-
NNC Ðỗ Bá Hiệp
Tại Việt Nam, những người có khả năng nhìn xuyên qua mặt đất và tìm ra thi hài người mất tích không hiếm. Một tài liệu được tăng tải trong Bán Nuyệt San Thế Giới mới xuất bản tại Saigon vào tháng 3 năm 1993 có nhắc đến một người có khả năng siêu phàm vì người ấy đã nhìn xuyên được vào lòng đất, người VN này có tên là Ðỗ Bá Hiệp.
Như đã trình bày từ trên anh Hiệp có thể dùng mắt trần để tìm kiếm những gì bị chôn sâu trong lòng đất vì thế hiện nay tại VN (nơi mà chiến tranh đã khiến cho bao nhiêu người phả I chết và thân xác họ thất lạc khiến một số lớn thân nhân không thể tìm thấy để đem về mai táng) nhiều người đang cần đến anh để tìm kiếm những thi hài, thân xác của người thân bị thất lạc. Anh Hiệp còn có khả năng đoán định được thân xác, hài cốt nào là của thân nhân nào, một điều mà các nhà khoa học khó mà giải thích được tại sao, nguyên nhân nào đã giúp anh có khả năng lạ lùng ấy. Ðiều đặc biệt là anh Hiệp cũng như bao nhiêu người có khả năng nhìn xuyên qua lòng đất chỉ thực hiện các khả năng của mình khi cần thiết phải giúp đỡ ai hay làm việc đáng làm chớ không bao giờ dùng khả năng ấy để mưu cầu lợi riêng cả. Lúc đầu, nhiều người sống gần anh Hiệp không thấy có điều gì khác lạ ở người anh ngoài công việc thường ngày là nghiên cứu khoa học. Nhưng dần dần những tin đồn về anh lan dần mãi ra khi biết anh có khả năng kỳ lạ nhưng anh hay dấu diếm và không muốn khả năng mình trở thành những bàn tán xôn xao cho mọi người.
Nhưng dần dần anh không còn dấu được nữa, nhất là sau vụ ông Nho ở Saigon ra tận ngoài Bắc để nhờ anh tìm và chỉ ngôi mộ của cụ thân sinh mình và anh Hiệp đã chỉ đúng nơi chôn thân xác của người quá cố một cách chính xác.
Ðược biết hai vợ chồng ông Phạm Huy Nho hiện cư ngụ tại số nhà 27 đường phố Ðông Du Saigon. Trước đó khoảng 50 năm, gia đình ông Nho ở Hànội và sau đó ông Nho vào Saigon lập nghiệp. Ðã bao lần ông và vợ đi Hà Nội để tìm cho được ngôi mộ người cha nhưng khôgn thể nào tìm thấy vì qua bao nhiêu năm xa cách, hơn nữa lại trải qua các cuộc chiến tranh bom đạn, ngôi mộ coi như đã bị san bằng hoàn toàn.
Về sau, khi nghe tin anh Ddỗ Bá Hiệp có khả năng phát hiện các thi hài trong lòng đất cùng biết luôn các liên hệ thân thuộc của thi hài đó với thân nhân, ông bà Phạm Huy Nho đã hối hả đi Hà Nội. May mắn là họ đã gặp anh Hiệp và được anh nhận lời giúp đỡ.
Sau khi nghe ông Nho trình bày về ước vọng của mình là tìm cho được mộ của người cha, anh Hiệp ngồi yên lặng một lát, mắt nhìn vào khoảng không rồi sau đó anh chậm rãi nói với hai vợ chồng ông Nho như sau:
- Ông bà cứ yên tâm , thế nào tôi cũng tìm ra mộ cụ thân sinh của ông thôi. Theo tôi thấy thì mộ của cụ hiện đang nằm ở một vị trí gần góc một đám ruộng lớn, mai mốt tôi sẽ cùng với ông bà đến đó.
Anh Hiệp còn cho ông bà Nho biết thêm một số chi tiết khác về người quá cố như sau:
- Ông cụ mất tại ngoại ô Hà Nội, tại làng Vẽ, khoảng 54 hay 56 tuổi. Riêng cụ bà thì mất tại Saigon và vụ bà sống rất thọ, đến 90 tuổi.
Sáng hôm sau anh Hiệp cùng hai vợ chồng ông bà Nho đi xe đò về làng Ðông Ngạc. Làng này thường gọi là làng Vẽ (thuộc huyện Từ Liêm Hà Nội). Khi ba người đi vào một vùng ruộng khô rộng lớn, anh Hiệp đảo mắt nhìn quanh như tìm kiếm cái gì và cuối cùng anh bước đế môt. khoảng đất, chỉ tay vào một nấm đất đất nhỏ ở góc ruộng rồi nói:
- Ddây chính là ngôi mộ của cụ thân sinh ông đây. Sau đó anh Hiệp lại chỉ tay về một gò đât' cao ở đằng xa và nói:
- Còn gò đất kia là nơi có ngôi mộ tổ của gia đình ông. Có lẽ ông không biết. Sau này nếu có điều kiện ông nên tu sửa lại cho đàng hoàng.
Hai vợ chồng ông Ngo rất ngạc nhiên, họ nhìn sững vào anh Hiệp và thầm hỏi tại sao người ông trẻ tuổi này lại biết rõ về mồ mã người thân của giòng dõi gia tộc họ được. Hai vợ chồn ông Nho đang ngơ ngác thì anh Hiệp lại chỉ tay xuống cái nấm đất nhỏ nơi góc ruộng và nói:
- Tôi chỉ cho hai ông bà thêm một điều nữa để khẳng định là dưới nấm đất này là hài cốt của ông cụ nhà. Ddặc biệt nhất là cụ thường để râu hình chữ nhân ( ) và khi mất vẫn để y nguyên kiểu râu ấy.
Ông Nho vô cùng kinh ngạc và xúc động vì quả thật bức ảnh của cụ thân sinh ông hiện còn thờ ở Saigon cũng cho thấy ông cụ để râu theo kiểu chữ nhân. Làm sao ở Hà Nội mà anh Hiệp lại có thể biết được mặt mũi, cách để râu của ông cụ? Nhưng điều kỳ lạ hơn nữa là sau đó , anh Hiệp còn cho biết cuộc sống của gia đình ông Nho lúc ông còn bé. Anh Hiệp nhìn vào khoảng không như đọc từ những giòng chữ trong không gian rồi chậm rãi kể tiếp :
- Hồi đó, gia đình ông cũng thuộc vào hàng khá giả ở trong vùng. Ông cụ có ruộng vường nhà cửa nhưng sống đạm bạc. Có điều đáng nói là ông cụ rất xung khắc với ông.
Ông Nho nhìn vợ gật đầu mấy cái tỏ dấu hiệu công nhận điều anh Hiệp nói là đúng.
Một lát sau anh Hiệp lại hỏi :
- Có điều lạ là có lẽ anh có một người anh em ruột phải không?
- Dạ có! Tôi có một người em ruột.
Anh Hiệp cướp lời:
- Nhưng anh ấy đã qua đời!
- Phải, nhưng làm sao anh lại biết được.
Anh Hiệp lại nhìn vào khoảng không và nói :
- Vì tôi đã thấy, tôi thấy họ đến trước mặt tôi. Hai người, ông cụ và người thanh niên có gương mặt giống ông. Họ rất vui mừng khi biết hai ông bà đã có ý đi tìm mộ chí của họ để thăm viếng.
Tự nhiên một luồng hơi lạnh xuyên suốt vào cơ thể hai vợ chồng ông Nho khi nghe anh Hiệp nói câu đó. Rồi anh Hiệp lại tiếp lời:
- Lòng thành tâm và tình máu mủ ruột thịt, sợi dây liên lạc tâm linh đã dẫn dắt họ đến. Tôi thường thấy được họ, họ ở cõi giới khác, họ cũng có thiện tâm và nhiều ao ước, không có gì để sợ sệt. Có điều là không hiểu tại sao tôi lại không thấy được ngôi mộ của người anh hay người em của ông ?
Ông Nho nói:
- Tôi có người em trai đúng như anh đã nói. Em tôi đã mất lúc chưa đầy 30 tuổi và an táng tại Nam Ddịnh.
Câu chuyện hai vợ chồng ông Nho nhờ anh Hiệp tìm ngôi mộ của cụ thân sinh chẳng mấy chốc lan truyền khắp Hà Nội , sau đó lan cả vô Nam. Nhiều người nôn nóng chờ đợi có dịp được gặp anh Hiệp để nhờ anh chỉ chỗ chôn cất của người thân đã thất lạc. Trong khi đó anh Hiệp càng ngày càng bận rộn trong công việc giúp đỡ nhiều người để tìm kiếm thi hài, mộ chí những người bị mất tích. Nhiều chuyện có thật kể về khả năng lạ lùng của anh Hiệp được nhiều người truyền miệng nhau và cả báo chí cũng đăng tải.
....Anh Hiệp sống với mọi người, với mẹ, vợ và hai con, bình thường, rất bình thường và giản dị, trong một căn hộ quá chật hẹp của một trung cư. Anh giản dị rất mực, xuyềnh soàng trong ăn mặc, song lại rất giàu nhiệt tình, vô tư, trung thực và hào hiệp, đã giúp ai là chu đáo tận tình đến nơi đến chốn và tuyệt nhiên không cầu lợi. Chỉ có điều (có lẽ các nhà khoa học sẽ tìm được cách lý giải chăng), từ hai mươi năm nay , một ngày đêm 24 tiếng anh chỉ ngủ có 2 tiếng mà vẫn cảm thấy bình thường.
Câu chuyện có thật sau đây đã chứng minh về khả năng kỳ diệu có tính cách siêu phàm mà anh Ðỗ Bá Hiệp đã có được. Có lần một người đàn bà Hoa Kỳ sang Việt Nam với mục đích là tìm kiếm thi hài của người con trai bà lúc chiến đấu ở Viêtnam. Người lính Mỹ này đã tử thương trong một cuộc hành quân ở Tây Ninh. Người đàn bà này khi đến Saigon, bà chỉ có trong tay độc nhất một lá thư của con trai bà đã gởi cho bà trước khi tử trận, tuy nhiên bà rất tin tưởng rằng bà sẽ tìm thấy được hài cốt con bà vì bà đã nghe và tin rằng ở VN hiện đang có một người có khả năng siêu linh có thể tìm được hài cốt người chết bị thất lạc và bà đã liên lạc và yêu cầu được giúp đỡ.
Anh Hiệp đã sẵn sàng đi Tây Ninh với người đàn bà Hoa Kỳ cùng với một số nhân viên nhà nước. Khi họ đến được nơi mà theo linh cảm của anh Hiệp thì: "Tôi không nghĩ rằng con bà ở khoảng đó", họ xuống xe và đi bộ. Qua một khoảng cây cối rậm rạp, họ đến một bãi đất hoang có nhiều gò đống. Bỗng nhiên anh Hiệp dừng lại nhìn chăm chăm về phía trước rồi quay qua nói với người đàn bà Hoa Kỳ:
- Con bà đang đến đó, anh ta có vẻ hớn hở vì đã gặp được bà. Tuy nhiên anh ấy chạy khập khễng.
- Người đàn bà Hoa Kỳ vừa rơm rớm nước mắt vừa tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Trời ơi! Ông thấy con tôi sao ? Ðúng, đúng là con tôi bị chân thấp chân cao.
Rồi bà lôi từ xách tay ra một tập ảnh trao cho anh Hiệp, bà nói:
- Ông hãy xem qua và nhận dạng con trai tôi có giống như người ông vừa nói mới chạy đến đó không ?
Anh Hiệp đỡ lấy tập ảnh và vội vàng xem qua từng tấm và anh dừng lại ở 1 tấm hình rồi nói:
- Ddây, thưa bà, đây chính là con trai bà.
Người đàn bà Hoa Kỳ run run đỡ lấy tấm hình, và ép sát vào ngực mình, nước mắt tuôn tràn. Bà nghẹn ngào nói:
- Ông Hiệp! Ông là một con người siêu đẳng, ông là ân nhân của tôi. Tôi chưa bao giờ thấy và biết được những sự màu nhiệm lạ thường như bây giờ. Ông đã chỉ đúng con tôi. Vậy xin ông hãy chỉ cho tôi hài cốt của con tôi....
Anh Hiệp lại dẫn người đàn bà Hoa Kỳ tiến về phía trước khoảng 20 thước rồi dừng lại. Anh đảo mắt nhìn xuống đất rồi chỉ tay vào một vùng đất đầy cỏ rậm, anh vói với những người đi theo :
- Chúng ta hãy đào ở chỗ này. Tôi nghĩ hài cốt của người líng MỸ ấy đã vùi dập vội vàng tại vị trí này. Tức thì những lưỡi cuốc xẻng lẹ làng đào xới cỏ và chỉ mười phút sau đã lộ diện bộ hài cốt.
Chuyện lạ về khả năng đầy vẻ siêu linh thần bí của anh Hiệp ngày càng được lan truyền ra vì chính ngay cả các nhà khoa học, các nhà địa chất, những chuyên gia khoa học nước ngoài đã chứng kiến tận mắt những gì anh Hiệp đã làm và họ cũng chưa tìm ra được lời giải thích.
-
Lại nói về “Đồng Năng” - tức trường hợp Nhà Ngọai cảm Dương Thị Năng
“Cô ơi! Cô thương chúng con từ xa lặn lội về. Xin cô giúp chúng con…”. Bà Dương Thị Năng cao giọng: “Đã bảo là không làm, cô mệt rồi…”. Đôi vợ chồng kia đến từ xã Đồng Bẩm (Đồng Hỷ) lại van nài: “Cô cứu nhân độ thế, cô làm ơn làm phúc”... Cuối cùng bà Dương Thị Năng cũng mủi lòng: “Xin cô điều gì?”. Con chỉ đổi sổ thôi- Đôi vợ chồng kia trả lời. Thế thì vào đây... Thấy vậy, mọi người chen nhau vào nhà, ngồi xụp xuống đất, theo thứ tự xếp hàng đôi, đối diện với bà Năng. Cuộc hành nghề bắt đầu…
Sự trở lại của “Đồng Năng"
Sáng ngày 16 tháng giêng, chúng tôi có mặt tại nhà riêng bà Dương Thị Năng, khi đó có khoảng 20 người, phần lớn là phụ nữ đang tụ tập ở sân. Từ trong nhà bước ra, bà Năng gióng một câu: “Mệt quá, hôm qua xem cho các đệ tử mãi đến khuya...”. Thấy cô xuất hiện, đám đông người liền đổ xô đến vây xung quanh. Chúng tôi hỏi nhỏ một phụ nữ bên cạnh về “lịch làm việc” trong ngày của cô Năng thì nhận được câu trả lời: Hôm nay cô không xem. Về đi! Tuy vậy, chúng tôi vẫn cố nán lại để tìm hiểu thêm. Khoảng 10 giờ trưa, đôi vợ chồng đến từ xã Đồng Bẩm (Đồng Hỷ) đến van nài mãi mới được “cô” ban phước.
Đôi vợ chồng kia đọc rõ họ, tên, địa chỉ của mình. Bà Năng vừa nghe, vừa đọc theo. Mới đầu, tiếng đọc ra rất khó nghe, càng về sau tiếng nghe rõ dần nhưng vẫn lơ lớ, có phần giống với giọng nói của người miền Trung (Nghệ An, Thanh Hoá). Sau mỗi lần đọc đến tên người thân của mình, đôi vợ chồng kia lại đặt lên bàn trước mặt những tờ tiền có mệnh giá lúc thì 500 đồng, 1.000 đồng rồi 10.000 đồng… Tổng cộng khoảng 30.000 đồng cho lần đổi sổ.
Làm xong việc đổi sổ cho vợ chồng kia, bà Năng dừng lại, nhìn xuống đất, nói: “Thôi! Không làm nữa, để hôm khác”. Nói xong, bà đứng dậy, lên xe ô tô riêng ra khỏi nhà. Những người đến xem cố nài nhưng bà đã từ chối và họ đành quay ra Quốc lộ 37 đón xe ô tô khách đi về. Chúng tôi cố gắng tiếp cận đôi vợ chồng kia. Được biết đó là anh T., chị H., họ đã theo cô đồng Năng được hơn 5 năm nay. Năm nào cũng vậy, cứ vào đầu năm là hai vợ chồng lại xuống nhờ “cô” đổi sổ (hay còn gọi là giải hạn). Chị Hương nói: “Hôm nọ xuống nhờ cô Năng gọi vong, vong hiện về bảo năm nay anh nhà chị và một số người thân trong nhà có hạn nặng, vì thế phải đổi sổ. May quá, hôm nay cô lại giúp vợ chồng mình. Chắc các em lần đầu đến đây. Thế thì lâu lắm, có khi phải đợi hàng tháng mới xem được. Thôi! Về đi, hôm khác lại đến mà xin cô”.
Ngày 19 tháng giêng, ngày mà các đệ tử của cô đồng thường gọi là ngày “Thiên đình khao vong” hay ngày “Mở cửa thiên đình”, có khoảng 400 đệ tử tụ tập tại nhà. Trong số đó, phần lớn đi bằng xe máy, một số đi bằng ô tô, xe đạp. Xe máy các đệ tử phải đem gửi nhà hàng xóm, sát với nhà “cô đồng Năng. Các đệ tử của “cô” phần lớn ở các tỉnh: Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Nội, Thái Nguyên… Họ gồm đủ các thành phần nông dân, công nhân, tư thương và cả trí thức. Họ đến từ sáng sớm, xếp theo hàng đôi, lần lượt đi vào nhà đặt lễ.
Bên trong nhà có hai người đàn ông đứng hướng dẫn các đệ tử đặt lễ và cũng là đứng bảo vệ đống phong bì do các đệ tử dâng lên. Một phụ nữ nông dân đã đứng tuổi người ở Hiệp Hòa (Bắc Giang) vỗ vào vai tôi, bảo: Thế không dâng lễ à? Ra đây cô hướng dẫn cho: Nếu nhà có vong (người đã quá cố) thì dâng lễ đen (tiền) cho từng vong. Nếu chưa soi thấy vong thì chỉ dâng: Thiên đình, dâng thổ công và táo quân. Có thì dâng nhiều, không có thì dâng ít. Như cô đây này, mỗi vong 5 nghìn đồng, thiên đình, thổ công, táo quân thì 10 nghìn đồng. Phải ghi rõ vào giấy, tên, tuổi, địa chỉ và dâng cho ai bao nhiêu tiền, rồi cho vào phong bì.
Kết thúc việc dâng lễ, các đệ tử kéo nhau vào mâm cỗ. Mỗi mâm 10 người. Chúng tôi ngồi cùng mâm có mấy chị ở Bắc Giang, Thái Nguyên, Hải Phòng. Tất cả chưa ai được ăn mà phải cầu. Chị ngồi sát chúng tôi lẩm bẩm: “Hôm nay ngày thiên đình khao vong, con mời các vong trong gia chung cùng về hiến hưởng. Vong ăn trước, con ăn sau”. Cứ thế, ở tất cả các mâm cỗ trong nhà, ngoài sân mọi người đều lẩm bẩm cầu khấn điều gì đó, rồi mới ăn uống, chúc tụng nhau.
Mở lại hồ sơ Dương Thị Năng
Trong tay Đại uý Dương Hoài Phương, Công an huyện Phú Bình là tập hồ sơ về bà Dương Thị Năng. Anh là người hiểu và nắm rất rõ về con người này. Anh cho biết: Bà Dương Thị Năng sinh tháng 6 năm 1964, ở xóm Cổ Dạ, xã Bảo Lý (Phú Bình) là con thứ 3 trong gia đình có 7 anh, chị em; trình độ văn hóa 6/10. Sau khi nghỉ học, Dương Thị Năng ở nhà làm ruộng. Năm 1983, Dương Thị Năng lập gia đình riêng tại xóm Thuần Phát, xã Điềm Thuỵ (Phú Bình) trong điều kiện kinh tế khó khăn. Tháng 12 năm 1994, sau khi ốm dậy, bà Năng có biểu hiện rất lạ, tự xưng là “Tiên từ trên trời xuống trần gian để cứu nhân độ thế”.
Bà Năng nhận mình là người có khả năng đặc biệt “soi vong, gọi hồn” những người đã chết, nhất là chết trẻ. Từ đó đã thu hút một số người tin theo và đến nhờ cô... ban ơn. Và cái tên Đồng Năng xuất hiện từ đó. Thời gian hành nghề biểu hiện mê tín dị đoan của Đồng Năng thường vào những ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng. Riêng những ngày đầu năm, có rất đông người tụ tập đến để “xem bói”. Ngoài ra, lợi dụng sự cả tin của một số người bà Đồng Năng còn dùng nước lã, rễ, thân cây để chữa bệnh…(!?) Việc làm này đã gây mất ổn định về an ninh trật tự ở địa phương.
Ngày 14-2-2001, Chủ tịch UBND huyện Phú Bình đã ra Quyết định số 68/QĐ-UB về việc cấm hoạt động mê tín dị đoan trên địa bàn huyện đối với bà Dương Thị Năng, đồng thời thành lập đoàn công tác gồm các ban, ngành, cơ quan chức năng của huyện và giao cho UBND xã Điềm Thuỵ chịu trách nhiệm tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân và gia đình bà Dương Thị Năng chấp hành theo các quy định của Nhà nước cũng như của địa phương về nếp sống văn hóa.
Ngày 21-2-2001, Công an huyện Phú Bình đã ra lệnh khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện hành nghề tại nhà bà Dương Thị Năng. Ngày 23-2-2001, UBND xã Điềm Thuỵ ra quyết định xử phạt hành chính theo Nghị định 49 ngày 15-8-1996 của Chính phủ về hành vi mê tín dị đoan đối với bà Dương Thị Năng, đồng thời yêu cầu gia đình cam kết không hành nghề mê tín dị đoan. Sau thời gian đó, mặc dù không hoạt động công khai, Đồng Năng vẫn lén lút hành nghề mê tín dị đoan, buộc UBND xã Điềm Thuỵ lập hồ sơ cải tạo tại xã đối với bà theo Quyết định số 01/QĐ-UB ngày 15-3-2001.
