-
6. Pháp Quán Ðảnh Kalachakra
Thông thường mật pháp được truyền dưới hai dạng, Tây tạng gọi là wang và jenang. Chữ wang dịch là mật pháp quán đảnh và jenang là mật pháp gia trì. Cả hai cùng gọi là truyền mật pháp3, nhưng ý nghĩa lại khác nhau. Vậy nên biết rõ wang và jenang khác nhau ra sao, hai dạng truyền mật pháp này là như thế nào.
Nguyên văn chữ wang có nghĩa là "ban cho quyền năng", thường gọi là truyền pháp quán đảnh, trong ý nghĩa hành giả được trao cho quyền năng quán tưởng chính mình là vị Pháp chủ mạn đà la. Nhận được pháp quán đảnh rồi mới có thể tu tập thiền quán về vị Pháp chủ mạn đà la, về hai giai đoạn chính của Mật tông tối thượng du già là phát khởi và viên thành, cùng những phương pháp thiền quán thuộc các bộ Mật tông thấp hơn. Nói tóm lại, pháp quán đảnh cho hành giả đầy đủ quyền năng hành trì một số quán tưởng liên quan đến vị Pháp chủ mạn đà la.
Wang và jenang có gì khác nhau? mật pháp quán đảnh và mật pháp gia trì khác nhau ra sao? Mặc dù vẫn thường được gọi chung là truyền pháp, hai dạng truyền mật pháp này hoàn toàn khác nhau. Mật pháp quán đảnh ban cho quyền năng hành trì, còn mật pháp gia trì là truyền năng lực gia trì của vị Pháp chủ vào thân miệng ý của hành giả. Nói chung, phải nhận pháp quán đảnh trước khi có thể nhận pháp gia trì, vì chỉ như vậy năng lực gia trì của vị Pháp chủ mới có thể truyền thông suốt vào ba cửa thân miệng ý của đệ tử.
-
Việc gì sẽ xảy ra nếu đệ tử chưa nhận pháp quán đảnh mà lại nhận pháp gia trì? Trường hợp này xảy ra rất thường. Ví dụ các anh chị đến nghe giảng Pháp, sau buổi giảng vị thầy có khi cử hành lễ truyền pháp trường thọ Bạch Y Quan Thế Âm. Nếu chưa từng nhận pháp quán đảnh trước đó, dù có ngồi dự buổi truyền pháp này, các anh chị cũng không thể nói là mình đã nhận pháp gia trì Bạch Y Quan Thế Âm. Lý do là vì muốn thật sự nhận được pháp gia trì này, các anh chị cần quán tưởng mình mang thân tâm của vị Pháp chủ, ở đây là đức Bạch Y Quan Thế Âm, và vận dụng thân tâm thanh tịnh ấy để nhận pháp gia trì.
Nếu chưa từng nhận pháp quán đảnh, các anh chị sẽ không thể tự quán tưởng mình mang thân tâm của vị Pháp chủ, vì vậy không thể nhận pháp gia trì. Vì lý do này, các thầy trước buổi truyền pháp gia trì thường nhắc nhở ai chưa nhận pháp quán đảnh thì đừng quán tưởng mình là vị Pháp chủ. Các anh chị chỉ có thể quán tưởng Phật ngự trên đỉnh đầu, rót dòng suối cam lồ thân miệng ý thanh tịnh xuống. Như vậy các anh chị cũng sẽ nhận được lực gia trì, nhưng không phải là đã nhận mật pháp gia trì.
Ðại lễ quán đảnh thường được truyền cho đệ tử qua mạn đà la. Có nhiều cách trình bày mạn đà la, có mạn đà la làm bằng cát màu, có mạn đà la làm bằng gấm vẽ, có mạn đà la khởi hiện nhờ định lực của vị đạo sư, cũng có mạn đà là thân người. Bốn loại mạn đà la này đều có thể được sử dụng để truyền pháp quán đảnh.
Kalachakra có hai phương pháp truyền pháp. Một là truyền pháp Kalachakra theo dạng thông thường. Gọi "thông thường", vì tuy mật pháp Kalachakra đặc biệt, nhưng nghi thức truyền pháp lại giống nghi thức truyền pháp của những mật pháp khác trong Mật tông tối thượng du già. Vì không khác với những mật pháp khác, nên gọi là phương pháp truyền pháp thông thường.
Hai là truyền pháp Kalachakra theo dạng phi thường. Gọi phi thường, vì trong số tất cả những mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già, chỉ duy nhất chỉ có Kalachakra là có thể truyền theo phương pháp này. Ðây là phương pháp độc nhất truyền mười một pháp quán đảnh. Nghi lễ và nội dung truyền pháp đều rất khác so với các loại mật pháp khác trong Mật tông tối thượng du già.
-
Nói về dạng truyền pháp thông thường, phương pháp này được nói đến trong kinh Vajramalatantras hay trong bộ mật kinh có thể tìm thấy nơi dòng Sakya. Phương pháp này sử dụng mạn đà la bằng gấm thêu, truyền bốn pháp quán đảnh. Bốn pháp này là pháp quán đảnh bình bát (vase initiation), kín mật (secret initiation), tuệ giác (wisdom initiation), và danh tự (word initiation). Ðây là bốn pháp quán đảnh chung cho tất cả mọi mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già.
Nói về dạng truyền pháp phi thường, phương pháp này đến từ lời dạy của hiền thánh Naropa. Phương pháp phi thường này đòi hỏi mạn đà la bằng cát màu. Thiếu mạn đà la bằng cát màu, pháp này không thể truyền.
