càng lúc khẩu khí càng lẫy lừng. như con ngựa hung hẵn chẳng chịu nghe lời thì tự đâm đầu xuống vực sâu thôi
Printable View
càng lúc khẩu khí càng lẫy lừng. như con ngựa hung hẵn chẳng chịu nghe lời thì tự đâm đầu xuống vực sâu thôi
Bây giờ, chính Hòa Thượng Thích Trí Tịnh đã nói như trên, chứng tỏ đã tiến tới đạo rồi, Ngài chỉ không nói hết ra thôi, chúng ta chờ xem ngày Hoà Thượng vãng sinh về Tây phương Cực Lạc như thế nào?
Hihi VANG SANH CUC lạc làm SAO DƯỢC ĐÂY ,,hihi khi ÔNG TA CHNAG CHÂN CHÁNH, Tâm như phàm phu á
các bạn thân mến trong thời mạt pháp ,khó nhận biệt được chổ chân thật của nó ,trong các pháp phải có đúng có sai thì mới có có chân lý theo tôi chúng ta không nên nhìn sai đúng của người mà sinh tâm,họ đang ở trong nhân quả thì sẻ rơi vào nhân quả đừng vì nhân quả của người mà ta tạo thêm nhân quả cho ta,theo cái nhìn của tôi là đúng sai nơi mọi người ai gieo nhân nào họ sẻ gặt quả đó,không khéo thì củng giống như đá banh có mổi 1 trái banh người nào củng dành cuối cùng banh vẩn là banh,còn người thì kẻ trọ giò người mẻ trán,,,bình thân bình thân,,,,,,
XI). HT TTL: Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người. Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe, những tánh này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, hằng giác, sáng suốt vô hạn, thế mà lại chui vào cái đải da hôi thúi. Thiền Sư Triệu Châu trả lời cho một thiền tăng hỏi đạo: biết mà cố phạm. Xưa Ðức Phật cho những luận thuyết này là những loại luận thuyết trườn uốn như con lươn… Kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh phát triển của Ðại Thừa, do người sau viết ra mạo nhận là Phật thuyết, nên lối lý luận thiếu chân thật, không logic, thường mâu thuẫn, v.v... Kinh này chỉ dạy cho chúng ta thấy Phật Tánh thường hằng sáng suốt từ vô thủy cho đến nay. Tất cả chúng sanh từ loài côn trùng, cầm thú đến loài người đều có, có mà ngu như con bò, nên thường chịu khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Thà là chịu ngu như loài cầm thú còn hơn có Tánh Giác mà lại ngu thì mới buồn cười cho loại kinh sách xảo ngôn. Suy nghĩ chút xíu, chúng ta sẽ thấy rất nhiều cái sai trong kinh này ..[ĐVXP-Tập 8]
XI). Phản biện:
1). HT TTL nói rằng: “Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người. Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe, những tánh này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, hằng giác, sáng suốt vô hạn, thế mà lại chui vào cái đãy da hôi thúi” là miệt thị qúa đáng; Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một Kinh khó hiểu nên nhiều người đọc không nắm được yếu chỉ của Kinh, nếu không hiểu nghĩa Kinh mà nói rằng Kinh Lăng Nghiêm lừa đảo mọi người thì không nên nói, bởi vì:
Tánh nghe tánh thấy v.v… biểu trưng cho tánh Bồ Đề, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, sáng suốt vô hạn, nó thường hằng như hư không, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng dao động; nó luôn luôn tồn tại dù đi đứng nằm ngồi hay chết đi nó vẫn không mất vì nó là bất diệt. Sinh tử tiếp nối, đều bởi dâm tâm, tâm không là dâm, nhân vì sắc che lấp thành tâm dâm; tâm dục làm ô nhiễm tánh thể diệu minh, tánh dục cuồng mê dễ làm mất năng lực chánh định, đọa lạc sinh tử che mất tự tánh chân thường.
Tánh vốn chẳng phải thấy, gá nơi căn mà soi sáng; phân biệt theo vọng duyên, đều do tánh thấy. Thấy sắc thì tâm mờ tối, thấy tướng thì tâm phát sinh: đồng nơi tâm và mắt này mà phân chia có hơn có kém; cái tánh thấy tánh nghe v.v… có thể nói nó biểu hiện của bản thể chân như dưới cái dụng, vì bản thể chân như biểu hiện qua hiện tượng vạn hữu.
Tại sao nó lại chui vào cái đãy da thịt hôi thối? Cái tánh thấy tánh nghe nó chẳng chui vào cái đãy da thịt hôi thối, mà nó đã có sẵn từ hồi vào nằm trong bụng mẹ và được sinh ra, chứ chẳng phải nó từ ngoài chui vào sau khi sinh ra đâu; nó vào bụng mẹ và được sinh ra bởi có liên quan nghiệp duyên của cá thể bản thể nghiệp thức của mỗi chúng sanh.
Trong cuộc sống: chúng ta chấp tâm vướng viú cảnh duyên mà phán đoán thì phán đoán đó cũng chỉ là pháp tướng vướng mắc, chưa phải là pháp tánh. Sáu căn chạy theo sáu trần sinh ra dài ngắn, đẹp xấu, đúng sai, yêu ghét điên đảo, rồi bị cuốn theo việc được mất, vinh nhục, khen chê, vui buồn của dòng đời làm cho chân tánh bị lu mờ như mặt trời bị mây che, như nước vẩn đục làm mờ tính trong của nước, như bụi phủ mặt gương trong sáng vậy. Chúng ta hãy cùng xem một đoạn Kinh Lăng Nghiêm mà Đức Phật dạy Tôn giả An Nan mà chúng ta cũng phải học như sau:
“Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng: Con nghe diệu âm của Phật, dù nhận rõ chân tâm minh diệu vốn là tâm địa thường trú viên mãn, nhưng chỉ nhận trên pháp âm Phật nói; con đang dùng tâm vướng víu cảnh duyên thỏa mãn lòng ái mộ Phật.
Con cũng chỉ nhận thức được một cách mơ hồ chưa dám nhận đó là tâm địa vốn có của mình. Mong Phật thương xót dùng viên âm dạy bảo, nhổ gốc nghi ngờ cho con được về với đường vô thượng giác.
Phật bảo: Các ông còn lấy tâm vướng víu cảnh duyên mà nghe pháp, thì pháp đó cũng chỉ là pháp tướng vướng víu tạm thời, chưa phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ trăng, người trí nương ngón tay để tìm thấy trăng, nhưng nếu cho ngón tay là trăng, thì không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất luôn cả ngón tay nữa; vì ngón tay mà đã tưởng là trăng, thì cũng không biết thế nào là sáng, thế nào là tối!
Nay ông lấy sự phân biệt pháp âm của Ta mà cho là tâm, th́ì lúc không có pháp âm, lẽ ra ông phải còn phân biệt; ví như người ngủ trọ, hết ngủ thì đi, còn chủ quán trọ thì vĩnh viễn ở luôn không đi đâu nữa. Cũng vậy, nếu thật là tâm của ông thì không đi đâu, tại sao rời âm thanh thuyết pháp của Ta, cái phân biệt của ông không còn? Sự phân biệt về âm thanh đã vậy, sự phân biệt sắc, hương, vị, xúc, cho đến các phi sắc phi không của pháp trần cũng vậy. Rời đối tượng phân biệt ra cái phân biệt của ông phải thường còn, thì đó mới thật là tâm tánh của ông. Trái lại, hễ đối tượng không có, phân biệt cũng không còn, thế là tâm tánh của ông có chỗ trả về, như khách đến rồi đi, không còn là địa vị chủ nhân ông thường trú.
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tâm tánh con có chỗ trả về, vậy cái chơn tâm minh diệu Như Lai nói, vì sao lại không có chỗ trả về (?); xin Phật thương xót vì chúng con dạy bảo.
Phật bảo: A Nan! Cái thấy mà ông thấy Ta, dù không phải là chân tâm minh diệu, nhưng nó là tánh thấy trong sáng chưa nhuốm trần lao; nó như vành trăng thứ hai chứ không đến nỗi như bóng trăng đáy nước. Ông hãy chín chắn lắng nghe, nay Ta chỉ cho ông cái nghĩa không chỗ trả về.
A Nan! Đại giảng đường này mở rộng, phương đông mặt trời lên thấy sáng suốt. Đêm ba mươi không trăng không mây mù, thấy tối đen. Chỗ có cửa mở thấy thông thương, chỗ có tường thấy ngăn bít, chỗ có phân biệt được thấy cảnh sắc; chỗ trống trơn thấy hư không, chỗ bụi cát tung lên thấy mịt mù, chỗ mưa tạnh mây tan thấy quang đãng.
A Nan! Ông đã thấy các tướng biến hóa như vậy, nay Ta trả các tướng ấy về chỗ bản nhân của nó. A Nan! Cái sáng trả về cho mặt trời, vì không mặt trời thì không sáng; bản nhân cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả về cho mặt trời. Tối đen trả về cho đêm ba mươi, thông thương trả về cho cửa. Ngăn bít trả về cho tường. Cảnh sắc trả về cho phân biệt, hư không trả về cho khoảng trống.
Mịt mù trả về cho cát bụi, quang đãng trả về cho mưa tạnh mây tan; sự vật thế gian tuy nhiều, nhưng không ngoài các thứ đó.
Còn cái thấy mà ông thấy tám thứ đó, ông định trả nó về đâu? Nếu ông trả về cho sáng thì lúc không có sáng lẽ ra ông không thấy được tối. Nhưng trước mắt ông, sáng và tối có sai khác mà cái thấy của ông thì không sai khác. Cái có chỗ trả về hẳn nhiên không phải là ông; còn cái thấy không thể trả về đâu, nếu không phải ông thì là ai len vô đó?
Vậy nên biết rằng: Tâm ông vốn nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê mờ bỏ mất gốc, nhận chịu luân hồi thường bị chìm đắm trong biển sanh tử; thế nên Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót!”
Nghe Phật giảng rõ ràng như vậy, nếu chúng ta loại bỏ được tất cả những tâm vướng mắc cảnh duyên như sáng tối, thông bít, sắc không, trong đục là các tướng có chỗ trả về nơi sinh ra nó, và phát hiện ra cái không có chỗ trả về, tức là phát hiện được cái tánh thấy không có chỗ trả về vốn có của mình, đó là sự thường trú của tánh thấy là hiện tượng biểu hiện của chân tâm. Nhưng cái tánh thấy nghe ấy cũng chỉ là vầng trăng thứ hai thôi chứ chưa thực hẳn là vầng trăng, vì như trên đã trình bày cái tánh thấy nghe này chính là cái dụng của chân tâm biểu hiện bằng tánh thấy nghe mà thôi; nếu không hiểu ý nghĩa sâu thẳm của lời Kinh Phật dạy lại có tà kiến về những lời dạy cao siêu này thì sao khỏi là người ruồng bỏ lời dạy qúy báu của Phật?
Bởi vậy, nói: “Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người. Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe, những tánh này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, hằng giác, sáng suốt vô hạn, thế mà lại chui vào cái đãy da hôi thúi” là không nắm vững lời Phật dạy.
2). HT TTL nói rằng: “Thiền Sư Triệu Châu trả lời cho một thiền tăng hỏi đạo: biết mà cố phạm. Xưa Ðức Phật cho những luận thuyết này là những loại luận thuyết trườn uốn như con lươn…” Muốn biết rõ có phải như tác giả Thông Lạc lên án không, chúng ta nêu ra câu chuyện hỏi đạo Thiền Sư Triệu Châu xem như thế nào?
Có người hỏi: Con chó có Phật tánh không?
Thiền Sư Triệu Châu trả lời: Không
Hỏi: Tại sao?
Đáp: Vì nó còn có nghiệp thức (Ý nói Phật tánh bị nghiệp thức che lấp mất)
Có người khác hỏi TS Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Đáp: Có
Hỏi tiếp: Có Phật tánh tại sao chui vào trong đãy da?
Đáp: Vì biết mà cố phạm.
Cố phạm ở đây có nghĩa là cố phạm tội gây nghiệp báo nhân qủa nên phải chịu qủa báo vào trong đãy da, chứ không phải Ngài Triệu Châu trả lời theo kiểu luận thuyết trườn uốn như con lươn mà tác giả Thông Lạc không hiểu nên ám chỉ đâu. Bởi vì đây là thiện xảo của Phật, chư Tổ và chư Thiền sư, cùng một câu hỏi, mà đối với người này trả lời thế này, đối với người kia trả lời thế khác, lúc này trả lời thế này, lúc khác trả lời thế khác, đều là tùy theo căn cơ, hay nói cho rõ hơn, tùy theo bệnh “chấp thật” sâu hoặc cạn của chúng sinh mà cho thuốc khác nhau.
Cũng vì các Ngài biết được tâm người hỏi muốn chấp có hay chấp không mà các Ngài trả lời khác nhau, mục đích là đưa người hỏi đến chỗ bế tắc không thể suy nghĩ gì được cả, từ chỗ không thể suy nghĩ ấy nếu người tham thiền cơ duyên đã chín mùi rồi thì người đó liền đại ngộ chỉ trong sát na. Để thấy rõ là các Thiền sư đều hành theo đức Phật, chúng ta hãy cùng đọc một đoạn trong “Công Án của Phật Thích Ca” do Hòa Thượng Thích Duy Lực dịch như sau:
Một hôm ngoại đạo hỏi Phật: Hôm qua Ngài thuyết pháp gì? Phật nói: Thuyết pháp nhất định. Ngoại đạo lại hỏi: Hôm nay thuyết pháp gì? Phật nói: Pháp chẳng định. Ngoại đạo nói: Tại sao hôm qua thuyết pháp nhất định, nay lại thuyết pháp chẳng định? Phật nói: Hôm qua “định”, hôm nay “chẳng định”.
Đây là Phật đưa người này vào chỗ bế tắc suy nghĩ, nếu cơ duyên đầy đủ thì liền ngộ, còn không thì cứ thế mà thắc mắc mà tham đi.
Một hôm khác sau khi Thế Tôn thăng tòa, có một Bà La Môn đến cúng dường hoa Ngô đồng. Phật bảo: Buông xuống đi! Bà La Môn buông hoa bên tay trái xuống. Phật bảo tiếp: Buông xuống đi! Bà La Môn buông hoa còn lại bên tay phải xuống. Phật lại bảo: Buông xuống đi! Bà La Môn nói: Nay hai tay con đã không còn gì, sao Phật còn bảo buông cái gì xuống nữa? Phật nói: Chẳng phải Ta bảo ông bỏ hoa, ông phải buông xả ngoài lục trần, trong lục căn, giữa lục thức, nhất thời xả hết đến chỗ không còn gì để xả; ấy chính là buông thân xả mạng của ông. Bà La Môn ngay đó ngộ vô sanh nhẫn (thể nhập lý không sinh không diệt)
Chúng ta thấy rõ thiện xảo của chư Thiền sư không khác gì những gì đức Phật đã từng làm, vì vậy không nên giữ tà kiến sai lầm mà báng bổ các vị Thiền sư và cho những luận thuyết của các ngài là những loại luận thuyết trườn uốn như con lươn con trạch (thường hay chui trườn uốn trong nước bùn để trốn nguy hiểm) là không nên.
3). HT TTL nói rằng: “Kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh phát triển của Ðại Thừa, do người sau viết ra mạo nhận là Phật thuyết, nên lối lý luận thiếu chân thật, không logic, thường mâu thuẫn, v.v...” Tác giả Thông Lạc đã không nêu ra các chứng minh cho điều mình viết, sự thật chẳng ai đủ trí tuệ để viết Kinh Lăng Nghiêm lý luận có thứ lớp, có logic, không mâu thuẫn, chỉ có các bậc Bồ Tát, Tổ Sư mới có thể căn cứ vào lời Phật dạy để viết ra mà thôi, nên chúng ta phải vững tin không nên vì sự không hiểu của mình rồi nói những điều thiếu suy nghĩ mà sinh tội phỉ báng bậc Thánh.
4). HT TTL nói rằng: “Kinh này chỉ dạy cho chúng ta thấy Phật Tánh thường hằng sáng suốt từ vô thủy cho đến nay. Tất cả chúng sanh từ loài côn trùng, cầm thú đến loài người đều có, có mà ngu như con bò, nên thường chịu khổ từ kiếp này sang kiếp khác; thà là chịu ngu như loài cầm thú còn hơn có Tánh Giác mà lại ngu thì mới buồn cười cho loại kinh sách xảo ngôn”..
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì bị vô minh che lấp như trên đã viết, nên chưa thấy tánh, chưa thấy tánh thì mọi chúng sanh chỉ sử dụng bộ óc để suy nghĩ, mà bộ óc thì tùy nghiệp đã tạo từ kiếp trước để có trí hiện tại, thông minh hay ngu đần đều tùy thuộc ở nghiệp đã tạo. Rõ ràng rằng tác giả không hiểu và không chấp nhận mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, cũng không biết rằng Phật tánh bị vô minh che lấp, nên mới nói “Thà là chịu ngu như loài cầm thú còn hơn có tánh giác mà lại ngu”. Bởi vì tánh giác bị vô minh che lấp như mây che mặt trời, như nước bị quấy động làm đục mất tính trong của nước không thể thấy vật ở dưới đáy, như gương bị phủ bụi không thể thấy mặt mũi được
Do không hiểu bản tâm diệu giác sáng suốt sẵn có của mình, nên từ mê, chứa chấp thêm mê, khởi sanh ra các đường luân hồi mãi. Do nhận thức sai lầm khiến cho con người bỏ mất bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú của mình; nếu tu hành liễu đạt được tự tâm diệu giác hiển lộ. Cũng như mây đã tan hết nên sẽ thấy mặt trời, như nước đã lặng trong sẽ thấy các vật dưới đáy rõ ràng, như gương đã lau sạch hết bụi sẽ thấy mặt mũi rõ ràng. Người tu đến liễu đạt lúc đó sẽ hiểu biết suốt thông, dù là người ngu si vô học không biết một chữ như Lục Tổ Huệ Năng bên Trung Hoa chẳng hạn, khi Ngài ngộ rồi thì không ai có thể cãi lại Ngài, vì khi Đạt đạo sẽ có đủ Tam minh Tứ trí Lục thông, nghĩa là có Tuệ Giác hiển lộ và biết ra khỏi sinh tử luân hồi y như vị A La Hán vậy.
5). HT TTL nói rằng: “Nếu suy nghĩ chút xíu, chúng ta sẽ thấy rất nhiều cái sai trong kinh (Lăng Nghiêm) này”, nhưng thực ra tác giả Thông Lạc đã không dẫn chứng được những chỗ sai, tại sao sai, thế nào là đúng là sai. Chúng ta đã đọc một đoạn lời Phật giảng về cái tánh thấy ở trên và còn biết bao nhiêu lời giảng trong Kinh Lăng Nghiêm như bảy lần phá bỏ vọng thức bị nhận lầm là tâm, và mười phen chỉ rõ cái tánh thấy biết của con người không phải là cái thấy biết ở giác quan, làm sao an trụ tâm, cách tu “Phản Văn Văn Tự Tánh”, v.v... đều là những bài học qúy giá cả chứ chẳng thể bảo là sai trái được.
Nhân tiện, cũng xin lược trích vài đoạn của Thích Huệ Hưng phỏng dịch cuốn “Pháp Môn Tu Chứng Lăng Nghiêm Đại Định” để lưu ý hành giả tu theo Kinh Lăng Nghiêm như sau: “Phần nhiều người tu hành quan niệm đạt đến trạng thái tĩnh lặng, dứt niệm gọi là đã đắc định, nhưng thật ra vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của tâm thức; chúng ta cần phải xã bỏ tâm thức dưới mọi hình thái mới hy vọng đạt được tánh định sẵn có của tự tâm, khi đã lìa bỏ được tâm thức vọng niệm đó, ta mới nhận rõ được thể tánh thấy nghe, hiểu biết thường tại trong các giác quan của mình.
Nếu cố gắng cưỡng ép tâm thức sanh diệt để cho yên định, thì chưa tỏ ngộ được chân tâm bất động sẵn có, mà sẽ nhận lầm sự giả tưởng là chân thật; thân ta dầu trải qua vô số kiếp trong nẻo luân hồi, nổi trôi trong hằng sa thế giới, nay đây mai đó, cái tánh thấy vẫn thường hằng như hư không, chẳng bao giờ suy giảm, dao động. Nếu hiểu được nơi thân mình cái diệu tánh sẵn có, luôn luôn bất động, không liên hệ đến thân cảnh vọng động lao xao, căn tánh là chân thể của vạn vật, vạn vật là giả tướng của căn tánh.
Cái chân tâm sâu kín nhiệm mầu vẫn tàng ẩn dưới dạng tánh thấy nghe thường nhật, ngày nay người học đạo ỷ lại vào tánh (thiên chân) của mình, không cầu đến chỗ cứu cánh; nghe luận đến căn tánh hiện khởi, lại chấp thủ lấy bản thể thường tịch, lìa bỏ sự tu chứng. Mới an trụ vào bậc sơ giải nhân không (có tri kiến vô ngã) đã tự mãn, không ngờ rằng vi tế nghiệp (vi tế phiền não) vẫn chưa tiêu, làm sao thoát khỏi cảnh giới tình trần; Tâm sinh diệt chưa dứt, làm sao vượt khỏi muôn trùng khổ não trong ba cõi để đạt chứng viên thông, như người canh giữ kho vàng mà vẫn chịu nghèo nàn khổ lụy vậy”.
