Đi tu - một tập tục của người Khmer ở miền Tây Nam bộ
Đi tu - một tập tục của người Khmer ở miền Tây Nam bộ
Người Khmer ở hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thường sống thành từng vùng, có nơi chiếm tới 70% dân số, tập trung nhiều ở các tỉnh giáp biên giới Campuchia như vùng Bảy Núi (Tịnh Biên, Tri Tôn), Hà Tiên (Kiên Giang), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Dân tộc Khmer thuần theo đạo Phật tiểu thừa. ở đồng bằng sông Cửu Long có hơn 440 ngôi chùa lớn nhỏ của người Khmer, mỗi chùa có ít nhất 5 -10 ông lục, nhiều khi đến 60 - 70 ông ăn ở, học tập tu hành. Các ông lục, còn gọi là sư sãi, là con em người bổn sóc. Gia đình nào có con trai từ 12 tuổi trở lên đều cho vào chùa tu, có thể 3 tháng hoặc 3-4 năm hay trọn đời tuỳ ý, để học kinh, học chữ, rèn luyện thành người có trí thức và đức hạnh.
Ngày xưa, nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ. Bởi vì người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, thường chọn những chàng trai đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được mọi người trọng vọng.
Lễ đi tu thường được tổ chức vào ngày đầu tết Chôl Chnâm Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu (vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài bài kinh cơ bản) sẽ tổ chức một lễ gọi là Bank-Bom-Buôn để người đi tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Khi vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải gọi là Pênexo, chứng tỏ rằng anh ta từ bỏ thế tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng).
Theo truyền thuyết từ kinh điển Phật giáo, ngày xưa có một con rồng tu luyện thành người và xin được vào tu theo đức Phật. Một hôm, khi ngủ trưa rồng hiện nguyên hình. Môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra liền báo ngay. Đức Phật trục xuất rồng khỏi hàng môn đệ, vì không phải người thì không được tu. Rồng khóc van xin, nhưng không lay chuyển được lòng đức Phật. Cuối cùng rồng xin đức Phật ban cho một ý nguyện là sau này, những ai bước chân vào tu cũng phải gọi bằng tên tộc là Nec. Từ đó đến nay, từ "nec" dùng để gọi nhà sư tương lai và cũng để nhớ đến truyền thuyết trên.
Để vào lễ, buổi tối họ mời sư sãi đến tụng kinh, cúng tam bảo và thọ giới theo Phật. Sáng hôm sau, khi cơm nước xong, họ đưa anh con trai lên chùa, có bạn bè thân quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba vòng rồi mới vào trong làm lễ. ở đây có một nhà sư ngồi gọi là Uppachhe giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe. Sau đó nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi và đọc lời xin tu. Khi vị thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà sa. Tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói láo; 5. Không uống rượu; 6. Không ăn ngoài bữa; 7. Không xem múa hát; 8. Không dùng đồ trang sức; 9. Không chiếm ghế cao và giường êm; 10. Không đụng đến vàng bạc.
Cuối cùng các nhà sư cùng Phật tử tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt buổi lễ.
Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh.
Đi tu đồng thời theo nếp nghĩ truyền thống cũng là một cách tích phước cho cha mẹ, gia đình và chính bản thân. Tuy nhiên, ngày nay người con trai Khmer vì theo học ở một trường nào đó hoặc có những gia đình quá khó khăn, thiếu lao động thì không phải đi tu và luật tu hành cũng không quá khắt khe như xưa nữa.
(Theo Thạch Sen)
HELLBOY
Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hóa Tày
Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hóa Tày
Cũng như các dân tộc khác trong cộng động các dân tộc Việt Nam, dân tộc Tày rất coi trọng việc hôn lễ vì nó thể hiện ý thức trách nhiệm với tổ tiên giống nòi, là hình thức củng cố và phát triển xã hội. Có thể nói từ trước tới nay đám cưới người Tày không chỉ là công việc của mỗi nhà mà còn là công việc của cả làng bản. Vì thế, mỗi khi có đám cưới, cả bản lại rộn lên như có hội. Điều độc đáo trong đám cưới người Tày là đón dâu bằng thơ - hát.
Dân ca đám cưới còn được gọi là tiếng hát đón dâu. Ở các tộc khác như Mường, Thái, Dao, Cơ Tu... cũng có dân ca đám cưới, song mỗi tộc lại có hình thức diễn xướng khác nhau. Dân ca đám cưới mang tính loại hình, tính đặc thù, được hình thành do chức năng thực hành sinh hoạt, thực hành nghi lễ trong đời sống nhân dân.
Người Tày gọi dân ca đám cưới bằng nhiều tên khác nhau, có nơi gọi "lượn lẩu" (lượn rượu), có nơi gọi "lượn pú ta" (lượn Quan lang). Cách gọi phổ biến và quen thuộc là "lượn Quan lang". Cách gọi tuy có khác nhau nhưng tựu trung đó là những bài hát dành riêng cho đám cưới, chỉ cất lên trong đám cưới, khác những bài ca xuất hiện ở chợ phiên, trên những con đường vào bản, nơi nương rẫy hoặc trong lễ hội. Những bài hát đám cưới Tày mang chức năng trao đổi tình cảm, lại diễn xướng theo nghi lễ truyền thống nên nó cũng không nằm ngoài nhu cầu về tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ của người Tày. Quan niệm của người Tày xưa về "lời nói đẹp" ấy là thơ ca được dùng trong lúc trang trọng hoặc khi thổ lộ tâm tình. Trong lễ cưới không chỉ trang trọng mà còn vui vẻ, cũng là dịp thử tài ứng xử thơ ca của hai họ nhà trai và nhà gái. Những cuộc so tài thử trí này vừa mang tính sinh hoạt, vừa là hình thức nghi lễ được diễn ra theo trình tự thời gian từ khi đoàn nhà trai đặt chân tới nhà gái đến lúc kết thúc xin phép đón dâu về.
Lễ đón dâu của người Tày xưa bắt đầu từ chiều hôm trước, ở qua đêm đến ngày hôm sau. Chúng tôi tạm chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn một là giai đoạn thử thách (kể từ khi họ nhà trai đến cổng nhà gái phải vượt qua các "trạm gác" để vào được nhà). Giai đoạn hai là những thủ tục đón dâu. Ứng với mỗi sự thử thách và các nghi thức là những bài ca. Các bài ca có thể sắp xếp theo trình tự sau:
Giai đoạn thử thách gồm:
- Những bài ca mở cổng.
- Những bài ca chăng dây.
- Những bài ca rửa chân.
- Những bài ca lên cầu thang.
- Những bài ca mở cửa chính.
- Những bài ca cất chổi.
- Những bài ca rải chiếu.
- Giai đoạn thủ tục gồm:
- Những bài ca mời nước.
- Những bài ca mời rượu.
- Những bài ca mời cơm.
- Những bài ca bái tổ.
- Những bài ca nạp gánh.
- Những bài ca đáp ơn cha mẹ.
- Những bài ca nhận rể.
- Những bài ca xin đón dâu.
- Những bài ca lễ bố mẹ chồng.
- Những bài ca mừng rương, hòm, màn.
- Những bài ca mừng thông gia bằng hữu.
- Những bài ca mừng phù dâu.
- Những bài ca chia tay, nhắn gửi.
Nội dung, dung lượng của bài ca tùy thuộc vào các đề tài, tình huống cụ thể và tài ứng đối của người đại diện nhà trai và nhà gái. Khi tiếng hát cất lên cũng là lúc mọi thành viên bị cuốn hút vào cuộc, tạo nên không khí văn nghệ thân ái, đoàn kết trong cộng động làng bản. Sau đây là một số tình huống của tiến trình diễn xướng qua hai giai đoạn nêu trên.
Thử thách đầu tiên của nhà trai là khi đến cổng bị nhà gái đóng không cho vào, lại còn vờ hỏi.
Xin trình đến khách lạ khác thường
Đi đâu mà lạc đường qua đây
Gái trai đều thanh tân thay thảy
Người người mặt xinh đẹp trắng ngần
Tôi chặn đường giữ phép nhà quan
Người ngay được vào làng vào bản
Người gian là phải lìa chốn đây
Khách này là người ngay người giở
Tôi xin hỏi cho rõ ngọn ngành.
Muốn nhà gái mở cổng cho vào, Quan lang phải cất lên tiếng hát:
Ngày này ngày đại lễ đón dâu
Chúng tôi đưa rể về lễ tổ
Lễ vật có nhiều gánh nhiều gồng
Con rể gọi đắp ơn cha mẹ
Được ơn các nàng mở cửa chọ
Cổng mở nhưng lối vào bị chắn bởi một dải lụa ngũ sắc. Quan lang lại hát:
Xin trình đến các nàng nhà sang
Đi đến đây đường trường mệt mỏi
Thấy có dải lụa đào chắn ngang
Thấy có dải lụa loan ngũ sắc
Cấm vào nhà những khách không quen.
Tiếng hát vừa dứt, dải lụa được cất đi mở đường cho nhà trai đến cầu thang nhà sàn. Theo lệ thường chân cầu thang có máng nước rửa chân nhưng hôm nay không có. Mấy cô gái bưng những khay rượu đến mời khách rửa chân. Bài hát Lẩu dào kha (rượu rửa chân) được ra đời, nói lên điều hay lẽ phải, giá trị quý báu của những giọt rượu, không thể lấy rượu thay nước rửa chân, làm như vậy là trái với lẽ thường, coi thường công lao động và vật phẩm quý là lúa gạo:
...
Lại có rượu rửa chân chúng tôi
Nghĩ mà thất lễ với trời đất.