Vài ngày nữa đại lễ quán đảnh sẽ được cử hành, phương pháp truyền pháp sẽ là phương pháp phi thường, thuận theo lời dạy của hiền thánh Naropa.
Vì sao mạn đà la bằng cát màu lại được đề cao đến như vậy? Lý do là vì mạn đa la càng lớn, càng phải dùng nhiều cát nhiều màu bao nhiêu, công đức tích lũy cho thí chủ và đệ tử tham dự lại càng tăng bấy nhiêu. Mạn đà la được dựng lên với nhiều loại vàng bạc, đá quí, lại đòi hỏi rất nhiều thì giờ, công sức, nhờ vậy công đức tích lũy lớn lao vượt bực.
Ngoài ra, mạn đà la bằng gấm vẽ chỉ là tấm hình do họa sĩ vẽ, dùng màu sắc tương ứng với năm Phật bộ. Kalachakra khác hơn, có tới sáu Phật bộ. Vì vậy mạn đà la dùng sáu màu cát khác nhau, tượng trưng cho trí giác (primordial wisdom) của sáu Phật bộ. Cát sáu màu được thanh tịnh hóa, rồi theo đúng nghi thức xây mạn đà la. Toàn bộ quá trình thực hiện mạn đà la được cử hành theo nghi thức nhất định, không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật như hình vẽ trên mạn đà la bằng gấm. Ðến cả vật liệu dùng để xây mạn đà la cũng đã được gia trì, thanh tịnh hóa.
Bây giờ nói về thời gian thích hợp để truyền pháp quán đảnh. Dựa theo những bộ luận giải Kalachakra, pháp quán đảnh tốt nhất nên truyền vào ngày rằm tháng ba Tạng lịch. Ðó là thời gian thích hợp nhất. Nếu không được, thì chọn ngày rằm của bất cứ tháng nào trong Tạng lịch cũng là ngày lành. Nếu cũng không được, lại gặp đệ tử căn cơ cao đủ khả năng nhận pháp, thì có thể chọn bất cứ ngày vía Phật nào khác.
-
Vì sao ngày rằm tháng ba Tạng lịch được xem là ngày tốt nhất để truyền pháp Kalachakra? Khi đức Phật Thích ca mâu ni thuyết kinh Bát Nhã ở đỉnh Linh thứu thành Vương xá, đồng thời đức Phật cũng có mặt ở tòa bảo tháp tại miền Nam xứ Ấn. Tại bảo tháp ấy, đức Phật hiện thân Pháp chủ Kalachakra cùng toàn bộ mạn đà la, truyền mật pháp quán đảnh Kalachakra cho quốc vương Dawa Zangpo, vua của vương quốc Shambala. Cùng nhận pháp Kalachakra với quốc vương Dawa Zangpo, còn có nhiều vị tiểu vương và nhiều đệ tử khác. Họ nhận pháp Kalachakra vào ngày rằm tháng ba Tạng lịch. Vì duyên lành này mà ngày rằm tháng ba được xem là ngày đại cát tường để truyền pháp quán đảnh Kalachakra.
Sau khi nhận pháp quán đảnh và mật kinh Kalachakra do chính đức Thế tôn truyền thọ, quốc vương Dawa Zangpo cùng tùy tùng quay trở về vương quốc Shambala. Sáu trăm năm sau, vị quốc vương kế thừa, là tổ sư dòng Kulika tên Manjushrikirti, truyền pháp Kalachakra lại cho 35 triệu hiền giả, đứng đầu là hiền giả Meyshinda.
Lần ấy cũng nhằm ngày rằm tháng ba Tạng lịch. Ðây là lý do thứ hai vì sao ngày này lại được xem là ngày đại cát tường để truyền pháp quán đảnh Kalachakra. Kinh sách còn nói khi đức Phật lần đầu truyền mật pháp Kalachakra cho quốc vương Dawa Zangpo, đức Phật cũng đồng thời truyền lại cho quốc vương mật kinh Kalachakra, dài đến hàng trăm ngàn câu tụng. Sáu trăm năm sau, vua Manjushrikirti kế thừa mật pháp, thâu ngắn mật kinh Kalachakra thành bộ Mật kinh Toát Yếu [Condensed Tantra of Kalachakra], vì vậy mà tên vị quốc vương này thường được nhắc đến. Manjushrikirti lại có vị đệ tử tên Kundarika, hay Pema Karpo, cũng là vị quốc vương truyền thừa dòng Kulika, dựa trên bộ Mật Kinh Toát
Yếu mà viết ra bộ luận giải. Bộ luận giải này ngày nay được biết dưới tên Ánh Sáng Thuần Khiết [Stainless Light], có tất cả ba quyển. Vậy thời nay ai thật sự muốn tu theo mật pháp Kalachakra, trước tiên phải nhận pháp quán đảnh từ dòng truyền thừa này, sau đó phải thọ nhận giáo pháp nằm trong hai bộ mật điển, một là Kalachakra Mật Kinh Toát Yếu, hai là bộ luận Ánh Sáng Thuần Khiết.
Trước khi có luận giải Ánh Sáng Thuần Khiết, người ta thường cho rằng đại pháp quán đảnh Kalachakra chỉ có thể cử hành nhiều nhất là hai lần trong năm. Luận Ánh Sáng Thuần Khiết xóa tan nhiều sai lầm đại loại, nói rõ ngày rằm tháng ba là ngày tốt nhất, nếu không, ngày rằm của bất cứ tháng nào trong năm cũng tốt.
