Thờ Địa Mẫu: https://thanhdiavietnamhoc.com/hien-...au-tai-ha-noi/
Printable View
THỜ - CÚNG - ĐỌC KINH ĐỊA MẪU: https://tuongphattrangia.com/phat-me-dia-mau-dieu-tri/
THAM KHẢO KINH ĐỊA MẪU: https://onglaidoky3.com/p312a544/sam-hoi-dia-mau-kinh
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
YAOJI-CINMU MAHADEVI-RSI
NAMO ARYA BHAGAVATI
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...A0N-KINH/page5
瑤池金母
Yaochi Jinmu
Youchi Jinmu
===
miêu tả Vua Mu của Chu viếng thăm Thái hậu tại Yaochi (Yoji) trên núi Côn
https://vi.ert.wiki/wiki/Queen_Mother_of_the_West
http://www.baobinhdinh.vn/viewer.asp...=7&mabb=111131
“Namo Mahadewi Wuji Yaochi Jinmu”
http://buathaishop.com/bai-viet-tam-...376-p1546.html
NAMO MAHADEVI-RSI YAOJI-CINMU
Tìm hiểu “Chín phương Trời, Mười phương Phật”
Hôm Cúng Rằm tháng Bẩy thấy Dì tôi khấn “lạy Chín phương Trời, Mười phương Phật”, cháu tôi hỏi “cháu học thấy có 4 phương 8 hướng thôi, sao bà khấn tới 9, 10 phương vậy”?
Nghe cháu nói tôi chợt nghĩ ta khấn theo kiểu truyền khẩu, ai cũng khấn vậy nhưng chắc gì đã hiểu kỹ. Riêng tôi, bao giờ cũng khấn thêm "Năm phương Đất". Đi sâu vào tìm hiểu mới thấy nhiều vấn đề lý thú.
1. Năm phương Đất: gồm 4 hành (Thuỷ 水, Hoả 火, Mộc 木, Kim 金) của 4 phương (Bắc, Nam, Đông, Tây) và Trung cung Địa Vương Hậu đế 中央地王后帝.
2. Chín phương trời có mấy thuyết giải thích khác nhau:
Theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, và Trung ương.
Theo Bát quái gồm 8 quái (Càn 乾 ☰, Khôn 坤 ☷, Cấn 艮 ☶, Chấn 震 ☳, Tốn 巽 ☴, Ly 離 ☲, Khảm 坎 ☵, Đoài 兌 ☱) và Ngọc Hoàng Thượng đế 玉皇上帝.
Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã 九野 hay Cửu thiên 九天, Cửu trùng thiên 九重天 bao gồm trung ương và tám phương hướng, tức là tứ chính 四正 (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung 四隅 (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).
Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:
(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên 鈞天 (quân: đều đặn, quân bình);
(2) Phương Đông là Thương Thiên 蒼天 (thương: màu xanh biếc);
(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên 變天 (biến: thay đổi);
(4) Phương Bắc là Huyền Thiên 玄天 (huyền: màu đen huyền);
(5) Phương Tây Bắc là U Thiên 幽天 (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);
(6) Phương Tây là Hạo Thiên 顥天 (hạo: sáng trắng);
(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên 朱天 (chu: màu đỏ như son);
(8) Phương Nam là Viêm Thiên 炎天 (viêm: nóng, ngọn lửa);
(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên 陽天 (dương: trái với âm).
Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: Phương Đông Bắc là Mân Thiên 旻天 (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên 皓天 (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).
Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên 皡天 (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên 赤天 (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.
Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên 中天 (trung: ở giữa); Tiện Thiên 羨天 (tiện: dư thừa); Đồ Thiên 徒天 (đồ: không có); Phạt Canh Thiên 罰更天 (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên 晬天 (tối: trọn một năm); Quách Thiên 郭天 (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên 咸天 (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên 治天 (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên 成天 (thành: thành tựu, làm xong).
Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: Cửu trùng, Cửu giai, Cửu tiêu, Cửu thiên.
Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:
(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên 鬱禪無量天;
(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên 上上禪善無量壽天;
(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên 梵監須延天;
(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên 寂然兜率天;
(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên 波羅尼密不驕樂天;
(6) Động Huyền Hóa Ứng Thanh Thiên 洞玄化應聲天;
(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên 靈化梵輔天;
(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên 高虚清明天;
(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên 無想無結無愛天.
Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.
3. Mười phương Phật 十方諸佛 cũng có nhiều cách hiểu:
Gồm 5 phương của Thái tạng giới (Trung ương Đức Tỳ Nô Giá Na, Đông phương Bảo Tràng Như Lai, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Tây phương A Di Đà Như Lai, Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như lai và các Chư Phật Bồ tát) và 5 phương của Kim Cương giới (Trung ương Đức Đại Nhật NHư Lai, Đông phương A Súc Bệ Như Lai, Nam phương Bảo sinh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các Chư Tôn Bồ Tát)
Hay gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhắc lại lời dạy của Đức Chí Tôn nơi đàn ở Cần Thơ, trong đó Đức Chí Tôn giải thích về Thập phương chư Phật như sau: “Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó. Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật”.
Như vậy, Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Niết Bàn 極樂涅槃 - 極樂世界 - 極樂國 ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc. Tại kinh đô của CLTG có Lôi Âm Tự.
Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật, Phật có ở khắp nơi không phân biệt sang hèn, xấu tốt, dơ sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh…
Lương Đức Mến (TK từ nhiều nguồn, chủ yếu là của Lê Anh Minh và Cao Đài từ điển)
http://holuongduclaocai.blogspot.com...huong.html?m=1
Tìm hiểu “Chín phương Trời, Mười phương Phật”
Hôm Cúng Rằm tháng Bẩy thấy Dì tôi khấn “lạy Chín phương Trời, Mười phương Phật”, cháu tôi hỏi “cháu học thấy có 4 phương 8 hướng thôi, sao bà khấn tới 9, 10 phương vậy”?