Lên được cầu thang thì lại vướng phải những đoạn củi cháy dở, những chiếc chổi, con dao, con mèo bị nhốt... đặt ngang đường. Nếu bước qua sẽ bị nhà gái chê cười là bất lịch sự. Quan lang lại trổ tài thơ thuyết phục để nhà gái dọn lối vào. Thế nhưng cánh cửa nhà chính vẫn đóng. Bài ca "Xo khay tu" (xin mở cửa) được Quan lang cất lên trình bày nhiệm vụ quan trọng của nhà trai đến nhà gái đón dâu, đề nghị nhà gái cho vào nhà. Vượt qua ngần nấy "thử thách" của nhà gái, nhà trai những tưởng xong chuyện, được ngồi xuống giường nghỉ ngơi đàm đạo. Nào ngờ giường không có chiếu trong khi đó mấy cô chủ lịch sự mời chào. Quan lang lại hát bài "Piái phục" (trải chiếu) nhà gái mới chịu mang chiếu đến trải vào giường nhưng cố tình trải ngược chiếu. Cả đoàn đón dâu vẫn kiên trì đứng chờ. Quan lang hát bài "Piển phục" (trải lại chiếu) ý nói mọi vật tồn tại trong tự nhiên và trong cuộc sống đều tuân theo quy luật phát triển tự nhiên của nó, lẽ nào nhà gái làm trái quy luật ấy.
Chiếu được trải lại, nhà trai mới ngồi yên vị trên chiếc giường dành cho khách quý. Đến đây giai đoạn thử thách coi như kết thúc. Bước sang giai đoạn hai, nhà trai tiến hành các thủ tục lễ nghi truyền thống, gắn với nó là những khúc ca. Thay mặt nhà trai, Quan lang thưa với nhà gái qua bài "Dạ cốc họ" (thưa họ hàng). Nội dung ca ngợi công sinh thành dưỡng dục của bố mẹ cô dâu và họ hàng. Nhà trai rất biết ơn công lao đó. Tính từ giờ phút này hai bên chính thức gặp gỡ kết tình thông gia, nạp đồ cưới, cho chú rể bái tổ, xin đón dâu về.
Nhà gái mang khay nước chè đến mời. Trước khi uống Quan lang hát bài "Kin nậm chè" (uống nước chè) cảm ơn sự đón tiếp chu đáo của họ nhà gái. Sau đó Quan lang xin phép cho chú rể thắp hương lễ tổ, ra mắt nhận ông bà cha mẹ, họ hàng:
Mười giờ kén được giờ này tốt
Trăm giờ kén được giờ này lành
Giờ này được trên trời phù hộ
Giờ này có nhiều phúc đến nhà
Giờ đẹp con rể ra bái tổ.
Cơm rượu đã được bày sẵn, cả hai họ vui vẻ ngồi dự. Những bài "Thơ lẩu" (thơ rượu) được cất lên. Lúc này không chỉ có Quan lang hát mà mọi người đến tham dự đám cưới cùng tham gia hát đối đáp. Có lẽ lý do người Tày gọi dân ca đám cưới là "Thơ lẩu" cũng xuất phát từ đây.
Không khí hoan hỉ của đám cưới kéo dài gần như thâu đêm suốt sáng. Ngày hôm sau ông Quan lang lại tiếp tục thực hiện nghi thức còn lại. Bài ca "Xo lùa mừa" (xin đón dâu) kết thúc các thủ tục trước khi chú rể chào mọi người đưa cô dâu về nhà:
Đón dâu về họ hàng xem mặt
Đón dâu về kế thế phụng thờ.
Qua diễn trình diễn xướng dân ca đám cưới Tày, ta thấy mọi sự dẫn dắt giao tiếp giữa hai họ đều được thực hiện bằng thơ ca, do Quan lang là người cầm trịch. Đây là điểm độc đáo trong đám cưới của dân tộc Tày, thể hiện hình thức tổ chức đã có nền nếp quy củ, tuân theo các trật tự mang tính truyền thống. Những lời đối đáp ở giai đoạn một làm tăng thêm không khí vui nhộn của lễ cưới, thu hút mọi người tham gia vào cuộc, đồng thời kích thích khả năng ứng tác của các nghệ nhân dân gian, góp phần làm phong phú thêm vốn dân ca đám cưới của dân tộc.
Hình thức tạo nhiều tình huống hoặc phạt Quan lang bằng những chén rượu mỗi khi lúng túng, bí, không đáp được cũng nhằm mục đích phát huy khả năng sáng tác thơ ca của nghệ nhân. Cùng một đề tài: "Xin mở cửa", chúng tôi sưu tầm có tới hơn mười bài ca, lời lẽ khác nhau. Đặc điểm chung các bài này đều hướng tới "thấu tình đạt lý".
Từ sự dí dỏm, tinh nghịch, gây cười của những bài ca ở giai đoạn đầu đã chuyển sang tính nghiêm túc, trang trọng của những bài ca mang tính nghi lễ ở giai đoạn sau, tạo nên sự hài hòa trong lễ cưới. Bài ca có tính thuyết lý thể hiện bằng giọng hát Quan lang được đặt trong không khí trang trọng của hôn lễ đã tăng tính thuyết phục thêm bội phần. Lệ "Srằm khấu" (ướt khô) là tiếng hát nên thơ, cảm động về sự báo đáp công ơn cha mẹ vất vả nuôi con khôn lớn, đã thấm sâu vào trong ký ức, trong lòng người nghe.
Mặc dù diễn xướng những bài ca đám cưới có kéo dài nhưng nó được sắp xếp theo trình tự lô gích, đặt trong không gian rộng có cảnh huống gắn chặt với bài nghi thức hôn lễ nên có sức thuyết phục, tập trung vào vai trò của người diễn xướng là Quan lang.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng nhận xét xác đáng: Muốn hiểu thơ Quan lang trước hết phải hiểu phong tục Quan lang. Những bài ca đám cưới Tày và môi trường diễn xướng độc đáo của nó thực sự là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đẹp đẽ của đồng bào Tày.
(Theo Lộc Bích Kiệm)
HELLBOY
Hát Ghẹo - một nét đẹp trong văn hóa dân gian vùng đất Tổ
Hát Ghẹo - một nét đẹp trong văn hóa dân gian vùng đất Tổ
Hát ghẹo là một hình thức hát giao duyên, đối đáp nam nữ phổ biến khắp nơi, từ miền xuôi đến miền ngược mỗi khi xuân đến, khi mùa màng bội thu, khi nông nhàn hay những đêm trăng sáng. Mỗi vùng có một cách hát ghẹo khác nhau: khác về cách hát, tổ chức hát, giọng hát cũng như lề lối, phong tục hát. Sự khác nhau đó cũng tuỳ theo sự giao lưu văn hoá và những yếu tố xã hội của từng địa phương. Trong sự giao lưu đa sắc đó, hát ghẹo ở Phú Thọ mang trong mình một nét riêng duyên dáng, dường như đất tổ nơi đây mới là chốn neo đậu và thăng hoa của loại hình nghệ thuật dân gian này.
Hát ghẹo ở huyện Tam Nông (nay là Tam Thanh) và Thanh Sơn cũng như hát xoan đã trở thành sản phẩm riêng của Phú Thọ. Nó mang phong cách đậm đà màu sắc địa phương, phát triển liền mạch theo thời gian. Cứ vậy, hát ghẹo Phú Thọ không bị lẫn với hát ghẹo ở bất cứ nơi nào. Nguồn gốc hát ghẹo được gắn với câu chuyện dựng lại ngôi đình làng Nam Cường thờ Xuân Nương công chúa.
Chuyện kể rằng ngôi đình làng thờ nữ tướng Xuân Nương bị cháy, trai tráng Nam Cường cùng nhau lên rừng đại ngàn kiếm gỗ về dựng lại đình. Đến địa phận xã Thục Luyện, mệt quá, trai tráng ngồi nghỉ chân, trai gái Mường biết vậy liền đưa thịt rừng rượu thơm ra đãi. Lại cùng nhau lên rừng ngả gỗ đóng bè cho trôi theo dòng sông xuôi về. Qua địa phận xã Thục Luyện bè bị mắc cạn, đẩy mãi không qua, những cô gái Mường ở thôn Hùng Nhĩ đi hái măng về bèn khuyên vừa đẩy bè vừa hát thì thần thác mới hài lòng để cho bè xuôi. Quả thật, khi trai gái hai bên cùng nhau đẩy và hát đối đáp với nhau thì bè nhích dần rồi chảy về xuôi. Thác thần từ đó được gọi là thác ?đôi ta?, khúc hát đẩy bè trên được gọi là ?hát ghẹo? hay ?ghẹo nước nghĩa? (nghĩa là hát giữa các thôn làng kết nghĩa với nhau), ?hát anh chị?. Sở dĩ có tên ?hát anh chị? vì hai bên hát đối đáp với nhau sẽ gọi nhau là anh, là chị. Hát ghẹo ở Nam Cường trở nên nổi tiếng và được gọi là hát ghẹo Nam Cường để phân biệt với hát ghẹo của các vùng khác.
Các thôn làng hát ghẹo để giao lưu tình cảm cũng như nghệ thuật hay còn ý nghĩa thiêng liêng là tế thần chứ không để mong cầu về vật chất của nhau. Các làng kết nghĩa này trai gái gọi nhau là liền anh, liền cô hay quan anh, quan cô. Trai gái những làng kết nghĩa thì không được lấy nhau.
Ở Nam Cường người ta tổ chức hát ghẹo vào ngày khánh thành đình làng - ngày mồng 9, mồng 10 và 11 tháng 9 âm lịch. Hai ngày đầu thì tiến hành việc tế lễ, ngày hôm sau thì tổ chức hát ghẹo thành những nhóm ở từng nhà dân. Vì thế mà hát ghẹo không phải là một loại hát tế lễ hay dân ca tín ngưỡng hay ?hát cửa đình?, cũng không phải loại hình hát tự do như hát trống quân, hát ví, hát đúm mà hoàn toàn chỉ là một kiểu sinh hoạt văn hoá cộng đồng mang đậm tính dân gian, tự do. Các thôn kết nghĩa và hát với nhau, năm nay thôn này làm chủ thì sang năm lại làm khách. Đội khách bao giờ cũng chọn nam và đội chủ thì ngược lại chọn nữ. Nam Cường tổ chức hát ghẹo vào tháng 9 âm lịch là chủ, đến lượt Thục Luyện, Hùng Nhĩ hát ghẹo tổ chức vào tháng 3 âm lịch thì Nam Cường lại là khách.
