Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 07)
(VienDongDaily.Com - 30/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Bây giờ, nếu mình niệm Nam Mô A Di Đà Phật một cách tập trung chuyên chú thì sẽ có một trạng thái đặc biệt, không phải là chú ý, mà là trạng thái cảnh thức. Trạng thái tỉnh giác hay cảnh thức này là một trạng thái rất đặc biệt mà ngày xưa các vị thiền sư, cổ nhân đã diễn tả qua thí dụ mèo rình bắt chuột. Một con mèo đang rình con chuột, chuột chạy vô hang của nó. Con mèo ở ngoài nhìn chăm chú vào hang chuột, mắt lim dim, bốn chân ở trong trạng thái sẵn sàng bung ra, phóng tới vồ lấy con chuột. Con mèo tập trung hết thần trí của nó vào hang chuột đó. Khi chuyên chú như vậy nó có một trạng thái tỉnh thức. Trạng thái này quan trọng tới độ nếu các bác đi ngang qua hay tới gần chỗ đó, con mèo sẽ vểnh tai lắng nghe nhưng không chú ý tới bác; nó vẫn nhận biết những chuyện xung quanh nhưng không chú ý tới, vì nó đang dồn hết tâm thức vào hang chuột.
Nói một cách khác, có một sự cảm nhận trong tâm mình, cũng như con mèo có một sự cảm nhận bên trong, nội tại. Cảnh giới nội tại này gọi là chủ thể. Thí dụ bác đang trì chú Đại Bi, lúc đầu bác trì tụng vậy thôi, chưa tập trung. Nhưng khi bác tập trung được rồi, cứ để cho dòng chú tuôn chảy trong đầu một cách tự nhiên thì mình phát khởi lên một sự tri nhận, tri nhận về một khoảng không gian trong tâm mình. Mình cảm thấy là lạ, cảm thấy câu chú như chạy trong khoảng không gian mà mình có thể sờ mó, nhận diện ra được. Không gian đó được gọi là từ trường, chủ thể của mình, hay bản ngã của mình.
Thành ra Quán nghĩa là phát khởi sự tri nhận trở lại bản thể hay là tri nhận lại chủ thể của mình. Chỉ là một phương pháp dễ, chỉ cần tập trung vào một chỗ, vào một đối tượng. Nhưng ít người biết đến Quán, là mình không phải tập trung mà phải nhận tri chủ thể của mình. Vì vậy nó khó hơn và vì vậy nhiều người đã hiểu lầm, cứ nghĩ rằng quán là hình dung ra, tưởng tượng ra, mà không biết rằng Quán là khả năng nhận tri lại chủ thể.
Thầy xin kể các bác nghe một câu chuyện. Anh Ba nọ ra chợ thấy có bán một cái ly trà đời nhà Minh rất đẹp. Anh muốn mua nhưng không có tiền, nên mới nghĩ: “Thôi mình cuỗm cái ly đó.” Anh nhìn xung quanh, không thấy có ai để ý cả. Anh chuyên chú vào cái ly đó, đi vòng vòng một hồi và nhận diện ra rằng không ai chú ý đến anh. Anh từ từ tới gần cái ly và sự chuyên chú của anh vào cái ly lớn vô cùng. Cái ly trà đời nhà Minh này nếu đem bán cũng phải tới vài trăm ngàn, vì là từ đời nhà Minh, xưa hơn đời nhà Tống hay nhà Đường. Khi chuyên chú như vậy, anh bỗng thấy một chuyện lạ là trong óc anh dường như mọc ra thêm 18 con mắt, vì anh cảm nhận được những người xung quanh anh. Anh có cảm giác là ai nhìn anh, anh biết ngay. Anh từ từ giơ bàn tay đẹp của anh ra cầm lấy cái ly, từ từ bỏ vào túi và từ từ quay lưng đi. Chuyện gì đã xẩy ra trong đầu óc anh? Mức độ nhận tri của anh lên cao vô cùng, bất kỳ người nào nhìn hay không nhìn anh, anh đều cảm nhận được. Tâm anh trở nên rất rõ ràng, thức tỉnh một cách kinh hồn và anh nghe cả nhịp tim đang đập trong anh, anh nghe hết mọi chuyện trong lúc từ từ đi ra cửa. 18 con mắt của anh nhìn hết 18 phương, nhận biết tất cả, nhưng trong đầu óc anh không xẩy ra một tư tưởng nào cả. Anh nhận diện tất cả, kể cả cảm nhận của anh, sự sợ hãi. Anh bước ra, lập tức nhẩy ngay lên một chiếc taxi, phóng chạy, thoát nạn. Sau này thế nào, thầy không biết.
Nhưng lúc anh đang ở trong trạng thái đó, có phải anh đang tu chỉ quán phải không? Không, tâm thức thì là cùng một loại, nhưng động cơ hơi sai lầm. Tức là tâm thức này cũng chuyên chú và cảm nhận được; nhưng anh không cảm nhận được bản ngã mà chỉ cảm nhận được không gian trong tâm, trong đầu của anh và xung quanh anh. Sự cảm nhận này không phải là sự chuyên chú mà là một sự tỉnh thức. Cảnh giác hay tỉnh thức rất cao đó thường đi với sự chuyên chú. Thường thường mình cho rằng vọng tưởng là vọng tưởng mà không biết rằng vọng tưởng có nhiều tầng, nhiều loại. Sự cảnh thức này không phải là một loại vọng tưởng vì không có tư tưởng xảy ra. Đó là những năng khiếu quan trọng trong việc tu thiền.
Bây giờ thầy kể một câu chuyện khác. Có một em vô tình làm bể một cái ly, không phải là cái ly đời nhà Minh hay nhà Đường, mà là một cái ly người mẹ đã mua ở Disneyland. Em đã đánh bể cái ly kỷ niệm đó. Sau khi làm bể, em đã hốt những mảnh vỡ bỏ vào thùng rác và không dám nói với ai, vì em biết trưa nay mẹ em về ăn trưa sẽ lấy cái ly đó ra uống nước. Trưa đến, em cũng ngồi ăn cùng gia đình, nhưng trong tâm sinh khởi lên một sự lo lắng. Em ngồi đó, không bần thần nhưng lo lắng và em chờ người mẹ nhờ lấy cái ly hoặc xem bà mẹ có lấy cái ly đó ra không? Trong sự sợ hãi chờ đợi, em cũng phát sinh ra sự nhận tri: tim đập mạnh, sự lo lắng lo âu trong tâm. Đây không phải là sự nhận tri trong thiền định. Nhận tri trong thiền định không có sự sợ hãi. Sự nhận tri bình thường của mình đầy những cảm xúc, sợ hãi, ghen tuông, đố kỵ. Thí dụ một cô nọ biết có người đàn bà hay đến nói chuyện với chồng mình. Tự nhiên cô cũng mọc ra 18 con mắt trong đầu. Người đàn bà kia mà tới thì cô này lập tức sẽ cảm thấy khó chịu. Dù đứng bên này làm việc, nhưng vì có thêm 18 con mắt, nên khi người đàn bà kia tới gần chồng mình một chút xíu thôi là cô biết ngay. Một cảm nhận độc đáo vô cùng. Nếu người đàn bà kia nói một câu gì xa xôi, cô cũng cảm nhận ra ngay có chuyện gì đó xảy ra. Đây có phải là Quán hay thiền định không? Không, nhưng đó vẫn là một sự nhận tri không có vọng tưởng.
Sự nhận tri cho thấy mình có nhiều tâm thái vô cùng. Tâm thái nhận tri là một trong những tâm thái quan trọng nhứt. Khi sự nhận tri cho thấy hình tướng của bản ngã thì gọi là Quán. Nếu sự nhận tri này chỉ là sự nhận tri không gian bên ngoài, người đố kỵ với mình, người muốn cua ông chồng mình, con mèo đang nằm đó chờ đợi, thì không phải là Quán. Sự nhận tri của Quán là nhận tri được chủ thể của bản ngã mình.
Một thí dụ khác: Khi mình sắp làm một lỗi lầm gì, tim mình lắng đọng, đập mạnh vô cùng và mình cảm nhận ngược lại cái tôi, cái bản ngã sắp làm sai. Tim mình đập mạnh, trong người khó chịu, thân thể run rẩy vì thân mình không đồng ý. Trong sự không đồng ý đó, tâm nhận tri ra được cái bản ngã, chủ thể. Sự nhận tri của bản ngã này tới một cách tự nhiên. Nhưng nếu rèn luyện nó tức là các bác tu Quán.