Nghe cháu nói tôi chợt nghĩ ta khấn theo kiểu truyền khẩu, ai cũng khấn vậy nhưng chắc gì đã hiểu kỹ. Riêng tôi, bao giờ cũng khấn thêm "Năm phương Đất". Đi sâu vào tìm hiểu mới thấy nhiều vấn đề lý thú.
1. Năm phương Đất: gồm 4 hành (Thuỷ 水, Hoả 火, Mộc 木, Kim 金) của 4 phương (Bắc, Nam, Đông, Tây) và Trung cung Địa Vương Hậu đế 中央地王后帝.
2. Chín phương trời có mấy thuyết giải thích khác nhau:
Theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, và Trung ương.
Theo Bát quái gồm 8 quái (Càn 乾 ☰, Khôn 坤 ☷, Cấn 艮 ☶, Chấn 震 ☳, Tốn 巽 ☴, Ly 離 ☲, Khảm 坎 ☵, Đoài 兌 ☱) và Ngọc Hoàng Thượng đế 玉皇上帝.
Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã 九野 hay Cửu thiên 九天, Cửu trùng thiên 九重天 bao gồm trung ương và tám phương hướng, tức là tứ chính 四正 (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung 四隅 (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).
Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:
(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên 鈞天 (quân: đều đặn, quân bình);
(2) Phương Đông là Thương Thiên 蒼天 (thương: màu xanh biếc);
(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên 變天 (biến: thay đổi);
(4) Phương Bắc là Huyền Thiên 玄天 (huyền: màu đen huyền);
(5) Phương Tây Bắc là U Thiên 幽天 (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);
(6) Phương Tây là Hạo Thiên 顥天 (hạo: sáng trắng);
(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên 朱天 (chu: màu đỏ như son);
(8) Phương Nam là Viêm Thiên 炎天 (viêm: nóng, ngọn lửa);
(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên 陽天 (dương: trái với âm).
Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: Phương Đông Bắc là Mân Thiên 旻天 (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên 皓天 (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).
Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên 皡天 (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên 赤天 (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.
Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên 中天 (trung: ở giữa); Tiện Thiên 羨天 (tiện: dư thừa); Đồ Thiên 徒天 (đồ: không có); Phạt Canh Thiên 罰更天 (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên 晬天 (tối: trọn một năm); Quách Thiên 郭天 (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên 咸天 (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên 治天 (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên 成天 (thành: thành tựu, làm xong).
Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: Cửu trùng, Cửu giai, Cửu tiêu, Cửu thiên.
Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:
(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên 鬱禪無量天;
(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên 上上禪善無量壽天;
(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên 梵監須延天;
(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên 寂然兜率天;
(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên 波羅尼密不驕樂天;
(6) Động Huyền Hóa Ứng Thanh Thiên 洞玄化應聲天;
(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên 靈化梵輔天;
(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên 高虚清明天;
(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên 無想無結無愛天.
Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.
3. Mười phương Phật 十方諸佛 cũng có nhiều cách hiểu:
Gồm 5 phương của Thái tạng giới (Trung ương Đức Tỳ Nô Giá Na, Đông phương Bảo Tràng Như Lai, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Tây phương A Di Đà Như Lai, Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như lai và các Chư Phật Bồ tát) và 5 phương của Kim Cương giới (Trung ương Đức Đại Nhật NHư Lai, Đông phương A Súc Bệ Như Lai, Nam phương Bảo sinh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các Chư Tôn Bồ Tát)
Hay gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhắc lại lời dạy của Đức Chí Tôn nơi đàn ở Cần Thơ, trong đó Đức Chí Tôn giải thích về Thập phương chư Phật như sau: “Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó. Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật”.
Như vậy, Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Niết Bàn 極樂涅槃 - 極樂世界 - 極樂國 ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc. Tại kinh đô của CLTG có Lôi Âm Tự.
Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật, Phật có ở khắp nơi không phân biệt sang hèn, xấu tốt, dơ sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh…
Lương Đức Mến (TK từ nhiều nguồn, chủ yếu là của Lê Anh Minh và Cao Đài từ điển)
We call you different names: some call Thee Allah; some call you Elohim; some call you Jehovah; some call you Brahma; and some call you the Unmoved Mover; some call you the Archetectonic [sic] Good. But we know that these are all names for one and the same God, and we know you are one.
Chúng ta gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế bằng những cái tên khác nhau: một số gọi Thee Allah; một số gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Elohim; một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đức Giê-hô-va; một số gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đại Phạm Thiên Brahma; và một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đấng Bất Biến; một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đấng Sáng Tạo ( Tốt ). Nhưng chúng ta biết rằng tất cả đều là tên của 1 và cùng 1 Đức Chúa Trời, và chúng ta biết Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là 1.