Để tổ chức ngày lễ hát ghẹo nước nghĩa thì trước ngày tế lễ hàng năm khoảng một tháng, những vị chức sắc trong làng thường họp nhau lại bàn bạc về việc tổ chức cúng tế cho phù hợp với khả năng kinh tế của làng. Tuỳ theo năm được mùa hay mất mùa mà tổ chức tế lễ mời khách nhiều hay ít và tất nhiên phí tổn đều do dân làng đóng góp. Dân làng cũng cử ra số người tương đương đội khách mà tập luyện hát mừng đón tiếp anh em nước nghĩa. Những chị em được chọn hát ghẹo của làng (đội chủ) là những người không bận việc gia đình, không có chuyện tang bụi và chắc chắn phải có giọng hát khoẻ, ngọt ngào, phải nhớ được nhiều câu. Nước nghĩa được mời thì chuẩn bị những nam thanh trạc tuổi tương đương có tài năng ca hát để đáp lễ. Tất cả chuẩn bị công phu để chờ ngày tế lễ. Và cũng đã thành truyền thống, trong ngày hội hát ghẹo, người ta quy định cụ thể về cách ứng xử, ăn mặc, giọng hát, thể lệ và nơi chốn sẽ được tiến hành.
Với cách xưng hô trang trọng, những ông già, bà già trong dịp tế lễ được gọi là, ?quan trùm?, ?bà trùm?, các anh, các chị được gọi là ?quan anh?, ''quan chị''. Hai bên nước nghĩa đều dùng cách xưng hô trang trọng này không phân biệt chủ khách. Những bộ áo the, quần trắng, khăn xếp đội đầu đẹp nhất dành cho ngày hội là trang phục của các quan anh và áo năm thân, áo cánh trắng, quần lụa sồi, yếm điều, thắt lưng bao các mầu, xà tích đeo, khăn mỏ quạ chít đầu là trang phục của các quan chị.
Chỗ hát thường được bắt đầu từ nhà của một ai đó trong làng. Nhà được chọn để hát phải khá sạch sẽ, mát mẻ, rộng thoáng và đặc biệt gia đình không có chuyện gì buồn. Các quan trùm, quan anh là khách thường ngồi trên sập, trên giường giữa nhà, còn các bà trùm, các quan chị thường giải chiếu ngồi trên dãy giường của gian bên.
Cách hát là hình thức hát đối đáp nam nữ, nên các anh cũng như các chị mỗi lần thường hát hai người, khi hát họ nhìn thẳng vào nhau vừa để biểu lộ tình cảm vừa để khi hát ra vào cho ăn khớp với nhau.
Đối với giọng hát trong ngày hội được quy định bốn loại giọng gắn liền với từng giai đoạn của ngày hội. Mở đầu là giọng ví đãi trầu diễn ra cùng lúc với việc các chị mời quan khách dùng trầu. Trầu thường được để vào khăn tay, hoặc đặt trên khay, trên đĩa và các chị hát mời các anh bằng giọng lễ phép ngọt ngào: Em thưa với các anh em, miếng trầu để đĩa bưng ra, xin anh nhận lấy để mà thở than, thưa anh. Sau khi kết thúc ví đãi trầu thì giọng hát chuyển sang giọng sổng, đây là lúc mà câu chuyện đã vào đề hai bên hát đối đáp chuyện trò thân mật với nhau. Giọng thứ ba gọi là sang giọng, được hát để các liền anh, liền chị thể hiện tài nghệ đối đáp của mình. Đây được coi là cao điểm của ngày hội, theo các cụ ngày xưa thì sang giọng gồm có 36 chất giọng khác nhau. Hát hết 36 giọng này cũng là lúc trời vừa sáng, dân làng dọn cơn để khách ăn và chuẩn bị ra về. Tiễn khách ra về hai bên cùng hát giọng ví tiễn chân, các câu ví lúc này được thốt lên từ đáy lòng của mỗi người sau một cuộc chuyện trò chứa chan tình cảm. Vậy nên, lời ca ứng tác đầy cảm xúc, đầy sáng tạo nghệ thuật, vừa bay bổng vừa thắm đượm tình người, đến nay vẫn còn nguyên vẹn từng câu từng chữ:
Anh về có chốn thở than
Em về ngồi tựa phòng loan một mìmh
Anh về tự bóng sao mai
Đêm khuya em biết lấy ai bạn cùng
(Theo Hoàng Trung Định)
HELLBOY
Tục hát cửa đình ở Hà Nội xưa
Tục hát cửa đình ở Hà Nội xưa
Cho đến nay chưa biết chắc tục hát cửa đình (còn gọi là hát ca trù, ả đào) ra đời từ bao giờ. Có nhà nghiên cứu cho rằng ca trù là nhạc dân gian của Hà Nội. Sách Đại lược sử ký toàn thư chép rằng: năm 1025 vua Lý Thái Tổ thấy có cô gái là Đào Thị giỏi nghề hát được nhiều người mến mộ nên tất cả các nữ ca sĩ đều cho gọi là Đào nương và dân gian gọi là ả đào. Có thể ca trù đã ra đời từ trước thời Lý, dân gian gọi là hát cửa đình sau đó phát triển đi vào cung đình phục vụ vua quan.
Ở làng Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm còn nhà thờ Ca Công có tấm bia đá dựng thời Tự Đức thờ một nữ danh ca họ Vũ, người nàng xinh đẹp, hát hay được tuyển vào cung vua. Khi về già, bà về làng dạy con cháu dòng họ Vũ hát ca trù. Bà được vua cho cắm ruộng để hưởng lộc. Đến khi bà mất, dòng họ lập đền thờ, vua có sắc phong "Nam quốc danh ca Đào thị mẫu". Từ đó dòng họ Vũ ở Phú Mỹ lập giáo phường chuyên đi phục vụ trong các ngày hội làng ở huyện Từ Liêm.
Ca trù được phát triển mạnh vào thời Lê sơ, hiện nay có hai giáo phường nổi tiếng đều có đền thờ tổ, đó là giáo phường Lỗ Khê huyện Đông Anh và giáo phường Phú Đô huyện Từ Liêm thờ Đinh Dự hiệu là Thanh Sà Đại vương và vợ là Mãn Đường Hoa công chúa. ở đình làng Phú Đô hiện còn cuốn ngọc phả bằng chữ Hán do ông Đào Cử đỗ Tam giáp tiến sĩ năm Quang Thuận thứ 7 (1466) làm quan tới chức Hộ bộ thượng thư biên soạn. Nội dung: Đinh Dự là con trai quan Khai quốc công thần là Đinh Lễ và bà vợ họ Trần quê ở làng Lỗ Khê. ở Phú Đô còn thờ hai bà chúa có công chấn chỉnh giáo phường đó là Nguyễn Thị Phương và Nguyễn Thị An con gái ông Nguyễn Duy Tình người làng. Hai cô Phương và An vốn xinh đẹp hát hay. Một hôm cô Phương vào vùng Thập tam trại trong thành Thăng Long cắt cỏ, vừa cắt cô vừa hát, tình cờ gặp một vị hoàng thân trong triều Lê đi tới làm quen và kết làm vợ chồng. Sau đó vị hoàng thân lên ngôi là vua Lê Anh Tông (1557-1573) bà Phương được phong là Hoàng thái hậu, bà em cũng được đưa vào cung và phong làm An tuyên phi. Về sau hai người trở về làng dạy trai gái trong dòng họ Nguyễn Hát ca trù. Hàng năm đến ngày 3/3 giỗ tổ, các giáo phường trong huyện Từ Liêm vẫn đến đền Ca Công ở Phú Đô tế lễ tổ nghề.
Ngoài các giáo phường nổi tiếng đã kể trên, nay thông qua một số di vật cổ cho thấy còn có thêm một số giáo phường khác. ở đình làng Văn Trì, xã Minh Khai huyện Từ Liêm còn tấm bia vuông bốn mặt dựng năm Chính Hoà thứ 21 (1701) cho biết ngôi đình của làng vốn là trụ sở của giáo phường huyện Từ Liêm, sau tổ chức này giải tán nên những người đại diện của giáo phường Phương Canh và Thượng ốc đứng ra bán cho dân làng Văn Trì, như vậy đã có thời tổ chức giáo phường quy mô toàn huyện.
Về các bài hát cửa đình, có thể xưa kia có nhiều tác giả sáng tác các bài bằng chữ Hán hoặc đào hát tự đặt lời nên không thấy ghi lại. Người được coi sáng tác các bài hát cửa đình bằng quốc âm đầu tiên là Lê Đức Mao sinh năm 1462 ở làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm.
Tương truyền hồi còn trẻ ông là người thông minh hiếu học, hay làm thơ. Nhân thấy hàng năm dân làng mở hội mừng xuân có mời các giáo phường về hát cửa đình. Lê Đức Mao nẩy ra ý định đặt bài hát có nội dung thiết thực để cho các cô đào hát mừng dân làng. Bài hát đầu tiên do Lê Đức Mao sáng tác theo thể lục bát và song thất lục bát nhan đề "Bát giáp thưởng đào văn" - ca ngợi quê hương giàu đẹp trong khung cảnh thanh bình.
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê... là những người sáng tác nhiều ca trù nhất trong thời Nguyễn. Sau này có thêm nhiều tác giả sáng tác các bài ca trù có nội dung yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Đại,...