-
Cứ hễ có đệ tử đủ căn cơ để nhận pháp, là pháp quán đảnh có thể được cử hành vào ngày rằm của bất cứ tháng nào trong năm.
Nói chung, chúng ta thường nghe nói Kalachakra có mười một hay mười sáu pháp quán đảnh. Nói như vậy đều chính xác, không mâu thuẫn. Ðây chỉ là hai cách giải thích khác nhau về nội dung của pháp quán đảnh. Nếu giải thích chi tiết cặn kẽ, thì đếm thành mười sáu pháp quán đảnh, còn nếu giải thích tóm lược, thì đếm thành mười một pháp quán đảnh.
Bảy pháp quán đảnh đầu thường gọi là "bảy pháp quán đảnh sơ sanh". Mười một
pháp quán đảnh là bảy pháp quán đảnh sơ sanh cộng thêm bốn pháp quán đảnh
bình bát, kín mật, trí tuệ, danh tự như trong các mật pháp khác. Bốn cộng bảy, đếm thành mười một pháp quán đảnh.
Còn nếu đếm mười sáu pháp quán đảnh, thì phải chia thành bốn tiểu bộ: 1. bảy pháp quán đảnh sơ sanh; 2. bốn pháp quán đảnh cao đẳng2: bình bát, kín mật, trí tuệ và danh tự; 3. bốn pháp quán đảnh thượng đẳng3, cũng tên là bình bát, kín mật, trí tuệ và danh tự; 4. pháp quán đảnh đại đạo sư kim cang4. Tổng cộng là mười sáu pháp quán đảnh.
Làm sao có thể qui nạp mười sáu pháp quán đảnh thành mười một ? Giữ nguyên bảy pháp quán đảnh sơ sinh. Còn bốn pháp quán đảnh cao đẳng và bốn pháp quán đảnh thượng đẳng được qui nạp như sau: hai pháp quán đảnh bình bát (cao đẳng và thượng đẳng) gộp chung thành một; hai pháp quán đảnh kín mật gộp chung thành một, và hai pháp quán đảnh trí tuệ cũng vậy, gộp chung thành một. Còn lại hai pháp quán đảnh danh tự thì pháp quán đảnh danh tự cao đẳng được gộp chung vào pháp quán đảnh thứ ba là trí tuệ, còn lại pháp quán đảnh danh tự thượng đẳng giữ lại làm pháp quán đảnh danh tự.
-
Vậy chúng ta có bốn pháp quán đảnh cùng bảy pháp quán đảnh sơ sanh. Một khi có đủ hai tiểu bộ bảy và bốn phép quán đảnh, thì mười một pháp này tương đương với pháp quán đảnh đại đạo sư kim cang, vì vậy không cần đếm riêng pháp quán đảnh này. Do đó mà thành mười một pháp quán đảnh.
Vì sao truyền thọ pháp Kalachakra cần những mười một pháp quán đảnh khác nhau? Lý do là vì khi nhận bảy pháp quán đảnh sơ sanh, chúng ta thanh tịnh hóa được chướng ngại ô nhiễm làm áng ngữ bảy địa bồ tát, đồng thời cấy vào tâm thức đầy đủ nhân duyên để thành tựu bảy địa bồ tát.
Nói đến con đường tu chứng bồ đề và quá trình thanh tịnh hóa của từng địa bồ tát, điều này liên quan đến hai lãnh vực chính của giáo pháp Phật dạy, đó là giáo pháp thâm sâu và giáo pháp quảng đại. Hai đề tài tu học chính yếu của ba tu viện lớn nhất Tây tạng là Sera, Ganden và Drepung là Bát nhã ba la mật1 và Trung quán [Madhyamika]. Trong Bát nhã ba la mật, từng giai đoạn tu chứng được giải thích rõ, có bao nhiêu địa bồ tát, mỗi địa có bao nhiêu chướng ngại cần triệt bỏ, khi triệt bỏ rồi thành tựu được những gì. Nếu đã từng tu học Bát nhã ba la mật, sẽ không lấy làm lạ khi nghe về những điều này, bằng không, dù thật sự tinh tấn qui y và phát tâm Bồ đề nhưng khi bước vào Mật tông, nghe nói về thành tựu và chướng ngại của mỗi địa bồ tát, vẫn sẽ cảm thấy hoang mang, xa lạ. Phải cố gắng tu học để tìm hiểu về từng địa vị tu chứng trong Bồ tát đạo.
Vì sao cần phải nhận pháp quán đảnh? Như đã nói, mỗi pháp quán đảnh có khả năng thanh tịnh nghiệp chướng của từng địa bồ tát tương ứng. Vậy có thể nói pháp quán đảnh, cốt tủy của mật pháp, giúp chúng ta thành tựu từng giai đoạn trên con đường dẫn đến giác ngộ, bao gồm cả con đường Hiển giáo. Các anh chị bắt buộc phải kết hợp phương pháp tu mật với tu hiển. Ðiều này thật rõ ràng.
Ngoài việc cần phải kết hợp phương pháp tu mật và hiển, tại sao cần phải nhận pháp quán đảnh? Nói chung, các giai đoạn tu chứng trong Kalachakra không khác những gì gặp trong Hiển tông. Hiển pháp nói về hai bồ công đức, phương tiện và trí tuệ, nghĩa là hai mặt quảng và thâm, cần thực hành song song. Mật pháp cũng vậy.
