Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm
Hình tượng Quan Âm nhiều tay, nhiều mặt bắt nguồn từ các hình tượng Ấn Độ giáo cổ xưa với các vị thần: Brahma 4 mặt, Vishnu 8 tay, Shiva 4 tay, 6 tay, Yama trăm tay trăm đầu...
Sang TQ, hình tượng này được bản địa hóa trong câu truyện cổ tích Chúa Ba Diệu Thiện. Để cứu cha mình, công chúa thứ ba Diệu Thiện (hóa thân của Quan Âm) đã chặt một tay, móc một mắt làm thuốc, dù trước đó cha đã đối xử tàn tệ với bà khi bà muốn đi tu. Từ đó hình tượng Quan Âm với nghìn cánh tay, nghìn con mắt thể hiện cho sự cứu độ vô hạn của Quan Âm. Người Việt Nam dưới đời Lê còn đi xa hơn nữa khi cho rằng nơi Chúa Ba tu hành chính là chùa Hương ở Hà Tây !.
Những tượng Quan Âm nhiều tay cổ nhất ở VN cũng chỉ có mười mấy tay, rồi tăng lên 42 tay, một trăm tay, rồi mấy trăm tay, và đạt đỉnh điểm là 1113 tay ở chùa Mễ Sở, trong mỗi bàn tay có 1 con mắt. Kèm theo đó là từ một đầu thành 3 đầu, rồi 11 đầu.
Tượng Quan Âm nhiều tay có thể được bày trên chính điện, hoặc bên cạnh, thậm chí là một tòa điện riêng.
Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn (thực ra có 18 tay) ở chính điện chùa Cao (An Phụ).
Pho tượng này còn được gọi là Quan Âm Chuẩn đề, vì hai bàn tay ở giữa bắt ấn Chuẩn đề, một loại ấn tối cao trong Phật giáo đại thừa.
Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm chùa Bút Tháp
Do tính chất nổi tiếng "Đại từ đại bi, Cứu khổ cứu nạn", hình tượng Quán Thế Âm được tôn sùng và tạo tác nhiều nhất, với rất nhiều bức tượng đẹp.
Nổi tiếng nhất có lẽ là bức tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn chùa Bút Tháp tạc vào thế kỉ 17, được coi là tuyệt tác, một "tập đại thành" của nền điêu khắc Việt Nam. Bức tượng chứa đựng trong đó nhân sinh, thế giới quan Phật giáo đầy đủ. Từ dưới lên, có thể thấy cả cảnh âm phủ thông qua 4 quỷ sứ, mặt biển nam hải với con rồng đội đài sen, ánh mặt trăng từ giữa lòng phật bà, những cánh tay nuột nà, 11 đầu Phật với A Di Đà trên cùng, và gần một nghìn cánh tay nhỏ tỏa ra như hào quang rực rỡ.
Tượng Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn loại có mười mấy tay đến vài chục tay còn khá nhiều; nhưng loại có đến khoảng nghìn tay thì mà tượng cổ thì rất hiếm, theo tớ biết và đã đến tận nơi thì chỉ có 4 pho trên toàn miền bắc thôi. Gần đây nhiều chùa có điều kiện cũng làm tượng đủ nghìn tay, và thường lấy mẫu theo tượng chùa Bút Tháp.
Tượng cổ loại nghìn tay mà tớ đã đến thăm chụp ảnh nằm ở các chùa:
- Chùa Thánh Ân: là pho cổ nhất
- Chùa Bút Tháp: là pho đẹp nhất
- Chùa Tam Sơn
- Chùa Mễ Sở: là pho có nhiều tay nhất
Tượng loại nghìn tay thường đồ sộ nên đặt ở tòa riêng, không để trên bàn thờ chính. Tuy vậy tại chùa Thánh Ân, pho tượng cổ này được để chính giữa. Những cánh tay của tượng có phong cách rất đặc biệt. Pho tượng tuổi khoảng 400 năm.
Tiếp với những pho tượng cổ
Pho tượng Quán Thế Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở là pho có nhiều tay nhất còn lại đến nay, pho tượng hơn 300 tuổi.