Ngày 12-5-2002, Công an xã Điềm Thuỵ phát hiện đã lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với bà Dương Thị Năng đang hành nghề mê tín dị đoan. Khi lập biên bản, bà Năng và gia đình gây cản trở, không ký biên bản. Công an huyện đã tiến hành thu thập tài liệu, lập hồ sơ để đưa bà vào cơ sở giáo dục. Song, hồ sơ chưa kịp hoàn tất thì bà Dương Thị Năng có Thông báo số 3609/CV-LH, ngày 9-6-2003 của ba cơ quan: Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an), Trung tâm bảo trợ VHKT truyền thống về việc nghiên cứu các khả năng của Dương Thị Năng. Khi ấy, bà Dương Thị Năng nghiễm nhiên trở thành đối tượng để nghiên cứu và không phải thực thi những quyết định của chính quyền địa phương và cơ quan công an.
Trong quá trình là đối tượng nghiên cứu, việc hành nghề mê tín dị đoan của bà Dương Thị Năng đã lắng xuống. Kết quả khảo nghiệm của ba cơ quan nói trên, mà trực tiếp là đề tài do Kiến trúc sư Vũ Thế Khanh, Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) làm chủ nhiệm lại chưa khẳng định rõ bà Dương Thị Năng là người có khả năng ngoại cảm và đề tài còn đề nghị tiếp tục được đầu tư nghiên cứu làm rõ thêm. Hơn thế nữa, tập tài liệu nghiên cứu về trường hợp bà Dương Thị Năng còn đóng dấu “mật”, tức là chưa thể công bố. Thế nhưng, đã có rất nhiều người tung tin bà Dương Thị Năng được Nhà nước “công nhận” là nhà ngoại cảm, vì thế đã đổ xô đến nhờ “soi vong, gọi hồn, giải hạn, bốc thuốc trị bệnh, tìm mộ thất lạc…”. Và “hiện tượng” Đồng Năng lại một lần nữa rộ lên.
Ý kiến của các cơ quan chức năng
Qua sự việc trên, Báo Thái Nguyên đã có cuộc làm việc với các cơ quan chức năng, huyện Phú Bình. Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ tịch UBND huyện khẳng định: “Năm 2001, do hành nghề mê tín dị đoan, bà Dương Thị Năng đã bị chính quyền địa phương xử phạt hành chính và lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Tháng 12-2005, theo báo cáo của cơ quan chức năng và dư luận quần chúng nhân dân, thì bà Dương Thị Năng có dấu hiệu tiếp tục hành nghề mê tín dị đoan. Trước thực trạng trên, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã giao cho UBND huyện chỉ đạo các ngành liên quan và UBND xã Điềm Thuỵ kiểm tra, xác minh sự việc. Theo đó, huyện đã tổ chức các cuộc họp tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn, giao cho Công an huyện tiếp tục điều tra làm rõ sự việc…”.
Về vấn đề này, ông Triệu Văn Doanh, Phó Giám đốc Sở Văn hoá-Thông tin cho biết: Nếu bà Dương Thị Năng có khả năng đặc biệt trong việc tìm mộ mất tích thì chỉ được hoạt động trong cơ quan khoa học mà bà cộng tác làm thành viên, nghiêm cấm lợi dụng khả năng của mình để hoạt động mê tín dị đoan. Nếu bà Năng có khả năng chữa bệnh bằng năng lượng tâm thức thì phải được cơ quan Nhà nước, cơ quan chuyên môn cho phép, vì đây là lĩnh vực hoạt động liên quan đến sinh mạng con người. Đối với ba cơ quan khoa học nghiên cứu về bà Dương Thị Năng, Sở Văn hoá-Thông tin đề nghị xem xét lại kết quả khảo nghiệm, vì có nhiều tình tiết không thuyết phục, phóng đại về đặc điểm, tính cách và khả năng đặc biệt của bà Năng.
Trả lời Báo Thái Nguyên về quan điểm của ngành đối với trường hợp nói trên, ông Nguyễn Xuân Thuỷ, Phó Giám đốc Công an tỉnh cho biết: Để tránh việc bà Dương Thị Năng lợi dụng ý kiến của các cơ quan khoa học hành nghề mê tín, Công an tỉnh thấy cần phải sớm có kết luận cụ thể về khả năng thực tế của bà Năng. Khi có kết luận cụ thể của các cơ quan nghiên cứu khoa học, Công an tỉnh sẽ có biện pháp quản lý theo chức năng.
Theo chúng tôi, việc bà Dương Thị Năng được mời làm đối tượng nghiên cứu của một số cơ quan khoa học thực tế cũng chưa có kết quả chính thức về khả năng ngoại cảm, tìm mộ liệt sỹ thất lạc và tác động trị liệu bằng phương pháp năng lượng tâm thức của bà Năng. Vì thế, việc hành nghề chữa bệnh, tìm mộ thất lạc là chưa đúng với quy định của Nhà nước; việc tụ tập đông người, khao vong, đổi sổ (cúng giải hạn), soi vong, gọi hồn là hoạt động mê tín dị đoan cần được ngăn chặn kịp thời.
Thái Nguyên điện tử (nhóm phóng viên chuyên đề
-
Tìm mộ thất lạc và tác động trị liệu bằng phương pháp Năng lượng Tâm thức
Các cơ quan chủ trì: 1. Liên hiệp Khoa học UIA 2. Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công An 3. Trung tâm Bảo trợ Văn hóa Kỹ thuật Truyền thống Thời gian thực hiện: Giai đoạn: 06/2003 – 06/2005 Đối tượng nghiên cứu: Chị Dương Thị Điềm - Điềm Thụy – Phú Bình – Thái Nguyên
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
CHƯƠNG TRÌNH KHẢO NGHIỆM KHOA HỌC
TÌM MỘ THẤT LẠC VÀ TÁC ĐỘNG TRỊ LIỆU BẰNG PHƯƠNG PHÁP NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC
(NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU)
Ban Chủ nhiệm chương trình nghiên cứu:
Họ và tên Học hàm, học vị,
chuyên môn Cơ quan
1 Vũ Thế Khanh KTS Chủ nhiệm đề tài Tổng Giám Đốc Liên hiệp Khoa học UIA - Giảng viên Đại học Kiến Trúc
2 Ngô Đức Quý Tiến sĩ Luật – Phó Chủ nhiệm đề tài Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công An
3 Phan Đăng Nhật Giáo sư - Tiến sĩ – Phó Chủ nhiệm đề tài Nguyên Viện trưởng Viện VHDG – Giám đốc TT Bảo trợ Văn hóa KTTT
4 Phạm Hồng Kỳ Tiến sĩ Phó TGĐ Liên hiệp UIA - Giảng viên trường ĐH Kiến Trúc
5 Trần Đức Đĩnh Tiến sĩ Pháp Y Trưởng phòng Pháp Y - Viện Khoa học Hình sự
6 Trần Công Lý Kỹ sư Phó Giám đốc – TT Bảo trợ Văn hóa KTTT
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước:
Từ hàng nghìn năm trước đây, trên thế giới đã có những tài liệu ghi chép lại những sự kiện về khả năng đặc biệt của con người. Những hiện tượng này được miêu tả phần nhiều mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo như trong Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa, trong kinh Koran, trong Kinh Phật… hoặc trong các truyền thuyết lịch sử mang tính huyền thoại.
Từ thế kỷ 18 trở lại đây, nhiều nước trên thế giới đã lập những tổ chức khoa học để tìm hiểu, nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người mang tính hàn lâm (như ở Anh, Pháp, Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Malaixia…). Liên Xô, Mỹ đã nghiên cứu ứng dụng các khả năng ngoại cảm trong khoa học vũ trụ; Ấn Độ, Trung Quốc đã ứng dụng khả năng đặc dị vào khoa học dự báo, ngoại giao…
Thế giới đã có hàng ngàn cuốn sách nói về các khả năng ngoại cảm, các công năng đặc biệt, nhiều công trình khoa học không chỉ mô tả định tính, mà còn tiến tới định lượng một số dạng trường năng lượng sinh học.
2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
· Năm 1992-1993, UBND Thị xã Ninh Bình chủ trì việc tìm mộ 13 liệt sỹ tại chùa Non Nước – Ninh Bình bằng khả năng Ngoại cảm.
· Năm 1994 UBND huyện Uống Bí chủ trì việc tìm mộ 5 liệt sỹ tại Uông Bí - Quảng Ninh bằng khả năng ngoại cảm.
· Ngày 26/06/1995, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Trịnh Tố Tâm đã ký công văn số 2708/LĐTBXH-CV: đồng ý tìm Mộ Liệt sỹ của Tioểu đoàn Phủ Thông bằng ngoại cảm…
· Ngày 03/05/1995, Liên hiệp UIA thành lập Ban Nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người theo quyết định số 3595/QĐLH.
· Ngày 27/07/1996 ba cơ quan đã ký Hợp đồng liên kết nghiên cứu khoa học để tìm kiếm thông tin về mộ Liệt sỹ mất tích bằng ngoại cảm, gồm:
Hội Tâm lý Giáo dục Việt Nam
Liên hiệp Khoa học UIA
Báo Cựu chiến binh Việt Nam
Thông qua hợp đồng liên kết này, đã tìm được hàng ngàn thông tin về mộ các Liệt sỹ bị mất tích, kết quả đã được thông báo trên mục đi tìm đồng đội của báo Cựu chiến binh.
· Năm 1996, Liên hiệp UIA, Viện Khoa học Hình sự - Bộ Nội vụ và 33 cơ quan đồng tổ chức Chương trình hiệp thương tìm lại Nam Cao có sự tham gia của 7 nhà ngoại cảm. Kết quả kiểm định đã được Viện Khoa học Hình sự công bố 01/1998.
· Tháng 12/1996, Liên hiệp Khoa học UIA đã tổ chức thực nghiệm tại chỗ về khả năng tìm mộ từ xa của anh Nguyễn Văn Liên (với sự chứng kiến của 200 nhà Khoa học tại Kim Liên – Hà Nội).
· Tháng 07/1997 Liên hiệp Khoa học UIA phối hợp với 10 cơ quan tổ chức Hội nghị giao lưu thông tin về các liệt sỹ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, đã tiến hành trắc nghiệm tại chỗ về khả năng tìm mộ từ xa bằng khả năng ngoại cảm với sự chứng kiến của 500 đại biểu dự hội nghị.
· Thực hiện ý kiến chỉ đạo Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh được nêu tại công văn số 4027/KGVX ngày 13 tháng 08 năm 1997. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cho phép ba cơ quan (Viện Khoa học Hình sự, Liên hiệp Khoa học UIA, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa Kỹ thuật Truyền thống) được triển khai “chương trình khảo nghiệm khả năng đặc biệt của ông Nguyễn Văn Liên trong việc tìm mộ liệt sỹ từ xa”.
· Ngày 21/08/1997 Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường có công văn số 1960/QLKH giao cho 3 cơ quan triển khai đề tài nghiên cứu.
· Ngày 03/09/1997, dưới sự chủ trì của Bộ Nội Vụ, ba cơ quan đã họp để thông qua đề cương nghiên cứu trình Bộ Công nghệ và Môi trường.
· Ngày 09/10/1997 Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường có công văn số 2366/QLKH giao cho Viện Khoa học Hình sự làm chủ nhiệm đề tài, hai cơ quan đồng tham gia là Liên hiệp UIA và Trung tâm Bảo trợ Văn hóa Kỹ thuật Truyền thống.
· Đến ngày 02/1998, hoàn thành công việc giai đoạn 1, đã lập hồ sơ báo cáo Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan.
· Ngày 12/03/1998 Bộ Khoa học và Công nghệ Môi trường đã có công văn báo cáo Chính phủ về kết quả thẩm định đề tài như sau:
* Khả năng tìm mộ liệt sỹ là có thật.
* Tỷ lệ tìm thấy mộ trong đợt trắc nghiệm là tương đối cao (khoảng 70%) số vụ
* Trong mỗi vụ, trung bình 40-45 thông tin, tỷ lệ thông tin đúng trong từng vụ khoảng 70-80%
· Ngày 17/04/1998 Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm đã nghe các cơ quan báo cáo kết quả khảo nghiệm giai đoạn 1:
Chương trình được đánh giá cao: Kết quả khảo nghiệm là hoàn toàn khách quan, khoa học và nghiêm túc. Từ đó đã phát hiện được một dạng khả năng đặc biệt của con người tìm mộ từ xa.
* Ngày 05/04/1998 Thủ tướng Phan Văn Khải nghe báo cáo và Thủ tướng đã có ý kiến:
“Hoan nghênh Bộ KHCNMT và các cơ quan tiến hành khảo nghiệm nghiêm túc. Kết quả khảo nghiệm đáng chú ý. Hoan nghênh cố gắng tích cực của nhà ngoại cảm trong tham gia khảo nghiệm và đã tìm giúp được hài cốt nhiều liệt sỹ và thân nhân các gia đình. Ủy nhiệm cho Bộ trưởng Bộ KHCNMT có thư khen ba cơ quan và anh Nguyễn Văn Liên, kèm theo có quà thưởng”.
Đồng ý cho tiến hành khảo nghiệm giai đoạn 2: để thêm số liệu thống kê, có thể xét nghiệm AND một vài trường hợp có thêm căn cứ khoa học cho kết luận.
3. Mục tiêu của chương trình nghiên cứu khảo nghiệm về khả năng đặc biệt phục vụ cho việc tìm kiếm hài cốt liệt sỹ.
A. Căn cứ nhiệm vụ của Chính phủ, Bộ KHCN & MT và của LHH:
* Công văn 4027/KGVX ngày 13/08/1997 của Văn phòng Chính phủ thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh.
* Công văn số 1960/QLKH ngày 21/08/1997 của Bộ KHCNMT
* Công văn số 356/VPCP-KG ngày 28/12/1998 của Văn phòng Chính phủ
* Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm trong cuộc họp ngày 06/07/2000, ngày 10/08/2000 và ngày 22/08/2000 tại VPCP.
* Căn cứ quyết định số 1028/LHH-QĐ ngày 06/10/2000 của Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội KHKT Việt Nam.
* Căn cứ công văn số 3609/CV-LH của 3 cơ quan về việc đề nghị nghiên cứu khả năng của chị Dương Thị Năng.
B. Mục tiêu về mặt khoa học:
* Từ kết quả đã được khẳng định khi nghiên cứu về khả năng đặc biệt của các giai đoạn trước đây, tiếp tục khảo nghiệm khả năng của chị Dương Thị Năng trong điều kiện riêng biệt, độc lập.
* Về chuyên môn: Xác định quy trình tiếp nhận thông tin của chị Dương Thị Năng và một số người có năng lực đồng dạng.
* Về nội dung thẩm định:
Xác định khả năng cung cấp thông tin trong công việc tìm mộ Liệt sỹ.
Xác định khả năng tác động tâm thể đối với một số bệnh lý, cai nghiện.
Xác định khả năng cung cấp thông tin trong công tác hình sự.
Xác định khả năng dự báo.
4. Nội dung nghiên cứu:
a. Xác định độ tin cậy của thông tin theo đối tượng cần tìm kiếm.
b. Trắc nghiệm một số ca bệnh được tác động bởi Năng lượng Tâm thức.
c. Đánh giá sự ảnh hưởng của Năng lượng Tâm thức trong đời sống văn hóa cộng đồng.
5. Ý nghĩa về Kinh tế - Xã hội:
· Phân biệt các hiện tượng ngoại cảm với các hành vi lợi dụng danh nghĩa ngoại cảm để hành nghề mê tín dị đoan.
· Phục vụ công tác tìm kiếm thông tin về hài cốt của các liệt sỹ bị thất lạc qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, góp phần trả lại tên tuổi cho các ngôi mộ Liệt sỹ còn khuyết danh; Hỗ trợ việc tìm kiếm và xác minh thông tin về các liệt sỹ làm công tác đặc biệt nhưng chưa được biết đến hoặc chưa được ghi công.
· Có thể cung cấp một số thông tin cho công tác điều tra hình sự.
6. Mô tả phương pháp nghiên cứu:
· Quan trắc: truy cập dữ liệu thông tin với khối lượng thống kê đủ lớn.
· Tìm kiếm các nhân chứng, vật chứng, bằng chứng điển hình, cá biệt, đáng tin cậy: (Các biểu theo dõi khảo nghiệm, băng ghi âm lời hướng dẫn của nhà ngoại cảm, sơ đồ do nhà ngoại cảm vẽ, bản xác nhận của các gia đình, các cơ quan, các địa phương nơi xảy ra sự kiện)
· Xác minh, giám định một số ca điển hình theo phương pháp khoa học.
· Phân tích, xử lý số liệu thống kê, đánh giá độ tin cậy của các sự kiện theo lý thuyết xác xuất.
6.2 – Lập hệ thống biểu mẩu quan trắc, lưu trữ thông tin
· Phiếu điều tra đầu vào: (cho 210 ca trắc nghiệm)
· Băng ghi âm (ghi thông tin do nhà ngoại cảm cung cấp)
· Băng ghi hình trong quá trình đi tìm (trong điều kiện cho phép)
· Ảnh tư liệu (trong điều kiện cho phép)
· Các hồ sơ giám định hình sự (trong điều kiện cho phép)
· Các nhân chứng, vật chứng, bằng chứng (điển hình)
6.3 – Công tác quản lý:
· Về tổ chức: Chuyên môn hóa một số công đoạn khảo nghiệm (trong điều kiện có thể)
· Quản lý nhân sự: bố trí nơi làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính để đảm bảo các quyền lợi chính trị trước mắt cũng như lâu dài cho những người làm công tác ngoại cảm, tạo được trạng thái tâm lý thoải mái, yên tâm công tác.
· Tạo môi trường thích hợp cho hoạt động ngoại cảm
· Hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của hủ tục xã hội, loại bỏ các động thái gây mê tín dị đoan.
· Loại bỏ các tình huống gây nhiễu thông tin
· Phát huy lợi thế về chuyên môn của Viên Kho học Hình sự, phối hợp với các lực lượng an ninh đãm bảo sự an toàn cho những trắc nghiệm đặc biệt mang tính hình sự (đảm bảo bí mật trong quá trình xử lý thông tin)
7. Dạng sản phẩm, kết quả tạo ra:
· Đánh giá kết quả thẩm định tìm mộ liệt sỹ bị thất lạc
· Đánh giá khả năng ứng dụng Năng lượng Tâm thức trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, góp phần bài trừ các tệ nạn xã hội.
8. Yêu cầu khoa học đối với sản phẩm:
· Phiếu điều tra đầu vào
· Băng ghi âm (ghi thông tin do nhà ngoại cảm cung cấp)
· Băng ghi hình trong quá trình đi tìm (trong điều kiện cho phép)
· Ảnh tư liệu (trong điều kiện cho phép)
· Các hồ sơ giám định hình sự (trong điều kiện cho phép)
· Các nhân chứng, vật chứng, bằng chứng (điển hình)
KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM BƯỚC ĐẦU
Sơ lược về cá nhân chị Dương Thị Năng:
Chị Dương Thị Năng sinh năm 1964, trú quán tại thôn Thuần Pháp, xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
Trình độ văn hóa: đang học chương trình cấp 2 phổ thông
Nghề nghiệp: sản xuất nông nghiệp
Tính cách: là một phụ nữ nhanh nhẹn, tháo vát, đảm đang, giỏi kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi, thẳng thắn, tốt bụng, tích cực tham gia các phong trào từ thiện.
Từ năm 1993, chị bị bệnh hiểm nghèo, tinh thần ở trạng thái bất bình thường. Sau khi thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo, chị thấy tự nhiên xuất hiện năng lượng ngoại tâm thức, trong trạng thái gần như xuất thần, chị có thể cung cấp thông tin giao tiếp với cõi giới vô hình. Các thông tin này rất đa dạng, có thể quay về quá khứ, hoặc có thể dự báo về tương lai gần, có thể mô tả nguyên nhân của một số bệnh lý thuộc dạng tâm thể. Có thể mô tả về vị trí địa lý của ngôi mộ mất tích, có thể diễn tả trạng thái thần thức của người đã chết.
Trạng thái xuất thần này xảy ra nhanh,tự nhiên, không theo nghi thức tôn giáo nào, không thắp hương, không lập bàn thờ, không dùng vàng mã…
Sau khi kết thúc trạng thái xuất thần này, chị Năng hầu như không biết, không nhớ về nội dung thông tin mà mình đã cung cấp.
Quy trình tiếp nhận thông tin:
Ban tổ chức cố gắng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đối tượng thực nghiệm làm việc trong môi trường tâm linh lành mạnh, không gây trở ngại về mặt tâm lý, không làm thay đổi trạng thái làm việc tự nhiên của các đối tượng tham gia trắc nghiệm.
Thân nhân liệt sỹ (hoặc thân nhân người có mộ mất tích), những người cùng tham gia trong chu trình khảo nghiệm.
Vào phòng khảo nghiệm:
Theo thứ tự, người nào đến trước thì ngồi xếp hàng trước, không phân biệt gìa trẻ, địa vị công tác, mối quan hệ xã hội.
Khi được ngồi lên ghế đối diện với chị Dương Thị Năng, tín hiệu ngoại tâm thức thông báo sẵn sàng đối thoại thì mới đặt câu hỏi xin gặp người thân đã quá cố và bắt đầu cuộc giao tiếp. Ngoài ra, còn có thể đặt câu hỏi về các sự kiện, hoặc đặt câu hỏi về việc chữa bệnh, gia sự…
Báo cáo kết quả thông tin cho ban Tổ chức:
Sau khi đã “đối thoại” với dạng năng lượng tâm thức (giống như đang nói chuyện với người thân của mình) – dù đúng hay sai - những người nhận thông tin vẫn phải trực tiếp ghi kết quả nhận xét vào các mẫu trắc nghiệm. Các phiếu trắc nghiệm do các gia đình ký tên và phải có sự xác nhận của cơ quan, hoặc chính quyền địa phương.
Thẩm tra lại kết quả:
Sau khi nhận được phiếu ghi kết quả các gia đình, ban tổ chức tiến hành thống kê, phân tích và xác minh lại các thông tin nếuy thấy nội dung báo cáo chưa đủ độ tin cậy hoặc thông tin chưa cụ thể.
MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ
1. Đặc điểm thông tin theo phương pháp của chị Dương Thị Năng:
Chỉ khi ở trạng thái xuất thần chị năng mới có khả năng cung cấp thông tin. Để tạo trạng thái này, chỉ cần ngồi vào ghế đã định vị sẵn, mắt nhắm, không cần thắp hương, không yêu cầu, không lễ bái.
Khi có tín hiệu có thể giao tiếp thông tin, chị Năng ở trạng thái không tự chủ, hình như có sự điều khiển của lực lượng thần thức ngoại lai: từ giọng nói, củ chỉ đều biến đổi theo thần thức mà đối tượng cần giao tiếp (ngôn ngữ theo từng địa phương khác nhau, theo lứa tuổi khác nhau, theo trạng thái sức khoẻ khác nhau, thậm chí có trường hợp nói tiếng nước ngoài…).
Người muốn tìm thông tin chỉ cần ngồi đối diện với chị Dương Thị Năng, chỉ cần nói muốn gặp ai, tìm mộ người nào, chữa bệnh cho ai, hoặc muốn tìm hiểu sự kiện gì đều được trả lời trực tiếp.
Miêu tả địa hình, địa vật nơi có mộ thất lạc tương đối chi tiết, cụ thể; nhiều trường hợp còn miêu tả mối quan hệ riêng tư của người đã chết đối với đồng đội hoặc với người thân đang sống.
Nhiều trường hợp miêu tả nguyên nhân gây ra bệnh lý và cách giải quyết căn bệnh theo hướng kết hợp các bài thuốc dân gian với yếu tố tâm thể.
2. Số lượng quan trắc:
Số hồ sơ đăng ký: trên 950 hồ sơ
Ban trổ chức chọn 315 ca để khảo nghiệm. Các ca này vừa đảm bảo tính ngẫu nhiên, lại vừa đảm bảo tính điển hình theo nhóm khảo sát:
Nội dung khảo nghiệm Số lượng Số ca báo cáo lại Kết quả
- Tìm mộ thất lạc 115 64 51
Trong đó:
*Mộ Liệt sỹ 65 34 29
*Mộ Nhân dân 50 30 22
- Chữa bệnh 75 40 35
- Xem gia sự 120 55 47
- Trắc nghiệm đặc biệt 5 3 3
Từ số liệu quan trắc ta thấy:
Tuy đã nhận phiếu điều tra, nhưng những người nhận phiếu có thể vì nhiều lý do mà không quay trở lại để trả kết quả cho ban tổ chức (vì ngại đường xa, hoặc không đi tìm, hoặc tìm chưa thấy, hoặc bệnh chưa khỏi, hoặc vì những lý do tế nhị trong gia sự).
Tuy nhiên, do các yếu tố tâm lý và môi trường tâm linh khác nhau nên không phải mọi trường hợp đều có thể cho thông tin chính xác.
Trong trường hợp tìm thấy mộ, không phải mọi thông tin đều đúng. Trong những trường hợp không tìm thấy mộ, hoặc không phải mọi thông tin đều sai. Thậm chí có trường hợp không tìm thấy hài cốt, nhưng hầu hết các thông tin khác đều đúng.
Trong trường hợp bị căng thẳng, bức xúc về tâm lý, hoặc vì sức khỏe kém… thì việc giao tiếp thông tin thường cho kết quả không chuẩn xác.
KẾT LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU
Qua thời gian theo dõi, nghiên cứu, kiểm chứng khả năng của chị Dương Thị Năng (06/2003 – 06/2005), với số lượng thống kê và quan trắc 315 ca, Ban chủ nhiệm chương trình khảo nghiệm có những đánh giá bước đầu như sau:
· Trong một trạng thái bất thường của chị Dương Thị Năng (trạng thái xuất thần), có một dạng năng lượng đặc biệt (dạng Năng lượng ngoại tâm thức) đã được kích hoạt và giao thoa với trường năng lượng đặc biệt, trường năng lượng này có thể trợ giúp giải mã thông tin trong một số lĩnh vực mà khoa học hiện tại chử thể lý giải thấu đáo.
· Có thể cung cấp thông tin về các ngôi mộ liệt sỹ (hoặc mộ nhân dân) bị thất lạc. Nhờ sự cung cấp thông tin này một số mộ liệt sỹ và mộ nhân dân bị thất lạc đã tìm thấy, trong đó có một số cán bộ Cách mạng làm nhiệm vụ đặc biệt (mà trước đây chưa được biết đến) thì nay đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt sỹ.
· Trong một số trường hợp, dạng năng lương tâm thức nàycó thể cung cấp thông tin hữu ích cho công tác hình sự, (trên thực tế đã giúp ích cho việc điều tra một số vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng).
Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
Qua số liệu thống kê đủ lớn, vượt qua xác xuất ngẫu nhiên, với những bằng chứng thực tế, đã khẳng định dùng năng lượng ngoại tâm thức để tìm mộ từ xa (thông qua căn thức của chị Dương Thị Năng) là có thật. Đây là hiện tượng rất nhạy cảm, cần được đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, khách quan. Đó là những tài nguyên trí tuệ đặc biệt; nếu được định hướng tốt và có giải pháp khai thác hợp lý thì sẽ là nguồn lợi ích cho đất nước (có thể phục vụ cho khoa học dự báo như: dự báo mvề thời tiết, dự báo về sự kiện xã hội, dự báo về tài nguyên, dự báo về tìm mộ Liệt sỹ, dự báo trong khoa học hình sự…).
Những thông tin về kết quả tìm mộ Liệt sỹ thất lạc tuy chưa được cập nhật đầy đủ; Nhưng đây là dấu hiệu tích cực ban đầu khích lệ rất lớn đối với nghĩa cử đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn.
Thủ tướng Phan Văn Khải đã nói về liệt sỹ những dòng cảm động: “Lòng chúng ta luôn luôn trăn trở vì còn biết bao nấm mồ chiến sỹ vô danh, bao chiến sỹ đã hy sinh mà đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt. Anh linh của các Liệt sỹ dời đời bất diệt”. Nhiều cha mẹ sống không yên lòng, nhiều người con người em mong mỏi được thắp hương trên bia mộ cha anh. Sự trăn trở kéo dài gần nửa thế kỷ hoặc hơn nữa đã trở thành vô vọng. Nay bổng nhiên các nhà ngoại cảm có thể góp phần hướng dẫn tìm được hài cốt người thân – đó là nét dẹp nhân văn cao cả.
Từ một số ca trắc nghiệm cai nghiện đã có kết quả ban đầu, có thể định hướng ứng dụng phương pháp này vào việc làm lành mạnh hóa xã hội, bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan.
Các số liệu trên đây chỉ là kết quả bước đầu. Đề nghị các cơ quan hữu quan, các cơ quan quảnn lý về khoa học, về văn hóa xã hội… quan tâm đầu tư, định hướng để khai thác, phát huy những mặt tích cực của hiện tượng ngoại cảm đặc biệt đồng thời lược bỏ những động thái chưa phù hợp, góp phần xây dựng xã hội văn minh, giàu bản sắc dân tộc.
BAN TỔ CHỨC
CHƯƠNG TRÌNH KHẢO NGHIỆM KHOA HỌC
Liên Hiệp Khoa học UIA
-
Đi tìm di hài vợ tôi - những chuyện khó tin
TP - "Lạ lắm ông ạ ! Ông cố thu xếp trở lại Quảng Nam đi, về Bình Sa gặp ông Năm Chiến đi!" Nhà văn Nguyên Ngọc bảo tôi thế. Rồi anh kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí, mà có thật, diễn ra trước mắt anh.
http://i152.photobucket.com/albums/s...20bi/99631.jpg
Nhà thơ Bùi Minh Quốc bên mộ vợ - nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý
Kỳ I: 17 năm và những cuộc tìm kiếm vô vọng
Một ông tên là Năm Chiến vừa tìm được hài cốt người bạn anh, sĩ quan Sư đoàn 2 QK5, hy sinh đã lâu trên vùng núi Quế Sơn.
Chả là tôi cũng đã từng kể với Nguyên Ngọc việc tôi đi tìm không kết quả hài cốt vợ tôi, Dương Thị Xuân Quý, hy sinh tại thôn 2 (thôn Thi Thại) xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) huyện Duy Xuyên, trong một trận quân Nam Triều Tiên càn quét chốt giữ dài ngày, không được chôn cất, đến nay vẫn không biết thân xác bị vùi lấp chốn nào.
Tháng 4-1983, sau bao nhiêu công việc ngổn ngang của đất nước và gia đình thời hậu chiến, tôi mới thu xếp được chút thời gian và phương tiện để đi tìm Quý lần đầu tiên.
Cùng đi giúp tôi có các anh Đoàn Xoa, Nguyễn Bá Thâm, Vĩnh Quyền, Vũ Đình Thước trong Hội Văn Nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi tôi vừa chuyển công tác từ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ngoài Hà Nội vào nhận nhiệm vụ Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng được mấy tháng.
Chúng tôi về Thi Thại, một thôn nhỏ nằm trên bờ bắc sông Bà Rén. Phải vạch cỏ dại lút đầu người mới vào được đến cái giếng đất, là vị trí mà anh Hải và anh Mười, hai người cùng rúc hầm bí mật với Quý may mắn chạy thoát đã xác định Quý bị địch bắn, và chắc đã chết tại đây.
Sau năm 1975, mỗi lần về Thi Thại tôi không dám lần vào tới chỗ này vì khắp thôn chưa gỡ hết mìn, chỉ thắp hương bái vọng ở vành ngoài. Địch đánh phá quá ác liệt, Thi Thại trở thành thôn trắng dân từ giữa năm 1968, người chạy xuống thôn 3, xuống Xuyên Thọ, người chạy ra Hội An, Đà Nẵng hoặc tứ tán đi chẳng biết những đâu.
Ban Tuyên huấn huyện Duy Xuyên hồi ấy đóng cơ quan tại cái xóm trắng dân um tùm cỏ dại này, và đương nhiên phải gài rất nhiều mìn khắp các ngả để phòng vệ, bình thường thì làm việc trong mấy căn hầm tránh pháo, khi địch lùng sục càn quét thì xuống hầm bí mật.
http://i152.photobucket.com/albums/s...20bi/99632.jpg
Các nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Đoàn Xoa cùng các đồng nghiệp văn nghệ Khu 5 và Quảng Nam trong buổi lễ cải táng nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý
Quý từ trên Khu xuống, cùng sống và làm việc với anh chị em tuyên huấn Duy Xuyên, sau chuyến đi Xuyên Hoà trên vùng tây của huyện trở xuống đây đang tranh thủ ngồi viết thì gặp trận càn.
Đêm 8/3/1969, Quý theo Mười (du kích xã), Hải (đội viên đội vũ trang tuyên truyền huyện) từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát khỏi vòng càn, ra tới góc vườn có cái giếng đất thì Hải đi trước bị vướng mìn sáng, cả ba vội nhảy xuống giếng, địch xộc lại bắn, Quý trúng đạn gục ngã dưới chân Mười, Hải bị thương.
Thế nhưng Mười và Hải cũng đã kịp ném lựu đạn phản kích rồi Mười cõng Hải chạy thoát. Quý nằm lại dưới giếng. Mười kể với tôi: “Chị Quý đứng phía vách giếng đối diện với luồng đạn, chị bị vào ngực khuỵu xuống ngay dưới chân em, giếng lại có nước đến gần thắt lưng, chắc là chị chết dưới giếng anh ạ”.
Căn cứ vào đó, tôi đinh ninh nếu đào chỗ giếng đất lên chắc sẽ tìm thấy Quý. Phát hết cỏ, giếng bị lấp đất lâu ngày nhưng vẫn hiện rõ vành miệng và một phần thành giếng thoai thoải. Cả một ngày trời chúng tôi đào xuống tận lớp đất đen, đào thật rộng ra bốn phía mà chẳng thấy gì ngoài một chiếc mâm nhôm.
Bà Dũng nhà ở liền kề bảo đó là chiếc mâm bà ném xuống để giấu địch trong một trận càn từ đầu năm 1968, nếu Quý nằm dưới giếng, chắc chắn hài cốt phải ở trên lớp đất có cái mâm.
Cuối cùng, tôi đành hốt một ít đất dưới đáy giếng bỏ vào chiếc tiểu sành đem gửi ở nghĩa trang liệt sĩ xã Hoà Phước ven đường số 1 gần TP Đà Nẵng để có chỗ đi về thắp hương vọng niệm.
Từ đó lòng dạ hoang mang chẳng biết làm sao tìm được Quý. Những năm ấy chưa thấy xuất hiện những người có khả năng đặc biệt tìm được hài cốt bị thất lạc, thậm chí ý niệm về điều đó cũng chưa có, ít nhất là trong tôi.
Cho đến khi nghe câu chuyện ly kỳ của Nguyên Ngọc, tôi lại khấp khởi hy vọng. Ai nói thì tôi còn nghi hoặc, chứ Nguyên Ngọc thì tôi không thể không tin. Toàn bộ câu chuyện anh kể cho tôi nghe, sau đó anh đã viết thành bài đăng trên tạp chí Thế giới mới.
Thế rồi, một sáng sớm đầu tháng 4 năm 1995, tôi có mặt tại sân nhà ông Năm Chiến, ở thôn Bình Sa, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Có được buổi sáng này cũng không dễ.
Từ một tuần trước, tôi phải nhờ anh Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy Thăng Bình, cũng là người cùng xóm và thân thiết với ông Năm Chiến, đưa về tận nơi giới thiệu để xin chiếu cố tôi ở xa mãi trên Đà lạt, được xếp vào diện ưu tiên, chứ nếu chờ lần lượt theo thứ tự thì chắc chắn phải cả tháng trời.
Quanh sân nhà ông Năm Chiến và cả bên sân nhà hàng xóm kéo ra tới ngã ba con đường cát, người chờ đợi rất đông. Nhiều người trọ luôn ở đây, trong mấy túp nhà người ta dựng vội cho thuê, không có giường, chỉ mắc võng. Dịch vụ đã kịp mở ra. Kèm theo nhà trọ là mấy cái quán lợp tranh bán bún, mì, cà phê, bia, nước ngọt.
Với rất nhiều hy vọng ở khả năng đặc biệt của ông Năm Chiến mà báo chí và lời đồn đại đã đưa tên tuổi lan đi khắp nước, một người anh cọc chèo với tôi, anh Nguyễn Dy, liền cất công từ Hà Nội vào, dù lúc này anh đã quá lục tuần, lại chẳng lấy gì làm khoẻ vì một tai nạn giao thông.
Mấy hôm sau, bé Ly, con của tôi và Quý, đang rất bận vì nhiệm vụ phóng viên ở báo Phụ Nữ TP HCM cũng cố thu xếp công việc để bay ra. Mọi người thì thầm truyền tin cho nhau: Ông Năm Chiến tuần trước được đón bay vào Sài Gòn tìm được nhiều mộ liệt sĩ lắm, vừa mới về hôm kia đã lại có xe đón đi Quảng Ngãi, sáng nay sẽ về.
Mọi cặp mắt đều chăm chăm ngóng ra con đường cát, nhẫn nại chờ đợi. Cũng như anh em tôi, tất cả những người tới đây đều trĩu nặng trong lòng nỗi day dứt suốt bao năm về một người thân, về nhiều người thân đã mất, phần lớn vì chiến tranh, mà hài cốt còn nằm đâu đó, không biết chốn nào…
Theo chỉ dẫn của một người đã tới đây nhiều lần, tôi viết sẵn một tờ đơn, nội dung ghi rõ: “… Kính mong Thầy giúp cho tìm hài cốt vợ tôi là liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý, quê quán thôn Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng, hy sinh đêm 8/3/1969 tại thôn 2 xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng”.
Một chồng đơn khá dày, phải đến hàng trăm tờ, đặt trên chiếc ghế đẩu dưới cái mái tôn vẩy ra che tạm bên hông nhà dùng làm quán cà phê. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe hóng những chuyện người ta kể với nhau về các cuộc tìm mộ hết sức ly kỳ của ông Năm Chiến.
Tình cờ tôi gặp lại ở đây một người quen cũ, anh Lê Tấn Minh, trước kia là Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh Đoàn Quảng Nam – Đà Nẵng, sau chuyển sang phụ trách lực lượng TNXP.
Anh Minh kể với tôi, chính mắt anh đã chứng kiến ông Năm Chiến chỉ dẫn tìm thấy một bộ hài cốt dưới nền ngôi nhà trụ sở cơ quan anh đóng tại số 37 Lê Lợi - Đà Nẵng. Tôi càng thêm tin tưởng và hy vọng.
Khoảng 7h30 ông Năm Chiến về. Đây là giây phút đầu tiên tôi được nhìn thấy con người huyền thoại này. Đó là một người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi, dáng gầy gầy dong dỏng cao, nước da ngăm đen, gương mặt dầu dãi như tất cả những người nông dân vùng cát miền Trung vốn chịu nhiều vất vả.
Ông mặc bộ đồ âu giản dị, bên thắt lưng có đeo chiếc bóp hoặc bao kính gì đó, trên vai vắt chiếc khăn mặt. Ông thong thả lấy khăn lau mồ hôi, cúi chào mọi người rồi bước vào ngôi nhà ngói nhỏ ba gian, phía trái có thêm hai gian nhà ngang cũng lợp ngói. Gian giữa ngôi nhà chính là nơi đặt bàn thờ. Trên dãy bàn kê dọc trước bàn thờ bày đầy đồ cúng.
Ông Năm Chiến bước lại bộ phản trải chiếu hoa cạnh bàn thờ ngồi nghỉ, lưng dựa vào cửa sổ. Một bà cụ già khép nép đến bên ông, hai tay trịnh trọng trình một tấm giấy cứng khổ lớn, nài nỉ gì đó. Ông Năm Chiến đọc tấm giấy, giọng khổ sở: Trời, bác đem nguyên cả bản gốc tấm bằng này đến đây làm chi, sao bác không phô-tô ra ?...
8h30, ông Năm Chiến xếp một chồng đơn lên bàn thờ rồi thắp hương khấn vái rất lâu. Khấn xong ở bàn thờ trong nhà, ông ra thắp hương ở bàn thờ ngoài trời nơi mép sân. Tiếp đó, ông trở vào ngồi trên chiếc ghế cạnh đầu bàn kê dọc trước bàn thờ trong nhà. Ông ngồi cúi đầu, hai khuỷu tay chống lên mặt bàn, trán gục vào đôi bàn tay chắp lại.
Bắt đầu giờ phút mà tôi cảm thấy là nghiêm trọng. Trong nhà ngoài sân im phăng phắc, không khí linh thiêng bao trùm. Độ hơn mười phút sau, cả người ông Năm Chiến bỗng giật mạnh, giật mạnh. Một âm thanh gì đó như cuộn từ dưới bụng bật lên thành tiếng “ợ”... tựa hồ ông muốn ói mửa.
Những cái giật và “ợ” theo nhau dồn dập hơn, mạnh hơn. Có cảm giác thân xác ông đang bị hành bởi một sức mạnh bí ẩn nào đó. Rồi ông loạng choạng đứng dậy, cặp mắt trợn trừng chỉ thấy lòng trắng, miệng nhể dãi, ông chậm chạp bước từng bước ra hàng hiên, hai cánh tay đưa về phía trước, đôi bàn tay xòe như cánh ăng-ten đang bắt một làn sóng vô hình.
Bằng một giọng trọ trẹ như giọng Huế hoặc Nghệ Tĩnh nhưng phát âm hơi khó nghe, chắc chắn là khác hẳn giọng Quảng Nam ông nói lúc bình thường, ông bắt đầu gọi tên một người trong lá đơn đầu tiên trên xấp đơn được đặt lên bàn thờ khi nãy - xấp đơn lúc này vẫn nằm trong bàn thờ. Chính xác ra, không phải ông gọi tên, mà gọi họ.
- Họ…Nguyện !... Họ…Nguyện !...(họ Nguyễn)
Nhịp độ tiếng gọi chậm, nhấn từng âm một.
Theo cảm nhận bấy lâu nay của mọi người và họ nói lại cho tôi hay, thì đó không phải là tiếng gọi của ông Năm Chiến, mà là tiếng gọi của Ông. Ông đây nghĩa là một hồn thiêng nào đó – có lẽ từ thời xa xưa, phút này đã về nhập vào thân xác con người có tên là Năm Chiến.
Tôi cũng có cảm nhận mang máng thế, nhưng cũng không dám hoàn toàn xác quyết. Thật khó diễn tả trạng thái này. Con người duy lý và con người tâm linh của tôi tranh chấp. Một mặt thực sự tin vào sự linh thiêng và thành tâm chờ đón điều kỳ diệu sắp hiển hiện, một mặt cái quán tính duy lý vẫn hoạt động và tỉnh táo quan sát.
-Họ…Nguyện !...
Thân chủ họ Nguyễn đã đứng chực sẵn gần đó, vội bước tới bên ông Năm Chiến, tay cầm giấy bút, ghi vội những lời Ông nói. Một người khác đưa chiếc máy ghi âm sát lại để hỗ trợ cho cây bút khó ghi kịp.
“Nhà ngươi rọ chưa ? Nhà ngươi rọ chưa?” – Ông luôn nhắc lại câu hỏi đó, sau mỗi đoạn ra lời chỉ dẫn. Rồi Ông (trong thân xác ông Năm Chiến) quay vào nhà, đến bên bàn. Thân chủ trải vội tờ giấy trắng và đưa Ông cây bút. Ông vẽ sơ đồ chỉ dẫn tìm hài cốt…
Hết buổi sáng, xong được mười một trường hợp.Chưa đến lượt tôi.
Buổi chiều, đơn của tôi nằm ở vị trí đầu tiên. Thật căng thẳng những giây phút chờ đợi ông Năm Chiến thắp hương, khấn, ngồi tĩnh tại bên bàn tựa trán trên hai bàn tay chắp lại để Ông xuất hiện qua những cơn giật, rồi rời chỗ bước loạng choạng ra đứng trước thềm ngửa mặt lên và gọi.