Nhưng ngoài việc tích lũy hai bồ công đức ra, hiển pháp không đề cập đến khí mạch, khí, tinh khí bồ đề vân vân, cũng không nói về phương pháp nhắm đánh vào các điểm trọng yếu của thân kim cang để vận động các luồng khí và tâm vi tế.
-
Tất cả những điều này được giáo pháp Kalachakra chỉ dẫn cặn kẽ. Chữ quan trọng nhất được tuyên thuyết trong Kalachakra là yugananda, nghĩa là bất nhị, hay kết hợp, chỉ về sự đồng nhất giữa thân và tâm nhiệm màu của Phật, trong ý nghĩa thân Phật là tâm Phật, và tâm Phật là thân Phật. Thành tựu này được tuyên thuyết trong Kalachakra. Ðể hiểu phần vi diệu này, các anh chị cần nhận pháp quán đảnh Kalachakra, nếu không, không được phép hành trì.
Tuy vậy, dù có nhận pháp cao thâm vi diệu đến đâu đi nữa, trước khi nhận pháp, điều quan trọng nhất phải làm là qui y Tam bảo. Qui y Tam bảo thường do vị đạo sư kim cang truyền thọ, tiếp theo là phát tâm Bồ đề, thọ giới bồ tát. Nếu pháp quán đảnh thuộc về hai lớp Mật tông trên cùng là Mật tông du già hay Mật tông tối thượng du già, đệ tử phải nhận thêm giới kim cang. Sau đó là nghi thức phát tâm Bồ đề, bao gồm hai tâm Bồ đề, giai đoạn và cứu cánh, quán tưởng thành đài mặt trăng trắng tròn nằm nơi tim, với chày kim cương màu trắng năm chấu, đứng thẳng trên đài mặt trăng. Tưởng tượng hai loại tâm Bồ đề hoạt hiện thành mặt trăng và chày kim cang ở tim. Rồi nhờ sức mạnh gia trì của vị đạo sư, hãy an trú trong quán tưởng. Phát nguyện không rời xa tâm Bồ đề cho đến khi giác ngộ. Có thể nói tâm- Bồ-đề-giai-đoạn và tâm-Bồ-đề-cứu-cánh (là tánh Không), cực kỳ quan trọng trong Mật tông. Ðó là nền tảng của tất cả mọi mật pháp.
Như đã nói, mật pháp Kalachakra là một pháp tu khác thường, vì Kalachakra có phần đồng nhất với hiển pháp, nhưng lại có thêm phần hành trì kín mật. Hiển pháp nói về hai loại chướng ngại là phiền não chướng và sở tri chướng, dạy hành giả phải xả bỏ hai loại chướng ngại này. Mật pháp Kalachakra cũng vậy, chỉ khác nhau ở phương pháp dẹp chướng ngại.
Các mật pháp khác với Kalachakra thường nói tới tâm vi tế và khí vi tế, thể hiện thân Phật, nằm giữa thân vật lý cha mẹ sinh, quán chiếu về tánh Không. Nói cách khác, khí và tâm vi tế hiện giữa trái tim hành giả với sắc thân của đấng Pháp chủ, và đây chính là cái gọi là sự bất nhị của thân Phật và tâm Phật, trong nghĩa tâm là thân, thân là tâm.
-
Trong Kalachakra, phương pháp thực hiện thân tâm bất nhị không giống như vừa nói. Hành giả không khởi hiện thân Phật khác với thân vật lý của chính mình, mà thành tựu thân vô sắc, nghĩa là thân không có hình sắc. Không ở đây không phải là tánh Không. Thân vô sắc không thuộc cảnh giới Chân đế, mà thuộc Thế tục đế.
Gọi là vô sắc, vì thân này hoàn toàn thiếu vắng những thành phần vật lý, thành tựu được nhờ tu theo mật pháp. Các tập hợp vật lý dần dần bị thu nhiếp, tiêu trừ, chuyển thành thân vô sắc. Quá trình chuyển hiện này đòi hỏi phải dẹp bỏ toàn diện sở tri chướng và phiền não chướng, so với Hiển tông hoàn toàn như sau, chỉ có phương pháp thực hiện là khác.
Mật tông dẹp hai chướng ngại này bằng cách thanh tịnh hóa bốn giọt tinh chất (bindus) nằm ở bốn nơi khác nhau trong cơ thể, Giọt thứ nhất nằm ở luân xa trên trán, liên quan đến thời gian thức giấc. Giọt thứ hai nằm ở trung tâm của luân xa trên cổ, liên quan đến thời gian nằm mơ. Giọt thứ ba nằm ở luân xa nơi tim, liên quan đến thời gian chìm sâu trong giấc ngủ. Giọt thứ tư nằm ở luân xa vùng bụng [4 ngón tay thấp dưới rốn], liên quan đến niềm hỉ lạc lúc giao tình.
Một khi định tâm thanh tịnh được giọt tinh chất nơi trán liên quan đến thời gian thức, hành giả thành tựu thân kim cang. Ðịnh tâm thanh tịnh được giọt tinh chất nơi cổ liên quan đến thời gian mơ, hành giả thành tựu miệng kim cang. Ðịnh tâm thanh tịnh được giọt tinh chất nơi tim liên quan đến thời gian ngủ say, hành giả thành tựu ý kim cang.