(Theo Thạch Thảo)
HELLBOY
Khóc than càng nhiều thì cô dâu càng hạnh phúc
Khóc than càng nhiều thì cô dâu càng hạnh phúc
Chuyện cô dâu khóc khi từ biệt mẹ cha về nhà chồng thì chẳng có gì lạ, nhưng khóc lóc thảm thiết đến ai oán nỉ non thì chỉ có ở phong tục người Sán Dìu. Ây là khi cô dâu ra lễ tổ tiên, rồi đi lạy ông bà, cha mẹ, chú bác để về nhà chồng... Cô dâu khóc và hết thảy người thân của cô đều khóc. Việc than khóc đối với cô dâu không đơn giản chỉ rơi lệ hoặc đỏ hoe con mắt hay khóc thế nào cũng được, mà phải khóc sao cho thật mùi mẫn. Vì thế cô dâu phải tập luyện trước cả tháng trời, vào lúc chập tối và gà gáy. Người Sán Dìu quan niệm: Tiếng khóc càng nỉ non ai oán bao nhiêu thì chứng tỏ cô gái đó càng có hiếu với cha mẹ bấy nhiêu và cuộc sống của vợ chồng cô sau này càng gặp nhiều may mắn. Cô nào quá vụng về không biết khóc than thì cô, dì, các bác phải dạy cho cẩn thận. Một điều đặc biệt là khi nhà trai đến đón dâu, cô dâu chỉ bước ra khỏi ngưỡng cửa, sau đó anh trai hay người anh họ sẽ cõng cô đi ba bước, ra khỏi giọt gianh nhà gái thì đặt xuống. Trên đầu cô dâu phủ hai tấm khăn dài màu đỏ. Cô dâu không được đi nhanh, không tỏ vẻ hớn hở, nói cười mà đi từng bước chậm chạp, nặng nề tỏ lòng quyến luyến cha mẹ, nhớ thương anh chị em trong nhà. Đến gần nhà chồng mà trời chưa tối, cả đoàn đưa dâu phải dừng lại ở cổng làng, chờ xẩm tối, nhà trai mang trầu nước ra mời mới được vào nhà. Cô dâu cứ việc đi thẳng vào buồng tân hôn. Khi bước tới cửa buồng, anh chồng không được quên một việc quan trọng là nhanh chóng cướp lấy một cái khăn ở trên đầu cô dâu, trước khi cô bước vào buồng. Nếu không cướp được thì bạn bè của chú rể phải hát đối đáp với bạn bè của cô dâu, nếu đối chuẩn thì chú rể mới được nhận khăn. Sau đó, cô dâu được một bà cô (bà cô này gia đình đề huề, vợ chồng song toàn có nhiều con) trải chiếu mời ngồi.
Đám cưới của người Sán Dìu xưa có nhiều nghi lễ và có một nghi lễ rất quan trọng, đó là lễ "Khai hoa tửu" lúc đến đón dâu. Lễ vật là hai quả trứng luộc, hai sợi chỉ đỏ xuyên qua quả trứng và buộc vào mỗi bên quả trứng hai đồng xu. Sau khi đã cúng tổ tiên, đại diện nhà gái đứng lên nói với mọi người bằng những lời lẽ rất văn hoa và ra câu đối để quan lang chính (bà mối hoặc ông mối) đối lại. Sau đó, hai quả trứng được bóc vỏ, lấy lòng đỏ hoà vào rượu mời những người dự cùng uống, theo thứ tự, người nhiều tuổi uống trước, ít tuổi uống sau. Ai nấy đều hân hoan chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc.
Ngày nay, các nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Sán Dìu đã mai một đi nhiều, thế nhưng người Sán Dìu ở Sơn Dương-Tuyên Quang vẫn còn giữ tục lệ, khi cô dâu về đến nhà chồng, thì cô em gái chú rể (hoặc em họ) bê vào chậu nước để chị dâu rửa chân. Rửa xong, chị dâu thả xuống chậu nước mấy đồng bạc lẻ hàm ý cám ơn cô em. Phải chăng đây là khởi đầu cho một mối quan hệ tốt đẹp giữa chị dâu và em chồng?
(Theo Minh Huệ)
HELLBOY
Lễ cưới của các dân tộc ở Tây Nguyên
Lễ cưới của các dân tộc ở Tây Nguyên
Nam nữ thanh niên được tự do tìm hiểu. Nơi gặp gỡ, tỏ tình có thể là trong rừng, trên rẫy, ở nhà rông, vào những ngày cưới, hội lễ của làng. Các thiếu nữ người Giẻ Triêng đến tuổi lấy chồng được cha mẹ làm cho những cái lều chung quanh làng làm nơi hẹn hò. Khi ưng ý người bạn trai nào đó, nàng mời chàng tới ở cùng. Sau năm đêm tâm sự, nếu chàng trai chưa thổ lộ tình cảm, thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu. Thông thường sau khi hai bên trai gái đồng ý, cha mẹ nhờ người mối đi hỏi. Qua ông mối, các thiếu nữ Gia Rai và Ê Đê nhắn ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, hôn lễ sẽ được tiến hành. Trong lễ hỏi của người M'nông, người mối đem hai ống lồ ô trong đựng măng chua và da trâu thái nhỏ sang nhà gái cầu hôn. Nếu nhà gái đồng ý thì nhận hai ống lồ ô làm vật giao ước. Nếu việc cầu hôn bị từ chối, ông mối mang bát gạo do nhà gái đưa cho để báo lại việc từ hôn. Sau lễ ăn hỏi, người Ê Đê thường có tục ở "gửi dâu", họ hàng nhà gái dẫn cô gái đến nhà chồng chưa cưới ở như con trong gia đình. Thời gian "gửi dâu" càng lâu thì sính lễ nhà gái phải nộp cho nhà trai sẽ giảm đi.
Đám cưới thường được tổ chức vào cuối năm, lúc rỗi rãi và no đủ. Lễ cưới của người M'nông mở đầu bằng việc nhà gái mang biếu họ hàng nhà trai mỗi người một bát gạo đầy. Mỗi bát gạo này sẽ tương ứng với một cái ché mà nhà trai phải tặng lại nhà gái. Hôm cưới, hai người làm chứng đại diện cho hai họ xúc cho cặp tân hôn mỗi người ba miếng cơm, và ngược lại, đôi tân hôn cũng xúc trả lại cho hai người làm chứng ăn. Sau đó đôi vợ chồng mới uống chung rượu (trước tiên) để mở đầu cho bữa tiệc kéo dài vài ba ngày. Sau khi cưới 7 ngày, đôi tân hôn tránh gặp người lạ và không ra khỏi nhà.
Lễ đính ước của người Gia Rai được tổ chức qua bữa tiệc rượu cần ở nhà gái. Hôm đó, đôi trai gái cùng vít cần rượu uống chung. Tiếp theo là "đoán số phận qua giấc mơ lành, dữ".
Trong đêm tân hôn, nếu đôi vợ chồng thấy giấc mơ xấu thì lập tức phải đến nhờ ông mối cầu thần linh cho chung sống trong một năm để hoãn mộng. Đúng vào hẹn đó, vợ chồng vẫn gặp mộng xấu có thể phải ly dị.
Trong đám cưới của người Cà Dong có tổ chức lễ ăn thề không bỏ nhau của đôi vợ chồng. Hai vợ chồng trao cho nhau 9 miếng trầu, 9 miếng cau, ý chúc nhau sức khỏe và sum họp mãi mãi. Tiếp đó, chồng trao cho vợ chuỗi cườm, và ngược lại vợ trao cho chồng vòng đồng. Cặp vợ chồng trẻ còn lấy cơm nắm bôi lên đầu nhau, ý muốn hồn hai người nhập vào nhau; và bôi máu gà lên trán, ý muốn xua đuổi hồn dữ ra khỏi thể xác.
Ngày cưới của người Mạ người ta phủ một cái chăn lớn thêu đẹp lên đôi trai gái không mặc quần áo và cụng đầu hai người vào nhau bẩy lần. Sau một lúc tượng trưng cho thời gian nửa đêm hoa chúc hai người thức dậy, lấy một bát thịt gà, rượu và vòng tay. Chồng đeo vòng cho vợ và ngược lại. Vợ chồng uống chung rượu và cũng ăn thịt gà, sau một thời gian, nhà gái mang củi sang nhà trai để "làm lễ củi". Số lượng gùi củi tương ứng với số khăn mà nhà gái tặng họ hàng nhà trai.
Người Giẻ Triêng quan niệm lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì đôi vợ chồng trẻ càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, người ta làm lễ hợp cẩn đôi trai gái trao nắm cơm với ít gan gà cho nhau ăn, tiếp đó uống rượu chung. Có nơi, trong buổi lễ này người ta đánh chiêng tập hợp dân làng, bắt đôi nam nữ nằm trên chõng tre để giữa nhà, cùng đắp chung tấm chăn. Lại có nơi người chủ trì buổi lễ dứt mấy sợi tóc của đôi trai gái bỏ lẫn lên đầu nhau ngụ ý hợp hai hồn của họ làm một.
Trong đám cưới của người Ê Đê có tục "té nước" vào chú rể như tục "mở cửa nhà" ở người Thái. Khi rước rể về nhà vợ, bạn bè của chàng rể chạy trước đón đường té nước vào người cô dâu chú rể, mỗi lần như vậy nhà gái phải nộp cho họ một số lễ vật. Người Ê Đê cho rằng đám cưới nào có nhiều người chặn đường té nước thì đôi trai gái sau này cuộc sống sẽ hạnh phúc và khi chết sẽ có nhiều người thương kẻ khóc.
Sau ngày cưới, chồng ở nhà vợ (Gia Rai, M'nông, Ê Đê, Cơ Ho), hoặc ở nhà chồng (Mạ), hoặc luân phiên ở nhà chồng từ ba đến năm năm rồi lại chuyển ở nhà vợ bằng thời gian ấy (Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng).
(Theo Đăng Khánh)
HELLBOY
Lễ cưới của người Bru Vân Kiều
Lễ cưới của người Bru Vân Kiều
Bru Vân Kiều là một tộc người sinh sống ở ba huyện Vĩnh Linh, Đác Rông, Hướng Hóa (tây Quảng Trị) và huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế). Với số dân khoảng 53 nghìn nhân khẩu, người Bru Vân Kiều nổi tiếng về đức chung thủy.