Về tu chứng lược tóm mục: “Vào đường tu chứng, con đường tinh tấn” theo Thích Huệ Hưng như sau: “Hạ thủ công phu đầu tiên là chuyên nghe trở lại tự tánh”. Nghe trở lại tự tánh không phải là lối nghe thông thường bằng nhĩ căn, hiểu biết bằng nhĩ thức, mà chỉ là tánh nghe trong nhĩ căn, tức là cái lý thể vô phân biệt. Với tánh nghe này, dù có hay không có âm thanh vẫn được sáng tỏ rõ ràng, không sai sót, giống như tánh thấy vậy. Như tấm kiếng dù có hình hay không hình, kiếng vẫn sáng tỏ.
Đây chỉ căn cứ vào cái quán xét tiếng tăm, nêu rõ cái thể tánh nghe, không lấy cảnh động tịnh bên ngoài làm tánh nghe... Khi đạt được tánh nghe này mới biết nó sẵn có tự bao giờ, không do tu mới thành, chúng ta bị ám thị ngoại cảnh do loạn tâm nên không biết. Phải tự nghe trở vào bên trong tự tánh của mình, tuyệt đối một niệm không móng khởi, hồi quang phản chiếu vào tự tánh; khiến diệu cảnh thường hiện hữu, vắng lặng, trong sáng, không được gián đoạn, thiền gọi là công phu miên mật.
Chú tâm thường xuyên vào tự tánh gọi là nhập lưu, vọng ngoại theo tiếng gọi là xuất lưu; dùng cách nhập lưu trở về tự tánh gọi là hiệp giác (hợp với tánh giác), lìa bỏ mọi âm thinh ngoại cảnh (thinh trần) gọi là bội (trái ngược) trần (phủi bỏ trần cảnh). Một khi hành giả không chú tâm vào tiếng tăm bên ngoài, chỉ hướng vào trong tánh nghe an trụ lặng lẽ, thời những phân biệt thô thiển không còn nữa, tánh nghe sẽ hiện rõ như mặt nguyệt mùa thu, trong suốt. Nếu thoáng chốc lưu tâm đến âm động bên ngoài, tánh nghe sẽ mờ mịt, không còn sáng suốt nữa; vì vậy không bao giờ quan tâm đến động tịnh, (động tịnh đều không) mới thành tự tánh bản định.
Thực hành lâu dài chắc chắn thành tựu, thể dụng viên dung kín nhiệm đều do tâm địa phát ra. Đó gọi là phát minh bản tánh, chân như diệu giác sáng suốt.
Tu đến đây là cùng tột của sự vong trần (quên), về công năng ngôi vị, ngang hàng Sơ quả của Thanh Văn. Kinh Kim Cang nói: Gọi là nhập lưu mà thật ra không có chỗ vào, vì không vào, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là Tu-Đà-Hoàn. Đây là khi lìa được thanh trần thì 6 trần kia đều chấm dứt.
Căn diệt nhưng tánh vẫn còn; căn trần đều dứt năng sở đều vong (mất, chết), không còn tự tha, chỉ một pháp tánh gọi là nhân không, địa vị đồng thời với A La Hán, quả thứ tư của Nguyên Thủy; Kiến hoặc và Tư hoặc đều chấm dứt (cái thấy hiểu sai lầm và nghiệp tập đều chấm dứt). Khi thoát khỏi cả căn và trần, tịch cảnh (tâm tịnh) hiện ra, đó là cảnh sở giác (cảnh được ngộ). Cái trí chiếu soi cảnh sở giác gọi là năng giác (trí ngộ, trí chứng), trí năng giác và cảnh sở giác đều rỗng lặng, không còn tương đãi đối lập nhau; đến đây ra khỏi giác quán, lìa được pháp chấp, đoạn dứt phân biệt phiền não nhỏ nhiệm.
Bây giờ tiếp đến thoát ly trí trùng (cùng nhau) không (hai cái không), tức là trí diệt hết cả cái trí và cảnh không đã nói ở trên; bởi vì cái trí “trùng không” vừa khởi lên chưa đầy đủ nên cái trí và cảnh không đó trở thành cảnh sở không, và cái trí trùng không thành trí năng (sức làm việc) không, cả hai vẫn tồn tại. Vì vậy, chẳng những trí cảnh sở không kia phải dứt, mà cái trí trùng không cũng phải diệt luôn. Khi duyên ảnh chướng ngại vi tế đó chấm dứt, thành tựu được pháp giải thoát (pháp không), tánh thể chơn quang hiển lộ, trần (thế gian) sa (sai lầm) hoặc ((lừa dối, mê loạn) sạch hết.
XII). HT TTL: Tác giả Thông Lạc viết:
“Kinh Viên Giác không phải kinh sách Phật thuyết mà do các Tổ thuyết, nhưng các Tổ khôn khéo gán cho Phật thuyết để dễ lừa đảo tín đồ Phật Giáo và tín đồ Phật Giáo cũng dễ tin tưởng là tất cả kinh đều do Phật thuyết vì kinh sách Ðại Thừa tập kinh nào cũng bắt đầu bằng câu: Như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, kỳ thọ Cấp Cô độc viên dữ ... , chỉ nội câu này cũng đủ lừa đảo người khác rồi. Kinh sách Ðại Thừa nào cũng có hai phần: 1- Dụ dỗ 2- Hăm dọa”.
XII). Phản Biện:
1). Chư tổ là những người đã đạt đạo nên sự hiểu biết rất rộng lớn, tuy không thể bằng Phật, nhưng so với những người chưa đạt đạo thì các Ngài vượt trội về trí tuệ. Hơn nữa, các vị Tổ Sư của Phật giáo không bao giờ có những lời lẽ trái với ý Phật, các Ngài có viết ra thì cũng dựa vào những lời nói của Phật mà viết thành Kinh Luận, vì thời Phật tại thế những lời giảng dạy của Phật không được ghi lại, mà chỉ được kết tập sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 3 tháng và các lần kết tập khác mãi về sau này kể cả Kinh Tạng Nguyên Thủy Nam Truyền chứ không riêng gì Kinh Tạng Bắc Truyền; nên khi kết tập không thể tránh được một số vấn đề còn sót chưa nêu ra hết, nhất là những vấn đề khó khăn cao siêu ít được đề cập đến.
Chúng ta thử phân tích sơ qua một vài phẩm của kinh Viên Giác để thấy rõ ý Kinh như sau:
VIÊN GIÁC: Viên tức là Viên mãn, GIÁC tức là Bồ-đề, Viên mãn Bồ-đề chính là Phật quả; bởi vì công đức đầy đủ, không có điều gì là không hiểu biết trọn vẹn nên gọi là VIÊN GIÁC.
1- PHẨM THỨ NHẤT BỒ TÁT VĂN THÙ hỏi rằng: “Thế nào là nhân địa tu hành của Như Lai; khi đã phát tâm rồi làm sao để khỏi đọa vào tà kiến?” Phật đáp: Như Lai có Đà-la-ni gọi là Viên Giác. Tánh Viên Giác sinh ra tất cả các pháp thanh tịnh Chân Như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật. Tu hành của Như Lai đều y viên giác mà đoạn trừ vô minh được thanh tịnh sáng suốt.
Chúng sanh từ vô thỉ bị nhiều thứ điên đảo làm mờ tính giác: Lầm nhận tứ đại giả hợp làm thân mình, chấp cái vọng niệm sinh diệt duyên theo 6 trần cho là thật tâm mình; vì mê lầm nên sinh tử luân hồi được gọi là vô minh.
Như Lai biết các pháp đều hư huyển như hoa đốm nên không còn luân hồi; biết các pháp là không, cái biết ấy cũng không luôn: dứt cả có và không, gọi là tùy thuận tánh Viên Giác.
2- PHẨM THỨ HAI BỒ TÁT PHỔ HIỀN hỏi rằng: “Nếu các pháp và thân tâm đều huyễn hóa, tại sao phải tu pháp huyển?” Phật dạy: Tất cả cảnh vật (thế giới, chúng sanh) đều sanh trong Diệu tâm Viên giác của Như Lai, các pháp diệt mà tính Viên Giác vẫn còn ví như hoa đốm diệt hư không vẫn còn. Nếu cảnh diệt thì huyển tâm diệt theo, lúc đó tâm Viên Giác tự hiện.
Tu là phải: xa lià cảnh giới hư vọng huyển hóa, xa lià tâm biết xa lià, cái xa lìà cũng là vọng cần xa lià luôn, cái lià xa lià cũng huyển phải xa lià; như vậy không còn gì để xa lià. Đây là dùng cái huyển tu các pháp huyển, biết các pháp đều huyển thì lià được huyển, lià được huyển tức là Giác.
3- PHẨM THỨ BA BỒ TÁT PHỔ NHÃN hỏi rằng: “Muốn cầu tâm Viên giác thanh tịnh của Như Lai phải suy nghĩ thế nào, an trụ ra sao và tu thứ lớp thế nào?” Phật khai thị: Suy nghĩ chính niệm, xa lià vọng huyển, tu phép CHỈ (Samatha), giữ cấm giới, ở chỗ vắng sống yên ổn, suy nghĩ Thân do 4 duyên đất nước gió lửa hòa hợp mà có, khi 4 thứ này tan rã thì thân ở đâu, nên nó chỉ là giả tạm huyển hóa. Bốn duyên hòa hợp với 6 căn tai mắt mũi lưỡi thân ý, trong ngoài hợp lại thành cái thân giả tạm rồi khởi ra các phân biệt vọng tưởng, các vọng tưởng này y như có cái hình tướng duyên theo bóng dáng 6 trần sắc phong hương vị xúc pháp nên gọi là Tâm, tâm này hư vọng vì nếu không có trần thì không phân biệt được nữa, rút cục không còn thấy cái gì gọi là Tâm.
Như vậy huyển thân diệt, huyển tâm diệt, huyển trần diệt, nên cái huyển diệt cũng diệt luôn; bởi thân tâm và tướng trần cấu hư huyển đã hoàn toàn diệt, nên Viên Giác phi huyển hiện. Khi “huyển cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, thì tâm không động, thanh tịnh hiện; tâm thanh tịnh, căn, thức, trần, 4 đại, 12 xứ, 18 giới v.v…, tất cả đều thanh tịnh không động.
4- PHẨM THỨ BẢY BỒ TÁT OAI ĐỨC hỏi rằng: “Mong Đức Thế Tôn rộng vì chúng con nói ra tất cả phương tiện tiệm thứ và người tu hành gồm có mấy hạng, khiến cho Bồ-tát ở trong hội này và chúng sanh đời mạt, người cầu Đại thừa mau được khai ngộ, dạo chơi trong biển Đại tịch diệt của Như Lai”. Phật nói: Vì căn tánh chúng sanh không đồng, phiền não sâu cạn khác nhau, nên lập ra ba quán để tùy nghi thực hành như sau:
Thứ nhất, tu tập Xa-ma-tha: Tu lâu ngày dần dần khiến tâm không động vắng lặng như gương chiếu, đây cũng gọi là tu Thiền Chỉ.
Thứ hai, tu tập Tam-ma-bát-đề: Tu lâu ngày dần dần nhìn thấy các pháp đều như huyễn như mộng, nhằm viễn ly tham muốn chấp thủ, đây cũng gọi là tu Thiền Quán.
Thứ ba, tu tập Thiền-na: Tu lâu ngày dần dần lặng dứt mọi tâm niệm như âm thanh im bặt trong đồ vật, không bao giờ còn cơ hội vọng thanh nữa; đây cũng gọi là đoạn phân biệt nhằm thấy thật tướng.
Tu tập ba pháp Thiền này, cũng giống như chúng ta hành trì Thiền Tứ Niệm Xứ:
Niệm Thân: Là quay lại quán chiếu thân Tứ Đại dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;
Niệm Thọ: Là nhìn vào những cảm thọ về khổ, vui, không khổ không vui dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;
Niệm Tâm: Là trở lại nhìn vào những chuyển biến của tâm thức nhằm có thể điều khiển tâm một cách thiện xảo dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;
Niệm Pháp: Là nhìn vào những hiện tượng hiện hữu giữa cuộc đời dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã.
Đây chính là những pháp tu truyền thống mà chúng ta cũng có thể thấy được trong nhiều Kinh điển của cả Bắc truyền và Nam truyền, và Kinh Viên Giác cũng không ngoài trường hợp này; bên cạnh đó, Bồ Tát còn phải luôn luôn ghi nhớ vấn đề giữ giới.
Thực tế mà xét, chúng ta thấy những kinh điển của Bắc truyền chẳng có kinh nào trái với tôn chỉ căn bản của Phật thuyết cả, chẳng có ai biện luận bác bỏ được những lý lẽ mà các kinh Bắc truyền nêu ra. Tất cả đều nhằm vào lý lẽ vô thường, khổ, vô ngã, không, đều dạy con đường diệt khổ, ra khỏi luân hồi, chấm dứt sinh tử để tiến tới giải thoát; như vậy làm sao nói rằng các kinh của Bắc truyền là sai lời Phật dạy được? Đã không sai lời Phật dạy thì bảo rằng: “lừa đảo người khác” là không đúng lý.
2). Tác giả Thông Lạc nói rằng: “Kinh sách Ðại Thừa tập kinh nào cũng bắt đầu bằng câu: Như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, kỳ thọ Cấp Cô độc viên dữ..., chỉ nội câu này cũng đủ lừa đảo người khác rồi”, nghĩa là kinh nào cũng nói Phật thuyết tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ là không chính xác, vì có những Kinh Bắc truyền đức Phật thuyết tại những nơi khác chứ không phải tất cả đều thuyết tại vườn Cấp Cô Độc, chúng ta hãy cùng đọc một số dẫn chứng có được dưới đây Phật đã giảng để chứng minh:
- Giảng Kinh Phạm Võng tại Bồ Đề Đạo tràng Ấn Độ.
- Giảng Kinh Địa Tạng tại cung Đế Thích cõi trời Đạo Lợi.
- Giảng Kinh Kim Cang nơi vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ.
- Giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tại núi Kỳ Xà Quật nước Ma Kiệt
- Giảng Kinh Nhân Quả nơi Hội Linh Sơn, núi Linh Thới.
- Giảng Kinh Lăng Nghiêm nơi vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ.
- Giảng Kinh Duy Ma Cật nơi vườn Am La Thọ, nước Tỳ Da Ly.
- Giảng Kinh Ưu Bà Tắc nơi vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ.
- Giảng Kinh Viên Giác nơi Thường Tịch Quang Trang Nghiêm cho hàng Bồ Tát và đệ tử nhập chính định nghe.
- Giảng pháp Thập trụ nơi cung Đế Thích cõi trời Đạo Lợi, Dục giới.
- Giảng pháp Thập Hạnh nơi cung trời Diệm Ma thuộc Dục giới.
- Giảng pháp Thập Hồi Hướng tại cung trời Đâu Suất.
- Giảng pháp Thập Thiền Định nơi cung trời Hóa Lạc.
- Giảng pháp Thập Địa nơi cung trời Tha Hóa.
- Giảng pháp Thập Kim Cương nơi cõi Sơ thiền Phạm Thiên.
- Giảng pháp Thập Nhẫn nơi cõi Nhị thiền Quang Thiên.
- Giảng pháp Thập Nguyện nơi cõi Tam thiền Tịnh Thiên.
- Giảng Tâm Địa môn nơi cung Đại Tự Tại Thiên Vương cõi Tứ thiền.
Xem như thế mà nói kinh Bắc truyền Đức Phật chỉ giảng một chỗ tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ thì có đúng không?
3). Tác giả Thông Lạc viết câu: “Kinh sách Ðại Thừa nào cũng có hai phần: 1- Dụ dỗ 2- Hăm dọa”; tác giả Thông Lạc hiểu như thế nào mà viết như vậy? Tất cả các lời trong các kinh Bắc truyền cũng tương tự như các kinh Nam truyền, thường nêu ra:
- Sự thực ở đời là vô thường, khổ, vô ngã, v.v…
- Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh v.v…
- Muốn thoát hết khổ được vui Niết Bàn thì phải giữ giới phải tu hành, phải thế này phải thế nọ, nghĩa là phải tuân thủ những điều kiện khó khăn vất vả v.v… nên cực.
- Lấy việc giữ giới: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ làm đầu, vì những thứ ấy làm tâm ô nhiễm tánh thể diệu minh, làm mất chánh định, đọa lạc sinh tử, che mất chân thường của người tu.
- Phải tự tu tâm mình, không ai tu thay được, nhưng có rất nhiều pháp môn tu, hành giả phải tự lựa lấy pháp môn thích hợp nhất để tu, và phải tuân theo pháp môn chỉ dẫn để tu hành; còn phải kiên nhẫn bền lâu, tinh tấn hành tri kiên cố mới có thể đạt qủa giải thoát, chứ chẳng phải là dễ đâu.
- Việc tu này của Phật giáo nói chung là tùy ý mỗi người định liệu lấy chứ không dụ dỗ như một vài Tôn giáo khác dùng đủ mọi cách dụ dỗ o bế người của đạo Phật. Đạo Phật cũng chẳng hăm dọa ai, có làm theo hay không là tùy mỗi người định liệu lấy. Bởi vì khi tu theo Bắc truyền trong bất cứ pháp môn nào cũng đều phải tuân theo những lời chỉ dẫn trong pháp môn tu nên không dễ dàng mà rất gò bó từ thân đến tâm, chứ chẳng phải là dễ dàng như ngồi chơi sơi nước ăn bánh đâu mà lầm to.
Như có đạo nêu ra tín lý: Nếu tin vị Giáo chủ thì được lên Thiên Đàng, chẳng cần làm gì chỉ cần tin và cầu xin thôi là được ban cho mọi thứ theo ý muốn, lúc chết được lên Thiên Đàng sống sung sướng đời đời, còn được vô số các Thiên nữ hầu hạ nữa, thì đây là dụ dỗ cho một phần thưởng quá sức hậu hĩnh như thế ai mà chẳng ưa thích. Còn nếu không tin thì phải đọa xuống hỏa ngục đời đời, thì đây là hăm dọa nếu không tin sẽ bị trừng phạt đầy xuống hỏa ngục chịu khổ sở vĩnh viễn, một hình phạt nặng nề ghê tợn như thế ai mà chẳng sợ chứ; thật là qúa đáng về sự dụ dỗ dọa nạt của con người trên thế gian này!
Hai giáo lý của 2 Tôn giáo hoàn toàn khác hẳn nhau, một đằng chẳng cần làm gì cả, một đằng phải giữ giới luật nghiêm túc, phải nhớ tuân theo phuơng pháp tu hành có thể gọi là ngày đêm cực nhọc lâu dài mới mong đạt đạo, phần thưởng này là do hành giả tự làm lấy mà hưởng chứ Phật có cho không đâu. Như vậy chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa Phật giáo với các Tôn giáo khác, bởi vậy không nên lẫn lộn, nếu lẫn lộn mà gán ghép cho Phật giáo Bắc truyền dụ dỗ và đe dọa con người là vô lý hết sức và chứng tỏ sự thiên lệch bất công của mình mà thôi.
XIII). HT TTL: Ðức Phật Di Lặc không có, đó chỉ là một Ðức Phật tưởng tượng của các nhà Ðại Thừa Bà La Môn, Ðức Phật Di Lặc đã được kinh sách Ðại Thừa nói đến rất nhiều. Ðó là một thâm ý nham hiểm của các nhà Ðại Thừa Giáo, đưa Ðức Phật Di Lặc ra để làm một cuộc cách mạng Phật Giáo lật đổ Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị giáo chủ mới là Phật Di Lặc. .(ĐVXP-Tập 7)
XIII). Phản Biện:
1). Tác giả TTL viết: “Ðức Phật Di Lặc không có, đó chỉ là một Ðức Phật tưởng tượng của các nhà Ðại Thừa Bà La Môn; Ðức Phật Di Lặc đã được kinh sách Ðại Thừa nói đến rất nhiều”. Tác giả Thông Lạc đã không đọc Kinh điển Nam truyền nên nói sai rằng Đức Di Lặc do sự tưởng tượng của các nhà Đại thừa tạo dựng lên; sự thật thì trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavati Sìhanàda Sutta) thuộc Kinh Trường Bộ Nam Truyền (Majjhima Nikàya) nơi trang 346, do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch như sau:
“Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya (Di Lặc) sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; như Ta nay sinh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy…”
Như vậy mà nói: “Phật tương lai Di Lặc là sản phẩm tưởng tượng của Phật giáo Bắc truyền” thì thật là oan Thị Kính, cũng giống như có người ngồi trong đáy giếng mà nói việc xảy ra ở trên trời vậy.
2). Tác giả TTL viết: “Ðó là một thâm ý nham hiểm của các nhà Ðại Thừa Giáo, đưa Ðức Phật Di Lặc ra để làm một cuộc cách mạng Phật Giáo lật đổ Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị giáo chủ mới là Phật Di Lặc”. Làm sao có thể thay thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng Phật tương Lai Di Lặc được, trong khi ở tất cả các Chùa Bắc truyền đều thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, hành theo Kinh của Phật Thích Ca. Nếu có thờ Phật Di Lặc (tương lai) và Phật A Di Đà (qúa khứ) thì Phật Thích Ca là chính và ở giữa. Như thế làm sao nói rằng làm cuộc cách mạng lật đổ Đức Phật Thích Ca và thay thế bằng Phật Di Lặc đúng với ý nghĩa của chữ “lật đổ” và “thay thế”?
Mặt khác, chính Đức Phật Thích Ca đã thọ ký cho Bồ Tát Di Lặc sẽ đắc qủa Phật trong tương lai xa chứ không phải là gần, nếu tính theo thời gian thì còn lâu lắm. Trong thời gian từ Phật Thích Ca cho đến khi Phật Di Lặc ra đời không có một vị Phật nào ở giữa thời gian đó cả; như vậy giáo lý của Phật Thích Ca là độc tôn của Phật giáo suốt chiều dài từ Phật Thích Ca cho đến khi Đức Phật Di Lặc ra đời, thì làm gì có vụ tranh dành lật đổ như tác giả dựng lên.