Còn thành phần thứ tư trong Kalachakra là trí giác bản lai đại lạc bất động tối thượng. Các mật pháp khác như Guhyasamaja cũng có nhắc đến đại lạc bất động, nhưng trí giác bản lai đại lạc bất động tối thượng trong Kalachakra là thành tựu của quá trình thanh tịnh giọt tinh chất nơi vùng bụng. Thanh tịnh giọt tinh chất này là thành tựu trí giác bản lai kim cang [vajra primordial wisdom]. Vậy ngoài thân, miệng, ý kim cang, hãy còn thành phần thứ tư là trí giác bản lai kim cang. Thành tựu bốn kim cang nói trên là thành tựu pháp tu Kalachakra.
-
Vì vậy, nhìn vào mạn đà la Kalachakra hành giả sẽ thấy bốn cửa Ðông Nam Tây Bắc. Mỗi cửa mang một màu: cửa Ðông màu đen, cửa Nam màu đỏ, cửa Tây màu vàng, cửa Bắc màu trắng. Bốn màu này tương ứng với bốn kim cang. Cửa Bắc màu trắng tượng trưng cho thân kim cang của Kalachakra. Cửa Nam màu đỏ tượng trưng cho miệng kim cang của Kalachakra. Cửa Ðông màu đen tượng trưng cho ý kim cang của Kalachakra. Cửa Tây màu vàng tượng trưng cho trí giác bản lai kim cang của Kalachakra. Bốn kim cang này thành tựu nhờ thanh tịnh hóa bốn luân xa trong cơ thể như đã nói.
Khi nhận pháp quán đảnh Kalachakra, trước hết các anh chị nhận bảy pháp quán đảnh sơ sanh. Dù chỉ đang ngồi trên ghế trong hội trường, các anh chị vẫn phải tưởng tượng mình đang đi quanh bốn cánh cửa mạn đà la. Phải quán tưởng toàn bộ mạn đà la hiện ra trước mắt, quán tưởng bốn cửa vào, vị Pháp chủ phía bên trong cùng toàn thể các vị Phật, Bồ tát, trời, thần đang vây quanh Phật và Phật mẫu trong mạn đà la. Rồi các anh chị quán tưởng đấng đạo sư kim cang là vị thầy truyền pháp - đang dắt mình đi qua từng cánh cửa một để nhận pháp quán đảnh.
Trước hết, các anh sẽ được dẫn vào cửa Bắc màu trắng, liên quan đến thân kim cang. Ở đó các anh chị sẽ nhận hai pháp quán đảnh đầu tiên trong số bảy pháp quán đảnh sơ sanh. Tiếp theo, các anh chị sẽ được dẫn đến cửa Nam màu đỏ của miệng kim cang, ở đó nhận pháp quán đảnh thứ ba và thứ tư. Tiếp theo là cửa Ðông màu đen, nhận pháp quán đảnh thứ năm và thứ sáu. Cuối cùng đến cửa Tây màu vàng nhận phép quán đảnh thứ bảy. Vậy mỗi cánh cửa của mạn đà la tương ứng với một trong bốn giọt tinh chất, thanh tịnh đi thì chuyển thành bốn kim cang. Các anh chị nhận được phép quán đảnh dựa trên căn bản này.
-
Vì có mối tương quan đặc biệt giữa màu sắc và phương hướng, nên các pháp quán đảnh được truyền thọ từ nhiều phương hướng khác nhau. Tất cả đều xảy ra trong quán tưởng, trên thực tế các anh chị vẫn ngồi yên trên ghế. Các pháp quán đảnh không những giúp thanh tịnh nghiệp chướng liên quan đến bốn giọt tinh chất, mà còn gieo trồng thiện duyên vào tâm thức, giúp thành tựu bốn thân Phật trong tương lai.
Pháp quán đảnh đầu tiên là pháp quán đảnh nước, tương đương với việc tắm rửa trẻ sơ sanh. Ðối tượng cần thanh tịnh hóa ở đây là ngũ uẩn và ngũ đại, nghĩa là năm hợp thể [ngũ uẩn] và năm yếu tố vật lý [ngũ đại].
-
Nhìn chung mà nói, hệ thống Kalachakra có không phải năm mà là sáu hợp thể và sáu yếu tố, hợp thể thứ sáu là thức và yếu tố thứ sáu cũng là thức. Ở đây vì phân riêng ra mà nói, nên có năm hợp thể là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, còn hợp thể thứ sáu là trí giác bản lai.
Pháp quán đảnh nước thanh tịnh hóa năm hợp thể và năm yếu tố. Lý do vì sao truyền thọ pháp quán đảnh này, là vì lúc rời thai mẹ là lúc năm hợp thể và năm yếu tố nhập vào cuộc sống. Trẻ sơ sinh trước tiên được tắm rửa bằng nước. Pháp quán đảnh này ví như tắm đứa bé, gieo trồng thiện duyên để đạt thân Phật về sau. Ðó là giải thích dựa vào nền tảng, đạo và quả.
Hai pháp quán đảnh đầu tiên liên quan đến thân Phật. Pháp quán đảnh đầu tiên là "nước", pháp quán đảnh thứ nhì là "mũ miện". Sau đó, các anh chị đi qua cửa Nam và nhận hai phép quán đảnh tiếp theo, là "trang sức", và "chày kim cang và chuông báu".
Hai pháp quán đảnh này thanh tịnh hóa lời nói. Khi trẻ sinh ra, khí tán vào cơ thể. Cơ thể con người có tất cả 72000 đường khí mạch, lúc chào đời, các đường khí mạch mở ra đến tận tứ chi, khí tán vào đó, nhờ vậy trẻ có khả năng nói cười. Vậy khí liên quan đến khả năng phát tiếng nói. Hai pháp quán đảnh "trang sức và chày kim cang chuông báu" thanh tịnh hóa hệ thống khí và khí mạch. Ðây là đối tượng cần thanh tịnh hóa trên suốt con đường tu nếu muốn thành tựu miệng kim cang của Kalachakra.