Mùa xuân đến, các nam thanh nữ tú của dân tộc Bru Vân Kiều tỏa về các bản để cùng nhau đàn hát quên đi bao nhọc nhằn. Ngồi bên bếp lửa hồng của nhà sàn, họ đàn hát giao duyên với cây đàn ta lư (A chung) làm từ cây bương và chiếc đàn môi làm từ lá đồng nhỏ và mỏng (n'coái). Bên trai tài, bên gái sắc quây quần bên bếp lửa hồng đang rực cháy.
Đàn hát ở nhà xong họ lại từng tốp, từng tốp đến bên bờ suối để cùng ngồi chung trên một tảng đá đã chọn, và ngồi cách xa nhau chừng vài mét. Lúc này chàng trai lại rút ra chiếc (n'coái) đưa lên gảy, tiếng đàn giúp họ xích lại gần nhau hơn. Ngày tiếp ngày và tháng cũng lại nối tháng, đến độ chín muồi là chàng trai trao cho cô gái chiếc vòng bạc (chiếc vòng cầu hôn). Còn phía cô gái, đã nhận lễ vật đó của chàng trai thì mang về thưa lại với bố mẹ, khi lễ vật đó không hoàn lại cho chàng trai có nghĩa là bên nội tộc nhà gái đã ưng thuận. Lúc này chàng trai phải đến gặp cô gái để cùng bàn bạc, chọn ngày lành tháng tốt để đón dâu về. Lễ đón dâu của chàng trai thật giản đơn, đồ dẫn cưới quan trọng nhất là chiếc nồi đồng vừa phải (A đêch lu hai) và thanh gươm cong bọc bao bạc (đao lu). Hai thứ này do chàng trai tự tay mang từ nhà mình đến nhà cô gái, tuyệt đối không được nhờ ai mang hộ e bị xui (tăm). Khi nhà trai đến nhà gái, không được phép lên nhà ngay, mà chỉ tạm nghỉ ở đầu hồi nhà cô gái. Lúc này, bên nhà cô gái mang xuống tấm chiếu mới để trải và chè thuốc mời đoàn khách nhà trai. Khi làm xong thủ tục ban đầu mới mời khách lên trên nhà và ngồi trên một chiếc chiếu hoa mới tinh trải giữa gian nhà. Bên nhà gái mang ra mấy chai rượu, hoặc ché rượu cần. Hai họ cùng nhau uống trong lúc nhà gái dâng lên bàn thờ tổ một con gà đã luộc chín xin phép giàng cho con gái đi lấy chồng.
Khi tiếng gà đã gáy dồn, chim chóc trên rừng đã thức giấc là bên họ nhà gái rộn rịp chuẩn bị cơm nước để đãi khách và gói giém các tư trang mới nhất cho cô dâu đem về nhà chồng. Lúc này, cô dâu trong bộ váy đủ hoa văn (xuân tu cọ) và chiếc áo mầu tím than (A Dooh xu he) được điểm hai hàng bạc xòe từ cổ áo trở xuống. Cô dâu xin phép ông bà, cha mẹ và nội tộc để theo chân chàng rể về nhà chồng. Chờ giờ lành, cô dâu bước xuống cầu thang, theo sau là dòng người đủ già trẻ, gái trai (Pớ ra pun) tiễn cô dâu về nhà chồng, dòng người theo phong tục Bru Vân Kiều, đám nhà trai dẫn đường đi trước, cách nhà gái khoảng 10-15m, để báo cho bên nhà chuẩn bị đón dâu về. Già bản là người đứng đầu thay mặt nhà trai để tiếp đón họ nhà gái và mọi thủ tục khác nữa.
Khi đoàn Pớ ra pun đến chân cầu thang, họ nhà trai niềm nở mời chào và mời vào gian nhà giữa (đông târ) - đây là ngôi nhà luôn để hội họp bàn việc lớn của dòng họ. Khi đoàn nhà gái vào xong, nhà trai dâng lên bàn thờ tổ một con gà trống đã luộc chín, báo cáo tổ tiên đã đón dâu về. Lúc này, bên nhà trai mang ra mấy chai rượu trắng, hai bên vừa uống rượu vừa chuyện trò chung quanh hạnh phúc trăm năm của đôi lứa. Sau đó, nhà trai dâng lên bàn thờ tổ một con gà nữa để cúng (pai a mút) - cô dâu được phép nhập vào dòng họ. Hai già bản mời chàng rể và cô dâu ra mắt hai dòng họ để căn dặn và khuyên bảo điều hay lẽ phải cùng nhau chung sống cho đến tóc bạc răng long, chung lưng đấu cật xây tổ ấm gia đình. Cô dâu chú rể tay nắm tay và đầu cộc đầu với nhau - hình ảnh này là nghi thức thề thốt trước hai dòng họ. Bên nhà trai lại mang ra một ché rượu cần mời nhà gái cùng uống, hai bên vừa uống vừa (oát), tới trận trưa mai. Khi mặt trời đã đứng bóng là lúc đôi bên phải chia tay nhau tiễn đưa họ nhà gái ra về.
(Theo Hồ Côn)
HELLBOY
Lễ Lập tĩnh của người Dao Tiền
Lễ Lập tĩnh của người Dao Tiền
Xóm Mít - xã Tu Lý, hyện Đà Bắc - Hoà Bình là một bản của người Dao Tiền hạ sơn hơn chục năm nay. Từ đường quốc lộ vào không xa lắm. Nhiều nhà có tivi, cát-xét, thế nhưng có một lễ tục từ xa xưa vẫn hiện hữu trong mỗi gia đình, dưới mỗi nếp nhà, đó là Lễ Lập tĩnh.
Lễ Lập tĩnh hay còn gọi là Lễ đặt tên, chỉ dành cho con trai khi 10-12 tuổi. Anh Bàn Văn Lâm - Trưởng thôn Xóm Mít, giải thích: Mỗi con trai là một nhà riêng, một giường thờ riêng, nối dõi cho tổ tiên thì mới đặt tên, còn con gái sau này đi lấy chồng sẽ theo dòng họ khác.
Như vậy, người đàn ông dân tộc Dao, ai cũng có hai cái tên, một tên thường gọi và một tên được đặt trong lễ Lập tĩnh chỉ để dùng trong những dịp cúng lễ, trình báo tổ tiên, gọi là bí danh, có nơi gọi nôm na là "tên âm". Thế nhưng, đây lại là cái tên có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đời người đàn ông Dao Tiền. Nếu anh không làm lễ Lập tĩnh, không có tên cúng cơm thì cũng đồng nghĩa với việc anh là người kém cỏi, chưa đủ tư cách làm người lớn, không có vai trò vị trí trong dòng họ, trong cộng đồng theo quan niệm từ bao đời truyền lại. Và quan trọng hơn theo người Dao, khi chết đi sẽ không về được với tổ tiên. Còn khi đã làm lễ đặt tên, ngoài mọi quyền lợi được hưởng, anh ta còn được mời đi làm thầy trong các lễ Lập tĩnh của con cháu bên họ ngoại.
Trước kia, nhiều người quá nghèo, khi còn sống không có tiền làm lễ Lập tĩnh cho con. Khi họ qua đời, người con ấy phải sắm lễ Lập tĩnh tự đặt tên cho mình. Và không ít người Dao Tiền khi bước vào tuổi cổ lai hy vẫn không có tên vì trong đời họ chưa bao giờ làm lễ Lập tĩnh. Thế nên, mới có chuyện có những cụ ông 70 - 80 tuổi, lứa tuổi có thể trở thành già làng, nhưng do chưa làm lễ đặt tên, họ bị xếp vào mâm dưới, ngồi ăn cùng đám con nít. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, Lễ đặt tên của người Dao Tiền thực chất là lễ công nhận một thành viên chính thức của dòng họ đã đến tuổi trưởng thành, có quyền và mọi nghĩa vụ trong dòng họ. Lễ đặt tên còn là sự trình báo cho tổ tiên biết: một thành viên của dòng họ nhập vào tổ tiên, có nghĩa vụ nối dõi và làm tròn phận sự của mình...
Ngày làm Lễ Lập tĩnh là ngày vui của gia đình, dòng họ và cũng là ngày vui của cả bản làng. Nghi lễ gồm có gà, rượu, gạo và bắt buộc phải có 3 con lợn. Hai ông thầy mo có uy tín được mời đến cúng suốt hai ngày hai đêm. Đúng 12 giờ đêm đầu tiên của lễ, đứa bé sẽ phải cùng bố đẻ mình ăn hết 1 con gà. Cái tên được đặt vào lúc một giờ sáng. Người ta vừa hát vừa nhảy múa, gọi là hát chào chèo. Điệu hát chào chèo không được hát bất cứ ở đâu, làm đám Lập tĩnh mới được hát. Đó là điệu múa hát mời tổ tiên về chứng giám.
Có thể nói, lễ Lập tĩnh của đồng bào Dao Tiền còn tồn tại đến ngày nay đã góp phần lưu giữ nhiều loại hình văn hoá dân gian của dân tộc Dao. Tuy nhiên, để làm một cái lễ Lập tĩnh, người Dao Tiền phải có ít nhất 1 tạ gạo, 100 lít rượu, 50 con gà và 3 con lợn từ 50 đến 80 kg/con, tương đương khoảng 3 triệu đồng. Nay, thực hiện nếp sống mới, lễ Lập tĩnh có phần giản tiện hơn. Nếu muốn tham dự vào lễ Lập tĩnh của đồng bào Dao Tiền, bạn hãy đến các bản làng Dao khoảng tháng 11, 12 hoặc vào mùa xuân.
