Đời là một sự biến dịch không ngừng
Đời là một sự biến dịch không ngừng
Đức Hộ-Pháp buột lời than cho nhơn-loại rằng:
“Ngày giờ nào nhơn-sanh cũng tìm phương an-ủi cho bớt thống-khổ, kiếm phương an-ủi; tìm cùng đáo-để như tìm gió theo mây, chạy đến gõ cửa Đức Khổng-Phu-Tử:
“Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ tâm-hồn của tôi không ?”
Đức khổng-phu-Tử trả lời:
- Phương chuyển thế không cùng, dầu đoạt được bí-pháp lấy Trung-dung cũng chưa thỏa-mãn.
Sang gõ cửa Phật Thích-Ca:
“Phật có thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm-hồn của tôi chăng?”
Phật đem chơn-lý trước mắt là Sanh, lão, Bịnh, tử, ấy là chơn-lý.
Người mới tự xét: Tôi không muốn sanh mà ai sanh ra tôi chi, để tôi phải chịu khổ thế này?
Sống, tôi không muốn sống, vì sống là gốc sản-xuất tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ. Cũng không thỏa-mãn tâm-hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì !.
Đến gõ cửa Lão-Tử:
- Bạch Ngài, có món thuốc gì an-ủi tâm-hồn tôi không ?
- Bảo, cứ giữ đạo-đức làm căn-bản, thóat mình ra khỏi thúc-phược thất tình, lên non phủi kiếp oan-khiên, tìm nơi tịch-mịch an-nhàn thân tự-toại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ-mộng gì thoát khổ được.
Nghe lời, lên núi ở, mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn, thì khó nhọc trần-ai khổ nhộng. Đói, tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng ra ăn trớt.
Đến gõ cửa Thánh Jésus De Nazareth hỏi:
- Đấng Cứu-Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm-hồn tôi không?
-Trả lời: Nếu các Ngươi quả-quyết nhìn-nhận làm con cái Đức Chúa Trời, tức là Đức Chí-Tôn, làm như Người làm, mới mong an-ủi tâm-hồn được. Trong khuôn-khổ, phương-pháp làm con cái của Đức Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát.
Cả thảy không chối, cũng có kẻ an-ủi được nhờ đức-tin vững-vàng, còn phần nhiều ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí-Tôn chút nào tất cả. Thất chí nữa, hết tìm ai!”
Cách lập thành Bát-quái Tiên-Thiên:
1- Cách lập thành Bát-quái Tiên-Thiên:
Khi nói đến Đạo là nói đến đầu mối ÂM DƯƠNG. Âm dương tương-hiệp mới phát khởi càn khôn, tức là Nhứt khí Hư-vô sanh Lưỡng-nghi, nghĩa là ánh Thái-cực biến tướng ra phân làm hai ngôi: âm-quang và dương-quang. Ví bằng hai ngôi này muốn biến-sanh ra nữa thì cần phải tương-hiệp, nếu không tương-hiệp thì không thế nào sanh biến thêm được . Nếu âm dương mà để riêng ra, thì hai cũng vẫn là hai.
Muốn âm dương tương-hiệp nghĩa là phải đặt chồng lên nhau thành một góc vuông, điểm gặp nhau là điểm 0, đó gọi là Thái-cực làm căn-bản. Bởi có hiệp với ngôi Thái-cực mới thành ra bốn, ấy gọi Lưỡng-nghi sinh Tứ-tượng. Nếu muốn biến ra thêm nữa thì 4 ấy cũng vẫn phải nhập lại vào tâm mới có thể biến ra được mà thành 8 cánh. Gọi là Tứ tượng biến Bát-quái.
Khởi đầu: vua Phục-Hi ngẩng lên xem Thiên-văn, cúi xuống thì xét lý đất, gần thì lấy thân mình mà suy-nghiệm. Ngài mới đặt ra những nét chẵn, lẻ tức là vạch liền tượng dương vạch đứt tượng âm cũng từ trong lý tính của nam, nữ mà ra để làm chuẩn, định cho cái âm dương ấy. Lấy hai điểm này làm gốc, khởi đầu, nên luôn luôn điểm chuẩn đặt ở dưới hết của quẻ. Hào, tính từ dưới tính lên. Đọc quẻ từ trên đọc xuống.
Giai-đoạn kế mới thêm nét âm dương nữa cho mỗi cái gốc đó, để lần-lượt biến-hóa thêm, theo luật song-tiến-số (nghĩa là cứ gấp đôi lên) tức là nếu lấy dương làm gốc rồi thêm dương nữa thành ra:
- Hai nét dương (số 1) gọi là Thái-dương.
- Cũng từ gốc dương thêm nét âm lên trên thành ra (số 2) gọi là Thiếu-âm.
- Tới gốc âm cũng qua hai lần biến-hóa, tiếp-tục thêm dương, thêm âm sẽ có (số 3) là Thiếu-dương và (số 4) là Thái-âm.
Thái là rất, là ròng một thứ; thái-dương là rất dương, cho nên tượng bằng hai vạch liền; thái-âm là rất âm, tượng bằng hai vạch đứt.
Thiếu là trẻ, nghĩa là mới sinh ra, nên đặt lên trên, vì nét âm mới sinh nên gọi là Thiếu-âm cũng như nét dương mới sinh nên gọi là Thiếu-dương
Họp chung gọi là tứ-tượng, tức là bốn hình tượng. Tứ-tượng có một vị-thế rất quan-trọng, không thể không nhớ kỹ được; từ cái phù-hiệu cho đến con số biểu-tượng của nó. Đó là tứ-tượng đặt trên đường thẳng