http://www.thekinglegacy.org/news/20...ng-kings-books
Đại Phạm Thiên ( Maha-Brahma ) là chúa sáng tạo / Thần Sáng Tạo Brahma
Nala diên thiên ( Narayana-Deva ) là vị thần bảo vệ / Thần Bảo Hộ Visnu
Đại tự tại thiên ( Maha-isvara/ Mahe'svara ) là vị thần phá hoại / Thần Hủy Diệt Siva
Thượng đế của Lão giáo và Hồi giáo tương đương với vị chủ tể cõi Trời Đao Lợi của Phật giáo = Indra
Thượng Đế của đạo Gia Tô (từ Ma Tây đến Pao lô và Angustanh v.v… đã thăng lên nhiều cấp) tương đương với Phạm thiên vương của Phật giáo = Maha-Brahma
Thượng đế của Ấn Độ giáo đồng nhất với Đại tự tại thiên vương của Phật giáo = Maha-isvara/ Mahe'svara
https://phatgiao.org.vn/phat-giao-co...ng-d38926.html
=====
大自在天, (Maheśvara), dịch âm là Ma Hê Thủ La Thiên Vương tức vua của tầng trời cao nhất trong Sắc Giới, trụ ở tầng trời Đệ tứ thiền, là chúa tể của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, thần thủ hộ của Phật Giáo. Đây là một danh xưng khác của thần Thấp Bà (Shiva) một trong ba vị Chủ thần của Bà-la-môn giáo, tức thần hủy diệt trong Ấn Độ Giáo. Trong kinh điển, vị này vừa là thần hộ pháp, vừa là Ma Vương lợi hại nhất. Vị thiên vương này còn được biết dưới các danh xưng như Thương Yết La Thiên, Y Xá Na Thiên v.v… Bồ Tát hiện thân trời này nhằm hóa độ những ngoại đạo sùng bái Đại Tự Tại Thiên, tức những kẻ thường được gọi là Đồ Thán Ngoại Đạo (ngoại đạo bôi than hay tro lên thân) hay Tự Tại Ngoại Đạo, hay Shaivist.
https://blog.phapthihoi.org/tu-dien-...-tu-tai-thien/
====
Tự Tại Thiên Thân là thân trời thị hiện thứ ba trong sáu loại thân trời. Tự Tại Thiên chính là Tha Hóa Tự Tại Thiên, là tầng trời cao nhất trong Dục Giới. Gọi là Tha Hóa Tự Tại hàm ý: Tất cả những thứ vui sướng trong cõi trời ấy mình chẳng cần phải phí sức biến hóa ra, tự có người khác biến hóa các thứ, các dạng khoái lạc ngũ dục cho mình hưởng thọ vô ngại tự tại; bởi thế gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Đấy là do phước đức của các vị trời này cảm thành. Trí Độ Luận, quyển chín, chép: “Chư thiên này đoạt lấy những thứ vui sướng do người khác biến hóa ra để tự hưởng thọ, nên gọi là Tha Hóa Tự Tại”. Sách Câu Xá Tụng Sớ, phẩm Thế Gian, quyển một, chép: “Tha Hóa Tự Tại Thiên, ư tha hóa trung đắc tự tại” (Tha Hóa Tự Tại Thiên được tự tại nơi những thứ do người khác biến hóa ra).
Theo Phật pháp, Tự Tại Thiên của Dục Giới và Đại Tự Tại Thiên thuộc Sắc Giới đều là ma thiên vương trái nghịch, tổn hại Chánh Pháp; như ta thường nói Thiên Ma là chỉ loại trời này. Nếu đệ tử Phật tu hành đắc lực, Ma Vương bèn đến nhiễu loạn, khiến cho hành giả càng gặp nhiều rắc rối. Như trước khi đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề từng bị Ma Vương nhiễu loạn.
Ma Vương có hai biện pháp nhiễu loạn là cứng và mềm khác nhau. Biện pháp mềm dẻo là dùng các thứ dục lạc để dẫn dụ, như sai ma nữ đến mê hoặc, ban cho ngôi vua, dâng tặng tài lợi v.v… Biện pháp cứng rắn là dùng các thủ đoạn uy hiếp, như ma binh, ma tướng dùng đao, thương, kiếm, kích v.v… đến tấn công. Nhưng lúc đó, đối với hết thảy, đức Phật chẳng thèm quan tâm đến, cũng chẳng bị lay động, thật sự đạt đến công phu như Nho Gia nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, oai vũ bất năng khuất” (Chẳng bị phú quý làm cho dâm, chẳng vì bần tiện mà thay đổi, chẳng bị oai vũ khuất phục). Bởi thế, đức Phật có thể hàng phục Ma, thành Chánh Giác. Hàng ma chính là hàng phục Thiên Ma trời Tha Hóa Tự Tại.
Ma Vương nhiễu loạn người tu hành, nên thường gọi Ma Vương là phường bất hảo, muốn lìa khỏi Ma, chẳng những không hợp tác với hắn mà cũng chẳng muốn qua lại với hắn. Nhưng trong Đại Thừa Phật pháp, Ma Vương cũng cần được cảm hóa. Ma Vương vốn ở trong chỗ tối tăm, phải khuyên lơn dẫn dắt gã hướng đến quang minh. Hành vi của Ma Vương khiến gã bị hướng xuống dưới đọa lạc, cho nên phải khuyến khích gã không ngừng hướng thượng. Ma Vương động niệm đều là hướng đến phương diện ác, nên phải lập cách khiến cho gã cải thiện hồi đầu.
Bởi vậy, trong thế gian nếu có chúng sanh “nên dùng thân Tự Tại Thiên để được độ”, Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi “liền hiện thân Tự Tại Thiên để mà thuyết pháp”. Pháp được thuyết chẳng phải là pháp Ma Vương mà là chánh pháp của Như Lai, khiến cho kẻ ấy từ chỗ tối tăm hướng đến chỗ quang minh, từ đọa lạc tiến đến thăng hoa, từ tội ác hướng đến thuần thiện, khiến kẻ ấy cải tà quy chánh, rốt cuộc được giải thoát.
Ma Vương đối địch đức Phật. Nếu hiện thân Phật để cảm hóa gã, chẳng những không cảm hóa được gã, lại càng khiến gã chống chọi Phật. Nếu hiện thân Bồ Tát để cảm hóa gã, gã cũng cho là Bồ Tát tranh giành quyến thuộc của gã, nên cũng chẳng thể tiếp nhận sự giáo hóa của Bồ Tát. Trong tình hình như vậy, tốt nhất là thị hiện thân phận giống như gã, trước hết hành xử giống hệt như gã, một thời gian sau mới dùng Phật pháp để khuyến dụ, khiến gã cải tà quy chánh trở thành người tốt, rồi tiến lên, dẫn gã vào trong Phật pháp. Chỉ có cách vận dụng phương tiện như thế mới có thể độ được Tha Hóa Tự Tại Thiên Ma.