Tượng có tổng cộng 1113 tay nhỏ, không xòe tròn ra xung quanh, mà lại vươn lên, khum lại thành một vòm cổng, tạo ra một khoảng trống sau lưng tượng. Hai cánh tay chính của Quán Âm kết ấn Chuẩn đề, 40 tay khác xòe ra xung quanh rất đẹp.
Trên cùng, các tay đỡ một vầng mây, mà ở giữa là Phật A Di Đà ngồi, hai bên là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng, có lọng mây che trên đầu, và các tay tỏa ra như hào quang nhỏ. Bệ tượng cũng đặc biệt, không phải đài sen như thông thường, mà là những lớp sóng biển cuộn lên dồn dập.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...pictureid=9308
Pho tượng cổ Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Tam Sơn. Pho tượng đã từng bị hỏng khá nhiều trong chiến tranh, mới được tu sửa lại gần đây.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...pictureid=9317
18 Tượng Tổ chùa Tây Phương
Mười tám pho tượng Tổ chùa Tây Phương được coi là một bộ tượng hoàn thiện nhất của điêu khắc gỗ Việt Nam trong thế kỉ 18. Các pho tượng đã thoát ra ngoài các khuôn mẫu chuẩn mực của các tượng Phật, Bồ tát, để mang lên mình nó những sáng tạo, cảm hứng sống động.
Nếu như các tượng Phật thường ở trong trạng thái Tĩnh: ngồi vững chãi trên tòa sen, mắt nhắm hờ, bất động chìm trong cõi bất khả tư nghị, các nếp áo đều phủ xuống lặng lẽ; thì các tượng Tổ chùa Tây Phương ở trong trạng thái Động: đứng, ngồi, nói, thuyết, quạt, ngoáy tai... rất sinh động phong phú, các tà áo bay tung, bước chân vững chãi... Các nghệ nhân dân gian vô danh đã thổi hồn cuộc sống vào các tượng Tổ này, hơn bất cứ pho tượng nào trong chùa.
Điều này chỉ thực sự cảm nhận được khi ngắm trực tiếp. Ở đây tôi chỉ chụp lại có tính giới thiệu, tư liệu, nên không được đẹp lắm.
Trong 18 tổ, thì hai tổ Ca Diếp và A Nan được đặt ngay trên bàn thờ chính điện, còn 16 pho khác bày trong chùa thượng.
Tổ thứ 1: Tôn giả Ca Diếp -Tổ thứ 2: Tôn giả A Nan
Ca Diếp đã từng làm kim hoàn, nên tượng ông có đeo nhiều châu báu trang sức. Ông được tạc với bộ râu và dáng vẻ như vừa khoát tay, tay áo còn đang bay.
A Nan là người nhớ và đọc lại tất cả kinh Phật, nên được tạc trong tư thế hoan hỉ ôm bộ kinh sách. Ông là tượng trưng của các vị thánh hiền truyền giáo.
http://www.phuot.vn/imagehosting/24348226de78af09.jpg
http://www.phuot.vn/imagehosting/2434822895f79cd2.jpg
Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu -Tổ thứ 4: Ưu Bà Cúc Đa
Tượng Thương Na Hòa Tu mô tả ông đang quan sát và suy nghĩ về đệ tử của mình là Ưu Bà Cúc Đa, dáng vẻ suy tư, chìm sâu vào triết lý.
Ưu Bà Cúc Đa mỗi khi cứu độ được một người thì bỏ một thẻ tre vào trong hang. Về sau hang đá đầy đến tận nóc. Tượng ông tay trái cầm một cuộn sách, tay phải cầm một thẻ tre (đã bị mất). Tượng này ngồi nhấp nhổm rất sinh động, có cảm tưởng tượng sắp đứng lên để cật vấn người đối diện
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=189
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=190
Tổ thứ 5: Đề Đa Ca - Tổ thứ 6: Di Giá Ca
Hì hì, các bạn nào không thích có thể thấy loạt ảnh tượng này của tớ rất là chán nhá, vì hầu hết các bạn đều không quan tâm và thấy khó hiểu. Nhưng vì tớ thích các pho tượng này, nó là những pho tượng cổ đẹp nhất của Việt Nam mình, nên tớ sẽ post nguyên bằng hết.