Đạo Phật có một pháp thiền rất hay, gọi là Tham Thoại Đầu. Thoại là lời nói, thoại đầu là lời nói khi chưa tuôn ra. Bởi vậy, ông thiền sư lắng nghe lời nói khi chưa phát ra và ông cảm nhận tất cả cảm xúc của bản ngã ở đó. Thí dụ một câu tham thoại đầu như “Ai là người niệm Phật”? - Chủ thể. Mình hãy dồn hết tâm thức của chủ thể vào bản ngã. Dồn tâm thức như vậy không phải là sự chú ý mà làm sao mình cảm nhận được chủ thể của bản ngã trước khi lời nói phát sinh. Đây là một điều khó hiểu, nhưng vì mình đang nói về thiền, nên nói những điều hơi khó hiểu một chút.
Tại sao khi tu thiền, người ta biết “Chỉ” mà không biết tới “Quán”? Quán là nhận diện ra bản ngã. Bây giờ mình sẽ đi qua những thí dụ từ nhỏ nhất, dễ nhất tới những thí dụ phức tạp, khó hiểu. Dễ nhứt là sự cảm nhận của con mèo, nó cảm nhận được không gian chung quanh hang chuột. Rồi khi mình đi ăn cắp đồ vật, cảm nhận được sự sợ hãi trong tâm, là một sự thức tỉnh hay sự cảnh giác. Mình nói tới sự cảm nhận được bản ngã của mình bên trong. Sự cảm nhận chủ thể bản ngã này là một khả năng rất cao của phương pháp Quán.
Thường thường kết quả tu tập Quán là tâm thái “self awareness”, tự tri hay tự giác. Tự tri là biết về cái ngã; tự giác là nhận diện ra cái ngã. Phương pháp Quán khiến mình giác ngộ được. Phương pháp Chỉ khiến bao nhiêu vọng tưởng của mình bị cắt đứt, gián đoạn. Thành ra cả hai phương pháp Chỉ và Quán này cần phải được thực hành nên được gọi là “Chỉ Quán song tu”. Những phương pháp song tu này mình gọi là những phương pháp từ từ vì nó có thể phát triển nhân cách để hỗ trợ cho việc tu thiền. Nói một cách khác, nếu mình tu luyện thiền mà nhân cách của mình đầy những chuyện của bản ngã, đầy những chuyện của người đời, trần tục phàm phu, đầy những tạp tính xấu, thì khi tu thiền, mình khó có một sự hỗ trợ, một sự tương ưng. Cho nên bất cứ sự tu thiền nào cũng qua năm giai đoạn chính quan trọng. Đây là năm giai đoạn phát triển của tâm thức:
Giai đoạn đầu tiên là sự hỗn loạn (confused state), tâm thức cực kỳ hỗn loạn với tâm thái ham muốn, giận dữ. Từ từ mình tu thiền tới giai đoạn thứ hai, gọi là giai đoạn bình quân (balanced). Sau giai đoạn này thì tới giai đoạn phát triển sự quân bình của mình với người khác, tức là giai đoạn Hài Hòa (Harmony). Sự tu thiền cũng dẫn mình tới giai đoạn này chớ không phải chỉ thấy trong cuộc sống mà thôi. Giai đoạn bốn là Hợp Nhất hay giai đoạn nhất nguyên. Những đối tượng đúng sai, tốt xấu, tất cả đều hòa lại trong một tâm thức duy nhất được gọi là tâm thức nhất nguyên (Unity). Sau đó mình vẫn tiếp tục đi cho tới khi nào không thấy Bồ Đề Niết Bàn và sanh tử phiền não là hai nữa. Bồ Đề tức là phiền não, phiền não tức là bồ đề; Niết Bàn là sanh tử, sanh tử là Niết Bàn. Khi thấy được như vậy thì gọi là Bất Nhị
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 08)
(VienDongDaily.Com - 07/07/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Năm giai đoạn của tâm thức mà mình sẽ trải qua trong lúc tu thiền cũng như trong lúc sống là năm giai đoạn có tên như sau:
(1) Hỗn loạn hay Confused state
(2) Bình thần hay Balanced
(3) Hài hòa hay Harmony
(4) Hợp nhất, nhất nguyên hay Unity
(5) Bất nhị hay None-duality
Năm giai đoạn này chỉ có thể đạt được khi mình luyện tâm. Nếu mình biết chỗ bắt đầu luyện tâm thì mình sẽ rất thành công. Bắt đầu luyện tâm có phải là bắt đầu luyện Chỉ và Quán không? Thưa không. Bắt đầu luyện tâm là mình làm sao cho tâm nhẹ, buông đi những gánh nặng. Sự buông bỏ gánh nặng của nội tâm là con đường điều tâm số một. Sau khi buông bỏ những chuyện chấp trước bên ngoài để tâm mình được nhẹ nhàng, mình mới đi tới giai đoạn tu luyện Chỉ và Quán. Sau khi đã tu luyện được Chỉ và Quán, mình sẽ tới một giai đoạn quan trọng hơn nữa của tâm thức, được gọi là đạt tới sự hài hòa mà thống nhất. Cuối cùng thì tới giai đoạn bất nhị.
Thưa các bác, tiến trình điều tâm hay tiến trình nuôi dưỡng để phát triển cái tâm này là một nghệ thuật rất cao. Tu thiền cần có những phương pháp quan trọng và chính xác. Mình chớ nên nghĩ rằng thiền là một việc ghê gớm, có thể dẫn đến tẩu hỏa nhập ma; trái lại thiền là một phương pháp rất có lớp lang, thứ tự và mình cần có sự hướng dẫn. Đồng thời cũng nên bỏ ý nghĩ và sự ham muốn là mình sẽ giác ngộ và hơn người khác, phải là người đi cứu người khác. Những động cơ này khiến con đường thiền của mình không còn chính xác nữa, vì đã đem tâm thức phàm phu, thế tục vào con đường tâm linh, và hiểu lầm rằng tâm linh cũng là con đường thế tục, cũng phải tranh giành, bon chen, phải đứng hạng nhứt, phải giỏi, phải ngồi cho cao. Không phải vậy. Thiền là một phương cách hoàn toàn nhẹ nhàng vì là sự khai mở của tâm, một sự phát huy ánh sáng của từ tâm chớ không phải là một phương pháp khiến mình tranh được chức vụ gì và giác ngộ tới cỡ nào. Đó là về khía cạnh luyện tâm.
Tóm lại những giai đoạn ngồi thiền trên đây - không phải giai đoạn sống thiền, mà chỉ là giai đoạn ngồi thiền thôi - cũng có chi tiết, kỹ thuật lắm. Hy vọng mình sẽ bắt đầu phát tâm, học thiền, để phát huy mức độ chuyên chú cũng như là phát huy mức độ khai mở tự giác (self-awareness) nội tâm.
5. Cảm kích - Appreciation
Chữ Appreciation người Mỹ hay người ngoại quốc dùng thường xuyên lắm, cũng như chữ Thank you, Merci, Merci beaucoup. Gần đây cho nhiều người cho biết rằng:
“Thưa thầy, có những chỗ mình làm việc với họ thật lâu mà họ không thèm nói một tiếng OK hay Thank you. Nhưng sang đất Mỹ thì thấy rằng khi mình làm việc gì cho ai, họ đều nói Thank You cả.”
Có nhiều nền văn hóa, người ta không nói ra tiếng cám ơn bằng miệng mà chỉ nói bằng tấm lòng, sự cảm kích biểu lộ bằng tấm lòng. Cũng có nền văn hóa cho rằng không cần phải nói ra làm chi, nó đã sẵn như vậy rồi. Thí dụ người con cầm bình trà rót nước cho cha mẹ. Cha mẹ sẽ không nói tiếng cám ơn con vì nghĩ rằng đây là chuyện bình thường. Còn người Mỹ hay người ngoại quốc, các bác thấy, con cái pha trà cho cha mẹ, cha mẹ cũng nói “cám ơn”, nhiều khi họ còn nói “please” (xin làm ơn). Nhưng trong văn hóa Việt Nam mình không nói “cám ơn”, cũng ít khi nói “Xin làm ơn”. Ta không thể nói là văn hóa này sai hay đúng mà chỉ là tập quán của mỗi nền văn hóa mà thôi.