- Họ…Bùi ! Họ…Bùi !
Tôi vội bước lại sát bên, giấy bút sẵn sàng, hồi hộp chờ nghe và ghi từng lời ông. Những lời ông nói cho tôi, nghe rất khó, chỉ rõ nhất là hai tiếng “họ Bùi” và mấy tiếng “nhà ngươi rọ chưa?” nhắc đi nhắc lại, cùng mấy tiếng lướt lướt mơ hồ mà tôi đoán là hình như nói về một dòng nước, hoặc nước, hoặc chỗ có nước và một bờ tre nào đó.
Những tiếng mơ hồ ấy khiến tôi liên tưởng ngay đến dòng sông Bà Rén, cái giếng đất, cái bờ tre, những hình ảnh gắn liền với những giây phút cuối cùng của Quý.
Ông Năm Chiến loạng choạng bước trở lại chỗ đầu chiếc bàn vừa ngồi khi nãy. Tôi biết đây là lúc vẽ sơ đồ như từ sáng tới giờ tôi thấy ông đã làm cho mọi người, vội tiến đến đặt mấy tờ giấy trắng và cây bút lên mặt bàn. Ông vẫn đứng, cầm lấy bút và vẽ rất nhanh.
Mấy giây sau tôi đã có một tấm sơ đồ. Ba vệt loằng ngoằng cùng chiều như làn sóng chạy chéo trang giấy. Một vệt nữa cũng cùng chiều nhưng làn sóng nhỏ hơn, mau hơn. Cách ra một chút là một ô hình thang dài, phía cạnh nhỏ không thẳng mà vòng cung, bên trong có một chấm nhấn đậm và một gạch ngắn.
Kề bên hình này là một khoanh tròn nhấn đi nhấn lại rất đậm, liền kề là một cái gạch một đầu nhấn đậm từ đó toả ra ba nét toé ngắn. Sau cùng là con số 1,2m viết hơi to hơn mấy hình kia. Thú thực là nhìn vào đó rất khó hiểu, tôi chỉ suy đoán bằng sự liên kết với những ấn tượng đã có.
Tôi chỉ hình dung thấy dòng sông Bà Rén, bờ tre và cái giếng đất. Nhưng đối chiếu với thực địa thì lơ mơ lắm. Con số 1,2m thì chắc là chỉ khoảng cách, nhưng chịu không thể xác định đó là khoảng cách giữa vật chuẩn nào với chỗ cần phải đào, hay là phải đào sâu 1,2m?
Tôi muốn hỏi lại để có được một lời giải thích rõ hơn, nhưng dường như bị “ám” bởi cái chất huyền bí của dạng ngôn ngữ âm âm dương dương lúc ấy nên tự nhiên tôi ngại ngùng.
Trên đường trở lại Thi Thại, tôi và anh Dy cùng xem xét phân tích bản sơ đồ rồi cùng xác định: chỗ được khoanh tròn đậm là cái giếng đất, cứ đào sâu 1,2m và sâu hơn nữa, rộng ra bốn phía 1,2m và rộng hơn nữa. Cả một ngày đào không thấy gì.
Thực ra chúng tôi đã lặp lại việc đào tìm của năm 1983. Hôm sau, tôi và anh Dy lại vào Bình Sa, lại đặt đơn xếp hàng chờ đến lượt. Khi đến lượt tôi, được nghe chỉ dẫn như sau, tôi ghi lại mấy câu đáng chú ý nhất : “... từ dưới hầm... mái tóc quá dài vướng cành cây...… trúng chất sáng...…giặc bắn chết trong hầm...…nằm ven sông, hướng đông bắc...…Đại Hàn chôn...…khai quật chưa đến...…trên 1,2m...”.
Lời chỉ dẫn này khiến tôi bán tín bán nghi, bởi Mười và Hải đều khẳng định họ đã ra khỏi hầm cùng nhảy xuống giếng, Quý bị địch bắn hạ dưới giếng, các chi tiết này cùng chi tiết trúng chất sáng (tức là vướng mìn sáng) thì tôi đã viết bài đăng báo in sách nhiều lần nhiều người đã biết, không phải là một thông tin mới.
Cái thông tin mới mà ông đưa ra thì lại sai, bởi mái tóc của Quý là mái tóc ngắn. Một thông tin mới nữa là Đại Hàn chôn khiến tôi không thể không nghĩ đến tình huống: sáng hôm sau cái đêm định mệnh ấy, địch kéo xác Quý từ dưới giếng lên và vùi lấp ở đâu đó. Nhưng ông Năm Chiến (tức Ông) lại nói: Nằm ven sông, hướng đông bắc...
Quả là cái giếng đất nằm ở hướng đông bắc con sông Bà Rén vốn chảy từ tây xuống đông, tại quãng này có một khúc quanh hơi chếch về phía nam, nhưng từ giếng đất tới bờ sông khoảng cách khá xa, dễ đến 300m, vậy nằm ven sông là ven như thế nào và lấy vật chuẩn nào để xác định được nơi cần đào tìm?
Chờ lúc ông Năm Chiến ở trạng thái bình thường, tôi đề nghị được đón ông ra Thi Thại để trực tiếp chỉ dẫn tìm kiếm trên thực địa nhưng ông bảo thời gian này đang có quá nhiều người sốt ruột đợi được phục vụ ngay, phải chừng tháng rưỡi hai tháng nữa mới đi được.
Về lại Thi Thại giữa lúc buồn phiền bối rối thì mấy anh em trong xóm đang giúp tôi đào tìm, mách: ở xã Bình Tú (cũng thuộc huyện Thăng Bình) có ông thầy Tám hay lắm, không thua gì ông Năm Chiến nhưng ổng mới xuất hiện nên ít người biết, cứ vào mời ổng ra tìm trực tiếp tại đây thế nào cũng thấy. Tôi vội phóng vào Bình Tú.
Hỏi thăm mãi mới tới nơi. Thầy Tám có lẽ chỉ khoảng 35-36 tuổi gì đó chứ không già như tôi hình dung qua cái tiếng thầy mà người ta tôn xưng. Ông sống trong một ngôi nhà cổ lợp ngói âm dương tàn tạ giữa khu vườn rộng đầy lá rụng.Vắng vẻ, quạnh hiu. Gọi mãi mới thấy ông từ vườn sau bước ra, đoạn đi rửa chân tay rồi tiếp tôi.
Nghe tôi trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng, ông trịnh trọng mặc áo lễ nhận lễ vật đặt lên bàn thờ thắp hương và cúng. Ông bảo tôi ngồi bên cạnh ông, hơi lui lại đằng sau một chút, trong lúc ông đọc một bài niệm gì đó. Xong, ông bảo:
- Chỗ này, đông bắc có dòng thủy, nam có dòng thủy, bắc có dòng thủy, có bờ tre, đào sâu 9 tấc là thấy.
Tôi ngẫm nghĩ: Đông bắc và bắc có dòng thủy thì quan sát trên thực địa chưa thấy, trừ phi đó là mạch nước ngầm, còn nam có dòng thủy thì đó chính là dòng sông Bà Rén ở cách những 300m, bắc có bờ tre thì quả thật phía bắc của giếng đất cách một quãng ngắn là cái bờ tre còn lại từ thời Quý hy sinh, hiện anh em đã đào tới gần sát chân tre.
Tôi mời ông ra thực địa để chỉ dẫn trực tiếp, ông nhận lời và bảo lúc này đã chiều muộn, về sắm lễ, gồm vàng mã, hoa quả và rượu, ngày mai 1h30 chiều đón ông, 3h làm lễ. Ông dặn thêm: Ngày mai khi vào đón nhớ đem theo một nắm đất chỗ đang đào.
Hôm sau, tôi vào đón ông lúc 11 giờ, sớm hơn dự định, để mời ông ăn trưa ở thị trấn Hà Lam (trên đường đi) cho tiện. Ông thấy vậy cũng được. Trước khi đi, ông đặt nắm đất tôi đem đến lên bàn thờ thắp hương cúng.
Ăn trưa xong, trên đường ra Thi Thại, ngồi sau xe máy tôi chở, có lúc ông Tám ghé tai tôi bảo: Kỳ này tôi tìm được chị cho anh, anh viết bài đăng báo nghen ! Nghe ông nói thế, tôi không khỏi gợn lên một chút rầu lòng nghi hoặc nên chỉ ừ ào cho qua chuyện.
Tuy vậy, tôi lại tự trấn an: Lúc này là lúc ông Tám đang trong trạng thái bình thường với những ham muốn bình thường, còn cái khả năng đặc biệt thì đang chìm sâu và chỉ xuất hiện vào một khoảnh khắc nào đó, nhờ vào một cơ duyên nào đó, phụ thuộc vào những yếu tố nào đó mà mọi người, kể cả ông Tám chưa thể biết được.
3 giờ chiều, ông Tám thực hiện các nghi lễ cúng cầu bên miệng cái hố anh em đang đào. Nghi lễ này lúc đầu cũng giống như chiều hôm trước ở nhà ông. Nhưng tiếp theo phải làm một công đoạn khác hẳn.
Sau khi ông buông một lời phán: “Chỗ này có người chết treo!” liền bảo tôi đến ngồi vào chỗ ông đang cúng. Ông tháo chiếc khăn sa tanh vàng đang quàng trên cổ quàng sang cổ tôi và bảo hai người ngồi hai bên từ từ siết lại như động tác thắt cổ. Một trong hai người ấy là anh Nguyễn Bá Thâm sau này kể lại rằng tôi bị thắt đến tím cả mặt mày.
Tôi thì lúc ấy tất nhiên chẳng thể biết mặt mũi mình ra sao, chỉ cố chịu đựng cái cảm giác ngộp thở để mong sẽ có một sự xuất thần kỳ diệu nào đó ở ông Tám.
Còn ông Tám cầm bó nhang nghi ngút khói lầm rầm khấn khứa rồi đột ngột hô “thôi!” đồng thời vừa ném mạnh bó nhang vừa hô tiếp “đào chỗ đó!”, tay chỉ về phía bó nhang vừa rơi.
Chỗ bó nhang rơi là góc miệng cái hố đã được đào đến gần sát chân tre. Mọi người lập tức thay nhau vào việc. Trước hết phải bươi hết chỗ đất đã tấp thành vồng lớn bên miệng hố, chặt tre, đánh hết gộc tre để mở thêm mặt bằng. Đào rộng ra, đào sâu xuống.
Tôi nhớ lại lời ông Tám nói chiều qua: Đào sâu 9 tấc là thấy và hồi hộp theo dõi từng nhát cuốc, từng nhát xẻng. Nhưng đã quá 9 tấc, quá 1m cũng chưa thấy gì. Cứ đào tiếp, sâu đến chạm cả mạch nước. Tôi mừng thầm: Bắc có dòng thủy, hoá ra là có thật.
Nước dềnh lên rất nhanh. Phải đi thuê gấp một chiếc máy bơm hút cạn nước rồi lại đào tiếp. Bùn lệt sệt. Phải múc từng xô bùn dòng dây kéo lên. Bỗng tôi nghe tiếng reo khẽ từ dưới hố sâu :
- Có xương nè ! Tôi nhoài người nhìn xuống hố. Rồi lại nghe tiếng nói: Mà tuồng như…như… Sao bự quá vậy hè? Nguyễn Bá Thâm ngồi cạnh tôi đón lấy coi, xì một tiếng thất vọng: È, xương bò!
Một lát sau, nghe ở dưới đáy hố tiếng cuốc chạm kịch kịch. Cuốc, xúc, moi, hối hả. Rồi thì anh em lôi ra một tấm ván ngấm bùn thâm đen. A, thôi rồi, chắc đây là ván lót hầm bí mật, hình như cái hầm này là của cánh Hội An.
Một người lớn tuổi, hẳn thuộc thế hệ đã tham gia kháng chiến và hiểu biết tình hình địa phương thời ấy, nhận xét. Tôi cũng đã được biết trên địa bàn thôn Thi Thại này thời ấy có nhiều đơn vị đứng chân, nào Tuyên huấn Duy Xuyên, dân y Duy Xuyên, thị đội Hội An… Hầm bí mật thường đào ngầm chân tre và hầm của đơn vị nào đơn vị nấy biết. Liệu còn gì trong hầm không? Biết đâu…
Anh em moi tiếp và đào rộng ra nữa. Nhưng không tìm được gì ngoài tấm ván đã được lấy lên.Trời đã xẩm tối.Tôi và anh Dy quyết định kết thúc công việc trong nỗi thất vọng. Tôi đưa ông Tám trở về Bình Tú. Dọc đường, tôi an ủi ông: Ngay như ông Năm Chiến thì hiệu suất tìm được cũng chỉ 70 – 80%.
Còn tiếp
Nhà thơ Bùi Minh Quốc
-
Kỳ II: Ông Đặng Xuân Ba, người chỉ đúng nơi Quý nằm
Ra tới Đà Nẵng, việc đầu tiên là tôi gặp nhà điêu khắc Phạm Hồng, người bạn thời kháng chiến, nhờ anh phác sơ trên giấy một tấm bia tưởng niệm dự định sẽ dựng bằng đá Ngũ Hành Sơn cỡ nho nhỏ phù hợp với số tiền mà bố con tôi có.
- Phác thảo thì dễ thôi, để làm sau, mà có lẽ cũng chả cần, bây giờ đi tìm đá trước đã.
Phạm Hồng lấy xe máy chở tôi qua bên kia sông Hàn vào Hoà Hải, nơi có làng đá Non Nước nổi tiếng. Vòng đi vòng lại vài lần, bỗng Phạm Hồng ghé vào dừng xe trước một cửa hàng lớn có cái bảng hiệu rất độc đáo NGUYỄN VIỆT MINH, quay lại vỗ vai tôi:
- Chu cha, nhìn này, cái khối đá …
Chếch bên mép cửa hàng, trên nền cát lề đường, một khối đá trắng đặt nằm có dáng tự nhiên rất đẹp, hình trụ, một đầu to thon dần về phía đầu nhỏ, vừa nhìn đã thấy mê. Mê, nhưng ngại. Vì nó quá lớn, đường kính đáy phải đến trên nửa mét, dựng lên thì cao phải đến trên 2 mét. Tôi thì thầm:
- Thích quá, nhưng làm sao mình mua nổi.
- Thì cứ hỏi giá thử coi.
Chúng tôi bước vào cửa hàng, gặp ngay ông chủ ra tiếp. Ông có gương mặt phúc hậu, đượm chút phong trần, trạc tuổi ang áng cũng ngang tôi với Phạm Hồng. Ông cho biết khối đá ấy giá 2 triệu rưởi. Tôi và Phạm Hồng im lặng nhìn nhau.
Phạm Hồng thăm dò: Có bớt được không? Ông chủ bảo không bớt được và giải thích rằng toàn bộ khu vực Ngũ Hành Sơn đã bị cấm khai thác đá, khối đá kia là ông mua từ Thanh Hoá chở vào định sẽ xẻ ra làm tượng nhỏ.
Tôi ghé tai Hồng bảo khẽ: Ông ấy có bớt chắc cùng lắm cũng chỉ vài trăm ngàn, mà chừng đó thì mình cũng chẳng mua nổi.
Hồng bảo, ừ, nhưng mà nó đẹp quá, đúng với mong muốn của mình quá, chỉ cần để nguyên thế thuê thợ khắc văn bia vào, đích thân Hồng sẽ chạm phù điêu chân dung Quý bên trên văn bia rồi dựng lên là được một bia tưởng niệm đẹp và độc đáo hết ý.
Quả thật sau cái phút nhìn thấy khối đá kia hai chúng tôi như bị hớp hồn, không còn thấy một khối đá nào hấp dẫn nổi mình. Hồng lại gạ bớt. Ông chủ bảo bớt cho hai trăm ngàn, và hỏi mua để làm gì?
Trong lúc tôi đang thầm tính đến việc sẽ đề nghị Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản tác phẩm của Quý và ứng trước nhuận bút để bù đắp vào khoản thiếu hụt thì Hồng giới thiệu về tôi với ông chủ, về sự hy sinh của Quý và hoàn cảnh của tôi hiện nay. Nghe xong ông chủ bảo bớt hẳn 5 trăm ngàn, chỉ lấy tròn 2 triệu…
Từ đấy hàng năm tôi đều cố thu xếp mọi việc ở Đà Lạt để về đây một hai lần. Lòng tôi vẫn mơ màng Quý cũng nằm quanh quất đâu đây thôi. Tôi gặp làm việc với UBND xã Hoà Phước xin dỡ bỏ ngôi mộ tượng trưng tại NTLS đằng ấy.
Nhân tiện xin kể thêm, suốt thời gian dựng bia, hễ cứ nghe anh em mách bảo ở đâu có “thầy” là tôi lại tranh thủ tìm đến. Chẳng hạn một buổi tối tôi được dẫn sang Duy Vinh, xã liền kề Duy Thành. Trong ngôi nhà tôn nền đất trống trải, lạnh lẽo và tối om, thấy một ông “thầy” còn trẻ cùng người “phụ tá” ngồi cạnh chiếc bàn gỗ mộc có chiếc đèn dầu liu hiu.
Sau mấy thủ tục đầu tiên (đặt một món tiền nhỏ vào cái đĩa và thắp nhang), thì ông “thầy” duỗi chân vặn mình ợ oẹ, liếc qua cũng thấy ngay là động tác giả, miệng xổ một tràng âm thanh quái dị ra điều là “hồn” đang “phán” đấy, vụng về đến mức tôi cố nén để khỏi phì cười.
Gã “phụ tá” phiên dịch rằng “hồn” bảo nhà ngươi phải cúng một chiếc Dream đời mới thì “hồn” chỉ chỗ cho. Tôi ậm ừ gật gật làm bộ lắng nghe rồi vội cáo lui. Đại khái thế, cái tâm trạng khắc khoải thường trực đã cuốn tôi đến vài ba chỗ hắc ám như thế ở Duy Xuyên, Điện Bàn thời gian ấy.
Mỗi lần về đây tôi được vợ chồng Võ Bắc cho biết, vào các ngày lễ, tết, cơ quan chính quyền, đoàn thanh niên, phụ nữ, văn nghệ địa phương đều có đến đặt vòng hoa và thắp hương tưởng niệm Quý.
Việc hương khói thường xuyên thì tuy không nghe kể nhưng tôi biết vợ chồng Bắc luôn chăm lo chu đáo. Đời sống nhà Bắc năm sau đều khá hơn năm trước, Bắc khoe thế. Và đặc biệt, sau ba đứa con gái đầu, năm 1999 vợ Bắc bỗng sinh thêm được thằng con trai…
http://i152.photobucket.com/albums/s...0bi/100326.jpg
Chiếc cặp tóc tìm thấy cùng với hài cốt nhà văn Dương Thị Xuân Quý
Tôi ở lại Thi Thại thêm mấy ngày và tìm gặp anh Ba Lữ (Võ Thế Lữ), nguyên xã đội trưởng xã Xuyên Tân (Duy Thành) vào thời gian Quý hy sinh. Tôi gặp anh vì một việc khác, không ngờ lại nhận được một thông tin rất giá trị.
Anh Ba Lữ kể, anh là người đầu tiên dẫn anh em du kích vào thôn 2 (Thi Thại) ngay sau khi bọn Nam Triều Tiên rút đi. Trước đó anh đã được nghe anh em báo cáo khu vực Thi Thại có hai người hy sinh là chị Quý nhà báo và ông Hiểu cán bộ thôn.
Ông Hiểu thì tìm được ngay nhờ thấy một nấm đất đắp sơ sài trên có cắm cây thập giá buộc bằng que tre, còn chị Quý thì không thấy đâu, nhưng gặp một chỗ ruồi bu rất nhiều liền tổ chức đào bới mà cũng chẳng thấy gì ngoài những cành tre gộc tre chồng chất rối bời.
Chi tiết này thật mới đối với tôi, hồi giờ chưa từng nghe ai nói. Tôi vội chở anh Ba Lữ tới thực địa nhờ anh chỉ cho cái chỗ đặc biệt đáng chú ý ấy, và nhờ Bắc, Chính đào ngay.
Không đầy 30 phút sau, ở độ sâu chừng 60-70cm, dưới lòng một giao thông hào đã bị lấp, tôi tìm thấy một tấm dù hoa màu cỏ úa. Chỗ ấy chỉ cách vị trí dựng bia tưởng niệm (giếng đất cũ) hơn 5m.
Chị Nguyễn Thị Một, nay là Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng Nam, là người sống cùng những ngày cuối của Quý, do đi công tác trước trận càn nên thoát được, đã xác nhận “đó chính là tấm dù chị Quý đã dùng”.
***
Sau những lần tìm kiếm vô vọng từ năm 1983 đến năm 2000, cuối cùng mới có cơ duyên cho tôi gặp được đúng người cần gặp, đó là anh.
Đầu năm 2006 anh Nguyễn Trung An một lần đến nhà tôi, bảo:
- Ông Quốc à, có việc rất quan trọng tôi cần nói với ông…
Anh Nguyễn Trung An hơn tôi gần chục tuổi, trung tá cựu chiến binh, nguyên Phó Chủ tịch thường trực Hội Văn nghệ Lâm Đồng, chúng tôi là đôi bạn vong niên thường qua lại nhà nhau chuyện trò về văn chương, thế sự. Nghe anh nói vậy với một giọng thì thầm hơi có vẻ bí mật, tôi hồi hộp chờ đợi.
- Ông Quốc có nhớ ông Ba, bố vợ thằng Dũ không ?
- Nhớ…
- Ông Ba thế mà có khả năng đặc biệt lắm đấy, ổng đã tìm được nhiều mộ liệt sĩ bị thất lạc, nhưng rất kín tiếng không cho đưa tin. Ông Ba có ngỏ ý riêng với tôi rằng muốn giúp anh Quốc tìm chị Quý, nhờ tôi nhắn: Khi nào anh Quốc sắp xếp được thời gian về Quảng Nam thì cho biết để ông ấy cùng đi.
- Vậy à? Hiện nay anh Ba đang ở đâu?