Tượng Tổ thứ 5 Đề Đa Ca trong tư thế chắp tay chào chư thiên. Theo truyền thuyết, khi ấy ông gặp Di Già Ca là người tu đạo tiên đang cùng với tám ngàn vị tiên đệ tử, nên chắp tay chào họ và thuyết pháp. Cả và tám ngàn chư thiên đều nguyện theo Phật pháp, Di Già Ca cũng vậy.
Tổ thứ 6 Di Già Ca mô tả ông đang đứng giữa một chốn đông người, tay đưa ra như bấm độn, mặt ngơ ngác hoảng hốt tìm hiểu, bởi lẽ ông đang phân vân giữa đạo tiên mà ông tu luyện bấy lâu với đạo Phật mà ông mới tiếp nhận từ Đề Đa Ca.
Hai pho này thể hiện rất hay một cặp Thầy - Trò, một bên tĩnh tại bình thản cung kính, một bên còn đang hoang mang biến động khi mới bước chân vào đạo.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=191
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=192
Tổ thứ 7: Bà Tu Mật - Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề
Tổ thứ 7 Bà Tu Mật khi chưa xuất gia thích kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự. Tượng được tạc trong tư thế cung kính niệm phật, miệng đang há mở chào hỏi, cầu mong phúc cho người đối diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ.
Tổ thứ 8 Phật Đà Nan Đề, người béo tốt, lúc nào cũng ung dung tự tại. Dáng vẻ tượng rất hoan hỉ, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=193
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=194
Tổ thứ 9: Phục Đà Mật Đa - Tổ thứ 10: Hiệp tôn giả
Tổ thứ 9 Phục Đà Mật Đa đến 50 tuổi vẫn không nói, không đi ra khỏi nhà, vì chưa nghe được điều gì hay cả, cho đến khi Phật Đà Nan Đề đến tận nhà truyền pháp. Vì thế tượng tạc lúc ông đã lớn tuổi, nhưng lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi sung sướng hân hoan.
Tổ thứ 10 Hiệp tôn giả luôn tu hành và du hành không bao giờ ngừng nghỉ, không cả đặt lưng ngủ nữa. Truyền thuyết kể khi ông đang đứng tựa một gốc cây thì nhận ra chú bé từ xa sẽ là bậc thánh, và ông đã thuyết pháp cho chú bé ngay dưới gốc cây, về sau chú bé trở thành tổ thứ 11 Phú Na Dạ Xa
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=195
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=196
Tổ thứ 12: Mã Minh - Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La
Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa, không rõ vì sao không được nói đến và tạc tượng. Từ Tổ thứ 10 chuyển sang 12 luôn
Tổ thứ 12 là Mã Minh, theo truyền thuyết thì có thể thuyết pháp giáo hóa cho cả giống súc vật. Tượng tạc ngài đang thuyết cho cả giống Rồng.
Trong thực tế, Tổ Mã Minh là một nhà thơ, triết gia nổi tiếng ở khoảng thế kỉ 1, là một trong 4 thánh triết trụ cột của Phật giáo Đại thừa. Ngài là tác giả của nhiều bộ sách, trong đó có tác phẩm Đại thừa Khởi tín luận, bộ luận căn bản cho Đại thừa.