Sự cảm kích ở đây ra ngoài vấn đề xã giao mà chú ý đến cái tâm. Sự cảm kích này tiềm tàng trong mỗi nền văn hóa, dù sự thể hiện của mỗi nền văn hóa có khác nhau: có văn hóa thể hiện bằng lời nói rõ ràng, có văn hóa không biểu hiện bằng lời nói mà chỉ để trong lòng mà thôi. Còn những văn hóa khác thì biểu hiện bằng hành động, cử chỉ, qua cái gật đầu, v.v..
Văn hóa cảm kích trong Phật giáo như thế nào? Trong Phật giáo, văn hóa cảm kích là một văn hóa rất quý báu. Đức Phật dạy rằng: “Nếu cảm kích ân đức của người tốt với mình, mình sẽ học được cái ân đức đó và trở thành người đó”. Đức Phật thường dùng chữ “làm công đức”: làm công là làm cho người ta, làm đức là làm đức của mình được sáng tỏ lên. Khi mình làm việc gì mà không nghĩ đến lợi cho mình thì là công. Khi mình làm việc gì cho mình để tăng trưởng đặc tính mà mình gọi là tình thương hay đặc tính có đạo đức, biết lễ phép, thì mình gọi là đức. Hai chữ công đức, một chữ thì đối ngoại, một chữ thì đối với chính mình. Một cái về việc làm, một cái về tính tình của mình.
Công là phần văn hóa quan trọng nhất của cảm kích, ví dụ một người làm cho mình một chuyện thì đối xử của mình sẽ ra sao. Sự đối xử của mình được gọi là cảm kích. Nhiều khi là mình cảm ơn, nhiều khi mình bắt tay hay mỉm cười. Nếu chỉ như vậy thôi thì văn hóa cảm kích trong Phật giáo chưa đầy đủ, vì như vậy chỉ là văn hóa cộng đồng mà thôi. Nhưng văn hóa đặc biệt của Phật giáo lại nói rằng: “Ngoài việc người ta làm tốt cho mình, mình còn phải nhìn thấy được tấm lòng của người ấy nữa.”
Thí dụ người mẹ nấu ăn cho các con. Các con cảm kích sự nấu nướng của mẹ, nhưng nếu chỉ nói: “Món ăn này mẹ nấu ngon quá”, thì vẫn chưa nói ra sự cảm kích theo Phật giáo. Vì vậy, mình có thể nói rằng: “Cám ơn mẹ đã săn sóc và nấu cho chúng con ăn”. Câu nói đã bày tỏ được sự cảm kích của mình về tình mẹ. Nếu mình chỉ khen các món ăn ngon tức là mình chỉ khen các món này nấu ngon mà không cảm kích tấm lòng của mẹ. Đôi khi sự cảm kích không cần nói nhiều, im lặng nhìn mẹ mỉm cười, hoặc tới ôm hôn mẹ; cử chỉ tế nhị nhưng cũng khiến cho mẹ cảm nhận rằng mình được cảm kích. Tự nhiên sự quan hệ giữa mình và mẹ sẽ cởi mở thêm. Sự cởi mở này là trọng tâm của đạo Phật, là làm sao mình sống với nhau trong cởi mở chớ không phải sống với nhau mà làm cho nhau mệt mỏi, nặng nề.
Sự khai mở đó là kết quả của sự cảm kích tấm lòng người mẹ. Đó là một công hạnh rất lớn vì khi mình bắt đầu có thể nhìn được tấm lòng của người khác thì chắc chắn mình sẽ cảm động được người ta. Khi mình cảm động được người ta thì mình có thể thay đổi được cái nhìn, sự suy nghĩ của họ. Khi mình thay đổi được sự suy nghĩ và cái nhìn của họ thì mình có thể thay đổi được cách họ làm việc, cách họ xử thế. Khi họ thay đổi cách làm việc, xử thế tức là họ thay đổi nghiệp của họ. Nói tóm lại khi mình làm cảm động người tức là mình chuyển nghiệp của người đó, một cách gián tiếp, vô hình mà thực sự sẽ xảy ra. Bởi vậy sự cảm kích là khả năng khiến mình nhận diện được cái hay, cái đẹp của người khác; và mình có thể dùng lời nói, hành động hay những cử chỉ vi tế khiến cho người ta cảm động.
Bây giờ mình trở về một chuyện quan trọng: đối tượng cảm kích là gì? Đối tượng cảm kích là cái người đó làm tốt cho mình và cách mình cảm kích là mình nói bằng lời, và đôi khi bằng cử chỉ. Đối tượng cảm kích không cần phải là một người mà có thể là vũ trụ xung quanh, thiên nhiên; có thể là những lời văn rất hay, những bài hát, điệu nhạc hoặc là nghệ thuật, một cành hoa đẹp mà người ta cắm, một vườn hoa được chăm sóc chu đáo, v. v.. Đối tượng thì nhiều lắm, nhưng mình cảm kích cái gì khi trực diện với những đối tượng đó.
Đề mục của cảm kích là cái gì? Là cái đẹp. Mình cảm kích cái đẹp, cái tốt, cái chân lý gọi là chân thiện mỹ, cảm kích cái nhìn phong phú mà người ta chia sẻ với mình, cảm kích thâm ý, nỗi lòng mà người ta biểu hiện ra trong vũ trụ. Lúc đầu mình cảm kích những việc người ta đối với mình, nhưng sau đó mình nhìn ra xung quanh, cảm kích những nét đẹp, tốt, hay, những điều huyền diệu xung quanh mình, nhiều khi thật vô cùng nhỏ. Thí dụ, các bác đi ngoài đường, thấy con đường mình đang đi rất sạch sẽ, sự cảm kích đầu tiên của mình là “một khung cảnh thiên nhiên quá đẹp”, sau đó mình cảm kích người nào đó đã bỏ công sức ra quét sạch con đường này. Thưa bác, khi thầy ở bên Nhật, một buổi sáng nọ, khoảng 5 giờ sáng, thầy đi thơ thẩn ra ngoài, thấy có hai ba người đàn bà đứng cách nhau một khoảng, đang quét lá. Khoảng 15 phút sau thầy quay trở lại khách sạn, những người phụ nữ đó không còn đó nữa, có lẽ đã trở vô trong nhà; nhưng nhìn ra vỉa hè thì thấy vô cùng sạch sẽ. Té ra là họ dậy sớm quét lá rồi trở vô nhà. Nếu ai đi trên đường này vào khoảng 9, 10 giờ, sẽ thấy con đường sạch vô cùng, nhưng không biết rằng đã có người dậy sớm quét dọn. Biết được điều này, thầy vô cùng cảm kích, nhìn con đường sạch sẽ lòng mình cũng nhẹ nhàng. Mình cảm kích cái đẹp nhưng mình cũng cảm kích các vị hộ chủ, tức là những người phụ nữ mà thầy thấy đã bỏ tâm ra quét. Khi quét họ đâu cần mình cám ơn, nhưng thực sự trong lòng mình rất cảm kích vì họ đã làm đẹp. Nhờ tăng trưởng cái đẹp mà bây giờ mình cảm động vì nét đẹp đó và thích sự sạch sẽ. Vì thích sạch sẽ nên mình sẽ sửa đổi cuộc đời, làm cho căn nhà mình sạch sẽ, sự suy nghĩ của mình sạch sẽ và nhứt là lời nói mình sạch sẽ. Hóa ra những người đàn bà kia đã thay đổi hành động của thầy. Vô tình họ đã thay đổi cái nghiệp của thầy; mình không dám bừa bãi nữa vì nhớ tới hình ảnh này.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 08)
(VienDongDaily.Com - 07/07/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Năm giai đoạn của tâm thức mà mình sẽ trải qua trong lúc tu thiền cũng như trong lúc sống là năm giai đoạn có tên như sau:
(1) Hỗn loạn hay Confused state
(2) Bình thần hay Balanced
(3) Hài hòa hay Harmony
(4) Hợp nhất, nhất nguyên hay Unity
(5) Bất nhị hay None-duality
Năm giai đoạn này chỉ có thể đạt được khi mình luyện tâm. Nếu mình biết chỗ bắt đầu luyện tâm thì mình sẽ rất thành công. Bắt đầu luyện tâm có phải là bắt đầu luyện Chỉ và Quán không? Thưa không. Bắt đầu luyện tâm là mình làm sao cho tâm nhẹ, buông đi những gánh nặng. Sự buông bỏ gánh nặng của nội tâm là con đường điều tâm số một. Sau khi buông bỏ những chuyện chấp trước bên ngoài để tâm mình được nhẹ nhàng, mình mới đi tới giai đoạn tu luyện Chỉ và Quán. Sau khi đã tu luyện được Chỉ và Quán, mình sẽ tới một giai đoạn quan trọng hơn nữa của tâm thức, được gọi là đạt tới sự hài hòa mà thống nhất. Cuối cùng thì tới giai đoạn bất nhị.