Pháp quán đảnh thứ năm và thứ sáu được truyền ở cửa Ðông màu đen, liên quan đến ý kim cang. Ðối tượng cần thanh tịnh ở đây là những kinh nghiệm thỏa mãn giác quan. Ðứa bé dần lớn lên, bắt đầu dùng giác quan để chơi đùa, tiếp xúc với thế giới xung quanh. Giác quan được thỏa mãn với hình đẹp, tiếng hay, vị ngon, vân vân. và tất cả những cảm giác này đều thuộc phạm vi của ý. Ý là yếu tố chính kinh nghiệm và sử dụng các loại thức, mở cửa giác quan, trải qua nhiều loại cảm giác.
Vấn đề của chúng sinh là vì nghiệp và phiền não, nên kinh nghiệm giác quan nào cũng toàn là ô nhiễm. Hai pháp quán đảnh này nhằm thanh tịnh hóa các cửa ngõ giác quan [căn], và đối tượng của giác quan [trần].
-
Khi lớn lên, đứa trẻ học cách lấy tay cầm đồ vật, lấy chân đi đứng. Tất cả đều liên quan đến khí và tâm. Ở đây hành giả dựa vào hai pháp quán đảnh này để thanh tịnh mọi đối đãi phân biệt, nhờ đó bước vào lãnh vực hoạt dụng tối hảo của Phật đà, thành tựu ý kim cang của Phật Kalachakra.
Pháp quán đảnh thứ bảy được truyền ở cửa Tây màu vàng, liên quan đến trí giác bản lai kim cang. Thỉnh thoảng xem phim ảnh khoa học chúng ta có thể thấy khi mới nhập thai mẹ thai nhi không có khả năng cử động. Dần dần khí mạch thành hình, chân tay bắt đầu mọc. Trước hết là đường khí mạch chính giữa, sau đến hai đường khí mạch bên phải và bên trái, rồi toàn bộ hệ thống khí mạch tỏa ra, chân tay thành hình, thai nhi bắt đầu có khả năng chuyển động. Hơi thở đầu tiên khi nhập thai mẹ là hơi thở của trí giác bản lai, nói cho thật chính xác, là khí của trí giác bản lai. Pháp quán đảnh thứ bảy được truyền trên căn bản này.
Như đã nói, con người có sáu hợp thể [uẩn] và sáu yếu tố [đại]. Hợp thể thứ sáu là trí giác bản lai, và yếu tố thứ sáu là ý thức. Ở đây cả hai đều được thanh tịnh qua pháp quán đảnh thứ bảy, tạo duyên lành để thành tựu trí giác bản lai đại lạc bất động trong tương lai. Nói bất động, có nghĩa là khí bản lai sẽ được mang về an trú vĩnh viễn trong đường khí mạch chính giữa, sẽ không di chuyển qua nơi khác trong hệ thống khí mạch, hay qua các vùng khác trong cơ thể. Trí giác bản lai đại lạc bất động là danh từ chỉ thấy có trong Kalachakra.
Khi nhận pháp quán đảnh này, các anh chị tạo duyên lành để thành tựu trí giác bản lai của Phật trong tương lai. Lời giải thích cũng lại được trình bày qua nền tảng, đạo, và quả.
-
Khi ngồi dự đại lễ quán đảnh, các anh chị sẽ được nhận nhiều vật cụ thể, như nước để nhắp môi, bình bát để đặt trên đỉnh đầu, nhẫn, dây lụa, mũ miện để đeo vân vân. Khi gặp trường hợp như vậy, các anh chị không nên chỉ chạm vào món vật rồi nghĩ rằng: "vậy là đủ, mình đã nhận được lực gia trì". Chỉ như vậy thôi không thể gọi là đủ. Nhận lực gia trì theo kiểu nhắp nước đeo mũ như vậy, cả ngoại đạo cũng có thể có. Nghi lễ này trong Phật giáo có ý nghĩa đặc biệt, ví dụ như nước hay mũ miện, nhắp nước, đội mũ, mỗi việc có đủ chức năng để thanh tịnh hóa một loại nghiệp chướng, gieo vào tâm thức một loại duyên lành. Khi đưa môi nhắp nước, các anh chị trước hết phải cảm thấy nước chan hòa rót vào thân, bao la cùng khắp, khiến các anh chị cảm thấy vô cùng an lạc sáng suốt, tâm các anh chị an trú trong trí giác đại lạc.
-
Trí giác đại lạc này quán chiếu tánh Không, trực chứng tánh Không. Ðại lạc và tánh Không kết hợp, khởi hiện trong tâm thức, và đây mới chính là chất nước thật sự của pháp quán đảnh.
Mỗi pháp quán đảnh tương ứng với một loại nghiệp chướng cần thanh tịnh và một loại duyên lành cần gieo vào tâm thức. Vị đạo sư kim cang [vị thầy truyền pháp quán đảnh] sau mỗi pháp quán đảnh thường chỉ dẫn chúng ta nên chú tâm vào điểm nào, quán niệm mình đang thanh tịnh loại nghiệp chướng nào, gieo lại duyên lành nào cho thành tựu nào trong tương lai.