Tổ thứ 13 là Ca Tỳ Ma La, theo truyền thuyết thì có lần mãng xà cuốn quanh thân ông muốn ăn thịt, nhưng Tổ thuyết pháp khiến rắn cũng kính ngưỡng, lại chỉ cho ngài một bậc thánh còn ẩn trong rừng là Long Thụ. Ca Tỳ Ma La thuyết pháp và truyền cho Long Thụ.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=197
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=198
Tổ thứ 14: Long Thụ - Tổ thứ 16: La Hầu La Đa
Tổ thứ 14 Long Thụ (Thọ) Tôn giả cũng là một trong 4 vị thánh triết Phật giáo Ấn Độ, luận sư vĩ đại nhất. Ngài là tác giả bộ Trung Quán Luận và kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng. Thậm chí Phật tử cho rằng khi ngài nói pháp là Chuyển pháp luân lần thứ hai (lần thứ nhất là Thích Ca thuyết pháp). Thời sau coi ngài ngang hàng một vị Đại Bồ tát, một vị Phật sống. Vì thế trong 18 Tổ kế đăng, chỉ duy nhất Tổ Long Thụ được tạc ngồi trên tòa sen. Tượng Long Thụ cũng là tượng người thật duy nhất có nhục khế trên đỉnh đầu, sánh ngang với tượng Thích Ca Mâu Ni.
Theo truyền thuyết thì Phật Thích Ca cất bộ kinh Hoa Nghiêm ở Long cung dưới đáy biển trong 600 năm. Long Thụ đã dùng thần thông xuống tận Long cung lấy bộ kinh đó. Tượng Long Thụ chùa Tây Phương ngồi bên cạnh con rồng, trên đầu rồng để cuốn kinh, là để mô tả truyền thuyết này.
Tổ thứ 15 Ca Na Đề Bà không được nhắc đến.
Tổ thứ 16 La Hầu La Đa xuất thân trong gia đình trưởng giả giàu có, ăn sung mặc sướng. Tượng ngài tạc trong dáng ngồi suy tư khổ não, tượng quy nhất đội khăn nhà giàu trên đầu, cầm gậy thể hiện uy thế, móng tay rất dài là biểu thị là người giàu có sung sướng thời đó (người nghèo phải lao động không thể để móng tay dài). Bên cạnh có con hươu nghe thuyết pháp.
Tượng La Hầu La Đa được đánh giá là pho đẹp nhất trong toàn bộ 18 pho, mang dáng vẻ đời thường của một ông già Việt Nam, khắc khổ hà tiện, các ngón tay được điêu khắc ở trình độ tuyệt hảo.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=199
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=200
Tổ thứ :17 là Tăng Già Nan Đề - Tổ thứ 18: Già Da Xá Đa
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay
Tổ thứ 17 là Tăng Già Nan Đề được tạc trong tư thế ngồi thiền bên bờ sông. Kiểu ngồi thiền của Tổ rất đặc biệt, không phải xếp bằng tròn hai tay trước bụng như thông thường, mà là tư thế dân dã như đang ngồi nói chuyện, mặt mũi nhẹ nhõm.
Tổ thứ 18 Già Da Xá Đa khi còn bé thường mang một cái gương để soi lại chính mình, cho đến khi đắc đạo vẫn còn có chiếc gương đó mang theo. Vì thế tượng của Tổ trong tư thế đang bước đi, tay cầm chiếc gương tròn quay về phía sau. Pho tượng này rất sống động qua hai ống tay áo bay phất phơ.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=201
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=202
Tổ thứ: 19 Cưu Ma La Đa - Tổ thứ 20: Xà Dạ Đa
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn
Tổ thứ 19 Cưu Ma La Đa là vị thứ tư trong 4 thánh triết Phật giáo (3 vị kia gồm Mã Minh, Long Thụ, Thánh Thiên). Truyền thuyết nói rằng Tổ vốn là một vị tu tiên trên trời, phạm lỗi mà phải xuống cõi người. Tượng của Tổ được tạo với dáng vẻ rất béo tốt ung dung, miệng cười thỏa mãn, tay cầm một bông hoa to.
Tổ thứ 20 Xà Dạ Đa trí tuệ thâm sâu cao siêu, được tạc với một hình dung rất cổ quái: thân thể gày gò giơ xương, tay đang cầm cái que gãi lưng có vẻ rất khó chịu khổ sở; thế nhưng đầu rất to thể hiện suy nghĩ sung mãn.
Hai pho này thể hiện sự đối lập thú vị, giữa béo tốt thỏa mãn thoải mái với gầy gò dằn vặt khổ sở.
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=203
http://www.phuot.vn/picture.php?albu...&pictureid=204