Thưa các bác, tiến trình điều tâm hay tiến trình nuôi dưỡng để phát triển cái tâm này là một nghệ thuật rất cao. Tu thiền cần có những phương pháp quan trọng và chính xác. Mình chớ nên nghĩ rằng thiền là một việc ghê gớm, có thể dẫn đến tẩu hỏa nhập ma; trái lại thiền là một phương pháp rất có lớp lang, thứ tự và mình cần có sự hướng dẫn. Đồng thời cũng nên bỏ ý nghĩ và sự ham muốn là mình sẽ giác ngộ và hơn người khác, phải là người đi cứu người khác. Những động cơ này khiến con đường thiền của mình không còn chính xác nữa, vì đã đem tâm thức phàm phu, thế tục vào con đường tâm linh, và hiểu lầm rằng tâm linh cũng là con đường thế tục, cũng phải tranh giành, bon chen, phải đứng hạng nhứt, phải giỏi, phải ngồi cho cao. Không phải vậy. Thiền là một phương cách hoàn toàn nhẹ nhàng vì là sự khai mở của tâm, một sự phát huy ánh sáng của từ tâm chớ không phải là một phương pháp khiến mình tranh được chức vụ gì và giác ngộ tới cỡ nào. Đó là về khía cạnh luyện tâm.
Tóm lại những giai đoạn ngồi thiền trên đây - không phải giai đoạn sống thiền, mà chỉ là giai đoạn ngồi thiền thôi - cũng có chi tiết, kỹ thuật lắm. Hy vọng mình sẽ bắt đầu phát tâm, học thiền, để phát huy mức độ chuyên chú cũng như là phát huy mức độ khai mở tự giác (self-awareness) nội tâm.
5. Cảm kích - Appreciation
Chữ Appreciation người Mỹ hay người ngoại quốc dùng thường xuyên lắm, cũng như chữ Thank you, Merci, Merci beaucoup. Gần đây cho nhiều người cho biết rằng:
“Thưa thầy, có những chỗ mình làm việc với họ thật lâu mà họ không thèm nói một tiếng OK hay Thank you. Nhưng sang đất Mỹ thì thấy rằng khi mình làm việc gì cho ai, họ đều nói Thank You cả.”
Có nhiều nền văn hóa, người ta không nói ra tiếng cám ơn bằng miệng mà chỉ nói bằng tấm lòng, sự cảm kích biểu lộ bằng tấm lòng. Cũng có nền văn hóa cho rằng không cần phải nói ra làm chi, nó đã sẵn như vậy rồi. Thí dụ người con cầm bình trà rót nước cho cha mẹ. Cha mẹ sẽ không nói tiếng cám ơn con vì nghĩ rằng đây là chuyện bình thường. Còn người Mỹ hay người ngoại quốc, các bác thấy, con cái pha trà cho cha mẹ, cha mẹ cũng nói “cám ơn”, nhiều khi họ còn nói “please” (xin làm ơn). Nhưng trong văn hóa Việt Nam mình không nói “cám ơn”, cũng ít khi nói “Xin làm ơn”. Ta không thể nói là văn hóa này sai hay đúng mà chỉ là tập quán của mỗi nền văn hóa mà thôi.
Sự cảm kích ở đây ra ngoài vấn đề xã giao mà chú ý đến cái tâm. Sự cảm kích này tiềm tàng trong mỗi nền văn hóa, dù sự thể hiện của mỗi nền văn hóa có khác nhau: có văn hóa thể hiện bằng lời nói rõ ràng, có văn hóa không biểu hiện bằng lời nói mà chỉ để trong lòng mà thôi. Còn những văn hóa khác thì biểu hiện bằng hành động, cử chỉ, qua cái gật đầu, v.v..
Văn hóa cảm kích trong Phật giáo như thế nào? Trong Phật giáo, văn hóa cảm kích là một văn hóa rất quý báu. Đức Phật dạy rằng: “Nếu cảm kích ân đức của người tốt với mình, mình sẽ học được cái ân đức đó và trở thành người đó”. Đức Phật thường dùng chữ “làm công đức”: làm công là làm cho người ta, làm đức là làm đức của mình được sáng tỏ lên. Khi mình làm việc gì mà không nghĩ đến lợi cho mình thì là công. Khi mình làm việc gì cho mình để tăng trưởng đặc tính mà mình gọi là tình thương hay đặc tính có đạo đức, biết lễ phép, thì mình gọi là đức. Hai chữ công đức, một chữ thì đối ngoại, một chữ thì đối với chính mình. Một cái về việc làm, một cái về tính tình của mình.
Công là phần văn hóa quan trọng nhất của cảm kích, ví dụ một người làm cho mình một chuyện thì đối xử của mình sẽ ra sao. Sự đối xử của mình được gọi là cảm kích. Nhiều khi là mình cảm ơn, nhiều khi mình bắt tay hay mỉm cười. Nếu chỉ như vậy thôi thì văn hóa cảm kích trong Phật giáo chưa đầy đủ, vì như vậy chỉ là văn hóa cộng đồng mà thôi. Nhưng văn hóa đặc biệt của Phật giáo lại nói rằng: “Ngoài việc người ta làm tốt cho mình, mình còn phải nhìn thấy được tấm lòng của người ấy nữa.”
Thí dụ người mẹ nấu ăn cho các con. Các con cảm kích sự nấu nướng của mẹ, nhưng nếu chỉ nói: “Món ăn này mẹ nấu ngon quá”, thì vẫn chưa nói ra sự cảm kích theo Phật giáo. Vì vậy, mình có thể nói rằng: “Cám ơn mẹ đã săn sóc và nấu cho chúng con ăn”. Câu nói đã bày tỏ được sự cảm kích của mình về tình mẹ. Nếu mình chỉ khen các món ăn ngon tức là mình chỉ khen các món này nấu ngon mà không cảm kích tấm lòng của mẹ. Đôi khi sự cảm kích không cần nói nhiều, im lặng nhìn mẹ mỉm cười, hoặc tới ôm hôn mẹ; cử chỉ tế nhị nhưng cũng khiến cho mẹ cảm nhận rằng mình được cảm kích. Tự nhiên sự quan hệ giữa mình và mẹ sẽ cởi mở thêm. Sự cởi mở này là trọng tâm của đạo Phật, là làm sao mình sống với nhau trong cởi mở chớ không phải sống với nhau mà làm cho nhau mệt mỏi, nặng nề.
Sự khai mở đó là kết quả của sự cảm kích tấm lòng người mẹ. Đó là một công hạnh rất lớn vì khi mình bắt đầu có thể nhìn được tấm lòng của người khác thì chắc chắn mình sẽ cảm động được người ta. Khi mình cảm động được người ta thì mình có thể thay đổi được cái nhìn, sự suy nghĩ của họ. Khi mình thay đổi được sự suy nghĩ và cái nhìn của họ thì mình có thể thay đổi được cách họ làm việc, cách họ xử thế. Khi họ thay đổi cách làm việc, xử thế tức là họ thay đổi nghiệp của họ. Nói tóm lại khi mình làm cảm động người tức là mình chuyển nghiệp của người đó, một cách gián tiếp, vô hình mà thực sự sẽ xảy ra. Bởi vậy sự cảm kích là khả năng khiến mình nhận diện được cái hay, cái đẹp của người khác; và mình có thể dùng lời nói, hành động hay những cử chỉ vi tế khiến cho người ta cảm động.