Bởi thế, Đại Thừa Phật pháp chẳng những không ghét Ma, hận Ma, trái lại thông cảm và thương xót Ma cao độ, dùng Phật pháp chuyển hóa chúng thì mới là tinh thần Phật pháp. Nếu gặp Ma đến liền lập tức tách lìa, chẳng quan tâm đến nó, chẳng phải là ác ma và ác nhân trong thế gian vĩnh viễn chẳng được giáo hóa, chẳng thể cải tà quy chánh ư? Bởi thế, Bồ Tát hóa độ chúng sanh chẳng vứt bỏ bất cứ đối tượng nào. Đại Thừa Phật pháp vĩ đại chính là vì vậy.
Thân Đại Tự Tại Thiên là thân trời thị hiện thứ tư trong sáu thân trời. Đại Tự Tại Thiên là tiếng Hán, tiếng Ấn gọi là Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara), cũng tức là Đại Ma Vương Thiên, là một vị trời thuộc cõi trời Quảng Quả (Bṛhatphala) thuộc Đệ Tứ Thiền Thiên của Sắc Giới, cũng là ma quỷ nhiễu loạn người tu hành giống như Tự Tại Thiên đã nói ở phần trên.
Trí Độ Luận nói Đại Tự Tại Thiên bốn mắt, tám tay, cưỡi ngựa trắng, tay cầm phất trần trắng, là vị trời được ngoại đạo sùng phụng. Nếu có chúng sanh trong quốc độ “nên dùng thân Đại Tự Tại Thiên thì mới đắc độ”, Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi “liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để mà thuyết pháp”, khiến cho kẻ ấy tu học Phật pháp, thân tâm được tự tại giải thoát.
Nói đến đây ắt có người hỏi: Vì sao Bồ Tát hiện thân Ma thuyết pháp? Trong phẩm Bất Tư Nghị của kinh Duy Ma Cật có ghi:
“Nhĩ thời, Duy Ma Cật ngữ Đại Ca Diếp: “Nhân giả! Thập phương vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trung tác Ma vương giả, đa thị trụ bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, dĩ phương tiện lực cố, giáo hóa chúng sanh, hiện tác Ma Vương”.
(Lúc bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Đại Ca Diếp:
- Thưa nhân giả! Những người làm Ma Vương trong mười phương vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, đa số là bậc Bồ Tát trụ giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, do dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh bèn hiện làm Ma Vương).
Bồ Tát thị hiện thân Ma Vương chẳng những không bị ma chúng quấy nhiễu, mà còn đúng pháp giáo hóa chúng ma; bởi lẽ, phải hiện thân Ma Vương mới có thể cảm hóa được chúng. Vì thế, bất đắc dĩ phương tiện thị hiện như thế. Đấy chẳng phải là điều nhãn quang tầm thường có thể nhìn ra được, bởi thế, chúng ta chớ có coi Ma Vương thật sự là Ma Vương, mà có khi phải coi như là Bồ Tát, sự thị hiện thân Ma Vương của Bồ Tát này có thể chứng minh được.
https://nigioikhatsi.net/viet/giangg...giangky-29.htm
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KÝ
觀世音菩薩普門品講記
演培老法師講述
釋寬嚴記
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Diễn Bồi
Pháp sư Thích Khoan Nghiêm ghi.
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo ấn bản của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, tháng 04, năm 2004)
Đại Phạm Thiên Vương là chúa trời cõi Đại Phạm, tức là vị Phạm Thiên được hàng Bà La Môn Ấn Độ sùng bái, cũng chính là Thượng Đế được tin thờ bởi Thiên Chúa Giáo.
Theo tư tưởng Bà La Môn Giáo (Brahmanism, Hinduism), nhân loại trong thế giới này thậm chí hết thảy hữu tình, núi sông, đại địa, hoa, quả, cây cối đều do Đại Phạm Thiên Vương sáng tạo. Bởi thế, Bà La Môn giáo coi Đại Phạm Thiên là đấng sáng tạo nhân loại vũ trụ. Thân Đại Phạm Thiên vô thủy, vô chung, vĩnh hằng, bất biến, có thể chi phối và là chúa tể của hết thảy nhân loại, bởi thế Đại Phạm Thiên chiếm một địa vị rất cao trong Bà La Môn giáo Ấn Độ.
Nhưng từ lập trường Phật giáo: Xét về mặt tôn giáo, Phạm Thiên là đối tượng tín phụng của Nhất Thần Giáo. Ông ta tâm tham dục rất mỏng nhẹ, đã đoạn trừ tất cả vật dục và dâm dục của Dục Giới, chẳng còn sanh khởi tâm Sân nữa, bởi thế giáo đồ Nhất Thần Giáo đều nghĩ ông ta là một Đấng Sáng Tạo rất nhân ái. Nhưng từ Phật pháp mà nói, quả thật ông ta chẳng sanh khởi tâm sân khuể, tâm tham dục đúng là rất nhạt, nhưng tâm kiêu ngạo và siểm mị rất nặng!
Đối với vấn đề này, kinh Phật cho biết: Lúc Phật còn tại thế, trong số đệ tử Phật có ngài tỳ-kheo Mã Thắng (Ashvajit) từng lên cung Đại Phạm Vương, gặp đúng lúc Phạm Thiên giáo huấn thần dân vô cùng kiêu ngạo như thế này:
- Ta là chúa tể của thế gian, là đấng sáng tạo nhân loại, là tuyệt đối rốt ráo, là an lạc tối cực. Các người là con dân của ta, chẳng thể đạt đến địa vị như ta.