Có muốn lật đổ Phật giáo là các đạo khác dựng lên một Thượng Đế tưởng tượng theo ý con nguời mà thôi, họ muốn lật đổ Phật Thích Ca Mâu Ni để thay bằng Thượng Đế của họ. Họ đã chiếm đốt phá chùa chiền, họ đã giết Phật tử, tiêu diệt Phật giáo suốt từ Trung Đông, Ấn Độ tới Nam Dương rộng lớn như thế. Họ đã dụ dỗ bằng mọi cách, từ hăm dọa cho đến các tiểu xảo hòng lấy người của Phật giáo hầu triệt tiêu đạo Phật và bành trướng đạo của họ; việc này đã xảy ra từ ngàn xưa và hàng ngày ngày nay ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhất là hiện nay tại Á châu.
Bây giờ chúng ta đang mất dần các Phật tử do chính sách mua chuộc của ngoại đạo, các Phật tử vì không hiểu giáo lý của Phật nên một số người sẵn sàng đổi đạo vì những lời dụ dỗ và những quyền lợi vật chất nhỏ nhặt; bằng chứng ở Nam Hàn Phật giáo đang mất dần Phật tử, trở thành thiểu số rồi, vì sự hoạt động của ngoại đạo qúa mạnh mẽ. Bởi vậy, thiết nghĩ, cứ theo cái đà này thì chỉ trong năm bảy nghìn năm nữa đạo Phật sẽ biến mất, chẳng cần năm bảy ngàn năm, chỉ trong năm bảy trăm năm nữa đạo Phật sẽ biến mất thôi, nói chi tới khi Phật Di Lặc ra đời còn qúa xa xôi; vì thế nên bỏ ý nghĩ rằng Phật Di Lặc lật đổ thay thế Phật Thích Ca là chuyện tưởng tượng không thật vậy.
Cũng không trách nhiều tác giả Thông Lạc về vấn đề âm mưu dựng Phật Di Lặc lên để thay thế lật đổ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vì cái nạn ở Việt Nam từ nửa thế kỷ về trước có người tuyên bố là hiện thân của Đức Di Lặc, nên một số người nhẹ dạ tin theo, rồi họ viết in sách mập mờ đánh lận dùng một số kinh sách của Phật giáo làm chính, lồng xen vào trong những phần không phải của Phật, làm cho người đọc đi vào mê hồn trận nên tưởng là Phật giáo thật, tưởng là Đức Di Lặc ra đời; nếu thật là Di Lặc hiện thân thì chẳng bao giờ tự xưng ra như thế, sự tự xưng này nhiều người không biết, lại tưởng là Phật giáo thật, rõ ràng là thời mạt pháp nên có người vỗ ngực tự xưng Di Lặc như thế.
Việc này xảy ra cũng là bởi từ khoảng gần ba phần tư thế kỷ về trước có người dùng chiêu bài Phật giáo viết và phổ biến Hội Long Hoa sắp tới rồi để hành ngoại giáo, họ nói: “Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng đón Hội Long Hoa của Phật Di Lặc giáng thế!” Một tiếng nói ấy làm cho nhiều người tưởng thật nên tạo ra nghìn nghìn vạn người tin theo về mở Hội Long Hoa; họ chẳng biết rằng Đức Di Lặc ra đời còn tít mù tăm khoảng trên 8 triệu năm nữa! Như thế thì mở hội để đón ai chứ?
Bởi vậy để đáp ứng điều mong mỏi của những người ấy liền có người từ xưng là hiện thân Đức Di Lặc. Đối với Phật giáo các vị đắc đạo chẳng bao giờ vỗ ngực tự xưng rằng: “ta đã đắc đạo, ta là vị này vị kia” để lộ ra sự kiêu mạn, những người như thế Đức Phật bảo là người “tăng thượng mạn, tự mạn, tà mạn cần phải dẹp bỏ”.
Tác giả Thích Thông Lạc viết “không có Di Lặc” là một điểm sai, rồi lại viết “các nhà Đại thừa đưa Phật Di Lặc ra làm cuộc cách mạng lật đổ thay thế Đức Phật Thích Ca” thì thật oan cho Phật giáo Bắc truyền biết dường nào! Vì đây chỉ là những ý nghĩ, những việc làm của một vài người mà làm cho nhiều người hiểu lầm gây tai hại cho Phật giáo. Chúng ta hãy ý thức cho sâu xa rõ ràng, đừng mắc mưu một vài người mà đi sai lời Đức Phật dạy, hãy cùng nhau trở lại theo chính pháp của Phật, mong lắm thay.
Dù sao thì Thầy TTL đã quá vãng, hãy để thầy ra đi nhẹ nhàng. Những điều sai quấy thì không nên theo; những điều hợp lẽ đạo thì nên hành theo.
Spam.
XIV). HT TTL: …Bởi vậy từ khi có sự hý luận của Ngài Long Thọ với Trung Quán Luận là một tai hại rất lớn cho tín đồ Phật Giáo từ thế hệ này đến thế hệ khác chỉ toàn là ăn thứ bánh vẽ cho nên không mấy vị tu sĩ đạt được giải thoát, đến khi chết không có vị nào mà không đau khổ cả, họ đều lăn lộn trăn trở trên giường bịnh một cách khổ đau không thua gì người thế tục. .(ĐVXP-Tập 9)
XIV). Phản Biện:
1). Tác giả viết: ”Bởi vậy từ khi có sự hý luận của Ngài Long Thọ với Trung Quán Luận là một tai hại rất lớn cho tín đồ Phật Giáo từ thế hệ này đến thế hệ khác chỉ toàn là ăn thứ bánh vẽ cho nên không mấy vị tu sĩ đạt được giải thoát”.
Để bàn về vấn đề này, chúng ta phải phân tích sơ qua Trung Quán Luận, Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) làm luận này là do muốn phá hí luận chấp chặt của chúng sanh về hai bên (nhị biên) như có không, sinh diệt, thường đoạn, v.v… để thuyết minh lý trung đạo thật tướng bằng cách quán sát trực tiếp các pháp, phân tích, đối chiếu các mặt của mỗi pháp để tìm ra thật tính của nó, cuối cùng chỉ thấy các pháp do các duyên mà hiện hữu, không pháp nào có thật tánh, do đó Ngài phá bỏ, phủ định hết thảy kiến chấp sai lầm đối với trung đạo thật tướng. Do muốn phá chấp hai bên đối đãi, nguồn gốc của hai bên là "có" và "không", "Có" bao gồm pháp hữu vi (sinh diệt), "Không" bao gồm pháp vô vi (tùy thuận tự nhiên, Niết Bàn); hai bên đã phá thì "Trung" không có chỗ để an lập, Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu nghĩa lập luận cũng là không hai (bất nhị) vậy; khi đọc phân tích, chúng ta nên tập trung tư tưởng mới dễ hiểu được luận cao siêu này.
Chúng ta hãy xem Phẩm thứ nhất đề cập đến nhân duyên như sau:
1. Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Chẳng thường cũng chẳng đoạn,
Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi.
2. Thường nói là nhân duyên
Khéo diệt các hý luận
Con kính đảnh lễ Phật
Nhân duyên thuyết đệ nhất
3. Các pháp chẳng tự sinh
Cũng chẳng từ tha sanh
Chẳng cộng, chẳng vô nhân
Cho nên biết vô sinh
Sao nói: “Chẳng sinh cũng chẳng diệt”? Các pháp từ nhân duyên mà sinh, ví như cây cam nhân từ hột cam là nhờ duyên của đất nước ánh sáng, nhân công v.v… mà trở thành cây cam. Vì lìa ngoài cây cam trước kia thì cây cam hiện nay không thể có được. Nếu không có cây cam trước kia mà có cây cam hiện nay mới gọi là có sinh ra, song kỳ thật không như vậy; do đó chẳng sinh. Nếu cây cam trước kia diệt thì nay không thể có cây cam, nhưng kỳ thật có cây cam; thế nên chẳng diệt.
Duyên sinh thì chẳng có tự tánh (duyên hợp mới có, duyên lìa thì không) nên nói chẳng sinh tức là nghĩa vô sinh vậy, nếu không có sinh thì đâu có cái gì diệt; cũng vì không có sinh diệt nên sáu việc kia cũng không có (sáu việc kia là: chẳng thường, chẳng đoạn, Chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi).
Nghĩa “Chẳng thường chẳng đoạn” là sao? Cùng nghĩa chẳng sinh chẳng diệt, vì các pháp nếu thật có thì nay không thể không có, nếu trước sẳn có nay có tức là thường, nhưng không phải thế, trước có nay không có nên là chẳng thường, ví như khi mọc mầm, thì hột giống biến hoại làm sao nói thường được. Trước có mà nay không tức là đoạn, nhưng không phải thế, ví như từ hột cam có mầm, từ mầm có cây liên tục, do đó chẳng đoạn; vì thế cho nên nói chẳng thường chẳng đoạn.
“Chẳng một cũng chẳng khác” là sao? Các pháp nếu chỉ có một thể thì trước sau như một đâu phải tương tục từ nhân tới quả, do đó nói chẳng một chẳng khác; chẳng một, như hột cam không là cây cam, cây cam không là hột cam, thế nên chẳng một; chẳng khác, vì nếu khác thì tại sao phân biệt đây là cây cam lá cam, mà không nói đây là cây quýt lá quýt; do đó chẳng khác.
“Chẳng đến cũng chẳng đi” là sao? Đến là cho rằng các pháp từ chỗ khác đến nhưng mầm trong hột cam không từ đâu đến, nếu đến thì mầm ấy phải từ chỗ khác đi đến hột cam, thế nên chẳng đến; đi cho rằng các pháp đi ra, nếu có đi ra thì có thể thấy mầm từ hột cam đi ra, mầm ở trong hột cam đi ra thì trong hột cam phải có mầm, kỳ thật không như vậy; do đó chẳng đi.
Tiếp theo là 4 câu Kệ thứ ba:
“Các Pháp chẳng tự sinh” là sao? Là vạn vật không sinh ra từ chính tự thế nó, mà phải chờ đủ các nhân duyên mới sinh ra; nếu pháp sinh ra từ chính tự thể của nó, thì một pháp có hai cá thể, một là sở sinh, hai là năng sinh; nếu chỉ từ chính tự thể nó sinh ra, thì thành không có nhân duyên và sinh ra lại sinh ra nữa, không cần nhân duyên mà sinh được sao? Không đúng, nên nói các pháp chẳng tự sinh
“Các Pháp chẳng tha sinh” là sao? Theo phép đối đãi: có sáng mới có tối, không có sáng thì làm gì có tối, nên tự và tha cũng là đối đãi nhau; ở trên đã chứng minh không có tự thì ở đây cũng không có tha. Do đó nếu không sinh từ chính nó, cũng không sinh từ cái khác, nên các pháp chẳng tha sinh.
“Chẳng cộng, chẳng vô nhân, Cho nên biết vô sanh” là sao? Tự với tha đều chẳng thể thành lập như trên đã nói, thì lấy gì để cộng nên chẳng cộng, lại pháp đã từ nhân duyên sinh thì chẳng phải vô nhân; cho nên biết tất cả pháp đều vô sinh, người chứng ngộ tức là ngộ cái pháp "vô sanh" này vậy.
Tới Phẩm thứ 15: Quán về có, không như sau:
1. Hữu nếu chẳng thể thành
Thì vô làm sao thành
Vì đã có "pháp hữu"
Hữu hoại gọi là vô
2. Nếu người thấy hữu, vô
Thấy tự tánh, tha tánh
Như thế thì chẳng thấy
Phật pháp chân thật nghĩa
3. Ðịnh hữu là chấp thường
Ðịnh vô là chấp đoạn
Cho nên người có trí
Chẳng nên chấp hữu, vô
Các pháp do nhân duyên hòa hợp có tướng như huyễn như hóa hiện ra, gọi là Có, khi nhân duyên ly tán, tướng pháp như huyễn như hóa chia lìa biến mất gọi là Không. Nếu pháp là thực "Có", thực Có thì chẳng thể hoại diệt mà thành Không, nếu thực "Không", thực Không thì chẳng thể sinh "Có".
Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều là pháp sinh diệt, sinh diệt thì chẳng thuộc về Có Không; nếu chẳng sinh diệt là pháp vô vi, lại chẳng dính líu đến sự có không, tự tánh tha t ánh, cho nên chấp có chấp không chấp tự chấp tha đều chẳng phải nghĩa chân thật của Phật pháp vậy.
Có và Không theo giáo lý Phật là như vậy, nhưng vì vô minh nên mọi người đều chấp các pháp Có thật có nên rơi vào chấp thường, chấp các pháp Không thật không nên rơi vào chấp đoạn; tất cả đều sai, nên phẩm này quán xét phá lối kiến chấp ấy.
Tóm lại, phẩm này gồm:
Câu 1, 2: Nói về tự tính phi hữu.
Câu 3: Nói về tha tính phi hữu.
C âu 4: Nói về tính phi hữu.
C âu 5: Nói về tự tính, tha tính, tính thứ ba phi vô.
C âu 6, 7: Khai thị nghĩa chân thật.
C âu 8 đến 12: Phá hữu vô kiến.
Chúng ta đã xét hai phẩm về các Pháp Hữu vi, nay chúng thử xét về phẩm Vô vi nơi Phẩm 22: Phẩm Như Lai, các bài kệ như sau:
1. Phi ấm phi lìa ấm
Thử bỉ chẳng tướng tại
(Này kia chẳng có tướng tồn tại)
Như Lai chẳng có ấm
Nơi nào có Như Lai
2. Ấm hợp có Như Lai
Thì chẳng có tự tánh
Nếu chẳng có tự tánh
Do đâu lập sự Có
3. Nếu chẳng có tự tánh
Tại sao có tha tánh
Lìa tự tánh tha tánh
Gọi gì là Như Lai
4. Người tà kiến thâm sâu
Thì nói chẳng Như Lai
Tướng Như Lai tịch diệt
Sao phân biệt hữu vô
Bốn câu kệ đầu nói về Quán xét Như Lai chẳng phải Ngũ ấm (Ngũ uẩn: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức)), chẳng phải do xa lià ngũ ấm, vì các pháp chẳng có tướng tồn tại, và Như Lai cũng chẳng có các ấm, vì Như Lai chẳng ở chỗ nào cả.
Bốn câu kệ thứ hai nói ấm hợp nên có Như Lai, nếu hợp thì chẳng có tự tánh, không có tự tánh thì chẳng có Như Lai; đây là để phá chấp năm uẩn là Như Lai.
Bốn câu kệ thứ ba quán xét nếu chẳng có tự tánh thì không thể có tha tánh, do không có tự tánh và tha tánh thì lấy cái gì gọi là Như Lai mà chỉ là Thế đế giả danh thôi.
Bốn câu kệ chót quán xét về nói chẳng có Như Lai của người tà kiến sâu nặng, vì thật tướng Như Lai tịch diệt thì làm sao phân biệt được có hay không Như Lai; đây là Thắng nghĩa đế không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, Như Lai tức là giống như bản lai, bổn lai thì vô thỉ vô sinh, vô sinh thì chẳng thể sinh "hữu", cũng chẳng thể sinh "vô"; nên có hay không có Như Lai đều sai, chẳng thể kiến lập nghĩa Như Lai.
Chúng ta xét thêm một phẩm nữa về Vô vi, đó là Phẩm thứ 25, phẩm Niết Bàn như sau:
1. Nếu các pháp đều không,
Không sinh cũng không diệt,
Thì đoạn diệt cái gì,
Sao gọi là Niết-bàn?
Nếu hết thảy pháp tính không, thì không sinh không diệt, không sinh không diệt thì đoạn diệt cái gì mà gọi là Niết-bàn; do đó hết thảy chẳng nên không, vì các pháp chẳng không (tức là có) nên mới đoạn các phiền não, diệt năm uẩn, gọi là Niết-bàn; đây là vấn nạn Niết Bàn vậy.
2. Nếu các pháp chẳng không,
Không sinh cũng không diệt,
Vậy đoạn diệt cái gì,
Sao gọi là Niết-bàn?
Nếu hết thảy thế gian chẳng không (tức là thật có) thì không sinh không diệt, đã không sinh diệt thì đoạn diệt cái gì mà gọi là Niết-bàn; do đó thực có pháp và không thực có pháp chẳng phải đưa đến Niết-bàn, gọi là Niết-bàn; đây cũng là vấn nạn về Niết bàn.
3. Vô chứng vô chỗ đến,
Bất đoạn cũng bất thường,
Bất sinh cũng bất diệt,
Ấy gọi là Niết-bàn.
Vô chứng đắc và vô chứng quả là không có sở đắc đối với tu hành, vô chỉ là không có chỗ có thể đến mà thôi; bất đoạn là năm uẩn từ trước lại đây rốt ráo không, nên khi đắc đạo vào Vô dư Niết-bàn cũng không có đoạn cái gì. Bất thường là không có pháp có thể nắm bắt, có pháp có thể nắm bắt và phân biệt được thì gọi là thường, còn Niết-bàn vắng lặng không có pháp để phân biệt nên không gọi là thường; bất sinh bất diệt cũng như thế, như vậy gọi là Niết-bàn; đây gọi là hiển bày chính tông về Niết-bàn.
Kinh nói: Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải có không, chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không. Không chấp thọ tất cả pháp, bên trong vắng lặng, gọi là Niết-bàn,
4. Niết-bàn không gọi Có,
Có là tướng già chết,
Không một pháp Có nào,
Lìa ngoài tướng già chết.
Mắt thấy hết thảy vạn vật đều sinh diệt, đó là tướng già chết, Niết-bàn nếu là Có thì có tướng già chết, việc ấy không đúng, do đó Niết-bàn không gọi là Có; lại không thấy riêng có pháp khi xa lìa sinh diệt già chết, mà chỉ do xa lìa tướng già chết nên gọi là Niết-bàn.
5. Nếu Niết-bàn là Có,
Niết-bàn tức hữu vi,
Không một pháp Không nào
Gọi là pháp vô vi,
Niết-bàn chẳng phải là Có vì hết thảy vạn vật từ các duyên sinh đều là pháp hữu vi, nên không có một pháp nào gọi là pháp vô vi; tuy giả gọi pháp thường là vô vi, nhưng lấy lý suy thì pháp vô thường còn không có, huống gì pháp thường là pháp không thể thấy, không thể thủ đắc.
6. Nếu Niết-bàn là Có,
Có chẳng dung Niết-bàn,
Không gì từ chấp thọ
Gọi là pháp có được.
Nếu bảo Niết-bàn là pháp Có, thì kinh không nên nói "không chấp thọ là Niết-bàn", vì không có pháp nào không chấp thọ mà thành Có được. Do đó Niết-bàn chẳng phải Có.
7. Có chẳng phải Niết-bàn,
Huống gì là Không ư;
Niết-bàn không tướng Có,
Chỗ nào có tướng Không?
Nếu Có chẳng phải Niết-bàn, thì không có làm sao là Niết-bàn, vì nhân nơi Có nên mới có Không, nếu không có Có, thì làm sao có Không. Như kinh nói trước Có mà nay Không, thì gọi là “không có”, còn Niết-bàn không phải như vậy, vì chẳng phải Niết-bàn trước Có rồi sau biến thành Không; do đó “không có”, cũng không thành Niết-bàn.
8. Nếu Không là Niết-bàn,
Sao Niết-bàn không thọ,
Vì chẳng gì không thọ
Gọi là pháp Không được.
Nếu bảo "không có" là Niết-bàn, thì kinh không nên nói "không chấp thọ là Niết-bàn", vì không có cái gì không chấp thọ mà gọi là pháp “không có” được; do đó biết Niết-bàn chẳng phải "không có" (vô).
9. Vì chấp thọ nhân duyên,
Nên xoay vần sinh tử,
Không chấp thọ nhân duyên,
Ấy gọi là Niết-bàn.
Vì không như thật biết dính mắc điên đảo nên nhân nơi năm thọ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) mà qua lại sinh tử, còn như thật biết điên đảo thì không còn chấp thọ nơi năm uẩn sẽ không còn luân hồi sinh tử nữa; năm uẩn không có tự tính, không còn tương tục, nên gọi là Niết-bàn.
10. Như trong kinh Phật dạy:
Dứt hữu dứt phi hữu.
Niết-bàn chẳng phải hữu
Niết-bàn chẳng phải vô.
Phi hữu là không có, không có thì Có đoạn diệt, Phật dạy: “dứt Có dứt không có ấy, gọi là Niết-bàn”; nên biết Niết-bàn chẳng phải Có chẳng phải Không.
11. Nếu Niết-bàn là hợp
Của cả hữu và vô.
Hữu vô tức giải thoát,
Như vậy là không đúng.
Nếu bảo Có và Không hợp lại là Niết-bàn, tức Có và Không hợp lại là giải thoát; việc này không đúng, vì hai việc Có và Không trái nhau, làm sao hợp cùng ở một chỗ được.
12. Nếu Niết-bàn là hợp
Của cả hữu và vô.
Chẳng phải là không thọ,
Hữu vô từ thọ sinh.
Nếu Có và Không hợp lại thành Niết-bàn thì kinh không nên nói “Niết-bàn không chấp thọ”, vì sao Có và Không đều do chấp thọ mà sinh, duyên với nhau mà có; do đó Có và Không không thể hợp lại làm thành Niết-bàn.
13. Gọi Có và Không hợp
Sao thành Niết-bàn được,
Niết-bàn là vô vi,
Vì Có Không hữu vi.