Bây giờ mình trở về một chuyện quan trọng: đối tượng cảm kích là gì? Đối tượng cảm kích là cái người đó làm tốt cho mình và cách mình cảm kích là mình nói bằng lời, và đôi khi bằng cử chỉ. Đối tượng cảm kích không cần phải là một người mà có thể là vũ trụ xung quanh, thiên nhiên; có thể là những lời văn rất hay, những bài hát, điệu nhạc hoặc là nghệ thuật, một cành hoa đẹp mà người ta cắm, một vườn hoa được chăm sóc chu đáo, v. v.. Đối tượng thì nhiều lắm, nhưng mình cảm kích cái gì khi trực diện với những đối tượng đó.
Đề mục của cảm kích là cái gì? Là cái đẹp. Mình cảm kích cái đẹp, cái tốt, cái chân lý gọi là chân thiện mỹ, cảm kích cái nhìn phong phú mà người ta chia sẻ với mình, cảm kích thâm ý, nỗi lòng mà người ta biểu hiện ra trong vũ trụ. Lúc đầu mình cảm kích những việc người ta đối với mình, nhưng sau đó mình nhìn ra xung quanh, cảm kích những nét đẹp, tốt, hay, những điều huyền diệu xung quanh mình, nhiều khi thật vô cùng nhỏ. Thí dụ, các bác đi ngoài đường, thấy con đường mình đang đi rất sạch sẽ, sự cảm kích đầu tiên của mình là “một khung cảnh thiên nhiên quá đẹp”, sau đó mình cảm kích người nào đó đã bỏ công sức ra quét sạch con đường này. Thưa bác, khi thầy ở bên Nhật, một buổi sáng nọ, khoảng 5 giờ sáng, thầy đi thơ thẩn ra ngoài, thấy có hai ba người đàn bà đứng cách nhau một khoảng, đang quét lá. Khoảng 15 phút sau thầy quay trở lại khách sạn, những người phụ nữ đó không còn đó nữa, có lẽ đã trở vô trong nhà; nhưng nhìn ra vỉa hè thì thấy vô cùng sạch sẽ. Té ra là họ dậy sớm quét lá rồi trở vô nhà. Nếu ai đi trên đường này vào khoảng 9, 10 giờ, sẽ thấy con đường sạch vô cùng, nhưng không biết rằng đã có người dậy sớm quét dọn. Biết được điều này, thầy vô cùng cảm kích, nhìn con đường sạch sẽ lòng mình cũng nhẹ nhàng. Mình cảm kích cái đẹp nhưng mình cũng cảm kích các vị hộ chủ, tức là những người phụ nữ mà thầy thấy đã bỏ tâm ra quét. Khi quét họ đâu cần mình cám ơn, nhưng thực sự trong lòng mình rất cảm kích vì họ đã làm đẹp. Nhờ tăng trưởng cái đẹp mà bây giờ mình cảm động vì nét đẹp đó và thích sự sạch sẽ. Vì thích sạch sẽ nên mình sẽ sửa đổi cuộc đời, làm cho căn nhà mình sạch sẽ, sự suy nghĩ của mình sạch sẽ và nhứt là lời nói mình sạch sẽ. Hóa ra những người đàn bà kia đã thay đổi hành động của thầy. Vô tình họ đã thay đổi cái nghiệp của thầy; mình không dám bừa bãi nữa vì nhớ tới hình ảnh này.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 02)
(VienDongDaily.Com - 26/05/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Và ông được phép đi ngủ. Sáng ra, ông sư phụ gọi đệ tử mình lên nói rằng:
“Này con, cách thiền của con là khiến cho tâm tịnh xuống chớ không phải thiền để tâm con thấy được sự như thị của vạn sự”.
Có nghĩa là ông đệ tử đã không theo lối thiền cho tâm khai mở nên khi đụng chuyện, khi mệt mỏi, không chịu nổi sự căng thẳng, bực bội của thân thể, thì bao nhiêu công phu, sự vắng lặng trong 7 giờ ngồi thiền ngày trước bây giờ không còn nữa. Đó là sự sai lầm về thiền của ông. Ông đã định nghĩa sai: thiền là ngồi cho yên tịnh.
Thật sự thiền là sự không ngừng khai mở. Cũng như bầu trời lúc nào cũng bao la bát ngát, có mây bay nhiều hay ít không thành vấn đề, mình chỉ chú trọng tới bầu trời mênh mông thì lúc nào cũng cũng thấy nhẹ nhàng. Khi mình chú trọng vào bầu trời đủ rồi thì những đám mây cũng từ từ bớt đi.
Thiền là sự không ngừng khai mở của mình. Đây là điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Mình ngồi thiền nhiều thiệt, nhưng vừa xả thiền, bà vợ không pha ly cà phê cho mình đúng giờ, mình cảm thấy khó chịu rồi. Hoặc giả bà nấu cơm không ngon, pha trà hơi đậm, là mình giận rồi. Những việc đó khiến tâm mình đóng lại. Tuy thiền nhiều nhưng tâm mình vẫn đóng. Hoặc đôi khi điệu bộ mình ra vẻ cao siêu vô cùng, không dám cười, lúc nào cũng giữ thái độ trang nghiêm. Không phải vậy, thiền là lúc nào cũng vui vẻ như đức Di Lặc, lúc nào cũng tươi cười, nhẹ nhàng.
Thiền là gì? Nếu nói thiền là sự không ngừng khai mở, thì đúng là tinh thần Bát Nhã. Thế nào là Bát Nhã? Là không ngừng siêu việt ra khỏi cặp đối tượng và chủ thể. Đối tượng và chủ thể lúc nào cũng hiện hữu để cột mình vào cặp âm dương đó. Cho nên Bát Nhã là cái trí không ngừng siêu thoát, thiền là không ngừng khai mở. Chữ khai mở và siêu thoát có ý nghĩa không khác nhau lắm. Có khai mở mới có siêu thoát. Khai mở chính là ra ngoài cái âm dương, cái đối tượng và chủ thể.
Nếu bắt đầu hiểu định nghĩa của thiền là vậy thì mình có thể nói tới những phương thức thiền, những giai đoạn tập thiền. Nếu các bác suy nghĩ và đồng ý rằng thiền là sự không ngừng khai mở thì các bác sẽ thấy rằng mỗi lần mình có được sự nhẹ nhàng của tâm thức thì là thiền. Sáng dậy, mình ra ngoài, mở tay ra hít thở không khí, thấy bầu trời to rộng, cảm nhận được sự khai mở của bầu trời. Đó là một điểm thiền của mình. Rồi bây giờ, cầm ly trà lên uống với một tâm thái nhẹ nhàng, không một lay động, cho ngụm nước ấm vào cổ họng, đi xuống bụng. Mình theo hơi ấm đó để cảm nhận rằng cổ họng mình cũng mở rộng, trong người mình mở ra đón nhận sự ấm áp của nước trà mà không hề kháng cự lại. Tâm mở như vậy là thiền rồi. Thiền ngay trong lúc uống trà.
Thành ra các bác biết đó, có vô số vô biên thời khắc trong ngày để các bác khai mở. Thiền như vậy sẽ có ý nghĩa vô cùng. Người nào cũng có thể thiền hằng ngày mà không cần phải ngồi khoanh chân lại thành hình bán già hay kiết già. Nếu ngồi như vậy thì, thưa các bác, một ngày mình chỉ thiền được tối đa một, hai tiếng là nhiều. Như vậy chẳng lẽ thời đại 21 này người ta không tu được sao? Không phải vậy, thiền ở mọi chỗ, mọi nơi.
Có người định nghĩa thiền là làm sao khiến cho đầu óc đừng vọng tưởng. Muốn đầu óc đừng vọng tưởng thì cũng như mong cho bầu trời đừng có mây. Não bộ của mình lúc nào cũng sinh ra tư tưởng cả. Thật ra, làm sao mong bầu trời đừng có mây được; có mây mới có mưa, có nước. Trong “Cảnh Diệt Tận Định” nói rằng “Đúng là mình không nên có vọng tưởng”. Nhưng thực ra phải nên nói là mình thiền làm sao để không ngừng khai mở, để vọng tưởng không trở ngại trong bầu trời chân tâm của mình. Như vậy có lẽ đúng hơn.
Đó là lý do mà sau này mình từ từ hiểu được, trong thời đại này, ở thế kỷ 21, thiền phải càng ngày càng dễ thực tập và tâm thức mình càng cao, thì mình càng phải tìm đủ mọi cách để khai mở.