- Ông bà ấy đã chuyển về Sài Gòn lâu rồi, có nhà dưới ấy rồi, nhưng riêng ông Ba vẫn thuê một căn phòng trong khu tập thể cơ quan ở Đà Lạt đây, bên phường 10, để làm trạm liên lạc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, bữa nào ông thong thả tôi đưa sang ổng chơi.
- Dạ, dạ… tôi còn bận ít ngày, để bữa nào rảnh tôi sẽ điện sang anh.
Khoảng mươi hôm sau, một buổi tối, anh An dẫn tôi tới nhà anh Ba. Tôi quen anh Ba từ ngót hai chục năm trước. Ấy là do con rể anh, nhà báo Lưu Hữu Nhi Dũ, lúc ấy vừa tốt nghiệp đại học về làm ở cơ quan tôi, Hội Văn nghệ Lâm Đồng.
Từ khi vợ chồng Dũ chuyển xuống Sài Gòn tôi ít có dịp gặp lại, và anh Ba thì hoàn toàn không gặp nữa từ sau một lần Dũ đưa tôi sang uống rượu với anh bên khu tập thể của nhà nghỉ Công đoàn tỉnh, nơi anh đang công tác sau khi chuyển ngành từ quân đội ra.
Tối hôm đó gặp lại anh Ba tôi mới được biết tên họ đầy đủ của anh là Đặng Xuân Ba. Anh kể, anh người họ Đặng Xuân ở Nam Định, ông nội vào làm quan ở Điện Bàn thời triều Nguyễn, cha lấy vợ Quảng Ngãi, định cư ở Quảng Nam, anh tham gia bộ đội đánh Pháp tại đây rồi tập kết ra Bắc.
Năm 1965 lại đi B, thuộc một đơn vị thông tin của Bộ Tổng hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên. Anh cũng kể, vợ anh, chị Dương Thị Tuyết Minh với Dương Thị Xuân Quý vợ tôi có thời gian cùng học phổ thông cấp 2 ở Hà Nội, vẫn nhớ và hay nhắc lần Quý lên Thái Nguyên công tác đã đến đơn vị thăm Minh khi chị đang trong quân ngũ.
Chúng tôi bàn việc đi tìm Quý.Tôi kể lại vắn tắt về các lần tìm kiếm trước đây. Tôi cũng không giấu việc các chị ruột của Quý đã đến gặp cô Phan Thị Bích Hằng để “gọi hồn”, được nghe lời Quý qua cô Hằng bảo đừng tìm nữa, từ đó tôi và gia đình quyết định ngừng tìm kiếm.
Anh Ba yên lặng một lát rồi hỏi tôi về mọi chi tiết trong những giây phút cuối của Quý. Tôi kể lại tất cả những gì tôi đã được nghe từ Mười và Hải.
Tôi cùng anh Ba xem lại công việc của mỗi người để có thể chắt ra một quãng thời gian hợp nhau cùng về Quảng Nam. Lịch công việc của anh Ba rất sít sao, dày đặc lời hẹn với các gia đình liệt sĩ trên nhiều vùng đất nước. Thế rồi sau mấy lần nữa liên lạc qua điện thoại, chúng tôi thống nhất sẽ lên đường ngày 1/8/2006.
Anh Ba đi xe của vợ chồng anh Thanh, một gia đình liệt sĩ có người em vợ hy sinh ở khu vực đèo Mang Giang, tỉnh Gia Lai, và người anh ruột hy sinh ở một xã thuộc vùng tây Duy Xuyên. Cùng đi có anh Nguyễn Đình Mai, đại tá cựu chiến binh, nguyên thành đội trưởng thành đội Đà Lạt.
Tôi bảo anh Ba cứ đi đèo Mang Giang trước (xuất phát lúc 4h sáng), tôi đi chuyến xe đò buổi chiều về thẳng Tam Kỳ, hẹn sẽ gặp nhau dưới đó sau khi anh đã xong việc ở Mang Giang rồi cùng ra Duy Xuyên.
Tôi đổi xe lúc 7h tối ở Nha Trang, xe chạy suốt đêm và thả tôi xuống Tam Kỳ lúc 6h30 sáng ngày 2/8/2006, thuê xe ôm về trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Nam ở nhờ.
Tôi thổ lộ với anh Nguyễn Bá Thâm - Phó Chủ tịch thường trực Hội, mục đích của chuyến về lại Đất Quảng lần này, và chuyện này tôi cũng chỉ nói riêng với Thâm, trong gia đình tôi cũng chỉ nói riêng với Thục, vợ tôi, trước khi đi, ngoài ra không ai biết cả, bởi trong lòng hầu như không còn hy vọng, nói ra lại khiến mọi người trông chờ phấp phỏng, điều mà tôi không muốn.
Tối 2/8, tôi gọi điện cho anh Ba. Anh báo tin: Đã tìm được hài cốt liệt sĩ ở Mang Giang, ngày mai sẽ đi theo đường Ngọc Hồi (Kontum) ra Phước Sơn rồi xuống Tam Kỳ.
Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau ở Tam Kỳ vào ngày mai. Sáng 3/8, tôi thầm tính: Anh Ba đi từ Mang Giang vòng ra Phước Sơn, chắc cũng phải trưa hoặc đầu buổi chiều mới tới Tam Kỳ.
Tính vậy, bèn mượn Nguyễn Bá Thâm chiếc xe máy phóng ra Duy Thành (Duy Xuyên) để thắp hương khấn Quý và nói chuyện trước với vợ chồng Võ Bắc, nhờ Bắc giúp thuê sẵn người chuẩn bị hôm sau (4/8) sẽ đào tìm. Tôi dự liệu việc đào tìm cũng phải vài ba ngày. Tính vậy nên đi người không, trưa sẽ trở lại có mặt ở Tam Kỳ để đón anh Ba.
Nhưng sự việc diễn tiến vượt ngoài mọi dự liệu. Khoảng mười giờ kém, tôi nhận được điện thoại của anh Ba. Anh hỏi: Anh đang ở đâu? Tôi đang trên đường ra Duy Xuyên. Anh đang ở đâu? Chúng tôi đang đi trên đường số 1, đã gần tới Thăng Bình.
Lúc ấy tôi đang dừng xe cách thị trấn Hà Lam huyện lỵ huyện Thăng Bình khoảng hơn 1km, bèn dặn ngay anh Ba: Vậy tôi chờ các anh ở bưu điện Thăng Bình ngay bên đường số 1 chỗ góc ngã tư Hà Lam rồi ta cùng ra Duy Xuyên.
Mười lăm phút sau chúng tôi gặp nhau, tôi chỉ đường cho người lái xe rồi hướng dẫn ra Duy Xuyên, xuống thẳng Duy Thành. Xe đậu ngoài đường cái, gia đình anh Thanh cùng anh Mai ngồi lại trên xe, tôi chở anh Ba bằng xe máy vào thôn Thi Thại. Lúc ấy khoảng 10h30.
Anh Ba đứng trước bia tưởng niệm Quý, đọc văn bia, nhìn quanh bốn phía xem xét địa hình, hỏi lại tôi một lần nữa các chi tiết diễn biến trước giây phút cuối của Quý trong đêm 8/3/1969, bảo tôi chỉ trên thực địa vị trí tìm thấy tấm dù, vị trí bờ tre và giao thông hào xưa kia như thế nào.
Anh cũng hỏi Võ Bắc về địa hình mà Bắc thấy từ khi về ở trên khuôn viên này. Yên lặng một lát, anh Ba bảo: Tôi nghĩ là ở hướng này ! Anh khoát tay chỉ về hướng tây bắc, tính từ vị trí đứng quay mặt vào bia tưởng niệm (bia dựng quay về hướng bắc).
Rồi anh đi về hướng anh vừa chỉ đó, qua cạnh giếng xây, gần bên cây rơm và chuồng bò, qua bụi chuối xuống vườn bắp, vòng qua vòng lại một chặp, trở về trước sân, bảo: Chiều, hai giờ mình làm.
Tôi dặn Bắc thuê giúp người đào, anh Ba bảo: Không cần nhiều đâu, hai người thôi. Bắc nói: Vậy đã có cháu đây, kêu thêm một người nữa thôi. Anh Ba dặn mua ít trái cây, tôi nói Hảo vợ Bắc mua giùm luôn.
Tôi đèo anh Ba trở ra đường cái chỗ xe đậu rồi cùng vợ chồng anh Thanh và cựu đại tá Mai lên một quán cơm trên đường số 1 ăn trưa. Ăn xong mới hơn 12 giờ.
Thấy còn sớm, vợ chồng anh Thanh cũng nóng lòng muốn lên phía tây Duy Xuyên, nơi anh có người anh ruột hy sinh tháng 11/1967, trong giấy báo tử ghi là xã Xuyên Mỹ. Tôi hỏi anh chủ quán cơm: Xuyên Mỹ ngày xưa giờ gọi là Duy gì, thì được cho biết là Duy An.
Trao đổi ý kiến một lát, vợ chồng anh Thanh nhất trí buổi chiều nay anh Ba tập trung tìm kiếm ở Thi Thại, và anh Ba quyết định vào việc sớm, không đợi đến 2 giờ. Chúng tôi trở lại Thi Thại lúc 12h30. Anh Ba đặt đĩa trái cây trước bia tưởng niệm, bảo tôi thắp hương khấn. Thắp xong ba nén hương, tôi khấn:
“Quý ơi, hôm nay có anh Đặng Xuân Ba cùng về đây giúp anh cố tìm em một lần nữa, em linh thiêng hãy cho anh lần này được thấy em, nếu em cho thấy, thì xin cho âm dương”.
Anh Ba hướng dẫn tôi cách cầm và gieo hai đồng tiền cổ trên chiếc đĩa sắt tráng men.Tôi gieo hai lần đều không được âm dương. Bỗng thấy một bàn tay đặt nhẹ trên vai trái, tôi ngoảnh sang, thì ra anh Mai, anh ghé tai tôi bảo nhỏ: Ông quì xuống đã rồi hãy xin. Tôi quì xuống. Bao lâu nay khi cúng giỗ trong nhà hay mỗi lần về đây thắp hương tưởng niệm Quý, tôi chỉ đứng vái rồi cúi xuống cắm hương. Đây là lần đầu tiên tôi quì. Tôi gieo lần thứ ba. Hai đồng tiền hiện ra âm dương.
Anh Ba dẫn tôi đi lên hướng tây bắc cách bia tưởng niệm khoảng 25m, cạnh một bụi chuối chỗ góc vườn bắp, bảo tôi thắp hương và gieo xin âm dương. Tôi gieo và được ngay âm dương.
Anh Ba bảo tôi cắm hương chỗ đó, và anh lấy một que tre cắm làm mốc cách ba nén hương độ hơn gang tay. Xem đồng hồ, anh bảo: Bây giờ 1 giờ kém mười lăm, để 1 giờ mình đào. Chúng tôi vào nhà uống nước trò chuyện một lát đến 1 giờ thì trở ra vị trí ấy.
Nhưng khi Võ Bắc và cháu Nam (gọi Bắc là cậu ruột) sắp động thổ thì anh Ba bảo khoan hãy đào. Anh đứng yên lặng một lát rồi bước đi khoảng hơn 2 m chếch về hướng tây bắc ra rìa bên ngoài vườn bắp và chỉ xuống chân: Đây, đào chỗ này!
Anh bảo tôi đứng thay vào chỗ anh, chỉ tay xuống đất để anh chụp ảnh, rồi lấy xẻng chấn một khuôn hình chữ nhật 2m x 0,70m. Bắc và Nam bắt đầu đào. Ban đầu là lớp đất mượn. Khoảng hơn nửa tiếng sau, hết lớp đất mượn, ở độ sâu hơn 1m, Bắc đưa lên cho anh Ba một mẩu gì đó màu nâu hồng cỡ bằng ngón tay út: Hình như là xương chú ạ.
Anh Ba cầm lấy, nhìn, và bảo: Đúng, xương.Anh đưa tôi coi. Tôi cầm lấy coi, chỉ biết vậy, chưa hiểu thế nào, khẽ hỏi anh Ba: “Sao lại màu nâu hồng anh nhỉ ?”. Anh bảo: “Ở trong đất lâu năm, nó màu như vậy”. Bắc và Nam vẫn tiếp tục đào. Độ hơn 5 phút sau, nhát xẻng của Bắc lật ra một vật gì sáng sáng.
Bắc nhặt lên đưa anh Ba: Hình như cái kẹp tóc, chú à. Anh Ba cầm lấy coi, bảo: Đúng, cái kẹp tóc. Anh lau sạch đất bám trên mặt chiếc cặp bằng đuy-ra, thấy hiện ra hình ngôi sao ở chính giữa, hai bên là hình hoa mai nối tiếp hình trái tim.
Anh gỡ lớp đất bám dày ở mặt sau, thấy lộ ra hai cọng giây thép đã rỉ, bên dưới là một lớp nhựa đệm màu nâu xỉn. Anh dùng ngón tay khơi nhẹ lớp nhựa đã mục, gãy một miếng nhỏ. Anh khơi tiếp. Gãy một miếng lớn hơn.Và…
Trước mắt tôi, trên mặt sau chiếc cặp là hai chữ X Quý. Bên dưới là chữ EI. Anh Ba khều hết lớp nhựa, thấy hai chữ TẶNG CHỊ trước hai chữ X QUÝ.
TẶNG CHỊ X QUÝ
EI
Anh Ba trao chiếc cặp tóc cho tôi. Tôi nhìn dòng chữ có thật đó trên tay mà ngỡ như mình đang trong chiêm bao. Tất cả đều khắc kiểu chữ in, riêng chữ x khắc kiểu chữ thường, như một cánh hoa. Khắc bằng cách dùng vật nhọn, một mũi dao găm chẳng hạn, ấn mạnh xuống từng chấm sâu nối nhau tạo thành chữ.Tôi nghĩ EI chắc là trung đoàn 1.
Chắc một chiến sĩ nào đó của trung đoàn 1 (thuộc sư đoàn 2 Quân khu 5) đã tặng Quý (hôm sau tôi điện hỏi anh Nguyên Ngọc, được anh cho biết thời gian cuối 1968 đầu 1969, có các đơn vị của trung đoàn 1 đứng chân ở Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên).
Điều không thể đã thành có thể. Tôi đã tìm thấy Quý.
Mấy phút sau Bắc nhặt đưa lên hai chiếc khuy áo nhỏ xíu màu xanh lá cây, trên mặt khuy có chữ LEVIS. Rồi tiếp tục đưa lên các mẩu xương lớn hơn. Anh Ba chỉ cho tôi thấy, và bảo, như vậy là đầy đủ tứ chi và một mảnh xương sọ.
Quả thật tôi đã tìm thấy Quý.
Tôi nhìn đồng hồ: 13h50. Từ lúc động thổ đến lúc thấy, không đầy 50 phút. Khoảng gần 9h đêm 8/3/1969 Quý ngã xuống trên mảnh đất này. 2 giờ kém 10 chiều nay, 3/8/2006, sau 37 năm, tôi tìm thấy Quý. Không phải là ngày mai, 4/8, như tôi dự liệu, mà là hôm nay - 3/8/2006.
8/3 - 3/8. Thật lạ, tôi thầm nghĩ.
Lúc này tôi mới gọi điện báo tin cho gia đình, cho Nguyễn Bá Thâm, người luôn có mặt cùng tôi từ cuộc tìm kiếm đầu tiên năm 1983 tới nay. Thâm báo tin lại: Nửa tiếng nữa sẽ có mặt cùng anh chị em Đài truyền hình Quảng Nam và phóng viên Trung Việt của báo Tiền Phong.
Anh Ba hốt hết đất chỗ Quý nằm có màu khác với đất chung quanh, chắc là đã thấm hết trong đó toàn bộ phần còn lại của di hài Quý, chuyển lên tấm vải liệm trắng, trải một lớp dày, đặt trên đó các mẩu xương theo vị trí thân thể, và liệm. Tôi đặt Quý vào chiếc tiểu sành mà cháu Chính (anh rể của Võ Bắc) mua giúp vừa kịp mang về đúng lúc.Tôi đắp cho Quý một lá cờ đỏ sao vàng và đậy nắp tiểu.
Sau khi gọi điện trao đổi ý kiến thống nhất với gia đình, được sự đón nhận của vợ chồng Võ Bắc, tôi cùng hai cháu Bắc, Chính, hai người luôn có mặt với tôi trong các cuộc tìm kiếm từ năm 1995 tới nay, tiến hành cải táng cho Quý ngay sau bia tưởng niệm, nơi từ khi Quý ngã xuống đã thành một địa chỉ tâm linh của tôi.Và của cả bao người.
Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên…
Nhà thơ Bùi Minh Quốc
-
Tiềm thức khai mở khả năng ngoại cảm
Các nhà ngoại cảm có khả năng thực sự tìm được mộ và tìm chính xác chiếm khoảng 60%. Có nhà ngoại cảm còn tìm chính xác đến 81%. Tuy nhiên, việc lý giải hiện tượng kỳ lạ này dường như vẫn là một chân trời rộng mở vô biên, không bờ bến…
http://tintuconline.vietnamnet.vn/Li...goc/TKhanh.jpg
Nhà khoa học Vũ Thế Khanh tại một buổi hội thảo
Hiện tượng các nhà ngoại cảm có khả năng tìm mộ là rất đặc biệt, kỳ dị, thậm chí khả năng cũng như con người họ dường như đã bị bao phủ bởi màn sương huyền bí.
Người đời nhìn vào họ như nhìn vào vị Thánh, Đức Phật để rồi gọi họ là "cậu", là "cô" rất thành kính và coi họ như "người Trời" chứ không phải người thường. Đó cũng là lẽ thường của cuộc sống, bởi vì, cho đến hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước vẫn chưa có được những lời giải thực sự thuyết phục được số đông công chúng.
Khả năng ngoại cảm đã được các nước trên thế giới nghiên cứu từ cả thế kỷ nay. Nhiều nước còn lập cả viện nghiên cứu để sử dụng khả năng của các nhà ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực khác nhau như thiên văn, dự báo, khám phá tội phạm, thậm chí cả trong lĩnh vực quân sự...
Các nhà khoa học ở nước ta đã bắt đầu nghiên cứu các hiện tượng đặc biệt của con người, tự nhiên từ khoảng 15 năm nay. Đi đầu trong lĩnh vực này phải kể đến bộ tứ cơ quan gồm Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống, Viện Khoa học Hình sự, Bộ Công an và Bộ môn Cận tâm lý của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Các cơ quan này đã tập hợp được đông đảo nhà khoa học tài ba, ham mê khám phá những hiện tượng kỳ lạ, khả năng đặc biệt nhằm khai thác để phục vụ đất nước. Mặc dù đã hoạt động được 15 năm, triển khai cả ngàn đề tài khoa học, song đối với vấn đề ngoại cảm sâu rộng vô biên, đây cũng mới chỉ là bước nghiên cứu đầu tiên, nhằm đánh giá đúng sai, thật giả mà thôi.
Hầu hết các nhà ngoại cảm có khả năng thật sự đã được phát hiện nhờ các cơ quan trên đây, những trường hợp bịp bợm, ảo tưởng (số này đến cả ngàn) cũng bị loại bỏ nhờ các đề tài nghiên cứu rất cụ thể, chi tiết. Kết quả thể hiện khả năng của các nhà ngoại cảm đã được đánh giá bằng những số liệu khoa học chính xác và các nhà khoa học ở các trung tâm này đều khẳng định hiện tượng tìm mộ bằng ngoại cảm là có thật.
Con số tìm được mộ và tìm chính xác chiếm khoảng 60%. Có nhà ngoại cảm còn tìm chính xác đến 81%. Tuy nhiên, việc lý giải hiện tượng kỳ lạ này dường như vẫn là một chân trời rộng mở vô biên mà các nhà khoa học mới chỉ chập chững bước chân vào mà thôi.
Trong số cả trăm nhà khoa học miệt mài theo chân các nhà ngoại cảm lên rừng, xuống biển tìm hài cốt liệt sĩ, mới chỉ có vài nhà khoa học lên tiếng đưa ra lời lý giải cho hiện tượng này.
Một trong số những nhà khoa học nghiên cứu về các khả năng đặc biệt và khả năng tìm hài cốt, là nhà khoa học Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng. Ông rất tích cực đi tìm hiểu bản chất của hiện tượng và ứng dụng nó vào đời sống cộng đồng.
Theo ông, việc giải thích hiện tượng này không phải một sớm một chiều. Ông đã trình bày công trình nghiên cứu khảo nghiệm ở một số hội thảo và nhận được ủng hộ của nhiều nhà khoa học.
Hội đồng khoa học Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng chủ trương nghiên cứu hiện tượng tìm mộ bằng ngoại cảm từ việc khám phá bản thể, tiềm thức ẩn giấu trong con người.
Tiềm thức nhiều khi được thể hiện thông qua việc “nối dài các giác quan”, trong đó có giác quan thứ 6, ẩn chứa những khả năng vô biên. Ở các loài thú, loại giác quan này vô cùng nhạy bén và thể hiện rất rõ.
Bản năng con người thời kỳ sơ khai cũng tương tự bản năng của động vật, nhưng được tạo hóa đặt trên một bình diện cao hơn. Trước những sự kiện xảy ra xung quanh, con người đã nhờ đến sự chỉ dẫn của trực giác trước khi hành động.
Bản năng cộng với sự lao động đã phát triển tư duy, mang lại cho con người trí thông minh và trí nhớ tạo nên sự hiểu biết. Tác dụng vô thức của bản năng được gọi là “tiềm thức” và nó có ý nghĩa khác với bản năng thú tính.
Các nhà ngoại cảm cũng như những người có khả năng đặc biệt thường khai thác tiềm thức đưa hoạt động của bộ não về dạng tiềm thức rồi sử dụng ý nghĩ để chất vấn tiềm thức cá nhân của mình. Khi đó, tiềm thức sẽ đưa ra câu trả lời và nhà ngoại cảm nói và hành động theo sự hướng dẫn của tiềm thức. Khi hoạt động trí não ở thể tiềm thức, cơ thể sẽ vô cùng nhạy cảm với các hiện tượng, sự vật xung quanh và có thể cảm thụ, giải mã hoàn hảo những gì tác động lên họ.