(Theo Đặng Minh Huệ)
HELLBOY
Lời dặn cô dâu, chú rể trước ngày cưới của người Mông
Lời dặn cô dâu, chú rể trước ngày cưới của người Mông
Dân tộc Mông rất nền nếp, khắt khe trong việc hỏi cưới, dựng vợ gả chồng. Ngày xưa, con trai phải qua tuổi 25 mới được phép cưới vợ, còn con gái sớm cũng phải qua tuổi 20. Muốn lập gia đình, người con trai phải biết làm ăn, ngoài chuyện nương rẫy còn phải biết đan gùi, đan nia, đan rổ... người con gái phải rành dệt khố, kéo chỉ, dệt váy... từ lúc tìm hiểu yêu đương đến lúc thành thân, người Mông phải tiến hành nhiều nghi lễ khác nhau. Lễ cưới chính thức thường diễn ra sau 1-3 năm, kể từ khi làm lễ dạm hỏi. Trong lễ cưới, hai bên gia đình chọn ông mai là một già làng có uy tín làm chủ lễ, tiến hành các lễ nghi và thay mặt gia đình có lời giáo dục cô dâu chú rể về ăn ở, cách sống, cư xử sau khi đã nên vợ, nên chồng.
Cô dâu chú rể ngồi bên nhau, vừa uống chén rượu cưới vừa để tâm lắng nghe những lời dặn dò, khuyên răn của ông mai. Ông ân cần đọc những câu thơ chứa đựng nội dung giáo dục sâu sắc, bày tỏ tâm tình với đôi vợ chồng trẻ, mọi người dự lễ vừa nghe vừa góp ý thêm. Lời giáo dục ấy đề cập nhiều vấn đề, nêu lên ý thức xây dựng, giữ gìn hạnh phúc gia đình, trong quan hệ gia đình phải thuận vợ, thuận chồng, những hành vi sau đây là tối kỵ, luôn bị phê phán, xử phạt: vợ chồng bất hoà, cãi cọ nhau, xé chiếu, xé chăn, làm rách quần áo, nhất là đánh nhau gây thương tích. Dù có tức giận đến mấy cũng không được cãi nhau trong bữa cơm, hai vợ chồng trót có xô xát thì cấm không được "khóc dai", không được nguyền rủa nhau, không được thách đố nhau, nhất là không được chửi rủa, xúc phạm đến cha mẹ, họ hàng hai bên; không được tự ý bỏ về nhà cha mẹ đẻ hoặc sang nhà người khác nói xấu nhau. Nếu có chuyện gì mâu thuẫn, hai vợ chồng phải thưa với cha mẹ hoặc báo với chủ làng để phân xử, giải quyết. Nếu việc bất hoà giữa hai vợ chồng không dàn xếp được thì có quyền ly thân, nếu không thể làm lành được thì trong thời gian 3 năm, người chồng mới được phép quay về nhà bố mẹ đẻ (vì trong hôn nhân người Mông, con trai lấy vợ phải ở rể).
Lời dạy bảo quan trọng nhất là đôi vợ chồng trẻ phải sống chung thuỷ, không được quan hệ ngoại tình. Trong ăn ở phải tuân thủ theo tục lệ của hai gia đình, mọi việc phức tạp phải hỏi ý kiến của người lớn tuổi và các già làng, ai tự tiện làm trái với những tục lệ gia đình đều phải chịu phạt theo phong tục. Vợ chồng ăn ở phải biết tôn trọng nhau, đi đâu, làm việc gì cũng phải trao đổi cho nhau biết, không được lén lút, bàn bạc làm ăn mua bán phải có sự nhất trí của vợ chồng, con dâu, con rể phải tôn trọng và giữ uy tín cho hai gia đình, không được làm những điều phi pháp trái với đạo lý, phong tục, ảnh hưởng đến hai gia đình.
Vấn đề con cái cũng được già làng nhắc nhở trước. Vợ chồng sinh con đẻ cái phải nuôi dưỡng chăm sóc tốt, không được chửi mắng, đánh đập chúng, cha mẹ không được cãi vã to tiếng với nhau vì bức xúc chuyện nuôi con gặp khó khăn. Khi con cái ốm đau phải thưa với cha mẹ hoặc hai bên gia đình trong nhà để bàn bạc tìm cách thuốc thang chữa trị, có cãi nhau, giận hờn đến mấy cũng không được chửi vợ chồng hoặc con mình là "ma lai" vì đồng bào rất sợ bị nghi là ma lai.
Việc giáo dục đôi vợ chồng trẻ là một nghi lễ bắt buộc trong một lễ cưới chính thức của vợ chồng dân tộc Mông. Đây là những lời dạy bảo nhẹ nhàng, thâm thuý của những người có trách nhiệm đối với con cháu khi bước vào cuộc sống gia đình, nó có ý nghĩa như phổ biến luật tục về hôn nhân, gia đình và những thành viên trong cộng đồng phải có trách nhiệm thực hiện. Đi kèm với lời khuyên răn nói trên là những lời nhắc nhở, răn đe, nếu ai vi phạm sẽ bị hình phạt tuỳ theo mức độ. Bản thân cha mẹ và các già làng cũng không được vi phạm những điều gì mà mình đã từng khuyên răn con cháu không nên làm.
(Theo Nguyễn Quốc Đằng)
HELLBOY
Những lễ tục thi dân gian
Những lễ tục thi dân gian
Thi cỗ
Vào đêm hôm rã đám hội làng, làng Thị Cầu (Võ Giàng, Hà Bắc) có tổ chức cuộc thi cỗ. Làng có bốn giáp, con trai các giáp từ 18 đến 20 tuổi được cử đi rước thần, và chính họ được phép dự cuộc thi cỗ.
Thi cỗ là của trai tân, nhưng làm cỗ lại là công việc của các thanh nữ. Cô gái nào có anh hoặc em trai dự thi cỗ, đều phải lo tới mâm cỗ thi. Các bà mẹ trong làng thường kén chọn con dâu qua các mâm cỗ này. Hội đồng chấm cỗ do dân làng cử ra. Khi chấm các vị chú ý tới sự tinh khiết, sạch sẽ và sáng tạo các món ăn. Các thiếu nữ cần có sáng kiến chế biến những thổ sản trong vùng tạo nên những món ăn hấp dẫn. Ngoài ra còn phải chú ý tới cách trình bày mâm cỗ cho mỹ thuật.
Cuộc chấm cỗ bắt đầu sau lễ cúng thần buổi tối. Các chàng trai gánh cỗ ra từ lúc trời còn sớm, cỗ giáp nào xếp riêng ra giáp đó. Cỗ chấm riêng cho từng giáp và cũng xếp hàng cho từng giáp đó. Khi Hội đồng đi chấm cỗ, những chàng trai thi cỗ cũng đi theo. Sau khi xem xét hết các mâm cỗ của bốn giáp, Hội đồng mới họp bàn và tuyên bố giải nhất của mỗi giáp.
Cuộc thi cỗ đối với dân làng đôi khi cũng kéo theo sự tốn kém, nên những gia đình phong lưu nhân dịp này khoe giàu với dân làng qua những mâm cỗ sang, thì đối với đa số gia đình, đây chỉ là một dịp để các con em cố gắng trong việc bếp núc, tự tạo lấy qua những sáng kiến riêng. Cách bày biện, trang trí mâm cỗ cũng đã chứng tỏ sự khéo léo của các thiếu nữ trong làng.
Thi cỗ và thi đèn
Trong tết Trung thu, người ta bày cỗ có bánh trái hình mặt trăng, trưng đèn kết hoa, có nhảy múa và ca hát, nhiều nơi có những cuộc rước đèn múa lân tưng bừng náo nhiệt. Lại có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh trung thu. Đây là dịp để khuyến khích các bà, các cô trong việc nữ công. Ngoài ra còn có treo đèn kết hoa để mâm cỗ thêm màu sắc, bánh mứt thêm hoa mỹ.
Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Đèn làm hình mặt trăng, làm hình các linh vật trên cung trăng. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em, trong mâm cỗ thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi trang trọng nhất, chung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, đến khuya các em cùng nhau phá cỗ.
Thi dệt vải
Trong dịp hội xuân hàng năm, ở làng Xuân ái (Võ Giàng, Hà Bắc) có tục thi dệt vải.
Dân làng này sống về nghề nông, nhưng trong thời gian sau vụ làm mùa, chờ đợi vụ gặt, những gia đình có con lớn đều có thêm nghề dệt vải. Ngày hội, cuộc thi dệt vải thật vui.
Các cô gái làng, mỗi cô một khung cửi, sợi do làng cung cấp. Hiệu lệnh ban ra, thoăn thoắt những con thoi chạy đi, chạy lại vừa nhanh, vừa đều. Các cô dệt nhanh, nhưng vải phải đều sợi, không được chỗ thưa, chỗ dầy. Cuộc thi kéo dài khoảng nửa giờ thì ban giám khảo ra lệnh ngừng thoi, để họ xác định hơn kém.
Thi diều sáo
Trong hội đền Hùng ở thôn Cổ Tích, Lâm Thao, Vĩnh Phú, có cuộc thi diều sáo. Đây là những chiếc diều thật lớn, bề ngang có khi tới sải rưỡi tay và có mang một hoặc nhiều chiếc sáo.
Khung diều làm bằng cật tre, giấy phất vào diều bằng gậy. Diều thả bằng dây mây hoặc dây thép nhỏ. Sáo diều có 3 loại chính phân theo tiếng kêu: sáo cồng, tiếng kêu vang như tiếng cồng thu quân; sáo đẩu, tiếng kêu rên rỉ như lời than; sáo còi, tiếng kêu the thé như tiếng còi.
Thi diều sáo, Ban giám khảo có thể chấm theo tiếng sáo, nhưng trước tiên bao giờ cũng phải xem diều có lên bổng, dây diều căng hay võng, nhất là lúc ở trên không diều có lắc lư đảo ngang đảo dọc hay không.
Thi dưa hấu
Làng Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú, có tục thi dưa hấu. Vào khoảng thượng tuần tháng Ba âm lịch hàng năm, hội đồng kỳ mục họp với các bô lão để quyết định ngày hái dưa, gọi là ngày xuống đồng, thường là ngày 25 tháng Ba.