* Các giai đoạn khi ngồi thiền hay tu luyện thiền
Ở đây mình nói tới các giai đoạn tu luyện chớ không phải tu hành. Tu luyện là giai đoạn thay đổi của não bộ, của con tim và của khí lực trong người mình.
1. Tự ngã khẳng định:
Là mình khẳng định chủ thể này là ai? Là bản ngã của mình tu hay cái Phật tánh của mình tu? Nghiệp chướng của mình tu hay là cái gì tu? Tự ngã khẳng định nói như vầy: Vừa sáng dậy, bắt đầu ngồi thiền, mình ở trong một căn phòng, một khuôn viên. Tức là sự khởi đầu tiến trình tu luyện, câu đầu tiên mình nói, mình khẳng định ngay chân tâm của mình. Chân tâm không nhỏ hẹp, chân tâm không phải là một đám mây trong một bầu trời vô tận. Bầu trời đó không có thời gian và không gian. Đây là một dấu hiệu tu hành của thế kỷ 21, tức là mình phải nhận diện ra Phật tánh của mình ở ngay bước đầu tiên. Không phải Phật tánh là bước cuối cùng mình đạt được. Và cuối cùng của con đường tu thì mình trở lại bước đầu tiên đó, là Phật tánh ra ngoài không gian và thời gian, vô lượng, vô biên, vô tận.
Khẳng định Phật tánh là thế nào? Khi đứng bên ngoài một căn nhà và nhìn vào, bác có thể nói:
“Ồ, căn nhà rộng quá”.
Đó là quan điểm của một người đứng từ bên ngoài cửa sổ nhìn vô. Nhưng người đứng bên trong cửa sổ, sẽ nói khác:
“Tôi cảm thấy rộng ghê, cảm thấy thoải mái ghê”.
Cũng như khi đứng ngoài, bác có thể nói:
“Ồ, đó là Phật tánh”.
Nhưng khi bác ở trong Phật tánh, Phật tánh đã khai mở trong bác, bác đã ở trong căn nhà Phật tánh nhìn ra, bác sẽ nói:
“Ồ, tôi cảm thấy khai mở (I am open)”.
Ở bên ngoài nhìn vào thì mình thấy Phật tánh, thấy một chữ; nhưng từ bên trong nhìn ra thì là một sự cảm nhận. Cảm nhận đó ở trên thân thể của mình, trên tâm thức của mình, trên da trên thịt. Cảm nhận đó rất mạnh mẽ vì mình ở trong cảm nhận đó thì mình sẽ thấy toàn diện; và trong cuộc hiện sinh của mình, mình cảm nhận từ trong tâm thức đó.
Dấu hiệu Phật giáo của thế kỷ 21 khác với thế kỷ 12. Ở thế kỷ 12, mình đứng ngoài chỉ tay vào nói:
“Đây là ‘Ưng vô sở trụ như sanh kỳ tâm’, đây là ‘sắc tức thị không, không tức thị sắc’, đây là cái chỗ ‘Bất khả tư nghị’”.
Nhưng sự tu hành của Phật giáo thế kỷ 21 đặt ngược lại. Quan điểm này thực sự không phải là quan điểm của thế kỷ 21, mà đã bắt nguồn từ kinh Hoa Nghiêm; từ chỗ ngài Thiện Tài Đồng Tử trở đi, thay vì nói “sắc tức là không, không tức là sắc”, tức là mình diễn tả thì bây giờ mình đứng trong này nói “Ồ, tôi không khoáng, tôi thoáng”. Tôi đây là gì? Tôi đây không phải là bản ngã, mà là Phật tánh. Thay vì nói “Ồ, Phật tánh là không, Phật là không có chỗ nào dựa vào, Phật tánh là không có tư tưởng vọng tưởng”, thì mình nói ngay cảm nhận của Phật tánh là gì: là sự thông thoáng (I am open).
Thưa bác, mình có một loạt những lời tự ngã để giúp các bác có thể ở ngay trong cảm nhận của Phật tánh mà nhìn ra. Do việc ở trong cảm nhận mà nhìn ra, sự tu hành của mình không những dễ dàng hơn mà bất kỳ nơi nào, chỗ nào, mình cũng có thể tu mà không gặp trở ngại. Đó là sự quan trọng nhất của câu “Tự ngã khẳng định”: tự mình không đứng từ cương vị của bản ngã ở ngoài nhìn vào, mà đứng ở cương vị Phật tánh từ bên trong nhìn ra.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 03)
(VienDongDaily.Com - 02/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Cho nên thí dụ đứng từ bên ngoài căn nhà nhìn vào và đứng từ bên trong căn nhà nhìn ra là một thí dụ nói rằng bản ngã đứng từ bên ngoài nhìn vào, còn sự nhận biết của chân tâm thì từ bên trong nhìn ra. Nếu bắt đầu nhận được như vậy rồi thì sự tu hành của mình càng ngày càng rõ ràng hơn. Từng bước mình đi là từng bước hạnh phúc, không phải chờ đi hết con đường rồi mới thấy hạnh phúc. Đó là tự ngã khẳng định đầu tiên và quan trọng nhứt.
Khi tập thiền theo kinh Hoa Nghiêm của ngài Thiện Tài đồng tử, tức là cảm nhận từ bên trong ra, tức là mình nói “Tôi khai mở”. Có một loạt rất nhiều khẳng định. Hôm nay thầy chỉ giới thiệu tới các bác một khẳng định là “Tôi khai mở”.
* Làm sao tập?
Mỗi buổi sáng, mình lắng lòng, bước ra mở cửa sổ, nhìn bầu trời và cảm nhận sự khai mở của mình.
Khi đối diện với một vật gì đó, mình có thể thấy tâm, mắt và óc mình đóng lại vì đối tượng mình nhìn. Thí dụ bác nhìn một món ăn rất ngon trước mặt, lòng ham muốn làm bác đóng lại, không còn thấy món ăn đó đẹp hay gì khác nữa, mà bây giờ bác đang muốn ăn cho mau, cho lẹ. Bây giờ đứng trước một bức tranh đẹp, nếu mình cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh tức là mình khai mở. Nhưng khi nhìn bức tranh đẹp, mình lại có ý nghĩ muốn mua. Ý tưởng muốn mua tranh đã đóng mất tâm trạng khai mở. Cũng vậy, nếu các bác đi ngang qua một căn nhà đẹp và ước mong mua được căn nhà đó. Sự tri nhận cái đẹp của căn nhà đã khai mở cõi lòng; khi cõi lòng khai mở thì bác thấy được chân thiện mỹ. Nhưng khi tư tưởng muốn chiếm hữu nổi lên thì tâm mình đóng lại, mình mất đi chân thiện mỹ. Trong khi thiền là sự không ngừng khai mở.
* Không ngừng khai mở cái gì?
Khai mở tâm mình. Nhưng khai mở tâm mình cũng chưa đủ mà phải nói là khai mở chân tâm. Chân tâm khai mở trên quan niệm bản ngã khai mở. Thí dụ đứng trước một bầu trời trong sáng, mênh mông vô tận, có những đám mây mù bay lãng đãng, thì sự chú ý vào bầu trời quan trọng hơn sự xua đuổi những đám mây. Mình muốn ngừng những đám mây, nhưng khó quá. Đám mây tượng trưng cho vọng tưởng, suy nghĩ lung tung của mình. Nếu nói đừng chú ý vào đám mây tức là chưa nói tới nhìn vào bầu trời. Nhìn vào bầu trời tức là nhìn vào chân tâm, nói đúng hơn là khai mở chân tâm.
Có nhiều phương thức, nhưng việc đầu tiên là sự khẳng định, Ta, tức là tôi, là chân tâm. Đầu tiên mình nói lên sự khẳng định để cho mình có một hình ảnh: “Tôi khai mở, I am open”. Nhưng đây chỉ là giai đoạn thứ nhất, bắt đầu bằng lời nói, sự suy nghĩ. Mình nói rồi mình quán tưởng (visualization), hình dung mình là bầu trời vô tận. Đây chỉ là một sự hình dung, hoàn toàn giả, không thật. Nhưng trong ý thức học có nói “Đới chất cảnh”, trong cảnh ấy có một chút thật. Bầu trời vô tận đó không hoàn toàn giả mà nó tượng trưng cho tâm thức vô biên vô tận, ra khỏi không gian và thời gian, mình dùng cái quan niệm “tôi là bầu trời vô tận” hay đúng hơn “tôi khai mở”. Sau khi dùng một thời gian rồi thì nó bắt đầu ảnh hưởng tới thân xác của mình. Làm như thân xác mình bắt đầu cảm nhận sự khai mở đó, khiến đôi khi mình ngồi mà cảm thấy thân thể như tan biến mất. Nhưng chỉ chợt biến mất rồi lại chợt hiện hữu. Những thay đổi này thuộc về sắc ấm.