Có và Không hợp chung lại không được gọi là Niết-bàn, vì Có và Không thuộc hữu vi mà Niết-bàn là vô vi; do đó Có và Không chẳng phải Niết-bàn.
14. Gọi Có và Không chung
Sao lại thành Niết-bàn,
Có Không không cùng chỗ
Như sáng tối không chung.
Có và Không không được gọi là Niết-bàn, vì Có và Không trái nhau, không thể cùng ở một chỗ, như tối và sáng không có cùng một lúc. Do đó khi Có thì chẳng có Không, khi Không thì chẳng có Có, làm sao Có và Không họp chung gọi là Niết-bàn.
15. Nếu chẳng có chẳng không
Được gọi là Niết-bàn,
Chẳng có chẳng không ấy,
Lấy gì để phân biệt.
Nếu Niết-bàn chẳng phải có chẳng phải không, vậy chẳng phải có chẳng phải không ấy căn cứ vào đâu để phân biệt; do đó nếu nói chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy không đúng lý.
16. Phân biệt chẳng có chẳng không,
Như vậy gọi là Niết-bàn;
Nếu Có Không thành Niết-bàn,
Thì chẳng “chẳng có chẳng không”.
Nếu phân biệt chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy không đúng lý; vì nếu Có và Không mà thành Niết-bàn được, thì sau chẳng phải có chẳng phải không mới thành Niết-bàn được; nhưng Có gọi là Không ngay trong câu kệ thứ ba đã bị phá rồi. Có và Không còn không có thì làm sao “chẳng phải có chẳng phải không” thành Niết Bàn được; do đó Niết-bàn chẳng phải do chẳng phải có chẳng phải chẳng không mà thành.
17. Khi Như Lai diệt độ, không thể nói,
Như Lai hiện hữu hay không hiện hữu,
Vừa hiện hữu lại vừa không hiện hữu,
Chẳng có hiện hữu chẳng không hiện hữu.
18. Ngay khi đức Như Lai còn tại thế,
Không thể nói Như Lai có hay không,
Cũng không thể nói vừa có vừa không,
Chẳng phải có chẳng phải không hiện hữu.
Sau khi Như Lai diệt độ, hoặc hiện tại, có Như Lai cũng không chấp thọ; không có Như Lai cũng không chấp thọ, cũng có Như Lai, cũng không Như Lai cũng không chấp thọ; chẳng phải có Như Lai, chẳng phải không Như Lai cũng không chấp thọ. Vì không chấp thọ nên không nên phân biệt Niết-bàn là có hay là không v.v… lìa ngoài Như Lai thì ai đắc Niết-bàn, lấy pháp gì nói là Niết-bàn; do đó tìm tướng Niết-bàn trong mọi lúc ở mọi nơi, đều không thể có được.
19. Niết-bàn cùng thế gian,
Không mảy may phân biệt,
Thế gian cùng Niết-bàn
Chẳng vi trần phân chia.
Do nhân duyên của năm uẩn qua lại tương tục nên gọi là thế gian, song bản tính năm uẩn là rốt ráo không, vắng lặng, không chấp thọ; bởi hết thảy pháp chẳng sinh chẳng diệt, nên thế gian với Niết-bàn hoặc Niết-bàn với thế gian đều không có phân biệt.
20. Tánh đích thực Niết-bàn
Tánh đích thực thế gian,
Hai tánh đích thực ấy
Không mảy may sai khác.
Suy tìm thực tế của thế gian và Niết-bàn là vô sinh bình đẳng không thể phân biệt, nên không có mảy may khác biệt.
21. Sau khi Như Lai diệt độ,
Hiện hữu không hiện hữu,
Kiến chấp ấy nương đâu
Nơi Phật Niết-bàn sinh;
Hữu biên hoặc vô biên,
Hoặc thường hoặc vô thường,
Chấp ấy nương vị lai
Và quá khứ sinh khởi.
Sau khi Như Lai diệt độ: Còn có Như Lai, không có Như Lai, cũng có cũng không có Như Lai, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không có Như Lai; trong 4 kiến chấp ấy gọi là “Tứ Cú” thứ nhất. Tứ cú thứ hai là: Thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Tứ cú thứ ba: Thế gian thường, thế gian vô thường; thế gian cũng thường cũng vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường.
Trong ba loại Tứ cú mười hai kiến chấp ấy, bốn kiến chấp sau khi Như Lai diệt độ Như Lai có không v.v… là dựa vào sau khi Như Lai Niết-bàn mà khởi lên; bốn kiến chấp thế gian hữu biên vô biên v.v… là dựa vào đời vị lai mà khởi lên; bốn kiến chấp thế gian thường vô thường v.v… là dựa vào đời quá khứ mà khởi lên.
Như Như Lai có hay không có v.v… sau khi diệt độ đều không thể có được, Niết-bàn cũng như vậy, như thế gian đời quá khứ, vị lai, hữu biên, vô biên, thường, vô thường đều không thể có được, Niết-bàn cũng như vậy. Do đó nói thế gian và Niết-bàn không có sai khác.
22. Hết thảy pháp đều rốt ráo không,
Sao có biên giới, không biên giới,
Cũng biên giới cũng không biên giới,
Chẳng biên giới chẳng không biên giới.
23. Gì là một là khác,
Đâu có thường vô thường,
Cũng thường cũng vô thường,
Chẳng thường chẳng vô thường.
24. Các pháp rốt ráo không,
Không thể nào nắm bắt,
Mọi hý luận dứt sạch,
Không người cũng không nơi,
Tất cả pháp, hết thảy thời, mọi chủng tử đều do nhân duyên sinh, rốt ráo không, nên không có tự tánh; các pháp như vậy, cái gì là hữu biên, cái gì là vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Cái gì là thường, cái gì là vô thường, cái gì là thường vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường; cái gì thân tức là thần ngã, cái gì thân khác thần ngã; sáu mươi hai tà kiến như thế đối với Không đều không thể có được. Những gì có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt; vì hý luận diệt nên thông đạt thật tướng vô tướng của các pháp, được đạo an ổn.
Tóm tắt phẩm Quán về Niết-bàn:
Quả chứng cùng tột của con đường tu Phật là Niết-bàn. Nghe kinh dạy giải thoát sinh tử chứng nhập Niết-bàn hay thoát khỏi ba cõi chứng nhập Niết-bàn, rồi tưởng lầm thật có sinh tử và ba cõi để phải thoát ly, thật có Niết-bàn ở ngoài sinh tử và ba cõi để chứng nhập. Sự thật là thật tánh của sinh tử và ba cõi vốn chân không vắng lặng, chính đó là Niết-bàn; ngộ nhập được hết thảy pháp tánh không, tức là ngộ nhập Niết-bàn vậy; phẩm này một mặt phá kiến chấp Niết-bàn thật có, một mặt hiển bày chân nghĩa Niết-bàn; gồm có:
Kệ 1, 2: Nêu vấn nạn về Niết-bàn.
Kệ 3: Hiển bày chính tông về Niết-bàn.
Kệ 4 đến 16: Nêu Niết-bàn không theo tứ cú
Kệ 17, 18: Như Lai lìa tứ cú (bốn câu)
Kệ 19, 20: Niết-bàn tức thế gian.
Kệ 21 đến 24: Các kiến chấp không phải Niết-bàn.
Quán Như Lai, Quán Niết Bàn là thuộc về phá pháp vô vi, những phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Hữu Vô thuộc về phá pháp hữu vi; tất cả pháp “có, không” đều phá, hễ có hai bên tương đối đều phá hết. Nếu phá bỏ được các kiến chấp sai lầm đối với thật tướng, thì thật tướng hiện ra trước trí tuệ chính quán, như vậy được giải thoát tất cả vướng mắc, đau khổ; những phương tiện do Phật và Chư Tổ thiết lập chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải để nghiên cứu tìm hiểu lý đạo.
Chúng ta đã xét xong hai phẩm thuộc Hữu vi và hai thuộc vô vi. Tất cả 27 phẩm trong Trung Quán Luận đều thuộc hai loại này; khi xét giải 4 Phẩm nêu trên, tất cả chỉ là luận bàn hiển bày cái thực tướng của muôn pháp như nó là. Chúng ta đã thấy rõ: không có chỗ nào dư thừa, không có chỗ nào vô lý, huống hồ nói luận này là hý luận ư; không thể, không thể nào như vậy được như đã chứng minh ở trên, chỉ là cao siêu khó hiểu khiến tác giả Thông Lạc tưởng là luận bàn quanh co để mà chơi nên gọi là hý luận.
Trong 27 phẩm dù là hữu vi hay vô vi đều là Quán và phá, như: phẩm thứ nhất phá Nhân Duyên, phẩm thứ nhì phá Khứ Lai, phẩm thứ ba phá Lục Tình, phẩm thứ tư phá Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn), phẩm thứ năm phá Lục Chủng (Sáu Thứ giới), phẩm thứ sáu phá Nhiễm và Kẻ Nhiễm, phẩm thứ bảy Quán Tam Tướng (Sanh, Trụ, Diệt), phẩm thứ tám Quán Phá “Pháp Tác” Và “Kẻ Tác”, phẩm thứ chín phá Bản Trụ (Bản Lai Vốn Đã Có), phẩm thứ mười phá "Đốt" và "Sở Đốt", phẩm mười một phá Bản Tế (Thực Tế Bản Lai Vốn Sẵn), phẩm mười hai phá Khổ, phẩm mười ba phá "Hành", phẩm mười bốn phá "Hợp", phẩm mười lăm phá Hữu Vô, phẩm mười sáu Quán Trói Mở, phẩm mười bảy Quán Nghiệp, phẩm mười tám Quán "Pháp", phẩm mười chín Quán "Thời", phẩm hai mươi Quán Nhân Quả, phẩm hai mươi mốt Quán Thành Hoại, phẩm hai mươi hai Quán Như Lai, phẩm hai mươi ba Quán "Điên Đảo", phẩm hai mươi bốn Quán Tứ Đế, phẩm hai mươi lăm Quán Niết Bàn, phẩm hai mươi sáu Quán Thập Nhị Nhân Duyên, phẩm hai mươi bảy Quán Tà Kiến.
Trong luận này, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá; Tổ thứ 14 Long Thọ theo ý Phật dùng pháp phá làm phương tiện để phá sự chấp trước của chúng sanh, chúng sinh có cái chấp nào thì phá cái chấp ấy; bất cứ pháp hữu vi, pháp vô vi, tất cả đều phá. Sự phá chấp này để giúp người tu dễ dàng rời bỏ kiến chấp tà tư duy, như thế mà bảo Trung Quán Luận là hí luận là sai sự thực; nó không những không phải là hí luận, không phải là bánh vẽ mà là luân chân thật, là bánh thật giúp cho người tu hiểu được những lời Phật nói, giúp cho người tu dễ dàng đạt đạo; như vậy mới đúng với ý nghĩa của luận này.
Trong thời Đức Phật còn tại thế, nhiều lần Đức Phật nói vắn tắt nên một số Tỳ Kheo không hiểu, do đó các đệ tử học rộng hiểu nhiều đã phải giải nghĩa Đức Phật nói; nhưng Đức Phật nói thì vô lượng, nên các đệ tử thời đó có giải thích cũng không sao cho hết được. Do đó, các vị Tổ nối tiếp về sau tiếp tục giải thích những điều mà các đệ tử Phật không hiểu nghĩa lý, đó là nguyên nhân các vị Tổ đã dựa vào các lời Phật dạy mà viết ra Kinh Luận chưa có, còn thiếu. Trung Quán Luận của Ngài Long Thọ viết ra không ngoài tôn chỉ ấy để phụ với Đức Phật phá những nhận định sai lầm của người tu về hữu vi và vô vi, mục đích là giúp cho người tu đi đúng con đường mà Đức Phật đã dạy và mong muốn chúng ta hiểu đúng hành đúng để đạt qủa Niết Bàn đích thực. Với tài biện giải cao siêu như thế, Ngài Long Thọ qủa là một vị Bồ Tát ở bậc cao, xin đảnh lễ Ngài trăm lạy.
Tác giả Thông Lạc cho rằng: “… không mấy vị tu sĩ đạt được giải thoát”; về vấn đề này, nếu cho rằng các luận của Bắc truyền đưa đến tình trạng từ xưa tới ngày nay không mấy người tu đạt đạo là không chính xác. Riêng tu theo Bắc truyền từ ngàn xưa biết bao nhiêu vị đạt đạo, nhất là Thiền Tông từ bên Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bản cho tới Việt Nam con số đạt đạo có thể nói là vô số, ngay cả với Tịnh Độ Tông, số người vãng sinh Tây Phương Cực Lạc cũng vô số; sao lại nói là không có người nào giải thoát, các sách lịch sử Phật giáo đều đã ghi lại đầy đủ. Nếu bảo rằng đó là giả dối thì không đúng, vì Phật giáo luôn luôn tôn trọng sự chân thực, các sách của Phật giáo không bao giờ dám ghi những điều sai quấy, vì ghi điều sai quấy là tội Địa ngục Vô Gián chứ không phải chuyện rỡn chơi đâu.
2). Tác giả TTL viết: “đến khi chết không có vị nào mà không đau khổ cả, họ đều lăn lộn trăn trở trên giường bịnh một cách khổ đau không thua gì người thế tục” là hồ đồ; có những vị Thiền Sư đã thể hiện sự đau đớn khi tịch vì để dạy các đệ tử về lòng tin, có rất nhiều Thiền sư ngồi kết già mà thị tịch một cách an nhiên. Lại có một số vị để thân bất hoại cho mãi đến ngày nay vẫn không hư thối tan hoại; lại nữa, có nhiều vị nói trước về ngày sẽ rời khỏi thế gian và đúng ngày giờ đã nói mà ra đi một cách tự tại; lại có những vị muốn ra đi vào một ngày nào đó, nhưng vì một sự yêu cầu hay sự việc gì đó, vị ấy hoãn lại ngày ra đi của mình như Ngài Cư sĩ Bàng Uẩn và gia đình ghi trong Bàng Ngữ Lục. Chúng ta theo dõi một đoạn về sự sinh tử tự tại của Gia đình Cư Sĩ Bàng Uẩn như sau:
Cư-sĩ Bàng-Uẩn (740-808): Cư-sĩ Bàng-Uẩn bên Trung-Hoa học đạo ngài Mã-Tổ Đạo-Nhất (709-788) được đại ngộ, sau hướng dẫn lại cho vợ con đều được kiến-tánh cả. Ông Bàng Uẩn tham câu: “Chẳng cùng với muôn pháp làm bạn là người gì?” Sau đó ông đến tham vấn Mã-Tổ, và cũng hỏi như trên, Mã-Tổ đáp:
- Đợi ông hút hết nước Tây giang ta sẽ nói với ông.
Nhân câu nói đó Cư-Sĩ đại ngộ, Ông về nhà lấy thuyền chở hết đồ đạc của cải mang đổ xuống sông Tương và đến chỗ vắng vẻ cất một Thất nhỏ để tu hành; con gái là Linh-Chiếu theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre đan bện mành bán nuôi cha. Ông có bài kệ:
Có con trai không cưới,
Và con gái chẳng gả,
Cả nhà chung hội họp,
Cùng bàn việc vô sinh.
Về sau, khi Cư-Sĩ sắp tịch, ông bảo con gái ra xem mặt trời đúng trưa vào cho ông hay; Linh-Chiếu ra xem, vào thưa:
- Mặt trời đã đúng trưa, nhưng bị Sao Thiên Cẩu ăn mất!
Ông rời chỗ ra xem, khi trở vào thấy con gái ngồi chỗ của ông và đang thu Thần hóa xác. Ông cười nói: “Con gái ta lanh lợi qúa”, rồi ông chờ bảy ngày sau mới hóa.
Cư-sĩ Bàng-Uẩn trước khi viên-tịch có quan Tổng-Đốc (Tỉnh-Trưởng) hỏi:
- Trước khi viên tịch, Ngài có gì để lại cho mọi người và hậu thế không?
Cư-Sĩ Bàng-Uẩn nói:
- Những cái gì có bỏ hết, cái gì không có đừng đem vào.
Xong Cư-Sĩ nói một bài kệ để lại như sau:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu,
Trâu sắt chẳng sợ sư-tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh,
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành.
Nói kệ xong, Ngài ngồi mà tịch.
Vợ ông hay được việc ấy nói: “Con gái ngu si, ông chồng vô tri”, Bà đi báo cho con trai đang làm việc ngoài đồng; người con trai đang cuốc đất nghe tin xong bèn đứng mà tịch, rồi sau đó bà lặng lẽ tịch luôn.
Nếu không phải là người thấu dấu đạo thì làm sao có thể sinh tử tự tại được, tác giả Thông Lạc trả lời thế nào về sinh tử tự tại của gia đình Cư Sĩ Bàng Uẩn và rất nhiều vị khác? Nếu bảo rằng tất cả những việc ghi nhận của các vị Thiền Sư đều là bịa đặt, thì những người viết lại các Ngữ Lục sự việc xảy ra như thế, rồi lại được ghi vào lịch sử Phật giáo tại các nước Phật giáo Bắc truyền, có ai dám làm chuyện không nói có để rồi chịu qủa báo đọa địa ngục? Thiết nghĩ, những người đã mang danh là con Phật dù là Bắc truyền hay Nam truyền đều không ai dám làm điều không nói có.
Xem như thế mà bảo là: “đến khi chết không có vị nào mà không đau khổ cả, họ đều lăn lộn trăn trở trên giường bịnh một cách khổ đau không thua gì người thế tục” là xuyên tạc sự thật, vì biết bao nhiêu các vị tu hành tới nơi tới chốn rồi thì đều tự kiểm soát được việc sinh tử vậy
Ở đây kg phải chổ chơi của hlt đâu nha,ăn nói thì chẳng ra gì,bị khùng sao nói 1câu cười 1câu bị mất đằng dưới sao mà cười hihi vậy hlt
klhi ban nhin bé ngaoi thi chưa beit gi dau a'. tahy thich tri tinh ra sao , ANDY bik con rõ hon ban , ANDY chỉ thay ong nay chaunbi vao đia ngục vô gian, BAN ko tin thi tu tu se ro, hihi,,, Muon tim minh sư thi hoc theo PHAP DI ĐÀ , va 2nghe cac bang dia Pháp sư TINH KHÔNG, SƯ thích giác nhan , thi duco ròi,, Thoi cháo cac ban
Hihihi
Những câu hỏi khiến Tánh Giác, Phật tánh... trở thành TÁNH NỔ, PHẬT NỔ.
1./Có 1 số định nghĩa hay diễn đạt vể tánh giác như sau:
Xét qua đoạn trên ta đã thấy ngay cái nói láo về tánh giác. Vì sao ?Trích dẫn:
Tánh nghe tánh thấy v.v… biểu trưng cho tánh Bồ Đề, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, sáng suốt vô hạn, nó thường hằng như hư không, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng dao động; nó luôn luôn tồn tại dù đi đứng nằm ngồi hay chết đi nó vẫn không mất vì nó là bất diệt.
Vì tánh giác bản chất nó thế nào ?
=>sáng suốt vô hạn
=>chẳng tăng chẳng giảm
Xét 2 bản chất tiêu biểu là thấy lòi ra ngay cái dối trá, nếu 1 cái gì đấy sáng suốt , cũng không tăng, không giảm THÌ VÌ SAO BỊ VÔ MINH CHE MỜ LÀM NGU ĐI ?. THẬT RA NÊN GỌI ĐÓ LÀ TÁNH NGU, TÁNH DỐT THÌ ĐÚNG HƠN.
Xét thêm 1 tính chất nữa
Tánh giác là tánh nghe,thấy, biết, đặc điểm nổi bật của nó là gì ===> "LUÔN TỒN TẠI". Ô HAY VẬY SAO ? VẬY NHỮNG NGƯỜI BỊ CHỤP THUỐC MÊ THÌ HỌ NGHE GÌ,THẤY GÌ,BIẾT GÌ SAU KHI TỈNH LẠI ? HAY CÁI TÁNH TÀO LAO ĐÓ NÓ TRỞ NÊN HOANG ĐƯỜNG ?Trích dẫn:
nó luôn luôn tồn tại dù đi đứng nằm ngồi hay chết đi nó vẫn không mất vì nó là bất diệt.