Từ 5 giờ sáng ngày xuống đồng, trống, mõ và tù và báo hiệu khắp làng. Nghe báo hiệu, các gia đình mới ra ruộng hái dưa. Nếu ai tự hái dưa trước sẽ bị phạt rất nặng, nếu là chủ ruộng, làng phạt tiền, còn nếu là kẻ trộm, làng sẽ cùm ngay trước sân đình. Dưa hái xong, các chủ điền đích thân chọn những quả dưa già, to đen ra trình làng. Tại đây Hội đồng giám khảo sẽ xét dưa theo các tiêu chuẩn: giống tốt, đẹp mã, già, đầy đặn, bổ ra đỏ tươi hoặc vàng lại nhiều cát. Có hai đợt chấm thi dưa: đợt một, chọn những quả dưa đẹp, dưa già, đầy đặn; đợt hai, đưa dưa lên cân. Dưa được xếp hạng nhất và hạng hai.
Dưa hạng nhất được rửa sạch cúng thần ở đình, tên chủ dưa được loan truyền cho dân làng rõ. Dân làng tin rằng, chủ điền nào có dưa được chọn cúng thần, ngoài vinh dự ra, cả năm đó sẽ làm ăn thịnh đạt.
Thi đồ xôi và thổi cơm
Đây là một trong những môn thi để tuyển nữ quan ở thôn Hạc Đỉnh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Cuộc thi bắt đầu từ sáng tinh mơ ngày giáp tết. Hàng năm dân làng phải tuyển 48 (trong số hàng trăm) trinh nữ cho hội đền Mã Cương.
Sau tiếng trống lệnh, mỗi nữ thí sinh xuống một thuyền thúng trên đầm Giang Đình, mang theo kiềng, nồi chõ, gạo nếp, gạo tẻ cùng rơm ướt và bã mía tươi. Các cô chèo thuyền ra giữa đầm, chuẩn bị bếp, vo gạo để chờ lệnh bắt đầu cuộc thi. Sau tiếng trống lệnh mới được nhóm lửa, các cô thổi cơm hay đồ xôi trước tuỳ ý, miễn là xong sớm để chèo thuyền vào nộp cơm và xôi cho Ban giám khảo. Các cô xong trước nhưng cơm, xôi thì phải ngon, dẻo thì mới đạt điểm cao.
Khó khăn đối với các cô là ở chỗ nhóm bếp thổi lửa, phải giữ sao cho thuyền khỏi chòng chành, bếp lửa hướng ra phía gió dễ tắt. Các bà mẹ đã dạy các cô cách thức nhóm lửa bằng mồi ướt, thổi lửa mỗi khi bếp tắt, cách chọn hướng kê bếp theo chiều gió, giữ lửa cháy điều hoà, cách ước lượng thời gian. Các cô đốt những nén hương và trông theo những đoạn hương cháy để biết nồi cơm, chõ xôi đã vừa chín chưa.
Nếu gặp mưa phùn gió bấc, các cô sẽ trải qua một cuộc thi vất vả; còn nếu như mưa nặng hạt thì các cô sẽ được lên bãi Giang Đình, trổ tài dưới những mái tranh . Cuộc thi diễn ra suốt buổi sáng.
Thi khâu cắt quần áo
Ở nhiều làng xã, trong ngày hội xuân hàng năm, có cuộc thi cắt quần áo.
Mỗi thôn nữ được làng phát cho một tấm vải, rồi các cô tự cắt thành quần, áo, có khi cả quần lẫn áo, tuỳ theo số vải phát ra và lệnh của ban giám khảo. Quần áo các cô may theo một kích thước nhất định, lẽ tất nhiên các cô phải khâu tay. Trong lúc chấm thi, ban giám khảo còn chú ý đến sự đều đặn, mau thưa của mũi kim để xét vào hàng cao thấp.
Thi làm bánh
Trong việc tuyển nữ quan ở làng Hạc Đình, Hoằng Hoá, Thanh Hoá, có lệ thi làm bánh. Mỗi thí sinh phải làm vài ba thứ bánh theo sáng kiến của mình. Bánh có thể làm bằng bột gạo hoặc bột lọc và chế hoá tuỳ theo ý muốn và tài năng của các cô. Các cô lại phải đặt tên cho thứ bánh mình làm.
Thường thì công việc đặt tên này do các ông, cha đã tìm chữ đặt trước cho các con. Ví dụ bánh song phượng tề phi: hai con phượng cùng bay - chiếc bánh có thể to bằng cái mâm, bột lọc trong suốt, duy có hai con phượng hình đang bay có nhân đậu xanh làm nổi hình phượng nằm trên mâm bánh. Đại để các kiểu bánh đều mang những tên cầu kỳ, dùng các thứ hoa, các loài chim, tứ linh hoặc các điển tích để cho tên thật đẹp.
Tên đẹp mà bánh lại phải ngon mới được làng lựa chọn.
Thi làm cỗ
Trong lễ hội thôn Hạ Kì xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, Nam Hà, có tục thi làm cỗ.
Trước ngày hội, bãi trước đình được sửa san bằng phẳng làm thao trường. Trong bãi trồng một cây chuối hột cao, trên ngọn có treo một bì thóc tám. Một bên đặt một cối xay thóc, một bên đặt một cối xay gỗ có lỗ suốt luồn cây mây để kéo ra lửa. Một chuồng nhốt chim bồ câu, một chum lớn thả cá chạch. Trên bãi có vẽ những vòng tròn, đường kính khoảng 2m.
Đơn vị thi là hai giáp của hai thôn: thôn Tiền và thôn Hậu. Một giáp cử ông Thổ Công, một giáp cử Bà chúa Lốt. Thổ Công đội mũ võ, áo đại trào, đi hia (không mặc quần dài). Bà chúa Lốt chít khăn vuông mỏ quạ, áo cánh, mặc váy, ngồi trên thớt dưới cối xay cùn, tay nắm ngõng cối. Có bốn thanh niên lực lưỡng mang cờ quạt, khiêng chiêng trống, đàn sáo rước từ nhà ông Giáp chỉ ra trước bãi đình. ông Thổ Công công kênh Bà chúa Lốt lấy bì thóc ở ngọn chuối xuống, đổ thóc vào cối xay, xay thành gạo, chia cho hai đơn vị thổi cơm. Ông Thổ Công kéo co mạnh ở cây gỗ để lấy lửa, sau đó thả đôi chim bồ câu bay ra cánh đồng rồi đuổi bắt. Một số người thò tay vào chum bắt chạch đem về cho đơn vị làm cỗ.
Cỗ làm xong, cùng rước với hai nồi cơm vừa đi vừa thổi. Cách thổi như sau: Ba người mũ mãng, cân đai. Một người mang cây tre đực, uốn làm cần đeo nồi cơm đưa về phía trước, hai người cầm đuốc múa ở hai bên để nồi cơm sôi và cạn nước, sao cho đến khi đám rước ra đến sân đình là nồi cơm đã chín. Khi đặt mâm cỗ lên nhang án, là xới cơm cúng ngay. Giáp nào cỗ làm khéo, cơm thổi ngon là được giải.
Thi luộc gà
Nhân ngày hội xuân, hàng năm ở làng Chuông ( Hà Tây) có tục thi luộc gà. Luộc gà không chỉ đơn giản cho con gà vào nồi, đổ nước vào đun sôi là xong. Luộc làm sao để cho gà chín mà không mất chất béo, làm sao cho thịt gà ăn còn chất ngọt mà không sống. Các cô gái làng này được trau dồi về nghệ thuật luộc gà, nên con gà các cô luộc cũng vừa chín tới, không bị lòng đào, ăn vừa ngon với đủ chất béo của gà.
Thi nấu thịt, ăn thịt
Ở Thanh Uyên và Xuân Quang (Vĩnh Phú) vẫn còn đền thờ Cao Sơn Phúc thần và Quí Minh Đại Vương. Hàng năm ở đây đều mở lễ hội tế thần.
Trong lễ hội có một tục lạ là tổ chức cuộc thi vừa chạy vừa nấu, vừa ăn thịt. mỗi giáp trong làng cử ra một đội gồm chín người. Thịt lợn lột da, bốn người nắm bốn góc da lợn làm nồi, đổ nước vào, năm người kia cầm 5 bó đuốc thi nhau tiếp lửa cho nồi da nấu thịt. Các đội theo lệnh trống, hiệu cờ vừa chạy vừa nấu. Đội nào về đích mà nấu được thịt chín thì được bày lên bàn thờ tế thần Cao Quí.
Hội thi này nhắc nhở dân gian ngàn năm sau nhớ đến cuộc hành quân thần tốc của hai vị thánh anh linh của làng mình, giúp Tản Viên đánh giặc.
Thi ông Đô
Làng Thổ Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phú) có tục thi ông Đô (lợn). Trong phiên chợ Thổ Tang ngày 16 tháng Chạp, người ta đưa các ông Đô ra chợ để ăn một mẻ đậu phụ và bún thoả thích. Đến gần trưa tất cả các ông Đô được tập trung vào một địa điểm. ở đây, những người chăm sóc ông Đô còn mang theo những chậu đậu phụ bà bún để "các ông" tiếp tục ăn.
Một hội đồng gồm các kỳ mục bô lão trong làng chấm thi lựa chọn theo bốn tiêu chuẩn: đẹp, nặng, lớn, chân tốt. Các ông Đô phải là loại đen tuyền, tục làng không chấp nhận lợn lang, ông Đô nào dù chỉ có một chiếc lông trắng cũng bị làng loại, khi các ông Đô đã được làng lựa chọn, các ông sẽ được đưa lên cân để xem nặng nhẹ.
Những "ông" được giải sẽ được dùng để tế các vị Thành hoàng và thần Hổ.
Thi thày
Làng Trực Chính (Nam Trực, Nam Hà) thờ Từ Đạo Hạnh tại chùa làng. Hàng năm làng mở hội từ ngày 20 đến ngày 24 tháng Giêng. Trong những ngày hội có tục thi thầy rất đặc biệt.
