự khinh thường của người ta, mình học để mình hiểu thì chấp nhất chi sự thường tình đó, như vậy mới tiến xa.
Thôi tùy bạn nhé.
Thân
thực ra không phải tôi sợ người ta khinh thường đâu, tôi nghĩ lên trên này tốt nhất cứ học hỏi cái đã, đây là 1 box rất hay vả lại tôi lại thiên về ứng dụng nên những thứ tính toán phức tạp mà ko có ứng dụng tôi thường chỉ tính thử qua rồi bỏ đó.
Tuy nhiên trên này tôi thấy các bác kiến thức rất tốt nên cũng muốn nghe và học hỏi cái đã.
Về công dụng của môn độn giáp này tôi chưa thử kết hợp với thực tế nhiều nên cũng muốn chiêm nghiệm thêm.
Nếu có dịp thuận tiện sẽ trao đổi cùng các bác.
Bác thử nghĩ xem môn độn giáp là hành binh bố trận, khi áp dụng nếu sai làm và không nắm chắc phương pháp thì hậu quả sẽ như thế nào??? còn nếu chỉ bàn cho vui thì cũng như luận văn tốt nghiệp tiến sỹ nhà mình làm xong lại vứt xó, hê hế
cũng có lẽ vì lẽ đó nên người ta mới nói, thông hiểu được môn này rất ít người là vì thế
ất gia hưu ầy zà bác nào có đủ 72 cục có ví dụ của htc không, em thì em không nghĩ vào ngày đó giờ đó cửa đó mình có 1 người mà lại đánh được mấy thàng cầm súng lục ,
có chăng mình cứ thử tính cho vui thôi chứ chớ có dại
bác nào có 72 cục đầy đủ của hoàng thạch công thì cho em mượn em xin cảm ơn
em tính xong bác hỏi gì em cũng xin trả lời hết
em đã tính thử mấy cách và thấy rất suôn sẻ em hỏi mượn sách các bác cứ giữ khư khư hế hế có mỗi bác thiên hung wu xì ra cho em một ít xin cảm ơn bác thiên hung wu:thumbs_down:
Chào bạn Sonnh,
72 Cục HTC thì bác Wu đã đăng lên hết rồi đó bạn, không thiếu một cục. Chỉ có bao nhiêu thôi. Không dẫn giải, không có đồ họa. Vài cục có thí dụ ngày giờ, nhiều cục không có.
Bạn nghiên cứu nhiều về Lý Học Đông Phương bạn sẻ hiểu cổ nhân thích ngắn gọn, cô đụng tối đa nên hậu nhân phải suy nghỉ nát óc mới hiểu họ muốn nói cái gì, nhưng 90% lại hiểu sai nên dẫn đến cái tên Khoa Học Huyền Bí đó, và thêm lắm lắm chi phái. :-)))
thực sự hôm nay tôi tính thử một số ví dụ và đã có kết quả
tuy nhiên tôi không nghĩ đây là một công cụ vạn năng.
Có thể nó sẽ mở ra một hướng mới cho những nghiên cứu ứng dụng của tôi
Nhưng tôi nghĩ không có cái gì là tuyệt đối
Tuy nhiên cũng thật là vui khi có một kết quả.
Cũng cảm ơn bác khi đã khởi xướng topic này
Chào bạn,
Tài giỏi đến đâu rồi củng phải nhập thổ.
Không Minh đốt đèn cầu thọ nhưng củng không ngoài vận số.
Học để Biết, để Hiểu, để Ngộ, để Chấp Nhận và đến lúc vào lòng đất mình có thể nói,
không Hối.
Mình học và nghiên cứu tại vì mình thích, chỉ có vậy thôi, đơn giản. Không bao giờ nghỉ học để thắng trận hay học để hơn thua. Thích thì học, không thích thì để sang một bên, học cái khác. Lấy sự nghiên cứu, suy ngẩm, ngộ ra làm thú vui của đời (Hobby).
Ta sinh ở đời vì cái Nghiệp,
Sống để trả nghiệp, mà vẫn Vui,
Vui vẻ chấp nhận vì ta Biết,
Đến lúc ra đi là trở về:-))
Chào bạn Sonnh,
Thí dụ nào mình nói sai, mà bạn tính đúng, xin cho biết.
tôi không có ý hơn thua ở đây, căn bản mình vui vì đã cất được trút được gánh nặng đau đầu khi nghiên cứu môn này.
Mục tiêu của tôi vẫn là ứng dụng nên tôi nghĩ vẫn cần tiếp tục chiêm nghiệm để ứng dụng vào cuộc sống. Để đón lành tránh dữ
Thứ 2 ý tôi là không nên thần thánh hóa cá nhân mà nên có cái nhìn biện chứng một chút , không phủ nhận các bậc thầy về phong thuỷ nhưng cũng nên nhận mặt khác một cách biện chứng, phong thủy có tác dụng đến đâu, tránh thần thánh hóa, ý tôi là vậy thôi
ví dụ như mổ ruột thừa thì không nên dùng đông y
-tôi thì nghĩ không phải người xưa học cho vui đâu
giai cấp thống trị bao giờ cũng sử dụng khoa học để thống trị thiên hạ
đây là thời cổ như thế là siêu lắm rồi
Bây h thì vũ khí, bom nguyên tử, công nghệ cao....bí mật công nghệ, của các nước phương tây ....
Tất cả nhứng thứ có thể lập trình theo công thức bọn tây nó không thua mình, kể cả thuật số, vậy phải nên biết điểm mạnh và yếu của mình
cái đó trong kinh tế gọi là lợi thế cạnh tranh
@vinhl thực sự tôi rất mến bác vì những sự tâm huyết của bác đối với môn độn giáp
nếu có điều kiện tôi muốn mời bác đi ca fe để cùng trao đổi thoải mái hơn
nhưng hình như bác lại đang ở cacnada thì phải nếu có dịp ở hà nội bác có thể nhắn tin cho tôi đi ca fe cà pháo đàm đạo học thuật
thực sự đâu là 1 room rất bổ ích toàn những người có học thức cao cả tây học lẫn hán học được giao lưu với các bác cũng là sự thú vị và mở mang rất nhiều đối với tôi
Chào bạn Sonnh,
Mình thì sống ở Canada lâu rồi, chưa có dịp biết qua Hà Nội, nếu có dịp về VN nhất định ra xứ Hà, lúc đó bạn đừng trách mình làm phiền tìm đến bạn nhé:-)
Thanks