Đang cao hứng tuyên bố nẩy lửa như thế, chợt thấy tỳ-kheo Mã Thắng đứng trước mặt, Phạm Vương lập tức im bặt không nói nữa, dẫn tỳ-kheo Mã Thắng ra chỗ không có người, rồi mới khe khẽ bảo tỳ-kheo Mã Thắng:
- Những lời tôi vừa mới tuyên bố cùng thần dân xin Ngài chớ cho là thật, ngàn vạn lần xin đừng rêu rao những lời đùa bỡn ấy trước mặt người khác.
Do đây ta có thể thấy Phạm Thiên có hai thứ phiền não: Trước mặt thần dân tỏ vẻ kiêu ngạo, trước mặt tỳ-kheo Mã Thắng tỏ vẻ siểm mị. Như vậy, phiền não vẫn còn tồn tại.
Sanh lên trời, nếu sanh vào Dục Giới, chỉ hành Ngũ Giới Thập Thiện là đủ, còn muốn sanh lên hai cõi trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) lại phải tu thêm Thiền Định, nhưng chỉ có thể sanh làm quan tướng nhà trời và dân chúng cõi Sơ Thiền. Nếu muốn làm Đại Phạm Thiên Vương phải tu Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả; cho thấy làm Đại Phạm Thiên Vương cũng chẳng phải là chuyện đơn giản. Đạt đến địa vị Đại Phạm Thiên Vương cố nhiên là cao quý vĩ đại nhất trong Bà La Môn giáo, nhưng nhà Phật chẳng nghĩ như thế, chẳng qua Phạm Vương chỉ là một vị thiên vương, vẫn chưa thể siêu xuất tam giới, liễu thoát sanh tử.
Phạm Thiên tuy tự nhận mình là đấng sáng tạo nhân loại vũ trụ, nhưng không cách nào cứu vãn hiện thực khổ não cho thế gian, bởi thế sau khi đức Phật xuất hiện trong thế gian thành Chánh Giác, thoạt đầu chẳng nghĩ đến chuyện thuyết pháp, sau vì Đại Phạm Thiên Vương cầu thỉnh, Phật mới bắt đầu thuyết pháp cho nhân loại. Như vậy điều này đủ chứng tỏ bậc thật sự cứu vớt thế gian chỉ có mình đức Phật. Nếu Phạm Thiên có năng lực cứu thế gian, cần gì phải thỉnh Phật thuyết pháp? Cũng vì vậy, Phạm Thiên quy y đức Phật, trở thành vị hộ pháp cho Phật pháp.
Thông thường, trong các chùa miếu, Phật điện, Đại Thừa Phật giáo đa phần tạc tượng hai đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền bên cạnh tượng Phật; Tiểu Thừa Phật giáo đắp tượng hai đại tôn giả A Nan, Ca Diếp hai bên tượng Phật, nhưng cũng có chỗ tạc tượng Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên hai bên tượng Phật, bởi Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên là hai vị hộ pháp đắc lực của Phật pháp. Quán Âm Bồ Tát biết đối với loại chúng sanh này, chẳng thể dùng thân phận nào khác để độ thoát được, bèn hiện thân tướng Phạm Thiên vì kẻ đó nói pháp “ly ái đoạn dục”, pháp Tứ Vô Lượng Tâm, để kẻ đó y pháp tu hành ngõ hầu giải thoát thân tâm. Vị trời này sở dĩ gọi là Phạm Thiên là do sắc tướng thanh tịnh không có ái dục.
https://nigioikhatsi.net/viet/giangg...giangky-29.htm
THƯỢNG ĐẾ CỦA TỨ PHỦ CỦA LÃO GIÁO/ ĐẠO GIÁO
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ = NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ
ĐẾ THÍCH THIÊN INDRA
NĂNG THIÊN CHÚA INDRA
Tiếp đến nói về thân Đế Thích. Đế Thích là vị trời cõi Dục Giới. Dục Giới gồm sáu tầng trời, chia thành hai loại: một là Địa Cư Thiên, hai là Không Cư Thiên. Địa Cư Thiên gồm hai tầng trời, tức là Tứ Thiên Vương Thiên (Cāturmahārājika) và Đao Lợi Thiên (Trayastrimśa). Đế Thích là chúa trời cõi Đao Lợi, sống trên đảnh núi Tu Di. Đao Lợi Thiên còn dịch là Tam Thập Tam Thiên, tức là mỗi phía có tám vị trời, tổng cộng là ba mươi hai vị trời, cộng thêm Đế Thích Thiên thành ra ba mươi ba vị trời.
Trong Phật pháp cũng có một đoạn nhân duyên về Tam Thập Tam Thiên, tức là trong quá khứ lâu xa về trước, trong thời kỳ Tượng Pháp của đức Phật Ca Diếp, có một cô gái nghèo khổ trong thế gian, thấy bức tượng của Phật Ca Diếp vàng thếp đã bị tróc lở, trông chẳng trang nghiêm lắm, cô liền phát tâm muốn thếp vàng tượng Phật, nhưng tâm có thừa mà sức chẳng đủ, rốt cục đành đi khất hóa người khác, dành dụm từng chút một lại để mua vàng. Mua đủ vàng rồi bèn mời ba mươi hai tay thợ khéo đến thếp vàng. Những ông thợ thấy cô gái nghèo hết sức chân thành dốc hết tiền bạc ra thếp vàng tượng Phật nên cũng phát tâm làm không công để hoàn tất công việc này. Do nhân duyên thiện căn phước đức ấy, bọn họ chết đi bèn sanh lên trời Đao Lợi, ba mươi hai người thợ trở thành ba mươi hai vị trời, cô gái nghèo trở thành chúa trời Đế Thích.