Trong Kalachakra, thanh tịnh năm yếu tố vật lý [ngũ đại] là gieo duyên lành để sau này chuyển năm yếu tố thành năm vị phối thân của Kalachakra. Thanh tịnh năm hợp thể [ngũ uẩn] là gieo duyên lành để sau này chuyển năm hợp thể thành năm vị Phật của năm Phật bộ trong Kalachakra. Thanh tịnh mười loại nghiệp khí trong cơ thể là gieo duyên lành để sau này thành tựu mười vị Shaktis [mười năng lực ba la mật]. Thanh tịnh hai đường khí mạch bên trái và bên phải là gieo duyên lành để sau này thành tựu thân Pháp chủ mạn đà la, là Kalachakra. Thanh tịnh sáu giác quan [sáu căn], và sáu đối tượng của giác quan [sáu trần] là gieo duyên lành để sau này thành tựu 6 vị Như lai dưới dạng phụ mẫu quanh Kalachakra. Thanh tịnh sáu lực, ví dụ như khả năng cử động tay chân, là gieo duyên lành để sau này thành tựu sáu vị Như lai hung nộ dưới dạng phụ mẫu quanh Kalachakra.
Khi nhận pháp quán đảnh, các anh chị cần biết rõ mình đang thanh tịnh hóa những gì và để làm gì. Những gì vừa nói trên về đối tượng và thành quả của quá trình thanh tịnh hóa, các anh chị nên nhớ rõ.
Nếu chịu khó quan sát các anh chị có thể thấy mạn đà la Kalachakra có ba vòng tròn từ ngoài vào trong, đó là mạn đà la của thân, miệng và ý. Ðó là mối tương quan giữa các đối tượng cần thanh tịnh hóa, và kết quả thành tựu nằm trong mạn đà la của ý.
-
Bảy pháp quán đảnh sơ sanh được truyền cho người bước vào giai đoạn phát khởi [Mật tông tối thượng du già có hai giai đoạn, phát khởi và viên thành]. Sau khi nhận bảy pháp quán đảnh sơ sinh, hành giả có thể tự quán tưởng mình là vị Pháp chủ Kalachakra, và có thể bắt đầu hành tri cái gọi là "tâm hãnh diện nhiệm màu" với thân Phật trong quán đảnh.
Tiếp theo bảy pháp quán đảnh sơ sanh là tiểu bộ bốn pháp quán đảnh. Pháp quán đảnh đầu tương ứng với giai đoạn phát khởi, ba pháp sau tương ứng với ba chặng đường trong giai đoạn viên thành: 1. thành tựu Báo ứng thân Kalachakra; 2. thành tựu Pháp thân Kalachakra; 3. thành tựu sự hợp nhất của tam thân Phật. Ðó là lý do vì sao trong mạn đà la Kalachakra lại có mặt trăng ở cửa Ðông Bắc và mặt trời ở cửa Tây Nam. Mặt trăng và mặt trời tiêu biểu cho hệ thống tu giai đoạn viên thành khác thường này.
Báo ứng thân của Kalachakra được thành tựu như thế nào? Trước hết, thu nhiếp khí vào đường khí mạch chính giữa. Một phần của cơ thể vật lý được tiêu trừ, một phần Báo ứng thân hiển lộ. Như đã nói, thân vô sắc được hình thành nhờ kiên trì thu nhiếp tiêu trừ từng nguyên tử của thân vật lý. Pháp quán đảnh bình bát gia lực cho hành giả hành trì giai đoạn phát khởi. Pháp quán đảnh kín mật là bước đầu tiên vào giai đoạn viên thành, tương ứng với giai đoạn thành tựu Báo ứng thân. Sau đó là pháp quán đảnh trí tuệ, tương ứng với giai đoạn thành tựu Pháp thân. Pháp thân được thành tựu nhờ thu nhiếp khí vào đường khí mạch chính giữa, khiến tâm đại lạc bất động hiển lộ, rồi dùng Tâm này quán chiếu tánh Không. Khi Tâm đại lạc này chứng ngộ tánh Không thì gọi là trí giác bản
lai đại lạc bất động, và đây chính là nền tảng thành tựu Pháp thân Kalachakra. Phương pháp hành trì này liên quan đến pháp quán đảnh thứ ba là pháp quán đảnh Trí tuệ.
-
Hai pháp quán đảnh quí giá này tương ứng với hai chặng đường, trước thành tựu Báo ứng thân, sau thành tựu Pháp thân. Tiếp theo chúng ta bước vào pháp quán đảnh cuối cùng là danh tự. Pháp quán đảnh này tương ứng với giai đoạn kết hợp Báo ứng thân với Pháp thân. Hành giả từ trong định từng phần tiêu trừ các yếu tố vật lý. Giai đoạn này phải kiên trì thực hiện từng phần, không thể trong một lúc mà xong ngay được.
Mật kinh Kalachakra nói có mười hai địa bồ tát, là mười hai giai đoạn tu chứng quả Phật Kalachakra. Mười hai địa này tương ứng với mười hai khúc của đường khí mạch chính giữa, mỗi khúc như vậy phân ra thành 1800 phần nhỏ.
Như đã nói, mỗi khi khí được thu nhiếp vào đường khí mạch chính giữa, sẽ có một phần hợp thể vật lý tương ứng được tiêu trừ, và một phần của thân vô sắc được thành tựu. Vậy trong pháp môn đặc biệt này, hành giả qua mỗi địa bồ tát phải thu nhiếp 1800 giọt tinh chất, tiêu trừ 1800 thành phần vật lý và thành tựu 1800 thành phần của thân thân vô sắc. Khi chuyển hết 12 địa bồ tát, hành giả tiêu trừ được toàn bộ 21600 (12x1800) thành phần vật lý của thân thể, thành tựu thân vô sắc, hoàn thành sự kết hợp thuần nhất của ba thân Phật, đạt địa vị Kim Cang Tát Ðỏa.