Các nhà khoa học trên thế giới đã mất nhiều năm trời để nghiên cứu khả năng vô biên của bản năng, tiềm thức của con người. Họ cho rằng, khi tiềm thức hoạt động, tiềm thức sẽ sử dụng “con mắt thứ ba”. Ngày xưa, khi con người thường xuyên sử dụng tiềm thức thì “con mắt thứ ba” rất phát triển, nó nằm ngay trên trán.
Tiến sĩ Pravdivtsev, người Nga, đã bỏ gần như cả cuộc đời để nghiên cứu về “con mắt thứ ba” và ông khẳng định rằng, bằng nghiên cứu về phôi thai hiện đại, có thể tìm thấy “con mắt thứ ba” ở tháng thứ hai của phôi thai, nhưng con mắt này sẽ dần mất đi khi thai nhi tiếp tục lớn và chỉ còn là tuyến yên trước tiểu não khi sinh ra mà thôi.
“Con mắt thứ ba” đó chính là tuyến epiphysis (tuyến quả thông), một bộ phận nhỏ cỡ hạt đậu, có hình dạng quả lê và màu đỏ nâu, nằm ngay trước tiểu não. Theo nhận định của các nhà khoa học, trong quá khứ, bộ phận này có thể to bằng hạt nhãn.
Con mắt này có rất nhiều tác dụng đặc biệt. Nó như một thấu kính hội tụ truyền đi tối đa thông tin mà nó nhận được, giúp con người giám sát xung quanh một cách toàn diện. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy một quy luật khá thú vị, đó là những người có khả năng thông tin đặc biệt, phần xương trên chóp mỏng đến mức chỉ còn như một lớp da.
Phải chăng, epiphysis có liên quan đến thị giác và những thông tin đặc biệt của con người? Có thể chính “con mắt thứ ba” là cơ quan giúp một số người có được những khả năng đặc biệt như tiên tri hay thần giao cách cảm...
Theo các nhà yoga, các thiền sư lỗi lạc, ai cũng có “con mắt thứ ba”, vấn đề là có biết “mở” nó ra hay không.
“Con mắt thứ ba” của một số nhà yoga có tác dụng như những tia X-quang, đi xuyên qua các bức tường, nhìn thấy vật đằng sau, hoặc phát hiện được kho báu dưới lòng đất. Họ còn có thể quan sát được các sự kiện diễn ra ở bất cứ thời gian nào và bất cứ ở đâu trên trái đất.
Ở Ấn Độ, những người có khả năng như vậy được gọi là Trikalazna, có nghĩa là người biết được cả quá khứ, hiện tại, tương lai. Ở châu Âu người ta gọi là nhà chiêm tinh học hay nhà tư tế.
Trong các bài giảng về yoga, con người có thể luyện tập để khai mở “con mắt thứ ba”. Việc khai mở được ở mức nào thì nhà yoga có khả năng ở mức đó. Nếu nhà yoga vượt qua được mức thứ nhất thì có thể nhìn thấy những vòng hào quang phát tiết từ đồ vật, con người hoặc cơ thể mình.
Các nhà khoa học khẳng định, dựa vào cấu trúc của bộ não, vật báu trời cho, bất cứ người nào cũng có thể đạt được ba mức độ trên bằng cách luyện tập kiên trì, bài bản.
Mức độ cao nhất, luyện đến độ tinh thông thì hiếm người làm được. Để đạt tới ngưỡng này, con người cần phải cống hiến toàn bộ cho sự nghiệp hoàn thiện tinh thần. Khi đã đạt đến mức độ tuyệt đỉnh của giai đoạn thứ tư, con người sẽ không cần học ai và không cần học cái gì nữa. Khả năng tinh thần sẽ cho phép con người biết và nhìn thấy tất cả những gì mong muốn, không phụ thuộc vào thời gian và không gian.
Các bài học yoga có mục đích khai mở những khả năng bí ẩn của bộ não. Các thiền sư tu hành khổ hạnh cũng mang khát vọng như vậy. Khi đạt đến độ thâm sâu, nhà tu hành không cần học gì nữa mà vẫn biết mọi sự trên đời. Khi đó, nhà tu hành tiếp thu trí tuệ từ vũ trụ.
Tuy nhiên, trí tuệ vũ trụ là vô biên, vì thế, sự hiểu biết của các nhà tu hành dù cao siêu đến đâu thì họ cũng chỉ dám so sánh với chiếc lá trong bàn tay mà thôi, còn những gì không biết là cả rừng lá.
Theo nhà khoa học Vũ Thế Khanh, “con mắt thứ ba” tiềm ẩn trong não người dù có chức năng như các nhà khoa học thế giới nghiên cứu đi chăng nữa thì nó cũng chỉ có tác dụng một phần trong khả năng kỳ diệu không lường được của các nhà ngoại cảm.
Để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề này, ông Khanh và các GS, TS, các nhà khoa học hàng đầu của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng đã nghiên cứu sự tác động qua lại giữa vật thể và ý thức thể.
Theo ông Khanh, giữa vật thể và ý thức thể có 4 loại tác động: vật thể tác động vật thể; vật thể tác động ý thức thể làm thay đổi ý thức thể; ý thức thể tác động làm thay đổi vật thể (làm di chuyển, biến dạng cấu trúc vật thể bằng ý nghĩa, tác động cách không, như trường hợp làm cong thìa, nĩa bằng ý nghĩ của một số nhà ngoại cảm trên thế giới) và cuối cùng là ý thức thể tác động với ý thức thể (hay còn gọi là tâm giao tâm, tức nói chuyện bằng ý nghĩ, ngoại cảm).
Các nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng cho rằng, khoa học hiện đại đã chưa thấy hết hiệu quả phần ý thức thể tác động làm thay đổi vật thể và coi hiện tượng tâm giao tâm là ngoài khoa học, là thần bí.
Theo các nhà khoa học ở Liên hiệp, việc ý thức thể có thể tác động, điều khiển, làm biến dạng, thay đổi được vật thể mạnh hay yếu là phụ thuộc vào khả năng sẵn có trong mỗi con người kết hợp với sự luyện tập kiên trì để phát huy sức mạnh của ý thức thể.
Ông Khanh và các nhà nghiên cứu của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng đưa ra một nhận định khá đặc biệt, hơi khác với triết học duy vật hiện thời: ý thức thể cũng là một dạng vật chất!
Ông Khanh giải thích rằng, thế giới tự nhiên tác động vào con người bằng ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, xúc qua các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, da. Sự tác động của tự nhiên đến các giác quan sẽ sinh ra thức (nhận thức) như: thích, không thích, hợp, không hợp....
Cũng từ đây mới sinh ra hỉ, nộ, ái, ố... và tạo ra phản ứng cho cơ thể. Sự phản ứng đồng thời sẽ sinh ra lực cộng hưởng rồi tạo ra tác động lực. Tác động lực sẽ phát ra không gian (gọi là năng lượng sinh học) mạnh hoặc yếu. Hiện nay, với máy móc hiện đại như điện tâm đồ, điện não đồ đã đo được năng lượng sinh học của con người.
Chính năng lượng sinh học tiềm ẩn sinh ra điện trường, từ trường mà thường gọi là trường sinh học. Trường sinh học sẽ tạo ra hiện tượng tâm giao tâm, gọi là “truyền âm nhập mật” hay “nghĩ ngữ truyền thanh”, tức là có thể trò chuyện, hiểu được tâm tư của nhau bằng ý nghĩ. Cũng theo lý giải của ông Khanh, dù con người mất đi, song trường sinh học sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Qua lý giải này thì một số nhà nghiên cứu về tiềm năng con người đã khẳng định ý thức thể, tâm thức cũng là một dạng vật chất, nhưng là vật chất đặc biệt, có sự chuyển đổi biến ảo khôn lường. Chẳng hạn, chị Ngô Thị Tuyển có thể vác một lúc hai hòm đạn chạy băng băng trong cảnh mưa bom bão đạn.
Lúc bình thường chị không thể vác được như vậy, song trong hoàn cảnh đó ý thức thể đã biến thành năng lượng và chuyển năng lượng vào các cơ bắp, làm cho cơ bắp nhỏ bé, mềm yếu thường ngày đột nhiên có một sức mạnh phi thường. Qua đây, có thể thấy ý thức thể là một dạng vật chất rất mạnh và trong tương lai có thể lượng hóa được bằng khoa học, máy móc hiện đại. Vì ý thức thể là một dạng vật chất đặc biệt nên nó có thể tác động làm biến đổi vật thể (?!).
Chính ý thức thể, tiềm thức đã sinh ra điện trường, từ trường và trường sinh học. Theo các nhà khoa học thì trường sinh học phát sinh từ cơ thể người cũng là một dạng vật chất và nó tồn tại vĩnh viễn, do đó, dù con người mất đi thì cũng không ảnh hưởng gì đến trường sinh học.
Trường sinh học không những có thể chu du đến khắp nơi trên thế giới mà có thể vươn ra ngoài vũ trụ. Trường sinh học mã hóa và lưu giữ toàn bộ thông tin mà bộ não con người thu nhận được. Những gì chúng ta ghi nhớ được chỉ nằm trên bộ phận nhỏ của bộ não, nhưng những gì tác động đến chúng ta thì hệ tiềm thức chụp lại và lưu giữ như ổ cứng của máy tính hoặc được mã hóa rồi được lưu giữ ở trường sinh học.
Việc các nhà ngoại cảm “nói chuyện” được với linh hồn thực tế là do tiềm thức của nhà ngoại cảm dịch được những thông tin mã hóa mà trường sinh học mang theo, như chiếc đài hay chiếc tivi giải mã được tần số sóng vậy. Cũng có thể nhà ngoại cảm tưởng trên đời có linh hồn thật, bởi không phải lý trí nhà ngoại cảm “nói chuyện” với “linh hồn” mà là tiềm thức “nói chuyện” (thực ra là tiềm thức khai thác thông tin từ trường sinh học) rồi chỉ đạo cho lý trí.
Những câu hỏi của nhà ngoại cảm với linh hồn để xin sự chỉ dẫn chẳng qua là sự chất vấn của ý thức với tiềm thức. Việc nhà ngoại cảm biết những thông tin, những sự kiện xảy ra trong đời của người khác là bởi vì tiềm thức siêu đẳng của nhà ngoại cảm đọc được cả ý nghĩ và tiềm thức của người khác, chứ không phải do linh hồn người thân kể lại.
Cũng có thể tiềm thức của nhà ngoại cảm như một chiếc máy phân tích hình ảnh siêu hiện đại. Mỗi khi ý thức yêu cầu, tiềm thức lập tức giải mã hình ảnh từ sóng trường sinh học. Hình ảnh mà nhà ngoại cảm nhìn thấy là linh hồn có thể chỉ là hình ảnh giải mã của tiềm thức, song hình ảnh đó là đa chiều (chứ không phải hình ảnh 3D hay 4D thông thường), nên nhà ngoại cảm cũng tưởng rằng hình ảnh trước mắt là linh hồn của một con người thực sự.
Đây chính là hệ tương tác giữa ý thức thể và ý thức thể. Với tương tác này, nhà ngoại cảm, những thiền sư lỗi lạc có thể nói chuyện được với nhau bằng ý nghĩ. Họ có thể hiểu, đọc ý nghĩ của người thường, nhưng người thường thì không đọc được ý nghĩ của họ, nên người thường cho họ là thần thông quảng đại. Khi nhà ngoại cảm nói ra vài sự kiện đúng thì người đối diện đã nghĩ họ là "con Trời, con Phật" rồi.
Với khả năng lưu giữ thông tin, các nhà khoa học khẳng định, trường sinh học hay ý thức thể cũng là một dạng vật chất, nhưng là siêu vật chất. Loại vật chất đặc biệt này không phụ thuộc sự giới hạn của không gian, thời gian. Chuyên đề ANTG mong nhận thêm được những lý giải của các nhà khoa học về hiện tượng tìm mộ bằng ngoại cảm để dư luận có được những cái nhìn khách quan, nhiều chiều nhằm khám phá lĩnh vực đầy bí ẩn này.
Ban đọc có nhu cầu tìm mộ xin liên hệ: Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, số 1, Đông Tác, Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội.
ĐT: 04.5745150 - 04.2164107.
Theo CAND
-
Địa chỉ các nhà ngoại cảm VN
Vào thời điểm này, hầu hết các cuộc gọi đến trung tâm đều không thể kết nối được; các lá thư gửi đến cũng có thể rất lâu sau chưa thấy hồi âm, mặc dù tập thể các nhà khoa học của UIA đã cố gắng làm việc hết mình.
Sau một loạt bài viết về hiện tượng các nhà ngoại cảm giúp thân nhân liệt sĩ tìm thấy hài cốt, hàng trăm gia đình và cá nhân có nhu cầu tìm lại người thân liên tục gửi thư, gọi điện hoặc tìm đến tận trụ sở Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) nhờ giúp đỡ.
Trước tình hình đó, ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA, đã cung cấp đầy đủ địa chỉ, số điện thoại của các nhà ngoại cảm nổi tiếng ở VN, công bố rộng rãi để những người có nhu cầu có thể trực tiếp liên lạc và nhờ họ giúp đỡ.
Sau đây, chúng tôi xin đăng nguyên văn thông báo của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng.
Liên hiệp khoa học công nghệ Tin học ứng dụng ( UIA )
Viện khoa học hình sự - Bộ công an
Trung tâm bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống
***
KÍNH BÁO VỀ CHƯƠNG TRÌNH TÌM MỘ LIỆT SĨ BẰNG NGOẠI CẢM
Ba cơ quan (Liên hiệp khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện khoa học hình sự - Bộ công an, Trung tâm bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống) đã nhận được hàng ngàn bức thư của các gia đình liệt sĩ và người có công, yêu cầu cơ quan hỗ trợ việc tìm hài cốt thân nhân mất tích bằng phương pháp ngoại cảm.
Chúng tôi rất xúc động và cảm thông trước những tình cảm thiêng liêng mà các gia đình đã giành cho người thân đã mất, và xin cảm ơn sự tín nhiệm đối với các nhà ngoại cảm và đối với cơ quan chúng tôi.
Tuy nhiên, vì số thư quá nhiều do vậy chưa thể trả lời riêng cho từng gia đình được, chúng tôi xin phép được trả lời chung và hướng dẫn phương thức đăng ký tìm mộ bằng khả năng đặc biệt cho các đối tượng có nhu cầu như sau:
Để việc tìm kiếm mộ mất tích đạt hiệu quả cao, các gia đình cần thực hiện chu đáo các quy trình, gồm:
1. Công tác chuẩn bị: Việc tìm mộ người thân mất tích trước hết phải xuất phát từ tình cảm thương nhớ, quý kính, hoặc hiếu thảo đối với người đã khuất, phải xác định đây là nghĩa cử thiêng liêng, không nên đi tìm chỉ vì phong trào, hoặc vì nghĩa vụ khiên cưỡng, hoặc vì cầu lợi cá nhân…
2. Người chủ trì công việc tìm kiếm phải là người có vai trò và quan hệ mật thiết nhất đối với người đã khuất, nếu vì lý do chính đáng mà không thể tham gia trực tiếp được thì phải thắp hương ủy quyền cho người có vai trò tiếp theo.
3. Chuẩn bị về kinh phí:
- Trong chương trình khảo nghiệm tìm mộ mất tích bằng khả năng đặc biệt, cả ba cơ quan chúng tôi chỉ đạo không thu lệ phí dưới bất kỳ hình thức nào. Nơi nào thu lệ phí thì nơi đó không thuộc sự bảo trợ của chương trình nghiên cứu khảo nghiệm này.
- Các gia đình có lòng hảo tâm, muốn bồi dưỡng trực tiếp cho các nhà ngoại cảm thì phải xuất phát từ sự tự nguyện, thiện tâm, không gượng ép và không được nghe theo bất kỳ hình thức gợi ý nào.
- Trong quá trình đi tìm phải rất tiết kiệm, giản dị, tránh ăn uống lãng phí và tránh ở khách sạn sang trọng. Thực tế đã chứng minh: những gia đình nào khi đi tìm liệt sĩ mà tiêu pha, ăn ở tốn kém hoặc kêu ca, ngại khó ngại khổ… thì xác suất thành công rất ít, mọi người thường gọi hiện tượng này là “liệt sĩ cảnh cáo đấy”.
4. Quá trình đi tìm:
- Cần đến trực tiếp gặp các nhà ngoại cảm theo sự giới thiệu của cơ quan. (Riêng đối với nhóm nhà ngoại cảm của Nguyễn Văn Nhã thì chỉ cần liên lạc bằng điện thoại).
- Đối với các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Đỗ Bá Hiệp, Vũ Minh Nghĩa, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa… thì không cần phải có ảnh, thậm chí cũng không cần khai tên hoặc tiểu sử, mà chỉ cần nói họ của người muốn tìm là đủ. Riêng đối với nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng thì cần mang theo tấm ảnh của người cần tìm.
- Vì hiện nay nhu cầu tìm mộ liệt sĩ rất đông, mọi người cần phải xếp hàng theo thứ tự, phải coi tất cả các liệt sĩ của gia đình khác cũng đều là linh khí quốc gia, đều phải được trân trọng như nhau. Những người chen ngang không theo sắp xếp của tổ chức thì đi tìm tại hiện trường rất vất vả mà hiệu quả thành công lại rất ít. Mọi người gọi hiện tượng này là “ các liệt sĩ không hài lòng với việc chen ngang nên làm nhiễu thông tin”. Riêng các liệt sĩ tình báo thường được làm nhanh và thông tin rõ nét hơn. Mọi người cho rằng có lẽ Hội đồng tâm linh “ưu tiên” cho các liệt sĩ tình báo vì gia đình đã chịu nhiều sự thiệt thòi!
- Các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa… không cần đến hiện trường mà chỉ ngồi ở nhà vẫn có thể vẽ được sơ đồ nơi có mộ.
Riêng Vũ Thị Minh Nghĩa thì thường trực tiếp tìm kiếm các liệt sĩ, sau đó các liệt sĩ mới “ thông báo” ngược lại cho gia đình (gọi là hiện tượng liệt sỹ đi tìm thân nhân).
- Khi nhận được băng ghi âm và bản vẽ hướng dẫn của nhà ngoại cảm thì các gia đình phải khẩn trương đi tìm, nếu để lâu sẽ kém hiệu quả. Đến hiện trường thì phải thường xuyên liên lạc bằng điện thoại để điều chỉnh tọa độ. Đa số các trường hợp phải điều chỉnh nhiều lần mới đạt hiệu quả.
- Chương trình khảo nghiệm mời vong linh của các liệt sĩ tạm gá (nhập) vào người thân của mình để đi tìm mộ, đang được khảo nghiệm và đã có một số ca thành công bước đầu. Khi xác suất độ tin cậy đủ lớn thì đây sẽ là giải pháp rất thuận lợi giúp cho việc tìm mộ thất lạc được nhanh chóng. Kết quả của phương pháp này sẽ được kính báo sau.
5. Các gia đình liệt sĩ có thể nhận được các kênh thông tin khác từ các đồng đội, hội cựu chiến binh, từ các tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội bằng cách đưa thông tin và truy cập trang website nhắn tìm đồng đội (www.nhantimdongdoi.org), www.uia.edu.vn,
6. Một số các nhà ngoại cảm đã được tặng thưởng gương Huyền Thông (là giải thưởng giành cho các nhà ngoại cảm đã tìm được trên 1.000 thông tin về mộ liệt sĩ thất lạc) như: Nguyễn Văn Liên, Phan Bích Hằng, Nguyễn Thị Nguyện, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Nhã, Vũ Thị Minh Nghĩa…
7. Một số địa chỉ của các nhà ngoại cảm:
Họ Và tên Điện thoại Địa chỉ liên lạc
Nguyễn Thị Nguyện
(tạm cắt vì quá đông) Nhà 12, ngách 45, ngõ 6, đường Phương Mai, Đống Đa - Hà Nội
Phan Bích Hằng
(tạm cắt vì quá đông) Phòng kế toán, trường ĐHQTKD, Phường Vĩnh Tuy, Hai Bà, HN
Đỗ Bá Hiệp (tạm cắt vì quá đông) Số 1 - Đông Tác - Kim Liên - Hà Nội
Hoàng Thị Thiêm (tạm cắt vì quá đông) Số 1 - Đông Tác - Kim Liên - Hà Nội
Vũ Minh Nghĩa :0903616818
Nguyễn Văn Nhã :0903905957
Phạm Huy Lập: 0903746547 (nhóm anh Nhã )
Trần Văn Tìa: 0913786781 (nhóm anh Nhã )
Nguyễn Văn Liên : 0320864011,1900561518
Tạm về quê Tứ Kỳ - Hải Dương
Áp vong liệt sĩ vào thân nhân để đi tìm mộ Số 1 - Đông Tác - Kim Liên - Hà Nội
Nguyễn Ngọc Hoài : 0917885267
Tây Bắc
Tra thông tin về liệt sĩ trên trang
Website www.uia.edu.vn
www.nhantimdongdoi.org
-------------------
T/M cho 3 cơ quan nghiên cứu
Chủ nhiệm chương trình
TG Đ Liên hiệp UIA
Vũ Thế Khanh
-
Phải thật thành tâm
Sau loạt bài báo viết về tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm dấy lên “làn sóng” đi tìm lại phần mộ liệt sĩ và thân nhân, vượt ngoài dự đoán của đơn vị cung cấp thông tin cũng như những tờ báo đã đăng tải.
Tại trụ sở Liên hiệp Khoa học Công nghệ và tin học ứng dụng (UIA), ngày nào cũng có hàng trăm người đến nhờ các nhà ngoại cảm tìm hài cốt thân nhân, gọi hồn liệt sĩ nhưng tất cả đều phải tuân theo thủ tục: ghi danh, xếp hàng và chờ đợi đến lượt mình vì theo danh sách các gia đình đã đăng ký, phải chờ ít nhất 4 tháng nữa. Nhiều người đến nhờ cậy với những nỗi niềm thương nhớ, trăn trở, mong mỏi tận đáy lòng đối với người đã khuất, những giọt nước mắt và niềm hy vọng lớn lao của họ khiến các nhà ngoại cảm hết sức xúc động nhưng vẫn phải chờ đợi.