Đế Thích là gọi tắt, nói cho đủ là Thích Đề Hoàn Nhân (Śakrodevānām Indrah – có chỗ phiên là Thích Ca Đề Bà Nhân Đà La; Ấn Độ giáo chỉ gọi tắt là thần Indra, tức thần Sấm Sét), dịch nghĩa là Năng Thiên Chúa, cũng là một vị thần Hộ Pháp trong Phật giáo, tương tự như Ngọc Hoàng Thượng Đế của Trung Quốc; bởi thế có người đem Ngọc Hoàng Thượng Đế ví với trời Đế Thích. Do Đế Thích là thần Hộ Pháp của Phật giáo, nên ông ta thường xuống nhân gian nghe thuyết pháp. Trong lúc nghe pháp, nghe đức Phật giảng những đạo lý thế gian vô thường bèn có thể lãnh ngộ sâu xa, nhưng khi trở về thiên cung bèn bị các thứ dục lạc cõi trời mê hoặc, quên mất thế nào là vô thường, đương nhiên cũng chẳng thể đúng như pháp tu hành.
Đối với điều này, Phật pháp cũng có một câu chuyện như sau: Có lần Đế Thích xuống nhân gian nghe pháp xong, nói khi trở về thiên cung, nhất định sẽ tu hành chăm chỉ. Đợi khi Đế Thích trở về thiên cung xong, vì muốn khảo nghiệm xem Đế Thích có thật sự tu hành hay không, Phật sai đại đệ tử Mục Kiền Liên tôn giả theo chân Đế Thích cũng lên trời Đao Lợi. Rốt cuộc, Ngài thấy Đế Thích suốt ngày hưởng thọ khoái lạc ngũ dục, quên mất tiêu chuyện tu hành. Vì muốn cảnh tỉnh Đế Thích Thiên, tôn giả Mục Liên bèn dùng sức thần thông chấn động cung trời. Sau cơn hoảng sợ, Đế Thích vừa thấy ngài Mục Kiền Liên bèn thành khẩn nói:
- Bạch tôn giả! Vì sao Ngài lại đùa cợt với con quá mức như vậy khiến cung điện của con bị rúng động hết!
Tôn giả khai thị:
- Vừa rồi, ông ở chỗ Phật nghe pháp, nói muốn tu hành đúng pháp, thế sao vừa về lại cung trời đã quên sạch sành sanh, chỉ biết hưởng thọ dục lạc vậy? Chấn động cung trời là để cảnh cáo ông: Hết thảy thế gian là vô thường, chẳng nên tham chấp dục lạc, dục lạc cũng chẳng thể nhờ cậy được, sao ông lại mê luyến dục lạc đến thế?
Nếu trong các quốc độ có một hạng chúng sanh “nên dùng thân Đế Thích thì mới có thể độ được”, Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi “liền hiện thân Đế Thích để mà thuyết pháp”, thuyết pháp gì? Nói chân lý sanh diệt vô thường khiến kẻ đó giác ngộ thế gian vô thường, y pháp tu hành để được giải thoát.
https://nigioikhatsi.net/viet/giangg...giangky-29.htm
ĐỊA MẪU CHÍ TÔN NƯƠNG NƯƠNG
https://youtu.be/FuYqq83U508
Thiên Chúa Jehovah, Đức Chúa Giêsu Kitô, Ngọc Hoàng Thượng Đế và Thánh Allah. Đây tất cả đều là những biểu hiện của Vua Trời ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG MAHA BRAHMA - 1 VỊ THIÊN Ở CÕI SƠ THIỀN, CỦA SẮC GIỚI.
https://www.facebook.com/14771407558...1190487102418/
PHỤNG HOÀNG MẪU NƯƠNG
ĐỊA MẪU HOÀNG NƯƠNG NƯƠNG
地母皇娘娘
https://chuadieunam.vn/wp-content/up...resdefault.jpg
Địa Mẫu Chân Kinh
Bởi Nguyen The Vinh | 4 Tháng Tám, 2021
Địa Mẫu Chân Kinh (chữ Hán: 地母真經), còn được gọi là Địa Mẫu Chơn Kinh hay Địa Mẫu Kinh, là một tập kinh tụng theo tín ngưỡng Tam giáo đồng nguyên tại Trung Quốc và Việt Nam.
Địa Mẫu Chơn Kinh hay Địa Mẫu Chân Kinh là một bài kinh do Địa Mẫu tại huyện Thành Cố, đã ngự chim loan, Bà hiện xuống miếu, giáng cơ bút truyền ra kinh này vì muốn khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tánh mạng cho tất cả người đời. Địa Mẫu là vị Mẫu của chúng sanh có từ thời khai thiên lập địa, từ thuở còn chưa có các vị Phật khác ra đời. Vì vậy, Địa Mẫu chơn kinh không có trong danh mục Đại Tạng Kinh, nhưng có ý nghĩa rộng lớn hơn và bao trùm cả Đại Tạng Kinh. Kinh Địa Mẫu không chỉ khuyên nhủ chúng sanh sớm lo tu nhân tích đức, làm tròn đạo phong tục mà từ xưa Mẫu đã truyền lại. Lời kinh như lời người mẹ hiền thống thiết khuyên nhủ đứa con thơ dại sớm thức tỉnh để quay về với Mẹ.
Mẹ đưa trẻ vào trường vào lớp
Sắp con ngồi có lớp có lang
Nguyện đi mùi khói hương nhang
Con cầu khắp cả Tây phương Phật Trời
Ráng khẩn nguyện Cha Trời Mẹ Đất
Cùng mười phương chư Phật khắp nơi
Nào là Thần Thánh giáng đời
Để con nguyện sửa bao lời thiết tha.