Các thày đạo sĩ khắp nơi, nhân ngày hội chùa làng này, kéo nhau tới để dự cuộc thi Thày bắt đầu từ ngày 20 tháng Giêng. Các Thày cùng nhau ngâm vịnh những bài văn cúng, văn tế của cổ nhân. Người nào vịnh được nhiều bài hay, lạ, có nhiều ý nghĩa, mang nhiều điển tích thì được bầu trúng giải và được thưởng cỗ bánh.
Thi thổi cơm của đàn ông
Hàng năm nhân dịp hội xuân, làng Chuông (Hà Tây) có tổ chức cuộc thi thổi cơm dành cho đàn ông.
Một loạt bếp bắc trên rìa đầm. Mỗi thí sinh ngồi trên một chiếc thuyền nan ở mé bờ bên kia, trong thuyền có đủ gạo nước, củi diêm. Sau hồi trống lệnh, tất cả các thí sinh phải bơi thuyền bằng tay. Bơi thuyền nhỏ bằng tay đối với họ không khó, cái khó là ở chỗ bơi thuyền rồi tay ướt sờ tới củi, tới diêm, làm sao nhóm được bếp. Bếp bắc ở giữa trời, khi có gió rất gay. Bếp trên bờ, người dưới thuyền, vừa giữ cho lửa cháy trong bếp, lại vừa giữ cho thuyền khỏi chòng chành, đâu phải dễ. Có chàng trai mải thổi lửa, thuyền mất thăng bằng, bị lật úp. Trong trường hợp này, thổi chín được nồi cơm thật là một kỳ công.
Thi thơ
Vùng Hoa Lư, Ninh Bình, có phong cảnh nên thơ, hùng vĩ. Hàng năm, nhân ngày hội đền vua Đinh, để giữ gìn nếp xưa và khuyến khích dân chúng trên đường văn học, dân làng mở hội thi thơ, không những riêng cho dân sở tại mà còn cho tất cả những ai văn hay chữ tốt, muốn được giải và muốn lấy tiếng tăm với mọi người.
Đề thơ tuỳ ban tổ chức lựa chọn. Giải thưởng thường chỉ mấy vuông nhiễu điều, gói chè, mươi quả cau. Những người được giải hãnh diện vì thơ hơn vì giải. Hàng năm có 3 giải thưởng cho cuộc thi này, vì Ban giám khảo gồm các tay văn học nổi tiếng trong vùng. Có khi Ban tổ chức mời cả những bậc đại khoa có danh chấm giải. Ngày xưa, thường vị tuần phủ chủ tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng chấm thơ.
Những bài được giải, Ban tổ chức cho bình lên để mọi người cùng thưởng thức.
Thi thơ
Hàng năm làng Yên Đổ (Nam Hà) tổ chức cuộc thi thơ vào ngày 24 tháng Chạp, nhân phiên chợ Đồng.
Buổi sáng hôm đó, cuộc thi văn thơ đã được các bô lão trong làng tổ chức ngay tại ngôi đình cạnh chợ. Văn sĩ khắp nơi đến tụ tập ở Tưởng Đền để dự cuộc thi thơ. Các vị khoa mục làng Yên Đổ và các làng gần đó làm giám khảo. Thí sinh nào trúng giải thưỏng sẽ được hoan hô và được ban thưởng phần thưởng rất hậu. Thực là cuộc thi tao nhã và hào hứng với mục đích khuyến khích thí sinh dùi mài kinh sử, tranh khôi đoạt giáp sau này.
Sau cuộc thi, những người trúng giải được mời nếm rượu ở Tưởng Đền với các bô lão trong làng.
Thi thuyền trên sông Lô
Hàng năm vào hôm dã đám hội làng, làng Bạch Hạc (Vĩnh Phú) có cuộc thi bơi thuyền trên sông Lô.
Làng có 4 giáp, mỗi giáp có một chiếc trải (thuyền) bằng gỗ trò dài hơn 20 thước và rộng chừng thước rưỡi. Chiếc trải có năm chục bơi chèo ở hai bên. Đầu trải uốn hình đầu rồng, và đuôi trải cũng lượn khúc như đuôi rồng. Mỗi giáp phải kêu trong làng dân đinh năm chục tay chèo khoẻ mạnh, một người điều khiển đứng trên mũi trải, cầm chiếc hiệu lệnh riêng của hàng giáp, một người giữ nhịp cho các tay cầm trống đứng ở giữa trải, và một người cầm lái ngồi ở cuối.
Trải muốn bơi nhanh, cần có sự hoà nhịp của năm mươi tay. Năm mươi người này hợp sức tạo sức mạnh qua những chiếc bơi chèo để chiếc chải đi đều. Họ phải nghe nhịp trống và phải nhìn theo hiệu lệnh của người đứng mũi chịu sào. Bốn chiếc chải xuất phát ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã ba sông Lô.
Tục truyền, đây là dân đinh diễn lại tích đức Thổ Lệnh đại vương tiễn đức Tản Viên khi xưa, lúc đức Tản Viên tới thăm ngài ra về. Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng và làng sẽ mừng bánh pháo.
Thi tuyển nữ quan
Đây là một tục đặc biệt của thôn Hạc Đình, Hoằng Hoá, Thanh Hoá, tuyển lựa những trinh nữ tham dự các buổi hát lễ mừng đức Thành hoàng và lo việc cỗ bàn dâng cúng ngài. Tuy đền Mã Cương thờ Lê Phụng Hiểu ở thôn này, nhưng cuộc tuyển lựa trinh nữ cũng mở rộng cho tất cả các thôn xã có thờ ông.
Muốn dự cuộc tuyển lựa này, các thanh nữ không những phải là con gái, mà còn là những cô chưa hề bị mang tai tiếng về nết na, nhất là đức hạnh về phương diện trinh thục. Đối với dân chúng vùng này, được kén vào hàng trinh nữ là một điều vinh dự, bởi vậy số thiếu nữ thi tuyển rất đông. Các bà mẹ đã dạy các cô những điều cần thiết để các cô có thể thắng được cuộc thi.
Cuộc thi tuyển được tổ chức ở bãi Giang Đình. Trước bãi, một con đường thẳng tắp chạy tới đền Mã Cương. Sau bãi là đầm nước không sâu lắm, nước thường chỉ đến bụng, đây là đầm Giang Đình- trung tâm cuộc thi. Các trinh nữ phải kinh qua các cuộc thi về nữ công bếp núc và về khả năng văn nghệ.
Thi vật
Trong hội làng Mai Động (Hà Nội) có thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các đô vật ở các nơi kéo về dự giải rất đông. Làng treo giải vật gồm nhất, nhì, ba và nhiều giải khác.
Trong lúc vật, các đô vật cởi trần và chỉ đóng một chiếc khố cho kín hạ bộ. Cởi trần cốt để đôi bên không thể nắm áo, nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được. Khố các đô vật phần nhiều bằng lụa, nhiều màu. Trước khi vào vật, hai đô vật lễ vọng vào trong đình.
Cuộc thi bắt đầu, các đô vật lên lễ đài. Sau một hồi khua chân múa tay để rình miếng nhau, họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa nhau, dùng những miếng để vật ngửa địch thủ. Với miếng nằm bò, có tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ bẩy mình, rồi bất thần họ nhỏm đứng dậy để phản công.
Thường thì giải ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất. Mỗi một giải vật xong, người trúng giải được làng đốt mừng một bánh pháo.
HELLBOY (st).
Đồng bào Xuồng với lễ mừng thọ
Đồng bào Xuồng với lễ mừng thọ
Dân tộc Xuồng là một ngành của dân tộc Nùng (theo số lượng hống kê dân số năm 1999 người Nùng có 856.412 người) thuộc nhiều ngành như: Nùng Phàn Slình, Nùng Inh, Nùng An, Nùng Dín, Nùng cháo, Nùng Lòi? Mỗi ngành Nùng (một nhóm địa phương) có một phương ngữ khác nhau. Đồng bào Xuồng sống ở Hà Giang, Lạng Sơn, bắc Kạn, Yên Bái, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng? nhưng tập trung đông nhất ở tỉnh Tuyên Quang.
Đồng bào Xuồng thường tổ chức lễ mừng thọ, tiếng dân tộc là khay khoăn gọi hồn về khi bị ốm hoặc cầu mong tăng cường sức khoẻ (pủ lường) cho người già. Thầy cúng (then) hoặc (Pựt) được mời đến để tính chọn ngành lành tháng tốt. Số lượng khác được mời đến khu tổ chức lễ cúng lần đầu là bà con nội ngoại, bà con trong làng ngoài bản càng đông càng tốt.
Người nhà chuẩn bị đồ cúng ngoài rượu, thủ lợi, gà, xôi đỏ, trứng, trầu cau, câu chúc thọ viết trên giấy màu còn phải có một thúng gạo, một thúng không bên trong đựng một chiếc ống bằng tre hoặc bằng sắt tây được bọc giấy đỏ bên ngoài.
Đến giờ tốt, thầy cúng thắp hương lầm rầm khấn cầu mong trời đất thần linh phù hộ cho người già được khoẻ mạnh, sống lâu cùng con cháu. Cúng xong thầy lấy một cái chén nhỏ múc gạo từ thúng dổ vào chiếc ống trẻ (sắt). Tiếp đến, con cháu trong nhà lần lượt đến lấy chén múc gạo đổ vào ống. Cứ thế, hết người này đến người khác khi nào thúng đầy gạo mới thôi. Mỗi người đến đổ gạo lại để vào thúng một số tiền nhỏ (với ý nghĩa chúc thọ người già).
Các năm sau cứ đến ngày tháng đã chọn cúng chúc thọ của năm trước con cháu lại tổ chức lễ cúng. Khách cũng nhớ ngày, không cần mời nữa mà tự đến dự. Chăm sóc cha mẹ là lẽ sống, là tập tục có từ lâu đời của người Nùng Xuồng. Nghi lễ mừng thọ là một nét đẹp văn hoá có ý nghĩa sâu sắc, mang tính truyền thống.
(Theo Hải Vân).
HELLBOY