Ông Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc UIA, thường phải giải thích nhiều lần với nhiều người rằng khi đã chết thì các linh hồn đều bình đẳng như nhau. Tất cả những sự bon chen, lấn ngang hay “ưu tiên” của người sống đều ảnh hưởng không tốt đến việc tìm mộ vì có thể khiến các linh hồn khác giận dỗi làm nhiễu loạn thông tin. Đã có những trường hợp các linh hồn không hài lòng, “bịt mắt” người đi tìm mộ, gây khó dễ, thậm chí gia đình đào đúng chỗ rồi mà vẫn không tìm thấy, một thời gian sau, đào lại đúng chỗ cũ lại thấy hài cốt…
-Trong số hàng trăm, hàng nghìn người hàng ngày đến nhờ cậy các nhà ngoại cảm tìm giúp hài cốt thân nhân mất tích, có không ít người đến vì tò mò, làm theo phong trào. Với những người này, các cán bộ ở UIA thường khuyên họ thực sự thành tâm, mong mỏi thì việc tìm kiếm mới hiệu quả. Những gì thuộc về tâm linh thường khó nói rạch ròi, nhưng theo như kinh nghiệm của những nhà ngoại cảm có khả năng giao tiếp với những linh hồn người đã khuất, thì những gì ẩn chứa sâu kín trong lòng người còn sống họ đều biết. Và những cuộc gặp gỡ, sum họp sau bao nhiêu năm xa cách giữa những người ở hai cõi chỉ có thể được thực hiện khi tấm lòng họ thực sự hướng về nhau.
Ở Việt Nam hiện có gần 100 người có khả ngoại cảm, trong đó chỉ có hơn chục người có khả năng tìm mộ thực sự xuất sắc, vẫn làm việc thường xuyên như Nguyễn Thị Nguyện, Phan Bích Hằng, Đỗ Bá Hiệp, Hoàng Thị Thiêm, Vũ Minh Nghĩa, Nguyễn Văn, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa, Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Ngọc Hoài… Những trường hợp khác có khả nặng ở những mức độ khác nhau và đang được nghiên cứu nên chưa thể công bố. Ngoài ra, có rất nhiều người hoang tưởng mình có khả năng đặc biệt hoặc cố tình lừa bịp, tung tin đồn tạo danh tiếng để trục lợi. Ông Khanh cũng khuyến cáo những thân nhân có người mất tích rằng nếu nơi nào đòi trả tiền thì nơi đó không thuộc sự bảo trợ của chương trình nghiên cứu khảo nghiệm vì các nhà ngoại cảm ở UIA hoàn toàn làm việc không lấy tiền, mục đích lớn nhất là giúp đỡ những liệt sĩ và người có công với đất nước được đoàn tụ gia đình.
Những ai có dịp gặp họ, chứng kiến họ làm việc vất vả, bận rộn vì suốt ngày đón tiếp, ghi nhận thông tin, giải thích, đặt hẹn… sẽ cảm nhận được tấm lòng của họ đối với cuộc đời. Nhiều nhà ngoại cảm còn không quản khó khăn, cùng gia đình đi tìm hài cốt trong những cánh rừng, đầm lầy sâu thẳm, ăn đói mặc rét, không một đòi hỏi về vật chất… Mỗi buổi sáng ở UIA, các nhà ngoại cảm thường giúp 7-10 gia đình “nói chuyện” với linh hồn người thân đã khuất bằng cách gọi hồn (áp vong) vào chính người trong nhà, đặc biệt ưu tiên cho người nhà liệt sĩ. Công việc đòi hỏi toàn tâm, toàn lực. Nếu chứng kiến cảnh nhà ngoại cảm Hoàng Thị Thiêm (người có thể nhìn bằng con mắt thứ 3) giúp một người chữa tâm bệnh, thấy người bệnh vật vã thế nào thì chị Thiêm vật vã, lăn lộn như thế hàng tiếng đồng hồ mới thấy cảm động vì lòng tốt của những người như chị. Vì muốn giúp được nhiều người, họ đồng ý cho báo chí cung cấp đầy đủ địa chỉ, số điện thoại, nhưng ngay sau đó “nhà ngoại cảm giấu mặt” Nguyễn Văn Nhã ngay lập tức đề nghị được xoá địa chỉ nhà riêng vì không muốn họ tìm đến biếu xén quà cáp. Hầu hết các nhà ngoại cảm đều chỉ đồng ý hướng dẫn người muốn tìm mộ qua điện thoại, dựa trên bản đồ và băng ghi âm chứ không muốn gặp mặt trực tiếp cũng là vì lý do đó.
Về độ chính xác của các thông tin do nhà ngoại cảm cung cấp, theo kết quả khảo nghiệm được tiến hành nhiều năm nay ở UIA, là vào khoảng 70-80%, ở một số nhà ngoại cảm giỏi, con số này cao hơn rất nhiều.
http://ngoisao.net/News/Thoi-cuoc/20...BD8D1/mai8.jpg
Một số thiền sư tu hành lâu năm đắc đạo cũng có khả năng ngoại cảm.
Theo ông Khanh, khả năng ngoại cảm thường xuất hiện sau những chấn động lớn về tinh thần hoặc sức khoẻ, ở những người ở ranh giới sự sống và cái chết hoặc chết đi - sống lại (trường hợp của Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Văn Liên…). Một số thiền sư tu hành lâu năm đắc đạo cũng có khả năng này, tiêu biểu là Nguyễn Văn Nhã. Một số người khác là do bẩm sinh. Tuy nhiên, với tất cả những người này, việc vận dụng thường xuyên khả năng ngoại cảm cũng như rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt để khai phá thêm là rất quan trọng. Một số trường hợp do ham danh lợi khi làm việc, không có phương pháp rèn luyện nên khả năng này dần dần bị mai một đi. Việc hình thành khả năng ngoại cảm do đào tạo bài bản là một điều rất đặc biệt ở Việt Nam, chưa có tiền lệ, đang được các nhà khoa học nghiên cứu, áp dụng
Ngoại cảm từ khi được phát hiện ra đến tận ngày nay vẫn được coi là một lĩnh vực rất kỳ bí. Nhà nghiên cứu, đại tá Đỗ Kiên Cường, phân viện phó Phân viện Vật lý y sinh học, trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự (Bộ Quốc phòng) từng đúc kết: “Ngoại cảm không liên quan với bất cứ một lý thuyết khoa học đã được xác lập nào và những nghiên cứu về ngoại cảm không đạt được một tiến bộ đáng kể nào sau cả trăm năm, bởi vậy nó vẫn chưa thoát khỏi sự nghi ngờ”. Mặt khác, ngoại cảm được định nghĩa một cách khác thường, không phải theo nghĩa nó là cái gì mà theo nghĩa nó không là cái gì bởi vậy trong suốt tiến trình lịch sử, ngoại cảm luôn phải đồng hành cùng với sự ngụy tạo, lừa gạt hoặc bị coi là mê tín dị đoan. Chính vì thế, ông Khanh cũng cảnh báo rằng, tất cả những người chưa được các nhà khoa học cũng như những cơ quan có chức năng thẩm định, đánh giá bằng các đề tài nghiên cứu cụ thể thì không thể tin tưởng được.
Công việc nghiên cứu về ngoại cảm đã bắt đầu từ hàng chục năm trước và đang tiếp tục nên có lẽ chúng ta cũng chưa vội nói đến những kết luận cụ thể. Điều có thể ghi nhận ngay lúc này là nhờ có những nhà ngoại cảm mà gần 10.000 ngôi mộ liệt sĩ bị thất lạc đã được tìm thấy và đưa về quê hương. Hàng vạn ông bố, bà mẹ và những người thân của họ không còn phải sống trong tâm trạng day dứt. Hàng vạn gia đình khác lại có thể nuôi hy vọng tìm thấy chút gì còn lại của những người thân yêu đã hy sinh bảo vệ tổ quốc. Không chỉ có thế, ngoại cảm và những khả năng đặc biệt khác đang từng ngày chứng tỏ sự hữu ích của mình trong việc chữa bệnh, bồi dưỡng sức khoẻ và nhiều lĩnh vực khác…
Ngọc Hà
-
-
-
-
-
-
-
-
Đài BBC phỏng vấn ông Nguyễn Phúc Giác Hải vể vấn đề các NNC tìm mộ
Đài BBC trong chương trình phát tối ngày 10 tháng 4 năm 2007, Lê Quỳnh đã phỏng vấn ông Nguyễn Phúc Giác Hài, chủ nhiệm bô môn Thông Tin Dự Báo thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người, về việc tìm hài cốt của các nhà ngoại cảm Việt Nam.
Trong cuộc phỏng vấn này' ông Nguyễn Phúc Giác Hải xác định việc tìm kiếm mộ bằng phương pháp ngoại cảm là có thật, xác suất là khoàng 60%-70%.
Ông cho biết:" Con người chúng ta sẽ phải hiểu thêm về một thế giới nữa mà trước đây chúng tôi không có căn cứ đầy đủ để công nhận nó hoặc phủ nhận nó, nhưng ngày nay thì đã cho phép chúng ta có thể kết luận là cần phải xem xét lại một số những quan niệm máy móc trước đây đối với thế giới vật chất, và dường như có thế nói là nó còn một thế giới nữa mà thế giới gọi là thế giới tâm linh"
http://www.4shared.com/file/14933584...10NPGHBBC.html
Xin mời quý vị nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn tại đây
-
Nhiều nhà ngoại cảm tìm mộ liệt sĩ được khen thưởng
TP - Ngày 21/7, nhiều nhà ngoại cảm đã được khen tưởng tại Cuộc toạ đàm "Tìm hài cốt liệt sĩ bằng khả năng đặc biệt" do Viện nghiên cứu hỗ trợ phát triển bền vững (RISED) cùng Liên hiệp KHCN tin học ứng dụng (UIA) tổ chức.
Nghĩa trang Trường Sơn. Ảnh : hue.vnn.vn
Buổi tọa đàm được tổ chức nhân Ngày Thương binh, liệt sỹ và 10 năm (1997-2007) thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học "Tìm hài cốt liệt sỹ bằng khả năng đặc biệt".
Dự hội thảo có đại diện nhiều cơ quan pháp luật và quản lý nhà nước TW; nhiều nhà ngoại cảm và chuyên gia nghiên cứu khả năng con người. Theo Tổng giám đốc UIA Vũ Thế Khanh, sau 10 năm thực hiện chỉ đạo của cấp trên về việc nghiên cứu khả năng đặc biệt của con người, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất to lớn.
Ba cơ quan đầu tiên được phép thực hiện nghiên cứu là UIA, Viện Khoa học Hình sự (Bộ CA), Trung tâm bảo trợ Văn hóa Nghệ thuật truyền thống (Hội Khoa học Lịch sử VN) cùng nhiều cơ quan liên quan đã tổ chức thực hiện tốt đề án này.
Cùng với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan liên quan, nhiều nhà ngoại cảm và đông đảo quần chúng, 10 năm qua, đã có hàng vạn bộ hài cốt liệt sỹ được tìm thấy. Kết quả này đồng thời khẳng định con người có thể tìm thấy hài cốt liệt sỹ bằng khả năng đặc biệt, thiết thực góp phần đền ơn đáp nghĩa các liệt sỹ và gia đình liệt sỹ.
Các nhà ngoại cảm và các nhà khoa học đã cùng trao đổi nhiều ý kiến xoay quanh đề tài Nâng cao hơn nữa hiệu quả tìm kiếm hài cốt liệt sỹ và tiền bối cách mạng bằng khả năng đặc biệt.
Những chuyện cảm động của các nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thị Minh Nghĩa… trong quá trình tìm hài cốt liệt sỹ thời gian mới đây được chú ý nhiều nhất. Nhiều nhà ngoại cảm đang tìm mộ liệt sỹ ở các vùng xa đã gửi điện về góp ý kiến với Hội thảo.
Cuối buổi Hội thảo, đại diện UIA, Viện Khoa học Hình sự (Bộ CA), Trung tâm bảo tồn văn hóa nghệ thuật truyền thống (Hội Khoa học Lịch sử VN) đã trao:
Gương Huyền thông A 15.000 cho tập thể các nhà ngoại cảm trong chương trình khảo nghiệm tìm mộ liệt sỹ bằng khả năng đặc biệt giai đoạn 1997-2007 vì đã tìm kiếm và xử lí thông tin cho trên 15.000 liệt sỹ và người có công; tặng gương Huyền thông A 5.000 cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện vì đã tìm kiếm được hơn 5.000 bộ hài cốt liệt sỹ.
Tặng gương Huyền thông A1.000 cho nhà ngoại cảm Phạm Văn Lập và Trần Văn Tìa vì đã tìm được hơn 1.000 bộ hài cốt liệt sỹ.
Tặng Bằng khen và hiện vật cho 10 nhà ngoại cảm xuất sắc nhất 10 năm vừa qua: Nguyễn Thị Nguyện, Phan Thị Bích Hằng, Đỗ Bá Hiệp (Hà Nội), Nguyễn Văn Nhã, Trần Văn Tìa, Phạm Văn Lập (TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Liên (Hải Dương), Dương Thị Năng (Thái Nguyên), Vũ Thị Minh Nghĩa (Bà Rịa- Vũng Tàu), Nguyễn Ngọc Hoài (Điện Biên).
Nguyên Bảng
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Inde...9&ChannelID=46
-
Hành trình lạ kỳ đi tìm mộ cụ Nguyễn Văn Tố
Kỳ I: Câu chuyện từ Hà Nội
http://i106.photobucket.com/albums/m...guyenVanTo.jpg
- Hành trình đi tìm mộ cũ Nguyễn Văn Tố, một nhân sỹ yêu nước và từng giữ chức Trưởng ban Thường vụ Quốc hội khóa I (nay là Chủ tịch Quốc hội) đầy khó khăn và hết sức lạ kỳ...
Từ đầu năm 2007, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã trình lên Quốc hội ý kiến xin được đi tìm cụ ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, một nhân sỹ yêu nước và từng giữ chức Trưởng ban Thường vụ Quốc hội khóa I (nay là Chủ tịch Quốc hội).
Việc đi tìm này có một ý nghĩa rất lớn khi trong năm 2007, Quốc hội Việt Nam kỷ niệm 60 năm Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I. Đồng thời, Hội truyền bá Quốc ngữ cũng dự định tổ chức 60 năm ngày được cho là cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh 25-10-1947.
Và theo nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, nếu trong năm 2007 tìm được phần mộ cụ Tố có một ý nghĩa lớn vì đúng dịp 60 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ... Trong một lần gặp nhà sử học Dương Trung Quốc, ông cho biết: Rất nhiều năm qua, gia đình, bạn bè cụ ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đã gắng sức tìm kiếm, đi thu thập thông tin từ Hà Nội đến Thái Nguyên, Bắc Kạn nhưng không tìm ra manh mối về cụ. Nhiều thông tin cho rằng, cụ Tố bị địch bắt và thủ tiêu tại Bắc Kạn. Thông tin khác cho rằng cụ là một nhân sỹ nổi tiếng, giặc Pháp không lý gì lại giết hại cụ, có thể địch đưa cụ về Hà Nội...
Xuất phát từ việc tìm lại những tư liệu chính xác về vị Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của Quốc hội Việt Nam, Văn phòng Quốc hội, Hội Sử học Viẹt Nam, Ban liên lạc Hội Truyền bá Quốc ngữ đã triển khai tìm kiếm trên nhiều tỉnh miền Bắc xác định là nơi cụ Tố đã hoạt động, chiến đấu. Các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn cũng tham gia giúp đỡ nhưng ý nguyện tìm đón mộ cụ vẫn chưa thành.
Bất ngờ qua thông tin trên một tờ báo lớn của Hà Nội, Hội Sử học đã tiếp cận ông Nguyễn Đức Phụng - người có khả năng và đã tìm được nhiều mộ liệt sỹ. Ông Phụng đã trợ giúp nhóm tìm kiếm xác định được mộ cho là của cụ Nguyễn Văn Tố tại một khu rừng núi bao la thuộc xã Nguyên Phú, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
Một ngày đầu xuân Đinh Hợi 2007, ông Dương Trung Quốc và một số cán bộ lão thành cách mạng tới gặp ông Nguyễn Đức Phụng. Ông Phụng cho biết, ông cảm thấy có một sự giao cảm mạnh và khẳng định, cụ Nguyễn Văn Tố bị giặc Pháp vây bắt bởi tiểu đoàn lính dù Pháp do có điệp báo đã tiết lộ địa điểm diễn ra cuộc họp quan trọng của các lãnh tụ Việt Minh tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
Trong khi nhiều người khác đã được báo cuộc họp bị hủy, mọi người phải sơ tán khẩn cấp thì cụ Tố vẫn ở lại lo nốt nhiều công việc, hủy tài liệu nên bị bắt. Khi bắt được cụ, do dáng vóc cụ Tố mảnh, dong dỏng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nên quân địch tưởng bắt được cụ Hồ.
Chúng reo hò rất to. Song sau khi biết không phải, quân địch giam giữ có phần lơi lỏng nên đêm cụ đã trốn chạy ra ngoài. Địch phát hiện và truy đuổi. Trên đường chạy trốn, cụ bị chúng bắn trọng thương và bắt lại.
Khi những tên Việt gian bán nước tố cáo cụ là một nhân sỹ nổi tiếng, quân địch đã tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc song không được. Chúng đã tra tấn, đóng đinh vào người cụ, buộc cụ kêu gọi những chiến sỹ Việt Minh ra hàng. Bất lực trước tấm lòng trung kiên và ý chí cách mạng bất khuất, quân địch đã thủ tiêu cụ và các đồng chí tại một cửa hang đá tại Bắc Kạn...
Biết được thông tin này, nhóm khảo sát cả mừng, vội lên Bắc Kạn. Nhưng trước giờ lên đường, một vị giáo sư chúng tôi quen bảo: “Cụ Tố quả là bị Pháp bắt ở Bắc Kạn trong một trận tập kích bất ngờ nhưng sau cụ bị chuyển về giam tại Hà Nội”. Vị giáo sư đoán rằng có khả năng cụ Tố bị giặc thủ tiêu ở Hà Nội nên ít có khả năng mộ nằm ở tỉnh Bắc Kạn...
Tuy hồ nghi nhưng nhóm khảo sát vẫn quyết định lần theo tấm sơ đồ mà nhà ngoại cảm mô tả. Một số vị trong Ban liên lạc Hội Truyền bá Quốc ngữ khá phân vân về những chi tiết mà nhà ngoại cảm đưa ra: Cốt cụ và các đồng chí đều được dân bản (là người dân tộc) an táng không có áo quan; địa điểm nơi mộ cụ Tố và 2 đồng chí nằm là cạnh 1 cửa hang đá tên Tà Lèn...
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo5.jpg
Tấm sơ đồ ông Phụng vẽ để đi tìm mộ cụ Tố
Cũng theo sơ đồ, muốn tìm đến mộ cụ Tố phải đi qua thị xã Bắc Kạn đến Bạch Thông, vượt qua một con sông lớn với một cây cầu bắc ngang, đi 9 km rẽ phải lần theo một con suối nhỏ, đi khoảng 2,5 km chú ý tìm một hang đá, trước cửa hang có một tấm bia đá còn gọi là tấm bia căm thù. Hang đá đặc biệt này nhìn ra một triền đất bãi.
Mộ cụ Tố được đánh dấu bằng một điểm đỏ nằm ở đất bãi bên tay phải đứng từ cửa hang nhìn ra khoảng 150 bước. Bên cạnh mộ cụ Tố còn đánh dấu 2 ngôi mộ của các đồng chí khác, một nằm sát cạnh, một ngôi lệch xa vài chục bước. 2 ngôi mộ hiện chỉ còn là nấm con nhum nhủm nhô lên như cái nôi nhỏ úp ngược thôi. Ông Phụng còn nhắc, khi đến nơi cố gắng tìm và hỏi các cụ già cao niên, một nam, một nữ tuổi chừng 80-89, họ sẽ cho biết thêm thông tin về cụ Tố...
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo4.jpg
Bà Nguyễn Quý Lan trao đổi thông tin với đoàn khảo sát
Chuyện thực hư thế nào, những thông tin như thế liệu có đúng không? Bao câu hỏi cứ chộn rộn với chúng tôi suốt hành trình lên Bắc Kạn. Một lão thành cách mạng trong đoàn tâm sự: Tôi có người bạn trước làm ở cơ quan địa chất nói, đúng là có một cái hang tên Tà Lèn.
Nhưng đã 30 năm qua, bà ấy chưa từng trở lại Bắc Kạn nên không còn nhớ rõ nó nằm ở vị trí nào. Ngoài cửa hang, bà nhớ đúng là có một tấm bia đá. Không biết bia có ghi khắc nội dung gì nhưng nó là một tấm bia bằng đá đen. Được chia sẻ thông tin ấy, chúng tôi vững tâm hơn.
UBND tỉnh Bắc Kạn đợi đoàn từ sáng. Sau những cái bắt tay thật chặt, cán bộ phụ trách văn hóa của tỉnh cho biết: Năm 2005, thực hiện chỉ thị của Quốc hội về việc thu thập thông tin mộ phần cụ Nguyễn Văn Tố từ nhân dân, UBND tỉnh đã thực hiện phát thông báo liên tục trên sóng truyền hình và phát thanh.
Kết quả đã có bà Lan (73 tuổi) đến xin cung cấp thông tin về cụ Tố. Điều đặc biệt là vị trí thị xã, cây cầu, con sông lớn, con suối nhỏ như sơ đồ cơ bản trùng khớp với những điều bà Lan nói. Tuy nhiên theo phía tỉnh Bắc Kạn, ở vùng này không ai biết có hang đá tên Tà Lèn...