Lợi ích của việc tụng Địa Mẫu Chơn Kinh
Giải oan nghiệp cho bản thân, gia đình
Cầu bình an bản mệnh, gia chung, xin hồng phúc phước danh cho con cháu
Nếu như ai học hợp duyên Mẫu sẽ linh ứng chỉ bảo tận tình từng đường đi nước bước trong đường đạo cũng như trong cuộc sống
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH
NAM MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN A DI ĐÀ PHẬT.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
https://chuadieunam.vn/kinh-sach/dia-mau-chan-kinh.html
DYAUS PITA - PRTHIVI MATA
天父地母 / 天皇地母
THIÊN PHỤ - ĐỊA MẪU / THIÊN HOÀNG - ĐỊA MẪU
CHA TRỜI - MẸ ĐẤT
/ = NGỌC HOÀNG - MẪU HOÀNG / NGỌC HOÀNG - ĐỊA MẪU
Chùa Diệu Nam cũng là một nơi có thờ Địa Mẫu ở Hà Nội. Chùa Diệu Nam còn gọi là Diệu Nam Phật đường – ngôi chùa Đại đạo Tam giáo đồng nguyên (Minh Sư đạo) còn lại duy nhất ở Thủ đô Hà Nội, toạ lạc tại số 60 phố Đại La, phường Trương Định, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, chùa Diệu Nam được xây dựng năm 1930, mang đặc điểm kiến trúc của phái Phật đường Nam tông Minh Sư đạo. Đạo Minh Sư thờ Phật, tu Tiên nên các Cô Thái 1 không phải xuống tóc (cạo trọc đầu), nhưng phải giữ trường chay, tiệt dục, nghiêm cấm dùng rượu, ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, kiệu,…) và các sản phẩm có nguồn gốc động vật; Đạo phục khi hành lễ của Minh Sư Đạo là áo dài màu đen, quần trắng, chít khăn đóng hoặc mũ màu đen, mang hài màu đen. Tại chánh điện gian giữa là Tam bảo, thờ đức Mẫu Chuẩn Đề và chư Phật. Hai ban vuông góc với Tam bảo và Thiên Địa là ban thờ các vị tổ thầy và ban thờ các vong linh bách tính cùng với Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đi ra khỏi gian thờ về phía sân sau có một ban thờ Địa Mẫu đặt áp lưng với ban thờ Thiên Địa. Trên ban có một bức ảnh của Địa Mẫu ngươn Quân đang ngồi trên ghế, giống hình ảnh trong cuốn kinh chữ Hán tại chùa. Phía dưới có 5 bức tượng Địa Mẫu nhỏ, làm bằng thạch cao mặc quần áo đính kim tuyến, hạt xoàn rất đẹp, với năm mầu sắc khác nhau đứng trên quả địa cầu, mỗi một bức tượng được đặt trong hộp kính. Những buổi lễ Mẫu là các ngày Mậu trong tháng âm lịch, có rất nhiều đệ tử trong đạo và nhiều người không theo đạo cũng đến tham gia, bắt đầu từ 11h 30 (giờ Ngọ) và kết thúc vào 13h. Lễ vật dâng Mẫu là 6 chén nước lọc, 5 nén hương, 5 ngọn nến, hoa quả tươi.
https://thanhdiavietnamhoc.com/hien-...au-tai-ha-noi/
Ngọc hoàng Thượng đế và Vương Mẫu nương nương có phải vợ chồng?
Trong đại đa số các tác phẩm thần thoại, Vương Mẫu nương nương có thể nói là một nhân vật không thể thiếu.
Vương Mẫu nương nương không chỉ là vị thần tượng trưng cho trường thọ, phú quý vả lại còn tiêu biểu cho nét đẹp cao quý thanh lịch.
Nhưng bạn có biết thật chất Vương Mẫu trong ra sao không? Hay liệu bà có phải thật như hình tượng trong phim truyền hình là một nữ thần cao quý vô song? Và mối quan hệ giữa bà và Ngọc Hoàng có thật sự là vợ chồng như chúng ta thường nghĩ không?
Trong tín ngưỡng dân gian, Vương Mẫu là nữ chúa tể trên trời, bà cai quản sự trường thọ và hạnh phúc của loài người. Bà sở hữu pháp thuật cực mạnh và có một vườn đào tiên khổng lồ có thể làm chúng sinh trong tam giới khao khát. Truyền thuyết kể rằng vườn đào của bà có ba loại đào, loại ba ngàn năm chín một lần có thể giúp kẻ ăn vào đắc đạo thành tiên; loại sáu ngàn năm chín một lần có thể trường sinh bất lão; loại chín ngàn năm chín một lần có thể thọ cùng trời đất.
Vương Mẫu nương nương hay còn gọi là Tây Vương Mẫu, lần đầu tiên được nhắc tới là trong cuốn Sơn Hải Kinh. Bà sống ở phía Tây dãy Côn Lôn, nên gọi là Tây Vương Mẫu. Vương Mẫu nương nương có địa vị cực kì cao trong Đạo giáo, sau quá trình lịch sử kéo dài, các tôn giáo dân gian cho rằng bà sở hữu khả năng giúp con người trường sinh bất lão, vì thế họ tôn sùng và cúng bái bà một cách rộng rãi.
Trong quyển nghiên cứu sơ lược về thần thoại Trung Quốc có một chương nói riêng về Tây Vương Mẫu. Trong đó viết, lúc ban đầu hình tượng được miêu tả trong Sơn Hải Kinh của bà là: “Đuôi báo răng hổ, đầu như chim đầu rìu.” Nhưng gần đây có nghiên cứu chỉ ra rằng, miêu tả này phản ảnh sự sùng bái vật tổ hình hổ báo của các bộ lạc cổ ở phía Tây, mà Tây Vương Mẫu rất có thể chính là thủ lĩnh của một bộ tộc mẫu hệ thời kì đó.