Nhưng điều này không quan trọng bằng giai đoạn từ lúc mình bắt đầu cảm nhận cho tới giai đoạn thấy, nghe..v.và cuối cùng, qua được giai đoạn hai thì mình đi vào giai đoạn ba, là mình thực sự đi vào cảnh giới khai mở. Do đó bắt đầu bằng những lời khẳng định và sự quán tưởng. Kế đó là cảm nhận được thân xác, thấy, nghe, ngửi, nếm; và cuối cùng đi vào cảnh giới thực sự khai mở. Tất cả những giai đoạn này đều có sự tập luyện cả, nhưng đầu tiên là các bác nói “tôi khai mở” giống như tâm mình là một bầu trời vô tận. Điều này giúp mình nhiều lắm. Nếu có những người tới la lối hay làm mất lòng mình, ngày xưa thì tâm mình đóng lại, nhưng bây giờ mình thấy tâm mình nhẹ nhàng. Hay nhiều khi mình có một món đồ gì mà ngày xưa mình không cho ai mượn, nhưng bây giờ, vì nghĩ rằng mình là bầu trời vô tận, nên mình dễ dàng cho họ mượn hay cho luôn cũng được.
Sự khai mở bắt đầu bằng những chuyện nho nhỏ: bố thí, cho ra; mình mở tâm cho thoáng, hoàn toàn nhẹ nhàng. Đó là giai đoạn đầu tiên của tu thiền, là sự khẳng định, bước đầu tiên đặt làm nền tảng để tiến tới.
2. Điều thân - thư giãn thân thể
Thân thể thư giãn rất quan trọng. Nếu thân thể quá mệt mỏi thì làm cách gì cũng không mở mắt ra nổi, chỉ muốn nhắm lại để ngủ thôi. Nếu có chuyện gì buồn phiền, thân thể uể oải đứng lên không nổi, ngồi ủ rũ một chỗ. Thân thể đang bị căng thẳng sẽ trở nên lừ đừ, mà thân xác lừ đừ rất khó có khai ngộ, khai mở. Nhiều người khi ăn bột ngọt bị nổi mề đay, lưỡi khô, chảy nước mắt, người mệt mỏi. Lúc đó các bác có muốn khai mở cũng không nổi. Do đó, thân thể rất quan trọng.
Khi các bác tập thiền, mình phải nhận ra rằng thân thể mình bị căng thẳng nhiều quá. Bây giờ làm sao trạng thái khai mở phải tương đương với sự khai mở, thư giãn (relaxation) của thân thể. Chữ khai mở dùng cho tâm, nhưng khi dùng cho thân thể thì gọi là thư giãn. Khi thân thể mình lúc nào cũng đầy những căng thẳng, bực tức thì bắp thịt lúc nào cũng co cứng, không giãn ra nhẹ nhàng. Hai vai cứng lại thành hai thanh sắt thay vì mềm mại, nhẹ nhàng; cổ quay qua không được; ngồi xuống rồi đứng lên là đau lưng. Có người nói với thầy, con đang đánh răng, cúi người xuống, rồi ngẩng lên không được vì phần dưới của lưng đã quá mỏi mệt. Nói một cách khác, thân thể tương ứng với tâm. Thân thể căng thẳng cực độ như vậy thì làm sao tâm mình có thể nhẹ nhàng được. Đó là lý do tại sao người tu thiền càng tu, tâm thức càng khai mở, thì họ càng vui, từ lời nói cho tới hành động, nụ cười càng lúc càng dễ chịu và nhẹ nhàng hơn, chớ không phải càng lúc càng nghiêm nghị, nghiêm trang, khó khăn đến độ những người xung quanh không muốn nói chuyện cùng. Họ sợ mình vì chưa bao giờ thấy mình cười cả. Họ thấy điệu bộ, cách ăn mặc, cử chỉ của mình giống như ăn trên ngồi trước khiến họ sợ.
Sự khai mở của thân thể là sự thư giãn. Phương pháp: Thư giãn từ trên đầu trở xuống. Các bác chú ý trên đỉnh đầu, tự nói cho mình biết là “tôi thư giãn đỉnh đầu”, thả lỏng phần đỉnh đầu ra. Rồi mình nói tiếp “tôi đang thư giãn phần trán”, làm cho các bắp thịt nơi phần trán giãn ra; rồi thư giãn mắt, lông mày; thư giãn gò má, lỗ tai, môi, cằm, hàm dưới và lưỡi. Rồi xong tới cổ, vai, tay, ngón tay, ngực, bụng, sau lưng, hai bắp đùi, bắp chân và hai bàn chân…. Khi làm cho thân thể thư giãn như vậy, mình dùng lời nói trong đầu, chú ý tới chỗ muốn thư giãn rồi nói chỗ đó thư giãn thì bác thấy lạ lắm vì vùng da thịt đó sẽ nghe lời mình mà thư giãn theo.
Sự thư giãn này có nhiều tầng, tầng đầu tiên là thư giãn bên ngoài (surface relaxation). Sự thư giãn bên ngoài này mình mới làm sơ sơ thôi, nhưng hiệu quả vô cùng vì sự căng thẳng trên thân mình sẽ giảm đi rất nhiều. Sau đó mình phải thực hành sự thư giãn ngũ tạng bên trong như tim, gan, tỳ, phế, thận, v.v.. Kế tiếp mình còn có sự thư giãn sâu hơn nữa là thư giãn nội khí trong người, khiến nội khí này chạy điều hòa, năng lượng của mình sẽ không chạy lung tung. Nói chung, khi tu thiền, các bác đừng nghĩ là tu tâm không thôi, phải nghĩ rằng tu tâm và thân. Tu tâm mà không tu thân là trật rồi. Bệnh hoạn sẽ ngăn cản không cho mình làm những việc mà mình muốn thực hiện.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 04)
(VienDongDaily.Com - 09/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Thí dụ, có một bác rất thích tu thiền, bác nói rằng tôi sẽ không ăn chay, tôi ăn mặn vì tôi thích ăn cua. Đây là một sở thích cá nhân. Nhưng sau khi tu thiền một thời gian rồi, bác ấy mới phát giác ra rằng càng tu thì càng đòi hỏi mình phải có một năng lực để mình có thể ngồi được lâu, để mình có thể khai mở. Càng ngồi lâu, càng khai mở, càng thư thái thì mới biết rằng nếu tâm thức, thân thể mình khai mở, thì những tham muốn tự nhiên đóng lại. Mỗi lần ngồi thiền mà mình cứ tham muốn ăn cua thì tâm sẽ bị kẹt, cứ ngồi nghĩ tới chuyện ăn đó, tâm sẽ không mở ra được; và thân thể khi có tư tưởng đó thì tự nhiên đau chân. Bác mới biết vì sự không thư giãn của thân mà không ngồi thiền lâu được, cứ nghĩ đến cua thì chân đau, mà chân đau thì không thiền được. Cuối cùng bác quyết định không ăn cua nữa.
Khi bác ngừng không ăn cua nữa thì chuyện gì xảy ra? Bác ngồi đó mà không còn tư tưởng tới cuối tuần hay giữa tuần sẽ đi ăn cua; và bác khám phá ra là khi không còn tư tưởng tham đắm thì ngồi thiền tâm sẽ mở, chân cũng bớt đau nhiều, từ 100% nay còn chừng 3%, nhẹ vô cùng. Té ra là bác thả lỏng thân thể. Thân và tâm đi với nhau, những đau đớn của tâm phản ảnh lên thân, và những đau đớn của thân phản ảnh lên tâm; hai bên ảnh hưởng lẫn nhau.