Như đã nói, các cụm 1800 thành phần vật lý này chỉ có thể được tiêu trừ từng phần. Nói tiêu trừ từng phần là chữ dùng cho tiện, thật chính xác thì phải nói là tuần tự xếp chồng hai loại tinh chất trắng đỏ. Hành giả phải thu nhiếp các luồng khí tứ tán trong cơ thể về lại đường khí mạch chính giữa, rồi đẩy các giọt tinh chất đỏ xếp chồng từ trên xuống. Giọt tinh chất đỏ đầu tiên đẩy ép lên trên cùng, các giọt khác lần lượt theo đó xếp chồng xuống. Rồi hành giả lại ép giọt tinh chất trắng đầu tiên xuống dưới cùng đường khí mạch chính giữa, các giọt khác lần lượt xếp chồng từ dưới lên. Cứ như vậy cho đến khi toàn bộ 21600 giọt tinh chất đều được thu nhiếp và xếp chồng trong đường khí mạch chính giữa. Quá trình xếp chồng tinh chất đỏ từ trên xuống và tinh chất trắng từ dưới lên này được thể hiện trong Mạn đà la Kalachakra qua hình mặt trăng ở cửa Ðông Bắc và mặt trời ở cửa Tây Nam. Mặt trăng và mặt trời tượng trưng cho phương pháp xếp chồng các giọt tinh chất trong giai đoạn viên thành.
-
Khi nhận pháp quán đảnh vào các mạn đà la khác, thường hành giả phải đeo mũ miện màu xanh hay đen, nhưng mũ miện trong Kalachakra luôn luôn đỏ, đó là biểu tượng của giọt tinh chất đỏ xếp chồng từ trên xuống. Cũng vì lý do này mà tóc Phật Kalachakra màu đỏ.
Sử viết, khi vị quốc vương dòng Kulika là Manjushrikirti truyền pháp quán đảnh Kalachakra, ngài đội mũ miện kết bằng bờm sư tử, đây cũng có thể là một biểu tượng của phương pháp tu đặc biệt này.
Ðến đây chấm dứt phần giới thiệu sơ lược về pháp quán đảnh Kalachakra.
P/S: quốc vương Pundarika (tên khác: Pema Karpo) dòng Kulika là người soạn bộ luận tên "Ánh Sáng Thuần Khiết". Vị này được xem là hiện thân của Quan thế âm, và đức Ðạt-lai Lạt-ma cũng được xem là hiện thân của Quan thế âm. Ðức Ðạt-lai Lạt-ma là hiện thân của Pundarika. Vì vậy nhận pháp quán đảnh Kalachakra do đức Ðạt-lai Lạt-ma truyền đặc biệt có ý nghĩa. Đức Ðạt-lai Lạt-ma là người chấp trì dòng truyền thừa của pháp quán đảnh này. Quốc vương Pundarika dòng Kulika là vị tổ sư đầu tiên, soạn bộ luận và nghi thức truyền pháp quán đảnh. Dòng truyền thừa này được truyền xuống không gián đoạn, qua đến Tây tạng. Nhìn lại từ xưa đến nay, những vị thầy tích cực hoằng dương pháp Kalachakra đều là những đời Ðạt-lai Lạt-ma.
-
Cám ơn Dilactubi bạn đã pót những bài rất hữu ích...
-
Na mô A di đà Phật, hy vọng sẽ giúp được anh chị em phần nào trên con đường tu tập! Chúc anh chị em luôn an lạc và tinh tấn!
-
Cám ơn huynh Dilactubi đã post lên những bài này thật là vô cùng hửu ích cho những huynh, tỉ muốn tu tập về Mật Tông biết thêm về những pháp môn Du Già Tối Thượng, chẳng hạn, như của Mật Chủ Kalachakra, NN thường hay gọi là Đức Thời Luân Như Lai. Khi nhắc về những pháp môn về Tối Thượng Thừa thì NN lại thấy các thầy rất là vất vả khi truyền pháp. Khi Đức Đa Lai Lạt Ma truyền pháp này thì cũng phải mất đến 3 ngày dài ròng rả. Pháp môn này khi Đức Thế Tôn truyền lại cho vị vua của Shambala, thì theo NN thấy thì vị vua này không phải ở cõi Ta Bà này vì Shambala hoàn toàn không có trên bản đồ. Có người thì cho rằng Shambala thời xưa nằm ở phía Bắc, có người thì nói Tây Bắc của Ấn Độ v.v... Nhưng theo NN thấy thì vương quốc hoàn toàn có thật nhưng vương quốc này nằm ở trong cõi giới vô hình.
Mỗi lần mà Thầy dẫn đệ tử của Thầy qua từng mặt Đông, Tây, Nam và Bắc của Mandala để xin những vị Phật, những vị hộ pháp ở những cửa đó cho phép được vào, cúng dường xong thì lại đi ra, rồi qua mặt khác của Mandala thì không biết NN lại hay nghĩ đến như Phàn Lê Huê đại phá thành môn vậy. Thầy dẫn dắt đám đồ đệ qua từng mặt Mandala như vậy thầy rất mệt và NN thấy rất là thương mến thầy.
Thân
NN