Trên thì cho rằng tánh giác sáng suốt vô hạn, lại có trí tuệ diệu dụng, dưới thì bảo rằng DO BỊ VÔ MINH CHE LẤP ? Ngu thầy chạy, dối trá trơ trẽn. Đã bảo sáng suốt VÔ HẠN thì đâu có cái gì NGU MÀ CHE NÓ ĐƯỢC,đã bảo có trí tuệ diệu dụng sao lại để vô minh che mờ========> lý luận khác gì mấy bà chợ cá ăn nói tào lao.Trích dẫn:
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì bị vô minh che lấp như trên đã viết, nên chưa thấy tánh, chưa thấy tánh thì mọi chúng sanh chỉ sử dụng bộ óc để suy nghĩ, mà bộ óc thì tùy nghiệp đã tạo từ kiếp trước để có trí hiện tại, thông minh hay ngu đần đều tùy thuộc ở nghiệp đã tạo. Rõ ràng rằng tác giả không hiểu và không chấp nhận mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, cũng không biết rằng Phật tánh bị vô minh che lấp, nên mới nói “Thà là chịu ngu như loài cầm thú còn hơn có tánh giác mà lại ngu”. Bởi vì tánh giác bị vô minh che lấp như mây che mặt trời, như nước bị quấy động làm đục mất tính trong của nước không thể thấy vật ở dưới đáy, như gương bị phủ bụi không thể thấy mặt mũi được
Xét thêm 1 lý luận nữa
Xét theo lý luận này thì phải có 1 cái gì đó để nhận biết tánh giác, vì do không nhận biết nên mới ngu(vô minh) ?Ta có thể diễn đạt rõ bằng ký hiệu sau đâyTrích dẫn:
Do không hiểu bản tâm diệu giác sáng suốt sẵn có của mình, nên từ mê, chứa chấp thêm mê, khởi sanh ra các đường luân hồi mãi. Do nhận thức sai lầm khiến cho con người bỏ mất bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú của mình; nếu tu hành liễu đạt được tự tâm diệu giác hiển lộ. Cũng như mây đã tan hết nên sẽ thấy mặt trời, như nước đã lặng trong sẽ thấy các vật dưới đáy rõ ràng, như gương đã lau sạch hết bụi sẽ thấy mặt mũi rõ ràng. Người tu đến liễu đạt lúc đó sẽ hiểu biết suốt thông, dù là người ngu si vô học không biết một chữ như Lục Tổ Huệ Năng bên Trung Hoa chẳng hạn, khi Ngài ngộ rồi thì không ai có thể cãi lại Ngài, vì khi Đạt đạo sẽ có đủ Tam minh Tứ trí Lục thông, nghĩa là có Tuệ Giác hiển lộ và biết ra khỏi sinh tử luân hồi y như vị A La Hán vậy.
A=ngu là do không nhận biết =>tánh giác
=>A=vọng tưởng.
Như vậy ta thấy ngay cái ngu của luận điệu này.
1./Nếu tánh giác bị vọng tưởng nhận biết thì cái tánh giác đó có còn là tánh giác không ? Dĩ nhiên không vì cái gì nhận biết bằng vọng tưởng thì không phải là tánh giác
2./Vậy chỉ còn trường hợp tánh giác nhận biết chính nó ? Nếu cho rằng xảy ra trường hợp này còn ngu nữa, nếu nó nhận biết được chính nó thì tu chi nữa ?
Tóm lại là NGU TOÀN TẬP KHI PHÂN TÍCH RA .
Đời còn lắm kẻ lười biếng , giang sơn lại có quá nhiều kẻ có não không thèm xài thành ra hình thành 1 tầng lớp cộng sinh là kẻ vô não cống nạp cho kẻ lười biếng ,ba hoa. Thật xót xa thay công sức lao động mồ hôi nuớc mắt của kẻ vô não thay vì đem chăm lo gia đình xã hội nay lại đem cung phụng những kẻ lười biếng NHƯNG BA HOA VÀ BA XẠO THÌ VÔ ĐỊCH.
:D :) ;)
Thực ra là các nhà Thiền Sư Đại Thừa lầm Thức là Phật Tánh mà thôi .
Thức thì thực ra nó có chứa đựng tham , sân , si gì đâu . Cái biết vốn chỉ là cái biết chẳng hơn , chẳng khác , chẳng thể nói nó bất tịnh hay gì được. Chỉ nói nó là vô thường mà thôi .
Nhưng vì các nhà Đại Thừa còn chấp ngã nhưng luôn mơ ước ta đã chứng Thánh rồi. Nên các ngài gán luôn cái Thức ấy là Phật Tánh . Nhưng thực ra bình cũ , rượu mới vì Thiên Chúa Giáo, Balamon đã gọi nó là Linh Hồn hay Đại Ngã , Tiểu Ngã từ rất lâu rồi .
Sự việc đơn giản , nhưng nếu không viết ra thành sách , không làm cho nó rối lên thì e rằng người ta không gọi các ngài là chứng đạo được.
mặt trời bị che bởi mây, nhưng mặt trờ vẫn sáng, mây bay đi rồi trời lại đầy nắng mà thôi
XVI). HT TTL: Trên đường hoằng hóa độ sanh, Thượng Tọa bộ tuy cố giữ gốc Nguyên Thủy, nhưng vì các vị tu hành chưa chứng đắc nên có sự kiến giải trong giáo lý ấy bằng trí tuệ học giả hoặc bằng những kinh nghiệm chưa đến nơi đến chốn như: Thiền sư Mahàsi, Thiền sư A-Chaan-chah. Hai Ngài có những bài kinh soạn theo kiến giải kinh nghiệm tu hành của mình như: Mặt Hồ Tĩnh Lặng, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v... làm sai ý nghĩa và giáo pháp của Đức Phật rất lớn. Vì tu hành chưa tới nơi tới chốn, nên các Ngài biên soạn những loại kinh sách này vô tình đã để lại cho loài người trong hiện tại và mai sau những tai hại rất lớn, làm hao tài tốn của và phí cả cuộc đời của hậu học chẳng ích lợi gì, khi họ theo tu những pháp môn này. Trong thế kỷ này, tín đồ Phật Giáo khắp năm châu bốn biển đua nhau tu tập thiền Minh Sát Tuệ; tu tập thiền này phải tập trung theo cơ bụng (Phồng, xẹp) nhằm diệt vọng tưởng. Loại thiền ấy thuộc về thiền ức chế tâm nó không phải là thiền của Đạo Phật.....(ĐVXP-Tập 8)
XVI). Phản Biện: Tác giả Thông Lạc cho rằng các vị Thiền sư Mahàsi, Thiền sư Ajahn-chah tu theo Nguyên Thủy Nam truyền chưa tới nơi tới chốn, nên đã viết theo kiến giải kinh nghiệm của mình như quyển “Mặt Hồ Tĩnh Lặng của Thiền Sư Ajahn Chah và quyển “Thiền Minh Sát Tuệ” của Thiền sư Mahàsi làm sai ý nghĩa và giáo pháp của Phật…. Để tiện việc nhận xét, chúng ta thử tìm hiểu hai tác giả và lược qua hai tác phẩm của hai vị Thiền Sư nổi tiếng Nam truyền như dưới đây:
1). Thiền sư Ajahn Chah của Thái Lan đã từng đến giảng dạy Phật pháp tại Anh Quốc, Mỹ Quốc và Gia Nã Đại, Ngài viết cuốn Mặt Hồ Tĩnh Lặng do Tỳ Kheo Khánh Hỉ dịch. Trong cuốn sách này đề cập tới những vấn đề:
1. Đạo giản dị về Chân Tám Thánh Đạo ở trong chúng ta là: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, một lưỡi và một thân; tám cửa này là toàn thể Đạo (Con Đường); tâm con người đi trên con đường ấy. Biết những cửa này và quan sát chúng thì tất cả giáo pháp sẽ hiện khởi. Sách nói đến Trung Đạo: không nghiêng về lạc thú hay đau khổ mà chỉ đặt chúng xuống (buông bỏ).
2. Sách cũng nói đến việc quan sát hoạt động của tâm, theo dõi tâm di chuyển, chúng ta có thể thấy được những đặc tính căn bản của nó; đó là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Đối với năm uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) phải buông bỏ chúng, không dính mắc vào chúng, không xem chúng là ta hay của ta.
3. Sách còn nói về Chánh kiến, người phát triển chánh kiến bằng cách nhìn mọi vật dưới ánh sáng vô thường, khổ và vô ngã, sẽ chấm dứt được luyến ái và mê lầm, không luyến ái không có nghĩa là ghét bỏ, nhưng đi tìm sự bình an là thoát khỏi khổ đau.
4. Nói về Giới hạnh, có hai trình độ thực hành giáo pháp: Gìn giữ giới luật là phần căn bản đầu tiên, giới luật đem lại hạnh phúc, thoải mái và hòa hợp; thứ đến -- tích cực hơn, không liên quan đến sự thoải mái -- đó là thực hành giáo pháp; muốn thực hành đúng đắn giáo pháp của Đức Phật, phải hiểu rõ giới luật và pháp hành. Đức Phật dạy: "Làm điều lành, lánh xa điều ác, giữ tâm trong sạch." Việc hành thiền của chúng ta cũng vậy: "Lánh xa điều xấu và giữ gìn điều tốt", cuối cùng chúng ta phải bước qua cái tốt lẫn cái xấu; Giải thoát bao gồm tất cả không dính mắc gì cả, từ sự không dính mắc này tình thương và trí tuệ lưu chuyển một cách tự nhiên.
5. Những tên trộm trong tâm: Mục đích của thiền là nắm sự vật lên và đưa vào phòng thử nghiệm để rõ thực chất của chúng. Chẳng hạn, khi nhìn hình dáng của một vật, ta thấy nó xinh đẹp, trong khi đó Đức Phật dạy chúng ta: nó là bất tịnh, vô thường, và chất chứa đau khổ; vậy quan niệm nào đúng chân lý? Những tên trộm chính tông không ở ngoài chúng ta là nhóm đạo chích của tham ái, Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức đã luôn luôn trộm cắp, đánh đập ta, hành hạ ta đủ điều; tất cả những tên trộm ấy -- sự hiểu biết sai lầm -- đưa ta đến hành động sai lầm.
6. Hạnh phúc và Đau khổ: Một thanh niên Tây phương vừa mới đến tu viện trong rừng của Ngài Ajahn Chah xin ở lại để học thiền và sống trong yên tĩnh. Câu nói đầu tiên của lối dạy của Ajahn Chah thường thẳng thắn và trực tiếp vì Ngài nói: -- Tôi hy vọng anh không sợ đau khổ. Ajahn Chah giải thích rằng: -- Có hai loại đau khổ: đau khổ dẫn đến đau khổ hơn, và đau khổ dẫn đến chấm dứt đau khổ; nếu anh không muốn gặp loại đau khổ thứ hai thì anh chắc chắn sẽ gặp loại đau khổ đầu tiên.
7. Tâm phân biệt: Nghĩa rốt ráo của Chánh Kiến là không phân biệt. Thấy mọi người như nhau, không tốt cũng không xấu, không thông minh cũng không ngu dốt. Tâm phân biệt phát xuất từ tham muốn và si mê, nó nhuộm màu mọi vật bằng lối này; đó là thế giới do chính chúng ta tạo ra, chỉ vì chúng ta so sánh nên mới nhận lấy đau khổ.
8. Theo thầy: Có nhiều hiểu biết sai lầm về sự tập trung tâm ý, nhiều hiện tượng bất thường sẽ xẩy ra trong lúc bạn hành thiền; lúc chúng xẩy ra, vị thầy sẽ kịp thời hướng dẫn và đặc biệt điều chỉnh những sai lầm của bạn. Vị chân sư thường chỉ dạy những cách hành thiền khó khăn đòi hỏi nhiều nỗ lực của bạn để loại bỏ tự ngã; dầu có gì xẩy ra cũng đừng bỏ thầy, hãy để thầy hướng dẫn vì bạn rất dễ quên thực hành.
9. Cái gì còn mới thì đều tốt đẹp: Ngài Ajahn Chah đến thăm một trung tâm thiền ở Hoa kỳ. Được thưởng thức những câu chuyện ý nhị, được nghe giáo pháp qua lối diễn đạt mới mẻ nên các thiền sinh rất thích thú yêu cầu Ngài hãy ở lại thêm một thời gian, nhưng Ngài cười nói: -- Cái gì mới thì đều tốt đẹp, nhưng nếu tôi ở lại dạy các bạn và bắt các bạn thực hành, các bạn sẽ mệt mỏi và chán tôi.
10. Hãy để cho cây mọc tự nhiên: Khi trồng cây bạn không thể thúc ép cây mọc nhanh hơn, cây có bước tiến của nó. Nhiệm vụ của bạn là đào lỗ, trồng cây, tưới nước, bón phân, trừ sâu, v. v…, nhưng cây mọc thế nào là chuyện của cây; việc hành thiền của bạn cũng vậy, bạn hãy vững tin là mọi chuyện sẽ tốt đẹp
11. Hãy để cho cây mọc tự nhiên: Nhóm người hành hương này là những vị đại diện cho một tổ chức tôn giáo Âu Châu đã đến gặp nhiều thiền sư ở Á Châu để hỏi:
1. Tại sao Ngài hành thiền?
2. Ngài hành thiền như thế nào?
3. Kết quả việc hành thiền của Ngài ra sao?
Ngài Ajahn Chah bằng cách hỏi lại ba câu hỏi khác:
1. Tại sao quí vị ăn?
2. Quí vị ăn như thế nào?
3. Sau khi ăn xong quí vị cảm thấy ra sao?
Nói xong Ngài cười, về sau Ngài giải thích rằng: Những lời dạy của Đức Phật nhằm mục đích hướng dẫn mọi người hãy trở về với Trí Tuệ nội tại của mình, trở về với Giáo Pháp tự nhiên của mình. Bởi thế nên Ngài muốn nhắc nhở không cần phải đi khắp Á Châu tìm kiếm lời giải đáp mà hãy trở về tìm hiểu phần bên trong của mình bằng Thiền trong mọi tác động, cố gắng ý thức và tỉnh thức trong mọi lúc, chế ngự sự lười biếng và phiền não, thực hiện trong tỉnh thức mọi tác động hàng ngày của chúng ta.
12. Giữ rắn trong tay: Khi tâm nắm giữ sự đau khổ thì chẳng khác nào bị rắn cắn, nếu thích thú nắm giữ cái gì với tâm tham ái chẳng khác nào nắm lấy đuôi rắn, vì sau đó không lâu, rắn sẽ quay đầu lại cắn ta. Hãy lấy chánh niệm và không luyến ái làm người canh giữ tâm mình vì khi giác quan tiếp xúc với sự vật thì yêu và ghét phát sinh, và si mê đi liền theo đó; nếu với chánh niệm thì cũng sự tiếp xúc đó, nhưng trí tuệ phát sinh.
13. Giới, Định, và Tuệ: Đức Phật chỉ dạy con đường thoát khổ, nguyên nhân khổ đau và con đường thực hành. Trong việc thực hành có con đường đơn giản này thôi. Con đường thoát khổ, tốt đẹp ở giai đoạn đầu: Giới; tốt đẹp ở giai đoạn giữa: Định; và tốt đẹp ở giai đoạn cuối: Tuệ. Nếu xem xét một cách kỹ càng, chúng ta sẽ thấy cả ba nhập một, Giới, Định, Tuệ phải được phát triển để hỗ trợ lẫn nhau; bất kỳ đối tượng gì hiện ra ở sáu căn đều kiểm soát được, nếu mạnh thì có thể tiêu diệt được phiền não Tham, Sân, Si. Giới, Định, Tuệ tạo nên Đạo, nhưng Đạo không phải là Chân Pháp, không phải là mục tiêu mà là con đường dẫn đến chân lý; khi bạn phát triển ba yếu tố này, kết quả sẽ là sự bình an kỳ diệu nhất.
14. Thế nào là tự nhiên: Nếu để tâm con người tự do tiến đến cái gọi là tự nhiên theo cảm tính, không cần rèn luyện -- cảm xúc thế nào thì làm theo thế ấy, thì tâm sẽ dẫy đầy tham lam, sân hận, si mê; và đau khổ cũng phát sinh từ đấy.
15. Điều hòa: Ba điểm căn bản thực hành là Thu Thúc Lục Căn (nghĩa là không chìm đắm và dính mắc trong dục lạc ngũ trần), Ăn Uống Tiết Độ và Tỉnh Thức. Muốn có chánh niệm thì phải có nỗ lực liên tục, chứ không phải chỉ siêng năng một lúc rồi thôi. Dầu bạn hành thiền suốt đêm, nhưng những lúc khác bạn để cho lười biếng ngự trị thì cũng không phải là hành thiền đúng mà phải luôn luôn quan sát, theo dõi tâm
16. Hãy nương tựa vào mình: Không có chút khác biệt nào giữa những lời tán dương và câu chỉ trích; dầu người ta nói thế nào cũng không quấy rầy được bạn, một người không tự tin sẽ cảm thấy mình xấu khi bị kẻ khác chê xấu. Hãy tự xét: Nếu họ nói sai, hãy quên đi; nếu họ nói đúng, hãy học theo họ; bất kỳ trường hợp nào xẩy ra cũng chẳng có gì, chúng ta tất cả đều phải nương tựa nơi chính mình là vậy.
17. Để mặc người ta: Đừng tìm lỗi người, nếu cách cư xử của họ sai lầm, bạn cũng chẳng cần làm khổ mình mà chi. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế.
18. Tình yêu thật sự: Tình yêu thật sự là trí tuệ, còn tình yêu như phần lớn mọi người nghĩ chỉ là một cảm giác tạm bao gồm tham ái và luôn luôn dính liền với đau khổ. Chúng ta không nên dính mắc hay đồng hóa với chúng mà chỉ cần biết chúng là gì, Khi chúng ta thể nhập chân lý, không còn cần hay muốn thứ tình yêu ấy nữa, vì lúc đó trí tuệ và tình yêu thật sự sẽ lấn át tham ái và tràn ngập thế gian.
19. Đương đầu với tâm mình: Nếu chịu khó rèn luyện, trước tiên bạn sẽ nhận thấy rằng thân ẩn cư là điều quan trọng. Khi sống ẩn cư bạn có thể nghĩ đến lời khuyên của Ngài Sariputta về ba loại ẩn cư: thân ẩn cư, tâm ẩn cư, xa lánh phiền não cám dỗ ẩn cư. Ngài nói rằng: "Thân ẩn cư là nguyên nhân tạo nên tâm ẩn cư, và tâm ẩn cư là nguyên nhân phát sinh phiền não ẩn cư." khi tâm bạn yên tĩnh, bạn có thể sống bất kỳ nơi nào.
20. Bỏ hết ngôn từ sách vở, và tự mình nhận thức: Lấy những lời dạy của Đức Phật làm căn bản và bắt đầu nghiên cứu tâm mình, khi thực hành bạn dẹp bỏ tất cả ngôn từ, biểu tượng, dự định, kế hoạch, v.v…, và ngưng học hỏi vì sự học hỏi này biến thành chướng ngại nhiều hơn là hỗ trợ; thực ra nếu nhìn vào bên trong chính mình, khi thực hành một thời gian sau sẽ thấy rõ chân lý,.
r /> 21. Bỏ đói phiền não: Nơi nào bất hòa và khó khăn, nơi đó là chỗ để hành thiền, chúng ta phải biết mối nguy hiểm phải đương đầu khi hành thiền là phiền não. Phiền não chẳng khác nào rắn độc, phiền não chẳng khác nào một con mèo, nếu cho nó ăn, nó sẽ quanh quẩn bên ta; đừng cho nó ăn, nó sẽ không quấy rầy nữa. Muốn đề kháng lại phiền não thì bạn đừng cho chúng ăn ngủ theo ý muốn của chúng. Nhiều người cho làm như thế là tự hành hạ mình thái quá, nhưng đó là điều cần thiết để có sức mạnh bên trong; chúng ta phải huấn luyện tâm như huấn luyện một con trâu. Trâu là tư tưởng của chúng ta, và người chăn trâu là thiền sinh, nuôi trâu và huấn luyện trâu là hành thiền, với một con trâu được huấn luyện thuần thục, chúng ta có thể thấy chân lý.
Xét sơ lược về nội dung của tập “Mặt Hồ Tĩnh Lặng”, chúng ta thấy ý nghĩa của sách toàn là nói việc tu hành theo thực tế mà Đức Phật đã dạy, như giữ cho các căn không lạc không khổ, thủ thúc lục căn, tiết độ ăn uống, tỉnh thức liên tục. Quán sát để thấy căn bản của Tâm là vô thường bất toại nguyện và vô ngã, phải có chính kiến về ba thứ ấy sẽ thoát khỏi khổ đau. Người hành thiền phải giữ giới luật và thực hành bằng cách: làm lành tránh làm ác giữ tâm trong sạch; nếu phải khổ đau để chấm dứt đau khổ thì đó là hạnh phúc.
Nếu có tâm phân biệt tâm trộm cắp luyến ái thì sẽ đưa đến sai lầm và khổ đau, hãy hành thiền để tìm hiểu bên trong của mình chứ không cần tìm kiếm đâu xa và vững tin, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Giới định tuệ là con đường thoát khổ nếu giữ chính niệm thì trí tuệ sinh, nếu thực hành rồi thì không cần học hỏi nữa, thực hành một thời gian sẽ thấy chân lý mà thôi. Chúng ta thấy không có một điểm nào dư thừa hay nghịch lý. Tới đây, chúng ta xét qua về Thiền Sư Mahasi viết tập “Minh Sát Thực Tiễn” (Vipassana) do Sư Pháp Thông dịch.
2). Thiền Sư Mahasi Sayadaw Miến Điện: Mahasi Sayadaw sinh năm 1904, đã được diện kiến Trưởng Lão Mingun Jetawan Sayadaw (U Nārada Mahāthera, 1868-1955), U Nārada được thừa nhận như người khai sáng ra cách đổi mới cho phù hợp với thời đại mới về kỹ thuật Tứ Niệm Xứ cổ điển nhằm thực hành thiền Minh sát, hay Vipassanā. Vào đầu thế kỷ 20, U Nārada, có ý muốn thực chứng những lời dạy của Đức Phật mà ông đã học, tha thiết đi tìm một Thiền sư có đường lối thiền trực tiếp, ngài gặp một vị sư mà người ta đồn là đã bước vào các Thánh Đạo cao thượng (tức đã đắc các đạo quả) trong vùng đồi núi của Sagaing ở thượng Miến.