Càng tu mình càng thấy thân và tâm ảnh hưởng lẫn nhau cực kỳ sâu sắc. Càng muốn tâm khai mở thì thân phải càng phải được thư giãn. Cho nên, định luật quan trọng khi bắt đầu ngồi thiền là phải ngồi sao cho thật thư giãn. Khi thư giãn, từ từ mình sẽ tới trạng thái bất động. Khi nói tới trạng thái bất động, thì xin các bác nhớ cho rằng khi ngồi thiền mình không được động đậy. Gần đây có nhiều người nói với thầy rằng:
“Thưa thầy, con ngồi thiền đạt tới trạng thái cao rồi. Thân thể con dao dộng, lắc qua lắc lại, giống như con đang ở trên một cõi cực lạc hay cảnh trời nào đó. Vậy là con tu cao hay tu thấp?”
Câu trả lời là không phải là bác tu cao hay thấp mà là bác tu trật rồi.
Thiền là càng ngày càng bất động chớ sao lại càng ngày càng dao động, chao qua chao về. Đây là hiện trạng đầu tiên trong kinh Lăng Nghiêm gọi là “phi tinh phú nhân”, tức là ma quỷ sẽ phóng một năng lượng để phú vô người mình, khiến mình không thể nào yên được. Trạng thái bất động, thư giãn là trạng thái của tâm khai mở, trạng thái chân chính tu hành; còn trạng thái ma quỷ thì lúc nào cũng dao động. Nhiều khi mình không nghiên cứu nên không biết nếu bác kêu được một con quỷ ngồi yên trong năm phút thôi thì đó là một chuyện lạ thường vô cùng, vì con quỷ không thể ngồi yên được dù chỉ trong một phút giây thôi. Do đó, khi năng lượng tà, gọi là phi tinh, vô người mình thì mình chao động vô cùng. Sự dao động nếu chỉ là lắc qua lắc về, là nhẹ, thì có thể trị được. Nếu sự dao động đó vô được những vùng luân xa thì những trung tâm năng lượng này sẽ chao động nhiều lắm. Nói theo người Yoga thì thay vì quay thuận chiều, các luân xa sẽ quay nghịch chiều, quay lung tung, khiến người mình càng ngày càng lạnh không ấm áp. Sự giao động này có thể ở trong can, trong tạng của mình khiến mình ngày càng bệnh hoạn và đi tới chỗ tẩu hỏa nhập ma.
Thư giãn và ngồi bất động chính là chìa khóa để biết là chính hay tà. Trong đời này chuyện tà nhiều vô cùng. Chuyện ngồi giao động, lắc qua lắc về, nghiến răng, hò hét bị nhiều người hiểu lầm cho rằng đó là những trạng thái cao siêu. Cao tới độ sắp sửa tẩu hỏa nhập ma. Do đó trạng thái thư giãn thân thể đưa tới trạng thái tĩnh lặng, nhẹ nhàng, không có một căng thẳng nào, là một tiền đề quan trọng của việc ngồi thiền. Nó không phải là việc sống thiền mà là ngồi thiền, cho mình có một sự dễ dàng đi tới tâm khai mở.
3. Điều tức - thư giãn hơi thở
Sau khi thân thể đã thư giãn, mình làm gì để tiến sâu hơn nữa? Bước kế tiếp là mình cần làm cho hơi thở của mình cũng được thư giãn. Thế nào là hơi thở thư giãn? Đó là hơi thở thiệt chậm, thiệt nhẹ. Phổi làm việc rất ít mà mình vẫn có thể sống được. Hơi thở đi rất sâu trong các tế bào mà không bị một ngăn trở nào. Đây là một công phu. Ngày xưa, ngài Trí Giả đại sư gọi là điều tức, điều hòa hơi thở của mình. Bây giờ mình gọi là Breathing relaxation. Hơi thở càng lúc càng chậm lại, nhẹ lại, còn chút chút thôi, khiến cho não bộ mình làm việc. Đây là một bước quan trọng cho những người ngồi thiền. Khi ngồi thiền mà các bác thở phì phò như thở bò, thì sẽ mau mệt, rồi có trăm ngàn tư tưởng nổi lên. Té ra khi bác thở chậm và nhẹ thì mức độ oxygen trong máu sẽ bớt lại, não cũng bớt oxygen, như vậy tiến trình sống của mình sẽ chậm lại; đồng thời vì lượng oxygen lên não ít đi, nên não bộ sẽ phải quyết định để vùng nào hoạt động, vùng nào đóng lại, vùng nào bớt hoạt động và vùng nào phải hoạt động nhiều hơn. Cũng như nếu một tháng bác chỉ có 200 đô la thôi thì bác phải quyết định việc nào quan trọng cần tới tiền, như mua gạo cơm, việc nào có thể để chậm lại, hoặc không cần tới. Với 200 đô la mà bác muốn đi Fashion Island một ngày ba lần thì khó có thể xẩy ra được. Do đó, não bộ trở rất rất hữu hiệu. Não bộ sử dụng số năng lượng ít ỏi vào chuyện gì? Giữ cho con người mình sống còn. Số năng lượng còn lại, não bộ sẽ tập trung vào chuyện mà mình đang làm. Khi não tập trung như vậy thì sẽ thư giãn vô cùng, sẽ không còn đầy những tư tưởng loạn xạ. Não bộ sẽ cảm giác là có đầy đủ năng lượng, đầy đủ sức sống hơn, thay vì loạn xạ vì đủ thứ tư tưởng trong đầu, trăm ngàn thứ. Bây giờ não bộ chỉ còn nghĩ vài ba chuyện thôi. Sự tập trung đó là điều phước lành cho não bộ của mình.
Do đó, nếu các bác thư giãn thân thể rồi mà không thư giãn hơi thở, thì não bộ chưa nhận được một ảnh hưởng mạnh mẽ nào. Cho nên, khi các bác ngồi yên rồi thì nên hít thở thiệt chậm, thiệt chậm. Có người hỏi:
“Thưa thầy, con đếm từ một tới mười được không?”
Bác đếm từ một tới mười không hiệu quả bằng trong một phút bác thở chừng mười hơi hay năm hơi thôi, như vậy hiệu quả hơn. Trong một phút mà bác thở như vậy thì não bộ sẽ chậm lại và tinh tế hơn. Còn nếu bác cứ đếm hơi thở từ một tới mười, rồi đếm trở lại thì mình không biết là mười hơi thở đó tốn bao nhiêu thời gian, mau hay chậm. Nếu mà mau thì não bộ chưa được điều hòa, chưa nhẹ nhàng, chưa tĩnh lặng được. Mình cần cho não bớt căng thẳng, bớt đi những tư tưởng hỗn loạn, không cần thiết. Cho nên hơi thở cần được thư giãn, chậm lại. Điều này quan trọng vô cùng.
Khi hơi thở chậm lại thì cuộc sống của bác cũng thay đổi. Vì sao? Thở là sự sống, sống tức là thở. Nếu bác không tin chuyện này cứ thử ngồi xuống nín thở trong 10 phút xem, bác thấy mình sẽ như thế nào. Nhưng nói vậy thôi chớ các bác đừng làm nhé. Các bác mà làm thì nguy to. Và sự thật là mỗi người mình đều biết thở thật chậm thì không những não bộ sẽ tốt mà mình cũng bớt căng thẳng. Do đó chuyện ngồi cho thân thể thư giãn ra, tâm khai mở nhưng đồng thời hơi thở cũng phải chậm, hết sức thư giãn, thì thân thể mới giảm bớt căng thẳng. Do đó mình thấy tâm khai mở thì thân thư giãn, đi chung với hơi thở chậm rãi và nhẹ nhàng.
KHỔ_(1)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(1)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/HDSBpFceyoM
KHỔ_(2)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(2)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/yu6oPZ2wTS4
KHỔ_(3)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(3)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/JTh-gyj4XqQ
KHỔ_(4)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(4)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/utvQT97RCGU
KHỔ_(5)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(5)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/Ll5eM2rSjEU
KHỔ_(6)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(6)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/D34XUbvu0dQ
KHỔ_(7)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(7)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/cH0RAA3398I
KHỔ_(8)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(8)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/wRvyPxr7cWQ
KHỔ_(9)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(9)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/SvEYDvtbHeY
KHỔ_(10)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(10)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/OJayrCj-gVc
KHỔ_(11)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(11)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/ySf_GciznsM
KHỔ_(12)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
KHỔ_(12)_(ĐĐ.THÍCH HẰNG TRƯỜNG)_Giảng
http://youtu.be/cOtnYMHv96g