Ngoài ra trong quyển Mục Thiên Tử Truyện và Sử Ký – Chu Bản Kỷ cũng có ghi, Tây Vương Mẫu là nữ vương của một đất nước phương Tây từng có duyên gặp gỡ Chu Mục Vương bên bờ Dao Trì. Đến thời Đông Tấn, trong cuốn Hán Vũ Đế nội truyện thì lại miêu tả bà như một tiên nữ mặc trang phục hoàng hậu và là lãnh đạo của chúng tiên nữ.
Theo sự phát triển của Đạo giáo thời Hán Ngụy Lưỡng Tấn, Tây Vương Mẫu được tôn sùng như một vị tôn thần, liệt vào hàng bảy vị thánh tối cao. Cát Hồng trong Chẩm Trung Thư có ghi, Tây Vương Mẫu là vị thần lớn nhất của Đạo Giáo, là con gái của Nguyên Thủy Thiên Vương, tất cả các tiên nữ hoặc những người đắc đạo thành tiên là nữ đều thuộc quyển quản lý của bà.
Trong Đạo Tạng Tam Động Kinh thì liệt bà vào hàng tứ thánh, ngang với ba vị thiên tôn Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh.
Tóm lại, từ các tư liệu lịch sử, ta có thể thấy Tây Vương Mẫu là tổ sư gia chính thức của hầu hết các nữ thần trong Đạo giáo.
Tuy nhiên không ít người lại bị các bộ phim thần thoại che mắt, thấy Tây Vương Mẫu và Ngọc Hoàng thường ra vào có nhau, nên cứ thế cho rằng họ là vợ chồng, cho là Tây Vương Mẫu dựa vào Ngọc Hoàng nên mới có quyền uy to lớn trên thiên đình và được dân chúng thờ thụng nhiều như vậy.
Dựa theo điển tịch, Vương Mẫu và Ngọc Hoàng không có bất kì quan hệ thực chất nào, trong các điển tịch của Đạo giáo được biết đến hiện nay cũng không hề đề cập tới quan hệ vợ chồng giữa họ. Đạo giáo tôn sùng âm dương, mọi việc không thể đều là vì cổ vũ người ta biến nó thành có thể. Như vậy, trong Đạo giáo chính thống, liệu có một vị thần nào có quan hệ lứa đôi với Tây Vương Mẫu hay không?
Trong thần hệ của Đạo Giáo, Tây Vương Mẫu là nữ thần ngưng tụ từ tiên thiên âm khí, là người đứng đầu các tiên nữ, cai quản phía tây của núi tiên Côn Lôn. Ngược lại với bà là Đông Vương Công hình thành từ tiên thiên dương khí, đứng đầu các tiên nam. Cai quản tiên đảo Bồng Lai phía đông, có thể nói Tây Vương Mẫu và Đông Vương Công là hai vị thần âm dương bổ trợ cho nhau.
Trong cuốn Ngô Việt Xuân Thu của Triệu Diệp thời Đông Hán có ghi Đông Vương Công ở phía Đông thuần dương; Tây Vương Mẫu ở phía Tây thuần âm. Điều đáng chú ý là Tây Vương Mẫu và Đông Vương Công dù là hai mặt âm dương nhưng trong cuốn Nguyên Thủy thượng thật chúng tiên ký có ghi: Thái nguyên Thánh Mẫu sinh mười ba Thiên Hoàng, là Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, lại xưng Nguyên Dương Phụ, lại sinh Cửu quang huyền nữ, tên gọi Thái Thật Thiên Mẫu.
Có thể thấy cả hai chỉ là anh em chứ không phải vợ chồng. Bên cạnh đó việc hiến tế cả hai bắt nguồn từ thời nhà Hán.
Theo các văn hiến Thần Tiên Truyện và Dung Thành tập tiên lục, Vương Mẫu có tất cả 24 cô con gái, trong đó chỉ có 5 cô có thân phận rõ ràng. Tức là Thất tiên nữ và Chức nữ đều có thể chỉ là con của Tây Vương Mẫu chứ không hề liên quan gì tới Ngọc Hoàng.
Cũng có nghĩa việc ai là chồng thật sự của Tây Vương Mẫu cũng trở thành câu hỏi ngàn đời không có lời giải.
Theo Thanh Yên/Helino
http://doanhnghiepvn.vn/kham-pha/ngo...91013094054836
LỄ VẬT CÚNG
NGÀY VÍA ĐỊA MẪU
Chuẩn bị
6 chum nước thanh thuỷ
6 cốc nến
6 quả 6 màu càng tốt không thì 6 quả tùy tâm của gia chủ
13 miếng trầu têm cánh phượng hoặc 13 quả cau lá trầu quết vôi.
5 bông hoa
5 nén hương thắp vào các bát hương nếu có điện, còn không có điện thì thắp vào cây hương Mẫu.
Một lá sớ
1 bát cơm hoặc xôi oản tùy tâm
ĐÚNG GIỜ NGỌ chúng ta lập đàn trì và thỉnh Mẫu
https://chaudocaoba.com/2021/04/25/c...mau-chon-kinh/
1/- Trung Ương Ngọc Hoàng Đại Đế—Vợ:- Vương Mẫu Nương Nương , còn gọi là Tây Vương Mẫu .
6/- Mẹ của đại địa :Thừa Thiên Hiệu Pháp Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ
https://tamlinhhoc.blogspot.com/2011...-tien.html?m=1
Đức THÁI CỰC THÁNH HOÀNG / THÁI-NHỨT ĐẠI-THIÊN-TÔN : là Đấng Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Toàn Tri, Toàn Năng ( Đấng Thái Cực chủ Thái Dương )
https://books.google.com.vn/books?id...C3%AAn&f=false
https://books.google.com.vn/books?id...C3%AAn&f=false
http://hocthuatphuongdong.vn/index.p...ic=2305.0;wap2