Khi U Nārada đặt ra những Câu hỏi cho vị này, ngài đã hỏi ngược lại: “Tại sao ông lại đi tìm (chân lý) ngoài lời dạy của bậc Đạo Sư; chẳng phải Satipaṭṭhāna, con Đường Độc Nhất, đã được Đức Phật công bố đó sao?” U Nārada đón nhận lời chỉ dẫn này, ông bèn nghiên cứu lại kinh điển và những bản Chú giải theo truyền thống, suy xét sâu xa trên đó, và bước vào thực hành một cách tinh tấn dũng mãnh, cuối cùng ông đã đi đến chỗ thấu triệt những đặc tính của nó. Những kết quả đạt được trong thực hành đã làm cho tin chắc rằng ngài đã khám phá ra cái ngài đang đi tìm: một phương pháp tu tập tâm rõ ràng và hiệu quả để đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, và nhiều người tin rằng ngài đã đạt đến sự giải thoát cuối cùng (đắc A-la-hán).
Dưới sự hướng dẫn của bậc thầy tài ba này, Mahāsi Sayadaw đã hành thiền tích cực dựa trên bốn nền tảng chánh niệm (Tứ Niệm Xứ), bắt đầu với quán thân, và đạt được những tiến bộ đáng kể; sau này, không xao lãng việc thực hành Vipassanā, và những hoạt động giảng dạy của mình như trước, và ngày càng được công nhận như một học giả danh tiếng nhất. Năm 1949, Thủ Tướng U Nu của Miến Điện, đã thỉnh cầu Mahāsi Sayadaw trở về Rangoon để dạy những khóa thiền tại Thathana Yeiktha, trụ sở Trung ương của Hội Phật Giáo Quốc Gia Miến Điện. Cho đến năm 1973, hơn 15.000 thiền sinh đã tham dự thiền Minh sát tại trung tâm Rangoon, và hàng trăm ngàn người đã được chỉ dẫn trong hơn một trăm trung tâm thiền địa phương khắp nước Miến. Ngoài Miến Điện các trung tâm thiền như Sri Lanka, Ấn Độ, Thái lan cũng được mở hoạt động dưới sự hướng dẫn của ngài Mahāsi Sayadaw. Ngài viên tịch ở tuổi bảy mươi tám, năm 1982,
Những thành tựu nổi bật của ngài như một học giả, một vị thầy và một bậc thiền sư, Mahāsi Sayadaw đã được chỉ định vào vị trí chính yếu của “Người Hỏi” tức người làm nhiệm vụ đặt ra những Câu hỏi liên quan đến Tam Tạng Kinh Điển và Chú giải, theo thể thức giống như các cuộc kết tập kinh điển và Người Trả Lời là Trưởng Lão Tam Tạng Bhaddanta Vicittasārā Bhivatsa ND tại Đại Hội Phật Giáo lần Thứ Sáu tổ chức tại Thủ Đô Rangoon, Miến Điện từ năm 1954 đến 1956 nhân kỷ niệm 2.500 năm Phật lịch.
Cốt lõi của Pháp Hành Minh Sát Thực Tiễn là Chánh Niệm, Chánh Niệm là gì? Theo Thiền Sư Mahãsi Sayadaw thì Chánh niệm không phải là giữ cho tâm tập trung trên hơi thở của bạn, cũng không có nghĩa là chỉ chú ý đến bất cứ điều gì bạn đang làm trong lúc đó; bất luận một người có đủ nghiêm túc trong công việc của mình đều làm một cách bình thường. Ngay cả các con vật cũng thường chú ý làm như con mèo chăm chú hoàn toàn vào việc rình bắt chuột, con cò rình bắt cá, v.v… mà không phạm một sai lầm nào; nhưng chẳng có con mèo, con cò nào có thể đoạn trừ được lòng tham lam, dục vọng, v.v…, của chúng.
Cho dù lúc nào bạn cũng chú tâm đến những gì bạn đang làm cũng sẽ không diệt được tham, sân và si, thực sự đây chính xác là những gì bạn làm trong thiền vắng lặng hay thiền định; dù mỗi lúc bạn chỉ chú tâm đến một đối tượng duy nhất trong năm mươi năm bạn cũng không thể loại trừ được những phiền não trong tâm của bạn mà vẫn còn nguyên xi không thay đổi.
Một người có thể giữ hết thảy mọi giới luật, người khác có thể học thuộc lòng tất cả kinh điển, ai đó có thể đắc định, hoặc một người có thể suốt cuộc đời sống độc cư; tất cả họ có thể đinh ninh rằng mình đã kinh nghiệm được sự giải thoát tối thượng khỏi mọi phiền não, nhưng thực sự chẳng ai trong họ có thể có được kinh nghiệm đó nếu không tiêu diệt mọi phiền não trong tâm. Do đó, ngoài tất cả những gì họ đã hành họ còn phải loại trừ hết những bất tịnh trong tâm để chứng nghiệm hạnh phúc của sự giải thoát khỏi mọi loại khổ đau.
Sự chú tâm hoàn toàn của bạn vào một đối tượng duy nhất trong mọi lúc cần phải kết hợp với như lý tác ý. Như lý tác ý là sự tác ý hay hướng tâm có ba thiện căn đi kèm. Ba thiện căn đó là vô tham (bố thí), vô sân (tâm từ), và vô si hay trí tuệ. Còn tham sân và si là ba bất thiện căn; hãy để cho tư duy vô tham, tâm từ và trí tuệ ngự trị tâm bạn trong lúc chú tâm vào bất cứ một điều gì.
Bạn phải chú tâm đến bất kỳ ý nghĩ nào liên quan đến chính bạn, hoặc đến một chúng sinh nào đó; bạn luôn luôn có sự quán niệm trong lúc mặc áo quần, trong lúc ăn uống, trong lúc nói chuyện với người khác, trong lúc nghe tiếng, trong lúc thấy một vật, trong lúc đi đứng hay lái xe. Khi bạn chú tâm trọn vẹn với như lý tác ý hoặc với sự quán niệm như vậy, tham sân si của bạn sẽ mất dần đi, bởi vì trong như lý tác ý vô tham từ ái và trí tuệ hoạt động; khi bạn nhận thức đối tượng với tham sân si, tâm bạn sẽ dính mắc vào nó chứ không mở rộng cho bất kỳ một ý nghĩ buông bỏ tham sân si ra được.
Do như lý tác ý, bạn phải học cách thấy ra tính chất vô thường, bất toại nguyện (khổ) và vô ngã trong đối tượng bạn đang nhìn. Như lý tác ý của bạn chỉ ra cho thấy chẳng có đối tượng nào bạn nhận thức, chẳng có cảm thọ hay cảm xúc nào liên quan tới đối tượng ấy giữ nguyên được như vậy dù chỉ trong hai sát-na liên tiếp, bạn sẽ thấy rằng mọi thứ đều vô thường. Tri kiến hiểu biết về vô thường này cho phép bạn buông bỏ cảm giác bực bội, với trí tuệ bạn thấy ra những gì bất toại nguyện đều vô thường, và thấy được sự liên hệ giữa bất toại nguyện và sự tham lam; khi bạn có như lý tác ý bạn sẽ thấy rằng cái gì vốn vô thường và bất toại nguyện đều không có tự ngã.
Tóm lại: chánh niệm không phải là sự thận trọng, cũng không phải là sự khôn lanh, là trạng thái tâm tự phản tỉnh trên chính nó không để bị vướng vào tham sân và si, những gốc bất thiện gây khổ đau cho bản thân, cho người khác và cho cả hai. Chánh niệm là trạng thái tâm tràn đầy quảng đại (vô tham) từ ái (vô sân) và trí tuệ cùng với bi hỷ và xả; nên bất cứ lúc nào bạn chú tâm tới một điều gì bạn phải tự hỏi xem tâm bạn có đầy đủ những yếu tố này không.
Satipatthāna là gì?
Satipatthāna có nghĩa là niệm, hay luôn luôn ghi nhớ, cái người ta cần phải ghi nhớ không quên ở đây là hiện tượng thân, thọ, tâm hay pháp ngay khoảnh khắc (sát-na) chúng xuất hiện đối với họ; điều rất quan trọng là phải loại trừ hoài nghi pháp hành của mình. Việc quan sát các đối tượng như đang đi, đang co, đang duỗi, v.v… không chỉ là một sự luyện tập cơ bản, mà ghi nhớ các hoạt động thân tâm, như đang đi, đang co, đang duỗi, v.v… cũng còn là cách thực hành ở những giai đoạn cao hơn nữa.
Thiền Minh sát (Vipassanā) chú ý tới bất kỳ đối tượng rõ rệt nào - điều này được nói đến trong phụ Chú giải Thanh Tịnh Đạo - Visuddhi magga. Vì thế, hành giả được hướng dẫn bắt đầu công việc Minh sát của mình bằng cách ghi nhận một đối tượng rõ rệt, đó là một đối tượng dễ ghi nhận hay dễ quan sát nhất. Đức Phật dạy một cách rất dễ: "khi đi, biết hay ghi nhận đang đi”; có vậy thôi.
Vipassana Ngày Nay
Xét theo bài kinh Cūtatathāsankhaya Sutta (Tiểu Kinh Ái Đoạn Tận - Cūtatathāsankhaya Sutta, Kinh số 37 Trung Bộ I), bài kinh nói về cách làm thế nào để đoạn trừ ái hay tham, thì rõ ràng người ta có thể thực hành Vipassanā mà không cần phải có kiến thức về Vi Diệu Pháp và Pháp Duyên Khởi nếu như họ biết rằng những gì thực sự hiện hữu không ngoài tâm và vật chất (danh và sắc), và danh sắc ấy phải chịu vô thường, khổ và vô ngã.
Người hành thiền phải quan sát tâm và thân, không cần quan sát chúng bằng cách gọi tên, vì gọi tên hoàn toàn không quan trọng, cũng chẳng phải bằng cách kể ra từng khoản thế này, thế nọ là các hiện tượng tâm lý hoặc vật lý (danh pháp hoặc sắc pháp); thế này, thế nọ là tâm và các tâm sở của nó v.v…; trong thực tế, chỉ biểu thị đặc tính bằng màu sắc và cảm thọ, chứ không có gì khác. Trong cuốn Abhidhamma, gọi là Yếu Nghĩa của Vi Diệu Pháp (Abhidhammatthasatgaha) có lẽ sẽ rất rõ ràng đối với mọi người học Phật, nói như sau: “Lakkhana-rasa-paccupatthāna-padatthāna-vasena nāma-rūpa-pariggaho ditthi-visuddhi nāma.” Có nghĩa là: “Kinh nghiệm tâm và thân, dưới dạng các đặc tính, nhiệm vụ, sự thể hiện và nhân gần của chúng, dẫn đến kiến tịnh”.
Chữ ‘sati’, hay niệm nghĩa đen của nó lại là nhớ, vì thế nó được giải thích như là “ghi nhận” cho phù hợp; ghi nhận ở đây chỉ là sự quan sát tâm và thân hay danh và sắc ngay sát-na chúng xảy ra để hay biết đúng như chúng thực sự là. Còn đối tượng phồng và xẹp của bụng được bao gồm trong các hiện tượng vật lý nằm trong sắc uẩn (rūpa-kkhandha); trong nghĩa tối hậu, đối tượng phồng và xẹp của bụng này nằm dưới Sắc uẩn (Rūpa-kkhandha), Xúc xứ (Photthabba yatana), Phong đại (Vāyo Dhātu), và Khổ đế (Dukkha Sacca), được xem như đủ điều kiện làm một đối tượng cho Vipassana (Minh sát) để nhận thức Tam Tướng vô thường, khổ và vô ngã, theo lời dạy của Đức Phật.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta trích một số câu hỏi và giải đáp cốt lõi của tập “Minh Sát Thực Tiễn” (Vipassana) như sau:
1- Bạch Ngài, có phải ngài đã khởi xướng cách quan sát sự “phồng - xẹp' của bụng khi thở?
Đáp: Không, tôi không phải là người khởi xướng cách quan sát 'phồng - xẹp', thực sự chính Đức Phật đã khởi xướng nó vì Ngài dạy quan sát Vāyo-dhātu, tức quan sát phong đại hay yếu tố gió gồm trong năm uẩn. Sự phồng - xẹp là do phong đại tạo thành.
Mới đầu, một số người đã chất vấn cách quan sát sự phồng - xẹp của bụng này. Tuy nhiên, do bạn bè khuyến khích, sau đó họ đã thử và hiểu được giá trị của nó nhiều đến độ thậm chí họ đã chỉ trích lại những kẻ ưa bới lông tìm vết trước đây. Tôi chắc chắn rằng: người nào thử rồi cũng sẽ hiểu được giá trị của nó từ kinh nghiệm cá nhân của mình, cũng giống như việc nếm đường người nào cũng có thể trực tiếp hiểu vị ngọt của nó từ kinh nghiệm riêng của mình.
2- Bạch ngài, những khó khăn nào ngài đã gặp phải trong việc giảng dạy thiền Vipassanā này?
Đáp: Năm 1939, khi tôi mới bắt đầu dạy thiền Satipatthāna Vipassanā tại quê nhà của tôi, Tu viện Mahāsi, làng Saik Khon, thị trấn Shew Bo. Thời gian đó, vị trụ trì tu viện kế bên không hoan hỷ với việc giảng dạy của tôi, nhưng, ông không dám chỉ trích công khai trước mặt vì ông biết tôi là người có uy tín; vì thế ông chỉ làm điều đó sau lưng tôi. Cũng có một số vị sư và cư sĩ ủng hộ ông ta, tuy nhiên, tôi không phản ứng gì cả, mà cứ tiếp tục công việc giảng dạy của mình như thường lệ; dù cho họ có chỉ trích như thế nào chăng nữa, cũng chẳng có gì làm lay động tôi được bởi vì tôi giảng dạy từ kinh nghiệm riêng của mình. Sau đó ngày càng nhiều người bắt đầu chứng minh được điều tôi dạy là chính xác qua kinh nghiệm trực tiếp của tự thân họ; về sau vị sư chỉ trích việc giảng dạy thiền của tôi này, không may vướng phải một người phụ nữ nên phải xả y hoàn tục và Ông qua đời bốn hoặc năm năm sau đó.
3- Bạch ngài, vì sao ngài hướng dẫn các thiền sinh ở đây khởi sự công việc thực hành của họ với việc ghi nhận 'phồng, xẹp'?
Đáp: Nếu bạn ghi nhận một đối tượng quá đa dạng, hoặc quá vi tế, sẽ phải mất thời gian để phát triển định, trong khi nếu bạn quan sát một đối tượng rõ rệt và giới hạn thì định có thể được khơi dậy nhanh hơn. Đó là lý do vì sao chúng tôi hướng dẫn các hành giả ở đây bắt đầu công việc thực hành của họ vơi việc quan sát bụng biểu thị đặc tính bằng sự căng cứng, sức ép, rung động, được xem là đồng nhất với vāyo-dhātu hay yếu tố gió.
4- Bạch ngài, chỉ có hai đối tượng để ghi nhận là 'phồng, xẹp' thôi sao?
Đáp: Đúng vậy, buổi đầu thiền sinh được hướng dẫn ghi nhận chỉ hai đối tượng 'phồng, xẹp', tuy nhiên, họ cũng được hướng dẫn ghi nhận những ý nghĩ nếu chúng khởi lên, và rồi trở lại với đối tượng chính là 'phồng, xẹp'. Với cái đau cũng tương tự như vậy, hành giả phải trở lại với đối tượng chính khi cái đau tan đi, hoặc sau một thời gian phải chăng cho dù cái đau vẫn còn; điều này cũng áp dụng đối với việc co, duỗi chân tay, hoặc thay đổi oai nghi. Hành giả phải ghi nhận từng mỗi hoạt động hay hành vi cư xử có liên quan, và rồi trở lại với đối tượng chính. Nếu hành giả thấy hay nghe một điều gì nổi bật hơn, hành giả phải ghi nhận nó đúng như nó là, đó là, ‘thấy’, ‘nghe’, v.v…; sau khi ghi nhận chúng ba hoặc bốn lần, hành giả phải trở lại đối tượng chính với đầy đủ tinh tấn.
5- Bạch ngài, ngài có thể mô tả kinh nghiệm giác ngộ đạo quả của một người giống như thế nào được không?
Đáp: Trạng thái tâm của một người thay đổi một cách phi thường và đột ngột khi họ chứng ngộ Đạo Quả, người ấy cảm thấy như thể mình vừa mới tái sanh; đức tin của họ phát triển một cách rõ rệt dẫn đến sự hỷ lạc, ngây ngất và hạnh phúc tột độ. Đôi khi, những trạng thái tâm này xảy ra nhiều đến nỗi họ không thể thể nhập sâu vào đối tượng giống như trước được nữa mặc dù họ vẫn tập trung sự chú ý vào chúng; tuy nhiên, hàng giờ hay hàng ngày sau, những trạng thái tâm như vậy có khuynh hướng dịu lại, và người ấy có thể tiến triển tốt trở lại trong pháp hành. Đối với một số người, họ có thể cảm thấy rất thanh thản; hoặc rõ ràng không muốn hành; hoặc dường như đã thoả mãn với những gì họ vừa thành tựu, và có lẽ do đó mà họ không có ý định thành tựu cao hơn nữa.
6- Bạch ngài, sự mô tả Niết-bàn do những người mà ngài tin đã đạt đến đó là như thế nào?
Đáp: Một số mô tả về Niết-bàn do những người, theo tôi tin, đã chứng ngộ thực sự, là như sau:
- Tôi thấy các đối tượng và tâm ghi nhận (hay tâm chánh niệm) đột nhiên ngừng lại.
- Tôi khám phá ra rằng các đối tượng và tâm chánh niệm bị cắt đứt giống như một sợi dây leo bị chặt đứt vậy.
- Tôi thấy các đối tượng và tâm chánh niệm rơi xuống như thể tôi không còn cầm được chúng nữa.
- Tôi thấy các đối tượng và tâm ghi nhận rơi xuống thình lình giống như vất xuống một gánh nặng vậy.
- Tôi cảm thấy như thể tôi đã thoát khỏi các đối tượng và tâm ghi nhận.
- Tôi phát hiện ra rằng các đối tượng và tâm ghi nhận đột nhiên ngừng lại giống như một ngọn nến bị thổi tắt.
- Tôi cảm thấy như thể tôi đã rời khỏi các đối tượng và tâm ghi nhận, giống như thoát ra khỏi bóng tối đi vào ánh sáng vậy.
- Tôi thấy cả đối tượng lẫn tâm ghi nhận chìm xuống như thể chúng bị dìm vào nước vậy.
- Tôi khám phá ra rằng cả đối tượng lẫn tâm ghi nhận đột nhiên dừng lại giống như một vận động viên chạy nước rút bị đẩy lại từ phía trước vậy.
- Tôi thấy cả đối tượng lẫn tâm ghi nhận đột nhiên biến mất.
7- Bạch ngài, ngài tin là có bao nhiêu người đã được giác ngộ dưới sự hướng dẫn của ngài?
Đáp: Tôi tin có cả ngàn người đã đạt đến tuệ phân biệt danh sắc (nāma-rūpa pariccheda ñata) từ kinh nghiệm cá nhân của họ, nhờ thực hành nghiêm túc như đã chỉ dẫn, và đề khởi được định mạnh mẽ, trong vòng một tuần lễ. Có cả ngàn người đã kinh nghiệm được tâm và thân (danh - sắc) tương tác lẫn nhau và thay đổi không ngừng, đó là nhân và quả, là trạng thái vô thường, khổ và vô ngã của các hiện tượng; và cũng có cả ngàn người được tin là đã hoàn tất sự chứng ngộ Đạo Quả sau khi họ phát triển tuệ Minh sát thành thục nhờ quan sát tâm và thân từ sát-na này đến sát-na khác.
8- Bạch ngài, Ngài có thể mô tả cho chúng con biết chúng con phải nhận ra vô ngã như thế nào trong nghĩa tối hậu?
Đáp: Một số người tin rằng sự thực chứng vô ngã xảy ra nếu như một lúc nào đó bạn mất cảm giác về hình dáng của thân mình bằng cách mường tượng sắc thân này như những phân tử; thực ra thực chứng vô ngã không phải là bạn đơn thuần mất đi cảm giác về tính rắn chắc hay hình dáng của thân thể. Mà chính vì bạn đang kinh nghiệm một cách rõ ràng cái tâm biết. Điều này tương tự như các chúng sanh khi ở cõi người tu tập thiền vô sắc, sau khi chết sinh lên cõi trời vô sắc, ở đây họ không có sắc thân vật lý như con người, nhưng vẫn lầm chấp tâm họ là cái “Tôi” hay tự ngã.
Vì thế chỉ đơn thuần mất cảm giác về hình thể rắn chắc thôi thì không thể xem như đó là sự thực chứng vô ngã được. Chỉ khi bạn quan sát tâm và thân (danh - sắc) ngay sát-na chúng xảy ra, và thấy chúng sanh diệt liên tục theo tự nhiên của chúng, không có quyền lực của bất kỳ ai can thiệp vào, bạn mới thực sự thực chứng vô ngã trong nghĩa tối hậu. Nếu bạn theo dõi tâm và thân từ sát-na này đến sát-na khác, bạn chắc chắn sẽ kinh nghiệm những đặc tính thực của các hiện tượng, và thấy chúng sinh diệt.
9- Bạch ngài, khi đi nếu chúng con phải hay biết về những đặc tính, chúng con có cần quan sát sự cứng (đơ), chuyển động hay di chuyển không?
Đáp: Đức Phật dạy: “khi đi, biết đang đi”. Khi chúng ta đi, yếu tố gió hay phong đại nổi bật, yếu tố gió vốn được kinh nghiệm như sức ép, hay sự cứng đơ dưới dạng những đặc tính của nó, hay sự chuyển động, di chuyển dưới dạng nhiệm vụ của nó. Tuy nhiên, Đức Phật đã không chỉ dẫn chúng ta phải ghi nhận nó như là ‘sức ép’, ‘sự cứng đơ’, ‘sự chuyển động’ hay ‘đẩy tới’ v.v…
Sự chỉ dẫn đích thực của Đức Phật là: “Khi đi, biết đang đi”, chỉ vậy thôi. Lý do là ngài muốn đưa ra một cách dễ hành và dễ hiểu. Ghi nhận theo ngôn ngữ quy ước tất nhiên là hoàn toàn quen thuộc và dễ dàng đối với tất cả mọi người.