Bà Nguyễn Quý Lan ở huyện Bạch Thông thấy đoàn cười rất vui. Bà bảo: Tôi định đi đám cỗ cách đây 10 km nhưng cứ thấy nóng lòng nóng ruột thế nào, cứ như có ai giữ phải ở nhà nên từ chối...”. Năm 1947, bà Lan mới hơn 10 tuổi, là giao liên cho cách mạng. Nhiều cán bộ lão thành cách mạng có tên tuổi từng tới họp bàn công việc tại nhà bà.
Bà kể: “Tôi thấy cụ Tố bị giặc Pháp đuổi bắt ngoài rừng. Tôi không biết có Tây nhảy dù vì vừa đi giao liên về làng. Tôi thấy cụ chạy ngược trở ra. Vừa chạy cụ vừa xua tay báo hiệu cho tôi biết có nguy hiểm. Tôi còn bàng hoàng chưa kịp hiểu chuyện gì thì thấy cụ bị chúng bắn gục xuống.
Tôi liền vội chạy về báo với cơ sở. Khi đưa anh em du kích trở lại thì không biết chúng mang cụ Tố đi đâu nữa”. Nơi bà Lan chứng kiến cụ Tố bị giặc bắn là cánh rừng ngoài bản Nà Pèn. Tên bản Nà Pèn có âm phát ra gần giống với tên cái hang đá đoàn khảo sát đang tìm kiếm. Một số người trong đoàn liên tưởng tên bản, tên hang đá và vị trí mộ cụ Tố có thể được an táng ngay tại bìa rừng bản Nà Pèn.
Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn
Trung tâm Nhân học Phát triển- Viện Dân tộc học
Kỳ II: Cuộc tìm kiếm bất thành
-
Kỳ II: Cuộc tìm kiếm bất thành
- Bà Nguyễn Quý Lan dẫn chúng tôi vào bản Nà Pèn, rẽ phải đi 2km thì đoàn gặp một con suối nhỏ, dân bản gọi là suối Lạnh. Theo con đường đất, đi bộ khoảng 1km qua những ruộng ngô đã thu bắp trơ gốc, lần tìm tới bìa rừng nơi mà bà Lan chứng kiến cụ Tố bị địch bắn...
Đám đất bìa rừng xưa, nay đã được người dân sở tại khai hoang thành một chân ruộng hẹp bám lấy rừng. Rừng đã khoanh nuôi nhưng vẫn um tùm chằng chịt tre vầu, dây leo, cây lâu niên. Gặp cảnh cũ, bà Lan xúc động khóc nghẹn bên mô đất góc ruộng, gọi tên cụ Tố.
Sau tuần hương, chút lễ vật lòng thành, khấn xin vong linh cụ Tố và các đồng chí về chứng giám, đoàn khảo sát chia nhau ra tìm kiếm xung quanh, mục đích hỏi tìm hang đá Tà Lèn có tấm bia căm thù và 2 nhum đất bằng cái nón con ngoài bãi gần cửa hang bên con suối Lạnh.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo2.jpg
Ba bộ hài cốt của 3 liệt sỹ hy sinh ngày 25-10-1947.
Bộ hài cốt cụ Nguyễn Văn Tố ở giữa
Nhiều người dân bản, già có trẻ có đều trả lời, ở đây không có hang đá vì vùng này xưa nay chỉ toàn là núi đất. Quanh vùng này cũng không có cái hang đá nào có cái tên Tà Lèn hay Tà Vèn có tấm bia căm thù dựng ngoài cửa hang. Cả khu vực này chỉ có một hang đá duy nhất nhưng cách đây 3 km nằm chênh vênh giữa lưng chừng núi, rất hiểm trở chứ không gần sông suối nào.
May mắn chúng tôi hỏi được nhà ông Nghi năm nay 77 tuổi, năm 1947 ông là đội trưởng đội xung kích, được giao nhiệm vụ bảo vệ cuộc họp quan trọng tại ủy ban kháng chiến tỉnh Bắc Kạn. Ông Nghi kể: “Trước ngày 7-10-1947, chúng tôi có tin từ Thái Nguyên báo lên Tây sẽ tấn công.
Cuộc họp bị hủy, các cụ Phạm Văn Đồng, Trường Chinh đã qua chợ Đồn từ mấy hôm trước nhưng cụ Tố, không hiểu sao lại ở lại. Đến khi Tây nhảy dù tập kích, bao vây bắt được cụ Tố tại căn hầm ngay cửa ủy ban, chúng tôi vẫn không biết chúng bắt được cụ.
Tôi cùng tiểu đội du kích ẩn ngoài đồi thông, song do có biết ít tiếng Pháp, nghe chúng reo hò tôi biết chúng bắt được cụ. Tôi thấy chúng không trói cụ, không tra tấn, đánh đập. Chúng vây cụ giữa vòng tròn, áp giải đi, vừa đi vừa reo hò.
Anh em du kích cũng vừa hy sinh 9 người, còn 4 quyết định đánh giải vây cứu cụ nhưng thất bại, một đồng chí hy sinh, buộc phải rút lui...”. Ông Nghi cũng cho biết, năm 2005, cháu gái của cụ Tố ở TP.HCM cũng đến Bắc Kạn. Cô ấy lần tìm đến nhà hỏi xem có thông tin gì về mộ phần cụ Nguyễn Văn Tố, nhưng ông không giúp gì hơn được.
Chúng tôi không khỏi hồ nghi về nhận định này của ông Phụng bởi đúng ông có nói sẽ gặp được 2 người nhưng độ tuổi lại chênh lệch khá nhiều?! Một số chi tiết: hang đá, suối nước, đường mòn, tấm bia căm thù so với khảo sát không có...
Trở về Hà Nội, sau khi xem cuốn băng quay lại hành trình, đoàn khảo sát quyết định mời ông Nguyễn Đức Phụng trực tiếp lên đường. Chiều một ngày cuối tháng 3-2007, trong cái giá lạnh của núi rừng Việt Bắc, chúng tôi tiếp tục cuộc tìm kiếm mới.
Ông Phụng càng lên gần huyện Bạch Thông, người lúc thì đỏ phừng phừng, lúc thì tái đen lại. Ông bảo: Do giặc giam lỏng lẻo, không gông trói nên đêm cụ Tố và ông Phùng bấy giờ là Chủ tịch tỉnh Bắc Kạn bàn nhau trốn.
Nhưng họ bị giặc phát hiện và truy đuổi. Trên đường truy đuổi chúng đã bắn cụ Tố tại bìa rừng bản Nà Pèn. Cụ Tố và nhiều đồng chí khác sau đó bị chuyển lên một điểm bí mật gần với Bạch Thông, cách UBND tỉnh khoảng 15 km.
UBND tỉnh Bắc Kạn cũng cử một đoàn cán bộ phối hợp thực hiện khảo sát với đoàn. Giữa trưa, đoàn đi qua cột mốc báo cách thị xã Bắc Kạn 9 km, đột nhiên ông Phụng khoát tay ra hiệu xe dừng lại. Ông mở cửa xe vội vàng bước xuống.
Cảnh vật nơi này có vẻ giống với những gì sơ đồ vẽ, cũng na ná như lời bà Lan kể. Ông Phụng hỏi chuyện 2 hộ dân cư trú ven đường về cái hang đá ở khu vực này. Tiếc là họ mới chuyển cư từ xa đến nên không biết. Đi suốt dọc quốc lộ, cả đoàn dò hỏi mãi dân địa phương, không ai biết. Phó Chủ tịch UBND huyện Bạch Thông bảo: Địa bàn huyện chỉ có thôn Ngoàn, xã Nguyên Phúc là có 2 hang đá.
Trong lịch sử Việt Nam, không ai không biết cụ ứng Hòe Nguyễn Văn Tố. Nhưng khi tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của vụ, chúng tôi lại không có được nhiều tư liệu. Trong tra cứu của Thư viện Quốc gia, cụ Nguyễn Văn Tố sinh ngày 5-6-1889, quê làng Đông Thành, huyện Thọ Xương cũ, nay là số nhà 78 phố Bát Sứ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thuở nhỏ cụ học chữ Hán, sau sang Pháp học đỗ đạt thành danh, có quan hệ với nhiều học giả, trí thức nổi tiếng người Pháp và được giới quan lại thuộc địa rất trọng vọng.
Về nước, cụ Tố làm việc tại trường Viễn đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội, chuyên về văn học cổ, sử học Việt Nam. Trước năm 1945, cụ từng làm Hội trưởng hội Trí Tri, Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ và là một trong những nhân sỹ yêu nước đầu thế kỷ XX đã cùng lớp trí thức: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Vũ Đình Hòe... phát động công cuộc cách mạng chữ quốc ngữ.
Cũng chính từ ngọn lửa nhiệt huyết ấy, từ nền dân trí còn rất thấp mà sau này dưới sự lãnh đạo sáng suốt tuyệt vời của Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã lập nên một kỳ tích, với phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hóa, xóa nạn mù chữ, thất học cho toàn dân tộc sau thời kỳ dài nô lệ đen tối... Những công trình nghiên cứu của cụ để lại rất có giá trị, được in trong các tạp chí như “Trí Tri”, “Trí Tân”, “Viễn đông Bác cổ” xuất bản ở Hà Nội thời bấy giờ.
(Còn nữa)
Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn
(Trung tâm Nhân học Phát triển - Viện Dân tộc học)
-
Kỳ III: Thành tâm, thành kính, việc sẽ thành
Chúng tôi hỏi đường đi thôn Ngoàn. Kỳ lạ đó chính là nơi đoàn khảo sát dừng lại 2 lần. Vào xã Nguyên Phúc, cán bộ xã cho biết, xã đúng có 2 hang đá, một hang lớn nằm cách ủy ban 3 km, một hang nhỏ hơn cách 2 km gọi là hang Bá chủ.
Tên Bá chủ theo tiếng Tày có nghĩa là “Cây sấu” vì vùng này 60 năm trước vốn là một rừng sấu. Hang Bá chủ cửa hẹp nhưng lòng hang ăn thông trong núi nên cũng khá lớn, còn thông với cả một con suối nữa nhưng bên trong thế nào, chưa ai từng vào đó để biết...
Không đợi xã cử người đi cùng, chúng tôi vội đến hang Bá chủ. Hang đá này nằm cách con đường liên xã đang làm dở chừng 300m. Nhìn khung cảnh nơi đây, có thể xác định, những thông tin ban đầu của ông Phụng tương đối chính xác. Nghĩ thế, chúng tôi thắp hương trên triền ruộng cao trồng ngô.
Tìm kiếm một lượt, nhà ngoại cảm nói địa điểm cụ Tố bị hại là triền ruộng trồng ngô đối diện của hang Sấu này, vì ông có sự giao cảm rất mạnh ở khu đất cạnh gốc bụi tre (góc Tây Bắc thửa ruộng) đã bị chặt khi người dân bản khai hoang vỡ ruộng; và mô đất nhô cao góc Đông Nam thửa rộng, cách cửa hang 100m, bên cạnh có một hố sâu do dòng chảy của con suối mùa nước về tạo thành.
Sau khi xin ý kiến của Văn phòng Quốc hội, Hội Sử học Việt Nam, chúng tôi lên Bắc Kạn lần thứ ba ngày 8-4-2007. 10h30 sáng, đoàn tìm mộ cụ Nguyễn Văn Tố có mặt tại hang Bá chủ. Chúng tôi thắp hương...
Mọi người trong bản thấy chuyện lạ kéo nhau ra xem. Bà con cho biết: Khu vực hang này trước vốn là nơi giặc thủ tiêu những người làm cách mạng, rồi đẩy xác họ xuống dưới hố sâu trong hang. Những hôm nước to đi xúc cá ở dòng suối chảy ra từ hang còn xúc phải rất nhiều móng tay, móng chân người.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo6.jpg
Chiếc bút máy được tìm thấy
Nhưng một điều không ai giải thích nổi, khi mới đào hố thám sát đầu tiên gần bụi tre, chị Hạnh cùng đoàn khấn vong linh cụ Tố linh thiêng xin về báo cho con cháu được biết, vài phút sau xuất hiện một con bướm to cỡ lòng bàn tay, cánh pha 2 màu đen trắng. Nó cứ bay vòng quanh mọi người trong đoàn, không đậu vào đâu. Rồi khi thấy người trần mời dùng cơm, con bướm đậu thẳng xuống mâm cơm...
Giở vội camera và máy ảnh ra ghi lại, xong tay chân chúng tôi chợt lạnh toát, lấm tấm đổ mồ hôi lạnh; hình ảnh bắt được trắng xóa. Những hố tiếp sau gần mương thoát nước, dọc theo con đường cụt được thám sát, không có kết quả. Ông Phụng điện thoại từ Hà Nội động viên đoàn tiếp tục quay lại vị trí đầu tiên để mở hố mới.
6h30 sáng hôm sau, khi sương khói còn bảng lảng, đoàn khảo sát mang cuốc xẻng ra hố đào. Đêm qua, hầu như không ai ngủ được. Hố đào mở dài theo triền đất bậc thang của ruộng ngô. Hố đào mỗi lúc một sâu nhưng vẫn chưa có dấu hiệu gì. Bỗng nhiên trời đang hửng, gió nổi lên ầm ầm, đổ mưa to. Đây là hố thứ 5 mở sâu đến tận đất thổ, sâu ngập đầu người nhưng kết quả không khả quan.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo3.jpg
Những chiếc đinh đã được tìm thấy trong hài cốt của cụ Tố
Sau cơn mưa, như linh tính mách bảo, chúng tôi theo lời chỉ dẫn của ông Phụng, quyết định đi về khu đất đối diện cửa hang, tìm bằng được một con hào, dọc theo hào tìm đống đá xếp cạnh con đường mòn, mở hố đào ngay chính trên con đường ấy.
Ngạc nhiên, chúng tôi thấy một khung cảnh đúng như vậy. Hố thứ sáu thực hiện, song mọi chuyện bế tắc. Ai nấy bắt đầu nản... Ông Phụng bảo: Cụ Tố chưa cho tìm. Cụ bảo phải tìm ra 2 đồng chí của cụ gần đó nữa thì cụ mới yên tâm... Chúng tôi đang trong tâm trạng mệt mỏi, bán tín bán nghi thông tin này...
Giữa lúc ấy, ông Phụng điện thoại báo, phải đi tìm người trong bản hỏi về 2 ngôi mộ được người dân bản chôn cất năm 1947 mà ở đây dân bản nói là mộ người Mán đi làm dân công hỏa tuyến. Cán bộ xã đưa chúng tôi xuống tận khu đất nhà ông Tiến cách cửa hang Bá chủ chừng 300m trên một ngọn đồi. Dưới chân đồi có một con suối nhỏ chạy quanh.
Theo con đường mòn lên đồi là thấy ngay một ngôi mộ dưới tán lá một cây mơ. Ngôi mộ này giống như chiếc nôi con úp xuống. Đầu mộ và chân mộ được chặn đá đánh dấu mốc. Ngôi mộ thứ hai được đánh dấu bằng đá, nằm ở triền đồi phía trên, cao hơn một chút.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo7.jpg
Hài cốt của cụ Tố
Cán bộ UBND xã Nguyên Phúc lúc này mới ớ ra và cho biết: Theo người già kể lại, đó là 2 ngôi mộ vô chủ, vô danh cho là 2 dân công hỏa tuyến người Mán được an táng năm 1947.
Ông Tiến chủ đất có 2 ngôi mộ vắng nhà. Dân bản bảo ông đi trông cá ở ao cách nhà 2 km. Trưa hôm ấy, chẳng biết sao, ông Tiến nóng ruột, cứ nằng nặc đòi về nhà xem có việc gì...
Ông Phụng lúc này điện thoại khẳng định: Ngôi mộ ở triền đồi gần gốc cây mơ là mộ cụ Nguyễn Văn Tố. Còn ngôi thứ hai là mộ của đồng chí thư ký, ngôi thứ ba cách đó không xa là của đồng chí cảnh vệ.
Chúng tôi tiến hành đào ngôi thứ nhất. Đào xuống được 60cm thì nhìn thấy một hòn đá xanh đặt thẳng đứng như có ý đánh dấu của người chôn cất. Đào tiếp thì lộ một lỗ đất tổ mối xông. Tiếp tục đào sâu xuống 20cm nữa thì phát hiện một lóng xương chân dài. Mở rộng phần đất xung quanh, chúng tôi tìm được những vụn xương mủn lấm tấm màu trắng, lộ ra một dáng hài cốt nằm nghiêng dài chừng 1,65-1,67m...
Trong phần mộ nghi là có hài cốt cụ Nguyễn Văn Tố, chúng tôi tìm được một chiếc nhẫn lồng qua xương đốt tay. Cốt của ngôi mộ thứ nhất xương chân tay còn nhiều, xương mặt còn nhưng phần xương sọ đã mủn, phần sau gáy còn một mảng tròn như mảnh gáo dừa, các phần khác vỡ thành nhiều mảnh. Trong mộ phát hiện 3 đinh thép lẫn với các phần xương cốt, 2 chiếc xuyên qua lòng bàn tay, một nằm ở phần xương bả vai phải.
Đây chắc chắn là dấu tích địch dùng đinh đóng vào người để tra tấn. Cũng đêm hôm đó, anh Vượng, một sỹ quan quân đội trong đoàn nằm mơ thấy trong ngôi mộ thứ hai có một vật lạ tròn dài như chiếc bút máy, nên sáng hôm sau, anh dậy rất sớm khai quật ngôi tiếp theo.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo8.jpg
Gia đình xúc động nhận lại hài cốt của cụ Tố
Ngôi thứ hai được cho là của người thư ký đi theo cụ Tố khai quật phức tạp hơn do đã bị mối xông hết. Đào sâu thêm 70 cm nữa, cốt lộ ra nhưng xương vỡ mủn... Đặc biệt trong ngôi mộ này phát hiện một chiếc bút hiệu paker ngòi vẫn sáng nguyên ánh thép, một chiếc huy hiệu mờ không còn rõ ghi gì, gáy da làm bìa của một cuốn sổ đã mủn và rất nhiều đinh xác định là đã đóng vào tay, vào đầu.
Ngay khi nhận được thông tin này, Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết: Theo thông tin thu thập, cụ Tố được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng một chiếc bút máy mạ vàng rất đẹp, có thể đây là chiếc bút này chăng... Còn với chúng tôi, ở nơi vùng núi sâu này, những năm 1947 dân công hỏa tuyến làm gì có những vật dụng cao cấp như bút máy parker?
Cũng một điều lạ nữa khi chúng tôi quyết định bốc cốt ở 2 ngôi mộ vào tiểu sành do UBND tỉnh Bắc Kạn chuẩn bị, một người giúp chúng tôi đào mộ chợt khóc thảm thiết, một mực yêu cầu được đón và đưa quy tập vào nghĩa trang. Ông Phụng lúc đó ở Hà Nội cũng điện thoại yêu cầu chúng tôi phải tìm bằng được mộ một chiến sỹ cảnh vệ ở gần đó. Nếu không tìm được ngôi mộ này, cụ Tố chưa đành đi...
Người bốc mộ kể lể hoàn cảnh mình hy sinh suốt hơn 1 giờ đồng hồ với sự chứng kiến của đông đảo bà con dân bản. Mọi người vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông Tiến ở đâu tất tả đến và oang oang nói, mới nhớ ra còn một ngôi mộ nữa bố ông nói chôn ở khóm tre bên đồi đối diện. Người ấy trúng phải mìn nên thân mình không còn nguyên vẹn. Người ta phải gom phần thân thể, lấy vải đùm bọc lại, úp một cái bát lên, chôn xuống bên sườn đồi.
http://i106.photobucket.com/albums/m...uyenVanTo9.jpg
Di vật tìm thấy trong mộ khi khai quật
Ông Tiến kể: Người trong làng nói lại là xác những người này được tìm thấy cạnh cửa hang Bá chủ. Không biết ai đã chôn họ ở đám đất chân đồi này. Công việc đào sau đó khẩn trương trở lại nhưng cốt dưới ngôi mộ thứ ba chẳng còn gì, mủn mục thành đất đen, chỉ còn cái bát xưa người chôn úp lên là còn nguyên vẹn. Chúng tôi đành cho tất cả vào tiểu, phủ cờ đỏ sao vàng lên...
Chiều 10-4-2007, lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn đã tiếp nhận và đưa các hài cốt các liệt sỹ về quản lý tại Trung tâm y tế thường xuyên của tỉnh và yêu cầu Pháp y công an lập hồ sơ, biên bản tiếp nhận, giám định các hài cốt và những di vật đã tìm được.
Văn phòng Quốc hội sau khi có thông tin tìm được 3 hài cốt trong đó có 1 hài cốt có thể là cụ Nguyễn Văn Tố đã cử một đoàn cán bộ có sự tham gia của một số lão thành cách mạng, cháu gái cụ Nguyễn Văn Tố ở TP.HCM và nhiều nhà khoa học thuộc chuyên ngành nhân chủng học kiểm tra sơ bộ các hài cốt tìm được.
Theo các nhà khoa học, căn cứ vào xương tìm được của ngôi mộ thứ nhất, hài cốt có hình thể và tuổi xương trùng khớp với các đặc điểm nhân dạng cụ Nguyễn Văn Tố. Công việc tiếp theo là xác định ADN. Nếu có kết quả tốt, đây là tin vui. Sau 60 năm nằm lại nơi rừng sâu, cụ Nguyễn Văn Tố – một nhân sỹ yêu nước, một liệt sỹ anh hùng, vị Trưởng ban Thường vụ Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) sẽ trở về trong niềm xúc động của nhân dân. Những hồ nghi xung quanh việc cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh đã được giải đáp.
Chúng tôi, những người tham gia hành trình đi tìm cụ Nguyễn Văn Tố và đồng đội mãn nguyện khi hoàn thành trọng trách của mình. Một nén hương thơm mong anh linh cụ Nguyễn Văn Tố và những liệt sỹ đã hy sinh thanh thản nơi suối vàng.
Đó cũng là nghĩa cử cao đẹp các đại biểu Quốc hội thực hiện đúng dịp kỷ niệm 60 năm Quốc hội Việt Nam, đúng 60 năm ngày cụ hy sinh lẫm liệt vì nền độc lập, tự do, dân chủ của nước nhà.
Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn
Trung tâm Nhân học phát triển - Viện Dân tộc học