10- Bạch ngài, có số người nói, sẽ không hợp lý nếu một vị thiền sư không thể xác nhận rằng hành giả này, hành giả nọ trong số những thiền sinh của ông đã trở thành bậc thánh Tu-đà-hoàn (Sotāpanna); điều đó có thực không?
Đáp: Đúng vậy, điều đó có thể đúng theo quan điểm của họ, song nó lại rất thích hợp đối với truyền thống Phật giáo - Sāsana, một vị thiền sư không thể xác nhận, rằng người như vậy như vậy trong số những hành giả của ông đã trở thành bậc Tu-đà-hoàn. Đức Phật là người duy nhất trong địa vị này, để xác nhận sự giác ngộ của một người nào đó, như là Sotāpanna (bậc Tu-đà-hoàn), Sakadāgāmi (bậc Tư-đà-hàm), Anāgāmi (bậc A-na-hàm), hay Arahant (bậc A-la-hán). Ngay cả Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) cũng không bao giờ xác nhận theo cách đó; vì thế chúng tôi cũng không làm điều này, đây là cách thích hợp trong truyền thống Sāsana.
Xét qua về tập “Mặt Hồ Tĩnh Lặng” và tập “Minh Sát Thực Tiễn” với những sự trình bày của Thiền Sư Ajahn Chad và sự giải thích của Thiền Sư Mahãsi Sayadaw trong tập Minh Sát Thực Tiễn (Vipassana), chúng ta thấy không có điểm nào đi ngược lại và làm sai ý nghĩa giáo pháp của Đức Phật. Các vị này không làm các biên soạn tai hại cho các thế hệ trong hiện tại và mai sau, vì nó không trái với lời Phật dạy khi tu theo những điều các vị viết; sự thực thì trong hiện tại chỉ có một số tín đồ Phật Giáo tu tập thiền Minh Sát Thực Tiễn mà thôi. Các vị Thiền sư này tu hành tới nơi tới chốn hay chưa, điều ấy chỉ có bậc Thánh mới biết được và chính các vị tự biết, như người uống nước nóng hay lạnh tự mình biết, và các vị Thiền sư này đã không tự vỗ ngực nói mình đã giải thoát.
Chúng ta có thể dối gạt người nhưng không thể dối gạt mình được, còn người tự nói mình đã đạt đạo mà viết ra những điều sai lời Phật dạy thì chẳng còn có giá trị gì nữa; vì người đạt đạo là người phải thông suốt Phật pháp, nói ra lời nào thì không ai có thể nói khác được. Về tu tập thiền Minh Sát này theo dõi cơ bụng (Phồng, Xẹp), đây không phải nhằm diệt vọng tưởng mà là quan sát Phong Đại (Vāyo-dhātu), tức theo dõi, để ý, quan sát phong đại hay yếu tố gió của một trong Tứ đại trong Sắc Uẩn của Năm Uẩn; sự phồng - xẹp là do phong đại tạo thành, chứ không phải cố ý làm cho bụng phồng lên xẹp xuống như tập Khí công hay thở để chữa bệnh, như vậy nó không phải là loại thiền ức chế tâm như tác giả Thông Lạc đã chỉ trích một cách lầm lẫn.
XVI). PHẢN BIỆN HIỆN TƯỢNG THÔNG LẠC VỀ KHÔNG TÁNH
Trong bài KHÔNG TÁNH Trưởng Lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD.4 đăng trên mạng Thân Tâm An Lạc ngày 28-11-2012 có đoạn viết:
“Nhưng ở kinh Tiểu Không này dạy không tánh là pháp hữu vi vô thường chịu sự đoạn diệt. Cho nên, kinh sách các bạn phải hiểu đúng nghĩa, đừng hiểu sai, vì chính hiểu sai mà các Tổ mới kiến giải, tưởng giải sinh ra kinh Ðại Bát Nhã, mới có Chân Không Diệu Hữu, Bát Nhã Tâm Kinh.
Tất cả những điều này chỉ là một ảo tưởng của kinh sách Ðại Thừa, còn kinh Tiểu Không thì không có nghĩa đó. Không có nghĩa đó rất rõ ràng vì vô tướng tâm định, không tánh là một pháp hữu vi vô thường, chịu sự đoạn diệt”.
Để việc phán đoán được rõ ràng, chúng ta chia bài Phản Biện này làm 3 phần: 1. Phân tích một phần Kinh Tiểu Không. 2. Phân tích Bát Nhã Tâm Kinh. 3. Phân tích một số phê bình chỉ trích của tác giả Thông Lạc và so sánh với Bát Nhã Tâm Kinh.
1). PHÂN TÍCH MỘT PHẦN KINH TIỂU KHÔNG
Chúng ta sẽ dùng chữ nghiêng chỉ Phật nói, chữ đứng ngay để giải thích, và sẽ biện giải Kinh Tiểu Không (Cùlasunnata) trong Kinh Trung Bộ của Nam Truyền, trích gần một nửa Kinh, từ đoạn cuối đến hết Kinh như sau:
Đức Phật nói: Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định (Ý Phật nói Tỳ Kheo không còn nghĩ tới Vô sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng nữa, được không còn tướng nào trong tâm nên được định tĩnh, được định tĩnh nên được thích thú hân hoan trong an trú).
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây, các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có mặt ở đây; và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". (Nghĩa là: Hành giả biết rõ các lo buồn về Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng không còn; chỉ có lo buồn về Sáu nhập là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp hiện diện trong thân)
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh. (Nghĩa là: Hành giả biết Vô Sở Hữu Xứ Tưởng không còn, biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng cũng không còn, nên được thanh tịnh, Không Tánh đây là đối với hai loại tưởng Vô sở hữu xứ tưởng và Phi tưởng phi phi tưởng, chứ không phải là đối với sáu nhập duyên mạng, vì vậy Phật sẽ nói cái vô tướng tâm định này là hữu vi ở dưới đây).
Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt" (Hữu vi vô thường đoạn diệt bởi vì sáu căn còn dính mắc sáu trần trong tâm, còn ô nhiễm), vị ấy tuệ tri như vậy.
Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa" (Ở đây phải nên hiểu: Sinh đã tận là Tâm không còn sinh ra Tưởng Vô Sở Hữu, Tâm không còn sinh ra Phi Tưởng Phi Phi Tưởng nữa; Phạm hạnh sự tu về việc này đã làm xong, không còn trở lại trạng thái này nữa là đã làm xong việc loại bỏ Tưởng Vô Sở Hữu và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, chứ không phải đã làm xong những cái khác đâu, không phải sự SINH TỬ của hành giả hết đâu).
Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây (Ở đây nên hiểu là các ưu phiền do duyên dục lậu, các ưu phiền do duyên hữu lậu, các ưu phiền do duyên vô minh lậu của Tưởng Vô Sở Hữu, của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng không có mặt ở đây, chứ không phải là các cái khác).
Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này" (Ở đây Phật nói là: chỉ ở ưu phiền Sáu nhập: Sắc, Thanh, Hương, Vi, Xúc, Pháp duyên đến nhập vào Thân hành giả). Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có dục lậu (Loại Tưởng Vô Sở Hữu, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng không tham ô nhiễm)". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu lậu" (Loại Tưởng Vô Sở Hữu, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng không có hữu lậu). Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh lậu (Loại Tưởng Vô Sở Hữu, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng không có vô minh Lậu).
Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có (ý Phật nói: cái gì không có trong tâm hành giả cái ấy là không có). Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.
Tại sao ở trên Đức Phật nói: “chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này”, ở đây lại nói “cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh”? Nghĩa là cái ưu phiền là thật có, vẫn còn trong tâm, nhưng những cái gì không có mặt trong tâm thì hoàn toàn được thanh tịnh, đó là Không tánh đối với những cái không có mặt mà thôi, chứ không phải những cái ưu phiền. Đọan này chứng minh cho câu ở trên Phật nói:
“Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt"; vì những cái có mặt trong tâm thì không thể nói là không, cái gọi là Không Tánh chỉ là đối với những cái vừa loại ra khỏi tâm mà thôi. Đến đây thì chúng ta hiểu rõ thế nào là Không Tánh hay Tánh Không, hai chữ nói đảo qua đảo lại nhưng nghĩa vẫn như nhau. Tới đoạn chót của Kinh Tiểu Không, chúng tôi tóm gọn nhưng ý nghĩa không khác Phật nói như sau:
Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ, trong tương lai, trong hiện tại, sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ananda, các Ông cần phải học tập. (Nghĩa là các hành giả trong quá khứ, tương lai và hiện tại, sau khi chứng đạt được đến đâu thì an trú đến đó trong cứu cánh thanh tịnh Không Tánh, còn Phật đã đạt cứu cánh tuyệt đối rồi và Ngài luôn luôn an trú trong cứu cánh thanh tịnh vô thượng Không Tánh. Do đó Ngài bảo tất cả mọi người phải học và tu tập).
Để kết luận, tâm chúng ta có muôn nghìn sai khác, như lá rừng, như chỉ rồi, nhặt bỏ lá này còn lá kia, gỡ được chỗ rối này còn chỗ rối khác, phải công phu không ngưng nghỉ lâu ngày mới mong giải quyết được, cho nên Kinh Tiểu Không, Đức Phật dạy từ dễ đến khó, từ nông đến sâu an trú Không Tánh từng phần một, loại bỏ trong tâm được đến đâu thì nên an trú đến đó, cho tới khi nào không còn gì ở trong tâm nữa, thì lúc đó tiến tới cái Không Tánh hoàn toàn như Phật vậy.
Bây giờ, chúng ta bước qua Bát Nhã Tâm Kinh, phân tích xem nó có khác hay nó giống với Kinh Tiểu Không của Nam truyền?
2). PHÂN TÍCH BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH:
Chúng ta giải thích tóm tắt ý nghĩa Bát Nhã Tâm Kinh:
BÁT NHÃ: Là Trí huệ, nhưng Trí huệ nầy không phải như Trí huệ của thế gian; Trí huệ của thế gian cần phải qua sự tác ý mới dùng được, còn Bát Nhã của Tự tánh thì không cần sự tác ý.
BA LA MẬT: Nghĩa là bờ bên kia, nếu chúng ta phát huy được cái đại dụng của BÁT NHÃ thì được đạt đến bờ bên kia là chỗ tự do tự tại, không có khổ não.
TÂM: Chữ TÂM biểu tượng cả chân tâm lẫn vọng tâm, cả chánh tâm lẫn tà tâm; còn Bản Tâm tức là Tự tánh, Tự tánh là KHÔNG HAI (BẤT NHỊ); TÂM cũng tức là hư không pháp giới. Nhưng tâm của chúng ta hiện nay có muôn ngàn sai biệt, mục đích của TÂM KINH này là muốn làm cho tất cả muôn ngàn cái tâm sai biệt đều đạt đến chỗ hoàn toàn không sai biệt, hồi phục lại cái BẤT NHỊ của Tự tánh, cho nên Kinh này chỉ rõ đường lối tu hành cho chúng ta, dạy chúng ta y theo đó mà thực hành để đạt đến chỗ BẤT NHẤT BẤT NHỊ.
Chúng ta bắt đầu phân tích lời Kinh, chữ nghiêng đậm là lời Kinh, chữ đứng ngay là giải thích, chúng ta cùng theo dõi:
Quán Tự Tại Bồ Tát sau khi đi sâu vào trí huệ Bát Nhã, soi thấy Năm Uẩn đều không, liền qua tất cả khổ nạn;
Quán Tự Tại Bồ Tát là quán sát TỰ TÁNH Tự Tại của mình hay Quán Tự Tánh Quán Âm của mình; nói cho rõ là quán TỰ TÁNH PHẬT của mình. Chữ ĐI là thực hành, chữ SÂU (Thâm) này tức là siêu việt số lượng, không phải đối với Cạn mà nói Sâu, cũng như chữ ĐẠI của Kinh Đại Bát Nhã, không phải đối với Nhỏ mà nói Lớn, mà là siêu việt số lượng, nếu có số lượng thì không gọi được là Sâu, nếu có số lượng thì không phải là Bát Nhã; khi đã soi thấu thấy Năm Uẩn đều không liền thoát khỏi tất cả khổ nạn.
Trước hết, để hiểu toàn bài Bát Nhã Tâm Kinh, chúng ta cần hiểu KHÔNG là gì, khi đã hiểu rõ chữ KHÔNG rồi thì sau đó phân tích sẽ hiểu dễ dàng hơn. Theo Hòa Thượng Thích Duy Lực giải thích chữ KHÔNG như sau: “Phật pháp nói chữ KHÔNG là để hiện ra cái Dụng tích cực của Tự Tánh, chứ không phải là cái rỗng không tiêu cực như người đời hay hiểu lầm, cũng không phải là cái không ngơ. Chữ KHÔNG nầy kỳ thực nói ra rất dễ hiểu, ví như một căn nhà, nếu không có cái KHÔNG (chổ trống) thì không ở được, một cái tủ không có cái KHÔNG thì chẳng thể để đồ được. Một cái tách nếu không có cái KHÔNG thì chẳng thể đựng nước trà được, nếu hai cái tách to bằng nhau, nhưng một cái mỏng sẽ có cái Không lớn hơn là cái tách dầy; cho nên có thể suy ra, bất cứ cái gì nếu không có cái Không thì chẳng thể dùng được.
Muốn Dùng thì phải có cái KHÔNG, cái KHÔNG đến cùng tột thì cái Dụng cũng được đến cùng tột; cái Dụng của Tự Tánh cũng như vậy, hễ KHÔNG đến đâu thì Dụng đến đó, KHÔNG đến vô cực thì Dụng đến vô cực, mà Dụng đến vô cực tức là Phật, cũng là hoàn toàn phát huy được cái Dụng của Bát Nhã, đến lúc đó cái Đại Dụng, Toàn Dụng của BÁT NHÃ cùng khắp hư không pháp giới, ánh sáng ấy chiếu đến đâu thì tất cả tai nạn khổ sở đều bị tiêu tan sạch”, do đó mới nói “CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU”.
Không này, kinh Lăng Nghiêm gọi là Không Như Lai Tạng, kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới Tánh, Pháp Thân; kinh Viên Giác gọi là Viên Giác, cái biết thường hằng viên mãn. Kinh Lăng Già gọi là Viên thành thật Trí hay Đại viên cảnh Trí. Thiền tông gọi là Tâm, Chân Tâm, Tự Tánh, Phật Tánh, Tâm Không, Tâm Ấn; Mật tông gọi là Kim Cương Giới, thế giới bản thể, tất cả đều biểu trưng cho chữ KHÔNG.
SẮC CHẲNG KHÁC KHÔNG, KHÔNG CHẲNG KHÁC SẮC:
SẮC là tất cả vật chất có hình có tướng, KHÔNG thì không phải là vật chất, hai cái khác nhau, nhưng ý của Kinh này thì nói SẮC, KHÔNG bất nhị, chẳng có khác biệt; như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", Sắc là do tâm tạo, KHÔNG cũng là do tâm tạo, hai cái đều không có Tự Tánh nên nếu không chấp cái SẮC là thật thì SẮC TỨC LÀ KHÔNG, không chấp cái KHÔNG là thật thì KHÔNG TỨC LÀ SẮC; cũng là cái nghĩa không hai (bất nhị) của Tự Tánh, hai cái vốn không khác biệt chỉ vì chúng sanh có bệnh chấp thật nên mới phân biệt có SẮC có KHÔNG.
SẮC uẩn trong Ngũ uẩn như vậy thì bốn uẩn kia: THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC cũng như vậy, cho nên nói CŨNG LẠI NHƯ THẾ; không những thọ, tưởng, hành, thức như vậy, mà vũ trụ vạn vật tất cả đều phải như vậy. Thí dụ lấy ta mà nói thì "Ta chẳng khác không, không chẳng khác ta, ta tức là không, không tức là ta", Cái nghĩa trong Kinh này cũng như “Nghĩa Ba Câu” trong Kinh Kim-Cang và cái nghĩa "Lià Bốn Câu” (Ly Tứ Cú) như sau:
Suốt phần Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Phật của Kinh Kim Cang đều chẳng ngoài ý nghĩa ba câu như:
Hoặc: Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật, tức không phải là trang nghiêm; chỉ tạm gọi là trang nghiêm thôi.
Hoặc: Thân người to lớn như núi Tu Di thật là to lớn, nhưng không phải là thân to lớn, đó mới thực là thân to lớn.
Câu thứ nhất: Chấp thật
Câu thứ hai: Phủ định, phá, chống lại câu 1, lọt vào chấp không.
Câu thứ ba: Giả danh, tạm gọi thôi.
Câu thứ ba phá cả ba câu 1, 2, 3, vì cả ba đều là giả danh, nghĩa là bác bỏ chấp thật của câu 1, bác bỏ chấp không của câu 2, bác bỏ chấp điên đảo tưởng của câu 3,
Còn áp dụng vào lià Tứ cú thì:
Hễ: “Khởi niệm” thì lọt vào cú thứ nhất, "Không khởi niệm" lọt vào cú thứ hai, "Chẳng khởi niệm chẳng không khởi niệm" lọt vào cú thứ ba, "Cũng khởi niệm cũng không khởi niệm" lọt vào cú thứ tư, nên phải lìa Tứ cú.
Này Xá Lợi Tử, tướng của tất cả các pháp, nó không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt; vì thế trong tướng không nó không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới cho đến ý thức giới.
Câu nầy dùng chữ KHÔNG để phá sạch Tri kiến chấp thật của mọi người Phàm phu, như ở trên đã nói "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", cũng gọi là KHÔNG TƯỚNG, cái KHÔNG TƯỚNG đó chẳng phải chỉ KHÔNG những cái có hình tướng, mà cũng KHÔNG những cái vô hình tướng. Như thấy có chẳng phải thật có, thấy chân chẳng phải thật chân là KHÔNG TƯỚNG, thấy không chẳng phải thật không, thấy giả chẳng phải thật giả, cũng là KHÔNG TƯỚNG. Nói tóm lại, không có một pháp nào chẳng phải là KHÔNG TƯỚNG, cái KHÔNG TƯỚNG nầy chẳng phải đối với có mà nói không, nó không có đối đãi, không lọt vào tứ cú; hai chữ KHÔNG TƯỚNG cũng là biệt danh của Tự Tánh.
Mục đích là để phá ngũ uẩn, phá lục trần, phá lục thức, chữ KHÔNG này chẳng phải là cái vô của tuyệt diệt mà là cái Không của "không thật"; bởi vậy ở đây dùng chữ KHÔNG để phá sạch Tri kiến chấp thật của mọi người.
Không có vô minh, cũng không có hết vô minh cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết.
Câu này để phá 12 Nhân duyên, vì tất cả pháp đều là KHÔNG TƯỚNG, tức là chẳng phải thật, vô minh đã chẳng phải thật thì không có vô minh để Hết (Tận), già chết chẳng phải thật thì không có già chết để hết; nhưng trước mắt chúng ta thấy có già, có chết thì làm sao nói chẳng phải thật được? Hiện nay chúng ta thấy rõ ràng có sinh có tử, nhưng chẳng biết cái sanh tử đó là do cảm giác sai lầm của chúng ta sinh ra.
Chứng minh: Trong Kinh Viên Giác Phật có nói: Do vọng tâm của chúng ta ngày đêm hoạt động không ngừng cho nên thấy có sanh tử luân hồi, cũng như thân mình xoay không ngừng thì thấy căn nhà xoay vậy. Căn nhà xoay dụ cho sinh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay dụ cho Niết Bàn. Cái xoay của căn nhà là do cái xoay của thân thể sinh ra cảm giác sai lầm như thế, căn nhà ngưng xoay dĩ nhiên cũng là do cảm giác sai lầm mà ra, bởi vì căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay? Do vọng tâm hoạt động thấy có sanh tử luân hồi và do vọng tâm ngưng hoạt động mà hiển hiện Niết Bàn (liễu thoát sinh tử) cũng là lý lẽ nầy vậy.
Như thế chứng tỏ Thập nhị nhân duyên chẳng phải thật, mà hàng Duyên Giác chấp đó là thật, cho nên đoạn nầy dùng chữ KHÔNG để phá cái Tri kiến chấp thật của hàng Duyên Giác.
Không có khổ, tập, diệt, đạo:
Đoạn nầy là phá hàng Thanh Văn, hàng Thanh Văn gọi KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO là Tứ Thánh đế, chúng ta ở trong sanh tử chịu đủ thứ Khổ, là do cái tâm tạp nhiễm tích Tập, rồi tu hành đến khi cái khổ sinh tử được diệt, nên gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Như đoạn trên đã nói: sinh tử là do cảm giác sai lầm của vọng tâm hoạt động mà sinh ra, thì Khổ, Tập, Diệt, Đạo này chẳng phải là thật, cho nên ở đây lấy chữ KHÔNG để phá cái Tri kiến chấp thật của hàng Thanh Văn.
Không có trí tuệ, không có chứng đắc, cũng không có chỗ được; Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, có tâm không ngăn ngại; vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi.
Câu này là phá hàng Bồ Tát tức là Đại Thừa, nếu người tu Đại Thừa chấp Trí tuệ là thật thì bệnh chấp thật vẫn còn, cho nên nói KHÔNG TRÍ TUỆ KHÔNG CHỨNG ĐẮC, ý là không có Trí huệ cho mình đắc được (VÔ SỞ ĐẮC), nếu tất cả đều Không Chứng Đắc thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ, Dụng của Bát Nhã hiện ra thì đạt đến bờ bên kia, cho nên Kinh nói Y THEO BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, TÂM KHÔNG NGĂN NGẠI, muốn làm cho tâm không ngăn ngại thì phải KHÔNG TRÍ TUỆ KHÔNG CHỨNG ĐẮC, nếu chấp có trí tuệ, có sở đắc thì sẽ bị cái chứng đắc ấy ngăn ngại rồi. Đã được tâm không ngăn ngại tức là tự do tự tại, thì đương nhiên KHÔNG SỢ HÃI nữa; đoạn nầy là phá sạch cái Tri kiến chấp thật của Đại Thừa.
Xa lià mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.
Hai chữ XA LÌA (VIỄN LY) cũng là để phá, mấy đoạn trước lấy chữ KHÔNG để phá, đoạn nầy muốn phá cái Tri kiến chấp Phật, nên dùng hai chữ Xa Lià để nhấn mạnh thêm; nếu chấp có cứu cánh Niết Bàn thật để chứng nhập thì cái Tri kiến chấp thật nầy tức là điên đảo mộng tưởng, cho nên đoạn nầy CỨU CÁNH NIẾT BÀN cũng phải phá luôn.
Trong kinh này, từ Phàm phu, Thanh Văn, Đại Thừa cho đến Phật Thừa, chia làm bốn đoạn để phá, phá tới sạch hết không còn gì để phá nữa rồi mới có tư cách thành Phật; như trong Kinh Kim Cang, phá tới phá lui nhiều lần: Phật hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề:
- Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao, Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng, Như Lai có nói pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa:
- Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói; vì cớ sao? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp; vì tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.
Nếu thấy pháp Như Lai được Vô Thượng Chính Đẳng là thật thì cũng còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả …; vì nói thành Phật thì ai thành Phật? Ta thành phải không? Thấy có pháp thành Phật thật thì phải có người thành Phật, đó là còn ngã, còn ngã thì còn nhân, còn chúng sanh, thọ giả; nếu thế Phật là phàm phu mất rồi! Nếu cho rằng “Phật có nói pháp thật” cũng không được, phàm những gì nói ra đều là tướng hư giả; ở đây chúng ta thấy nếu phá những cấp dưới thấp thì mọi người dễ chấp nhận, còn phá luôn cả Phật thì mọi người cảm thấy rất khó chấp nhận, nên mới phải phá tới nhiều lần là vậy.
Ba đời Chư Phật y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo qủa Bồ Đề.
Câu nầy mới chính thức thành PHẬT, cứu cánh Niết Bàn của đoạn trên chưa phải thành PHẬT, phải phá luôn cứu cánh Niết Bàn, sau khi phá sạch chấp thật Tri kiến Phật rồi mới đủ tư cách thành PHẬT. Ba đời Chư Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai đều phải y theo BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA mà thực hành; phá sạch tất cả Tri kiến, không còn một pháp nào để chấp thật mới có thể đạt đến giác ngộ tối cao Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Nếu cứu cánh Niết Bàn ở đoạn trên đã chứng nhập rồi, ở đây còn chứng nhập thêm nữa là không đúng, cho nên cứu cánh Niết Bàn ở trên cần phải phá; đoạn sau tả cái sức Dụng do sự phá của KHÔNG mà hiển lộ ra, như thế mới được phù hợp.
Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ hết thảy khổ nạn không hư dối.
Câu này diễn tả cái Dụng của Bát Nhã, ở đây Thần chú chia làm bốn cấp, tùy theo sự phá KHÔNG của từng trình độ cao thấp mà hiện ra cái Dụng lớn nhỏ, phá trống được bao nhiêu thì cái Dụng hiện ra được bấy nhiêu. Bốn cấp Thần chú là đại diện cho sức Dụng bằng ĐẠI THẦN CHÚ, phá được Tri kiến hàng Thanh Văn rồi thì hiện ra cái sức Dụng bằng ĐẠI MINH CHÚ, phá được Tri kiến của Bồ Tát rồi thì hiện ra cái sức Dụng bằng VÔ THƯỢNG CHÚ, phá sạch được Tri kiến Phật rồi thì hiện ra cái sức Dụng bằng VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ. Đến đây đã phá tới chỗ không còn gì để phá nữa, sức Dụng của Bát Nhã đã đạt được đến Cứu cánh, không có gì có thể bằng được, nên gọi là không còn bậc nào cao hơn nữa (VÔ ĐẲNG ĐẲNG); cuối cùng trừ hết thảy khổ nạn không hư dối, đến đây là đạt được đến chỗ tự do tự tại rồi.
Cho nên nói ra lời Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, Chú ấy rằng: “Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát Bà ha; Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa
Sau chót nói đến chú Bát nhã Ba La Mật Đa, Thần chú là đại diện mệnh lệnh hoặc sức Dụng tự động của Tự Tánh, cho nên không cần giải nghĩa.
Tóm lại Bát-nhã Tâm Kinh nói: "Y theo Bát-nhã này, người nào muốn thành Tu Đà Hoàn phải phá hết chấp thật của sắc và không, Cách tu là: Phá hết sạch chấp thật của Sáu Căn: Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân ý, Sáu Trần: Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, và Sáu Thức: Nhãn Nhĩ Tỵ Thiệt Thân Ý Thức. Như Mắt-Sắc-Nhãn Thức chẳng khác Không, Mắt-Sắc-Nhãn Thức là Không, Tai-Thanh-Nhĩ Thức chẳng khác Không, Tai-Thanh-Nhĩ Thức là Không v.v…, cho đến Ý-Pháp-Ý Thức chẳng khác Không, Ý-Pháp-Ý Thức là Không. Tất cả đều chẳng khác Không, đều là Không rồi thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ theo kết qủa tu hành của mình mà sẽ đắc quả Tu Đà Hoàn.
Muốn thành A-la-hán phải phá chấp thật hết sạch Ngũ Uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; phải phá chấp thật khổ, tập, diệt, đạo. Nghĩa là hành giả tu quán thấy sắc dù đẹp dù xấu, dù to dù nhỏ, dù cứng dù mềm v.v… đều chẳng khác không, đều là không; thấy thọ vui buồn, thọ khổ sướng đều chẳng khác không, đều là không; thấy tưởng nhớ hình nọ ảnh kia, nhớ tới danh nọ địa vị kia đều chẳng khác không, đều là không; thấy hành suy nghĩ khởi làm cái này, tính toán làm cái kia đều chẳng khác không, đều là không; thấy thức phân biệt so sánh đủ thứ điên đảo chẳng khác không, đều là không.
Hành giả còn phải tu quán thấy Khổ chẳng khác không, Khổ là không; quán thấy Tập sinh ra Khổ chẳng khác không, Tập sinh ra Khổ là không; quán thấy Diệt Khổ chẳng khác không, Diệt Khổ là không; quán thấy Đạo qủa của Khổ chẳng khác không, Đạo qủa của Khổ là không. Khi đã phá sạch hết chấp thật của Năm Uẩn và khi quán thấy hết sạch tất cả chấp thật Khổ Tập Diệt Đạo thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ theo kết qủa tu hành của mình mà đắc quả A-la-hán.
Muốn thành Bích Chi Phật phải phá chấp thật 12 Nhân duyên, nghĩa là tu quán thấy Vô minh ngu si chẳng khác không, Vô minh si mê là không; quán Hành từ suy nghĩ nói năng hành động chẳng khác không, Hành động tạo tác là không; tu quán Thức từ Nhãn thức, Nhĩ Thức, Tỵ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt Na thức và A Lại Đa thức chẳng khác không, là không, tu quán cho đến Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già chết đều chẳng khác không, đều là không. Khi quán thấy hết sạch tất cả chấp thật về 12 Nhân Duyên như thế rồi thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ theo kết qủa tu hành của mình mà thành Bích Chi Phật.
Muốn thành Bồ-tát phải phá chấp thật Trí tuệ, phá chấp thật có Chứng đắc; nghĩa là tu quán thấy Trí tuệ chẳng khác không, Trí tuệ là không; quán thấy Chứng đắc chẳng khác không, Chứng đắc là không. Khi quán thấy phá hết sạch chấp thật Trí tuệ và tất cả đều không sở đắc thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ theo kết qủa tu hành của mình mà thành Bồ-tát.
Muốn thành Phật phải y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, nếu phá chấp thật luôn Cứu cánh Niết Bàn tức là phá chấp Tri Kiến Phật là thật; nghĩa là tu quán thấy Niết Bàn chẳng khác không, Niết Bàn là không thì tâm được không động, tâm không động là tâm thanh tịnh, tâm được thanh tịnh thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiển lộ cùng khắp, Dụng của Bát Nhã hiện ra thì đạt đến bờ bên kia, được đạo qủa Bồ Đề thành Phật".
Tất cả đều nhờ Bát-nhã, như thế Bát-nhã Tâm Kinh bao gồm hết thảy Phật Pháp, tùy theo người sử dụng mà được đạo qủa tương ưng.
3). PHẢN BIỆN PHẦN CHỈ TRÍCH:
Bây giờ là bắt đầu phần phản biện.
Tác giả Thông Lạc viết:
“Tâm không phóng dật tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm không động hay gọi “không tánh”. Không tánh tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải không tánh là “Tánh không”. Các bạn đừng hiểu lầm như các Tổ. Ở đây Phật không nói Tánh không như trong kinh Ðại Bát Nhã của Ðại Thừa”.
1. Tác giả Thông Lạc viết về: “Tâm không phóng dật tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự”. Theo chỗ hiểu thông thường thì tâm không phóng dật không phải là tâm thanh thản an lạc và vô sự, mà tâm không phóng dật là phải để ý xem tâm mình thấy những gì không còn dính mắc, có những gì dính mắc, đúng như ý Phật dạy, ví như: “không tác ý nhân tưởng, không tác ý thôn tưởng, chỉ tác ý lâm tưởng”, nghĩa là không còn nghĩ tới người và thôn xóm, chỉ còn nghĩ tới rừng thôi. Không phóng dật như vậy là phải để ý quán sát những gì xảy ra trong tâm chứ không phải ngồi đấy mà thanh thản, an lạc và vô sự, chẳng cần biết đến những gì xảy ra trong tâm là sai ý Phật.
2. Tác giả Thông Lạc viết về: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm không động hay gọi “không tánh”.” Đây là tâm gỗ đá dích thực, vì không để ý gì cả, chỉ thanh thản, an lạc, và vô sự thì có khác gì gỗ đá; cái tâm không động này giống như người chết không động, đây là không ngơ chứ chẳng phải Không Tánh Phật chỉ, cái Không Tánh Phật chỉ là cái biết rõ không còn có cái nọ cái kia, biết rõ còn có cái này cái khác, sự thật hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không Tánh. Khi đã biết rõ như vậy rồi, hành giả nhớ nghĩ mãi (niệm) như thế, dần dần đi vào định tức là không động, ở trong cái không động này tức là an trú trong Không Tánh.
3. Tác giả Thông Lạc viết về: “Không tánh tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải không tánh là “Tánh không”.” Ý Phật là: Cái gì tâm đã loại bỏ được rồi thì đó là Không Tánh, chứ Phật không nói là ác pháp hay cảm thọ, bất cứ cái gì mà tâm đã loại bỏ được không còn ghi nhớ trong tâm nữa thì đó là Không Tánh. Thí dụ loại bỏ được Sắc, Thọ, Hành rồi thì được Không Tánh về những thứ ấy, Tưởng và Thức còn có trong tâm thì nhận biết có trong tâm, loại bỏ được ít thì Không Tánh nhỏ, loại bỏ được nhiều thứ thì Không Tánh lớn hơn, loại bỏ không còn gì loại bỏ được nữa thì Không Tánh đồng với Phật.
4. Tác giả Thông Lạc viết:
“An trú “KHÔNG” của Phật giáo không có nghĩa là Tánh không, Chân không, Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật. Chữ KHÔNG có nghĩa không chướng ngại pháp, tức là không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Dó đó, chữ KHÔNG TÁNH phải hiểu nghĩa đúng đắn theo Tứ Diệu Ðế, chứ không thể hiểu nghĩa theo kiểu Ðại Thừa và Thiền Tông cho Không tánh là Tánh không, là Phật tánh là sai”.
Nếu hiểu rõ lời giải thích về cái Không của Bát Nhã Tâm Kinh ở trên thì thấy cái Không của Nam truyền và Bắc truyền hoàn toàn giống nhau, chữ KHÔNG là để hiện ra cái Dụng tích cực của Tự Tánh, chứ không phải là cái rỗng không tiêu cực như người đời hay hiểu lầm, vì nếu phá được một phần thì cái Dụng có một phần, nghĩa là phá được chướng ngại pháp một phần thì cái Dụng có một phần, cái Dụng có một phần thì cái Không có một phần. Khi đã phá được một phần chướng ngại rồi thì cái phần ấy không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu nữa, như thế đâu có khác gì hiểu theo nghĩa Tứ Diệu Đế? Đây là hiểu lầm mà cho rằng nghĩa chữ Không của Bát Nhã Tâm Kinh sai với Kinh Tiểu Không, sự thật thì không hề khác nhau.
5. Tác giả Thông Lạc viết:
“Như vậy không tánh không có nghĩa là không có, mà cũng không có nghĩa là chân không, tánh không, v.v... như nghĩa của các nhà Ðại Thừa.
Không tánh có nghĩa là không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, chứ không phải tánh không của trí tuệ Bát Nhã.
Ở đây, nếu các bạn không hiểu rõ mục đích của đạo Phật là chỗ bất động tâm trước ác ác pháp và các cảm thọ, nếu các bạn hiểu khác nghĩa bất động này, là các bạn đã hiểu sai lệch bài kinh trên đây”.
Tác giả Thông Lạc đã hiểu lầm chữ Chân Không, Tánh Không của Bát Nhã Tâm Kinh là cái rỗng không tiêu cực như người đời hay hiểu lầm; thực ra chữ KHÔNG hay Chân Không hay Tánh Không v.v… là do cái Dụng tích cực của Tự Tánh như đã giải thích ở trên. Khi phá được bao nhiêu tâm dính mắc (như phá được Sắc rồi) là Tánh Không hiện ra bấy nhiêu và khi phá được bao nhiêu thì những dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu của những cái ấy đều vắng bóng không còn. Như thế thì chẳng khác gì cái Không Tánh mà Đức Phật nói trong Kinh Tiểu Không mà chính tác giả Thông Lạc đã viết:
“Ðến đây các bạn đã hiểu không tánh rồi chứ. Không tánh chỉ là tâm bất động, nhưng bất động đối với thôn tưởng và nhân tưởng chứ không phải bất động hết các pháp, vì thế chỉ còn có một ưu phiền này tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”.
Cái Tánh Không này là biểu hiện cái DỤNG của TỰ TÁNH, phá được một phần thì có một phần Tánh Không, phá hết thảy thì Tánh Không ngang với Phật. Chỉ có điều là Kinh Tiểu Không Đức Phật chỉ giảng phần căn bản đầu, còn Bát Nhã Tâm Kinh thì dạy chúng ta từ đầu cho tới khi thành Phật, nên tuy Kinh chỉ có 262 chữ Hán Việt mà đầy đủ tất cả, như vậy thì sự đánh giá Kinh này là “Mẹ Ba Đời Chư Phật” không phải là qúa đáng vậy.
6. Tác giả Thông Lạc viết: “Đức Phật nói:
{{“Sanh đã tận Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa”. Vô tướng tâm định này thật hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi do tâm tư tạo cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”.
Ðọc đến đoạn kinh này các bạn thấy đức Phật đã xác định rất rõ vô tướng tâm định vẫn là pháp hữu vi do tâm tư (ý thức) tạo nên cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt. Như vậy làm sao các bạn hiểu nó là Chân Không diệu hữu, Trí Tuệ Bát Nhã, Tánh Không. Những từ này trong kinh sách Ðại Thừa chỉ cho Phật tánh là một pháp vô vi thường hằng bất biến. Nhưng ở kinh Tiểu Không này dạy không tánh là pháp hữu vi vô thường chịu sự đoạn diệt. Cho nên, kinh sách các bạn phải hiểu đúng nghĩa, đừng hiểu sai, vì chính hiểu sai mà các Tổ mới kiến giải, tưởng giải sinh ra kinh Ðại Bát Nhã, mới có Chân Không Diệu Hữu, Bát Nhã Tâm Kinh.
Tất cả những điều này chỉ là một ảo tưởng của kinh sách Ðại Thừa, còn kinh Tiểu Không thì không có nghĩa đó. Không có nghĩa đó rất rõ ràng vì vô tướng tâm định, không tánh là một pháp hữu vi vô thường, chịu sự đoạn diệt.}}
Đoạn Kinh trên vẫn phù hợp đối với Bát Nhã Tâm Kinh, khi hành giả chỉ mới phá được chút ít, ví dụ như hành giả chỉ phá được Sắc, còn Thọ, Tưởng Hành Thức vẫn còn dính mắc thì cái Dụng cũng chỉ biểu hiện được Tánh Không ở phần vắng mặt Sắc thôi; cho nên vẫn còn hữu vi vô thường chịu sự đoạn diệt và hành giả vẫn còn trong vòng luân hồi sinh tử, bởi vậy phải phá cho hết chấp ngã mới ra khỏi luân hồi sinh tử.
Chữ “Chân Không Diệu Hữu” tức là Dụng để chỉ khi đã phá được một phần thì cái Dụng của Tự Tánh hiển lộ được một phần tương ưng với những gì đã phá, nó cũng tương tự như Không Tánh mà Kinh Tiểu Không nói đó. Chẳng có gì là thần bí mà nhiều người lầm tưởng, nhưng cái tổng thể của Tự Tánh cũng gọi là Phật Tánh thì nó thường hằng bất biến không thể nghĩ bàn được; thử hỏi khi đã loại bỏ hết sạch trơn mọi dính mắc rồi thì có đạt A La Hán không? Chắc chắn là đạt A La Hán và cao hơn nữa là thành Phật, thì có còn hữu vi không, có còn luân hồi không? Chắc chắn là không còn hữu vi, không còn hữu vi thì hết sinh tử, không còn sinh tử thì chấm dứt luân hồi, phải không?
7. Tác giả Thông Lạc viết: “Cho nên, kinh sách các bạn phải hiểu đúng nghĩa, đừng hiểu sai, vì chính hiểu sai mà các Tổ mới kiến giải, tưởng giải sinh ra kinh Ðại Bát Nhã, mới có Chân Không Diệu Hữu, Bát Nhã Tâm Kinh”.
Như đã chứng minh toàn bài Bát Nhã Tâm Kinh cho tới đây chứng tỏ chính Tác giả Thông Lạc là người hiểu sai; thế mà lại khuyên người khác đừng hiểu sai thì cũng lạ, chỉ thấy lỗi người khác mà chẳng chịu thấy lỗi của mình! Tác giả Thông Lạc đã hiểu sai, nên nghĩ không đúng, sinh ra giải thích theo kiến giải của mình về Bát Nhã Tâm Kinh và nhiều Kinh khác; do đó đã viết ra biết bao nhiêu chê bai chỉ tích sai lầm làm hoang mang biết bao nhiêu người đang tu theo Phật Giáo Bắc truyền, làm họ không biết đâu là thật đâu là giả thực sự. Từ sự hoang mang làm họ nản chí, từ sự nản chí họ xuống tinh thần, tư sự xuống tinh thần họ đâm ra buồn rầu phiền muộn! Thật là khổ thay cho những việc làm tưởng là giúp người, chấn chỉnh dẹp bỏ Phật pháp Bắc truyền, ai ngờ lại là chỉ trích hầu hết sai lầm đưa đến tai hại không lường được!
Chỉ có chúng ta không hiểu Kinh nên hành sai, đây là điều vô cùng tai hại; chỉ có chúng ta hiểu sai ý Kinh nên có kiến giải sai lầm, giải thích sai lầm, cho là thế này hay thế kia theo sự giải thích nông cạn của chúng ta, chứ Chư Tổ Sư là những người đã tu hành đạt tới một mức cao rồi thì làm sao lầm lẫn được. Vì vậy sự phê phán của Tác giả Thông Lạc không có cơ sở để bài bác Bát Nhã Tâm Kinh; đã không có chỗ chỉ trích được thì không nên viết các Kinh Phật giáo Bắc truyền “chỉ là một ảo tưởng của kinh sách Ðại Thừa”; bởi đây chỉ là viết sai sự thật mà thôi.
ông ấy đang ở địa ngục, chứ ko phải đang chịu luận tội
sao bạn còn pót hý luận của ông ấy làm gì....tửong niệm à
Bản thân không có "thần nhãn nhìn thấu địa ngục", ấy vậy mà khẳng định cái rột sư ông ở địa ngục? THẬT ĐÁNG KHINH BỈ HẠNG CƯ SĨ LÁO TOÉT VÀ DỐI TRÁ, chỉ làm nhục PG vì những lời hoang tưởng.
Cái gì thấy biết rõ hãy nói, không thấy biết rõ mà nghe tào lao ở đâu rồi phán thì Phật nói đó là HẠNG NGƯỜI NÓI NHƯ PHÂN. Mả đã như Phân thì tội nghiệp các đồng tu lắm.
Nghĩ cũng đau buồn, Phật Giáo ngày nào trí tuệ rực rỡ, giờ đây cư sĩ học ở đâu ba cái giáo lý rồi THÀNH PHÂN HẾT , LÀM PG KHÔNG NGỬI ĐƯỢC, thiệt là tội lỗi và đau buồn :(
:D :) ;)