Neak Ta là vị thần Thổ-Công theo tín-ngưỡng dân-gian.
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/chua-sirivansa.html
Printable View
Neak Ta là vị thần Thổ-Công theo tín-ngưỡng dân-gian.
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/chua-sirivansa.html
https://youtu.be/Z8u5E6WtAFE?si=4XTZA318x4CxOruU
Cúng Ông Tà Ông Địa Của Người Xưa Sao Cho Đúng Và Như Thế Nào.
(https://www.youtube.com/watch?v=Z8u5E6WtAFE / https://youtu.be/Z8u5E6WtAFE?si=4XTZA318x4CxOruU)
https://youtu.be/lGva5pDI-t4?si=rzCn3mIlOs_Imc7j
Sự Tích Ông Tà Ông Địa | Truyện Phật Giáo Việt Nam | Giác Thiện Thanh
(https://www.youtube.com/watch?v=lGva5pDI-t4 / https://youtu.be/lGva5pDI-t4?si=rzCn3mIlOs_Imc7j)
https://youtu.be/PbaCxy-pap8?si=q_zCLZFKA5bR3tr5
Tham Quan - Thiên Hậu Cung - Nga Ba An Trạch - Sóc Trăng | Cảm Nhận Cuộc Sống |
(https://www.youtube.com/watch?v=PbaCxy-pap8 / https://youtu.be/PbaCxy-pap8?si=q_zCLZFKA5bR3tr5)
MIẾU ÔNG-TÀ LINH / MIẾU ÔNG-TÀ BÀ-TÀ LINH
https://youtu.be/jOhGgfaalz4?si=ngJdmunG9vBxUche
https://youtu.be/AuZEqCVLzsY?si=dGoUyG7bkDFQG5nV
https://youtu.be/ogT5FmGaokk?si=JeY6KjKHyBCx40zx
https://youtu.be/ElPIFAz7FDY?si=uADtHFu40YisAyUl
https://youtu.be/dMYedjMPUmA?si=jp8hOHUp2BSPBXPy
https://youtu.be/xv5HwjPV-pg?si=EEVOYqT49XVJU2QO
https://www.tiktok.com/@hosoncong198...31053292047634
https://www.tiktok.com/@lengochieuu/...22351148272898
https://youtu.be/XR-kdoLRW0Q?si=21OjMh7xn_1xbo7n
https://youtu.be/XR-kdoLRW0Q?si=nIQ29ywzHRmsatZi
https://youtu.be/J2rkR4dkl54?si=2Himg_Jo2CTH_XED
Mầu nhiệm Bà Chúa Đất Sét cùng Ông Địa trên 100 năm linh thiêng
(https://www.youtube.com/watch?v=J2rkR4dkl54 / https://youtu.be/J2rkR4dkl54?si=2Himg_Jo2CTH_XED)
https://youtu.be/bItAwLaQGXo?si=eMUz-qggG6CymnCo
Ớn Lạnh ! Ông Địa Hiển Linh Than Thở Vì Bị Chủ Đem Bỏ.
(https://www.youtube.com/watch?v=bItAwLaQGXo / https://youtu.be/bItAwLaQGXo?si=eMUz-qggG6CymnCo)
Tính giao tiếp trong tín ngưỡng thờ ÔNG TÀ ở Cần Thơ
https://iili.io/KAW7cmv.md.jpg
https://i.ibb.co/B2vtp7H6/ng-t.jpg
Miễu Ông Tà ở Đình Thới Bình, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
Ngay từ buổi đầu khai phá, Cần Thơ đã là vùng đất quần cư của nhiều tộc người. Trong đó, người Việt, người Khmer, người Hoa có mặt ở vùng đất này từ rất sớm. Họ cùng chung lưng đấu cật chống chọi lại thiên nhiên khắc nghiệt của buổi đầu khẩn hoang. Khi đất đai đã được thuần, các dân tộc này lại cùng đoàn kết để cày cấy, đánh bắt, nuôi trồng… chung sống hòa bình trên vùng đất mới. Vì lẽ đó, văn hóa của các dân tộc tuy có nét riêng nhưng cũng có những điểm chung và chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Việc người Kinh và người Hoa lập miễu thờ thần NeakTa của người Khmer là điều hết sức bình thường. Ngược lại, người Khmer, người Hoa có niềm tin với Bà Chúa Xứ, Bà Cố Hỉ của người Chăm và Bà Thiên Hậu của người Hoa cũng không có gì lạ. Đó là kết quả tất yếu của giao tiếp văn hóa dân tộc, thể hiện mối quan hệ nhiều chiều trong nội bộ hoặc giữa các cộng đồng dân tộc, chủ yếu bao gồm các quá trình giao lưu, hội nhập, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa(1). Trong các loại hình đó, giao tiếp trong tín ngưỡng thờ ông Tà là một đặc điểm nổi bật.
NeakTa là vị thần đất của người Khmer, có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ đá ở Nam Á cổ xưa. Thờ đá là một tín ngưỡng nguyên thủy rất phổ biến trên thế giới. Với quan niệm những tảng đá, viên đá là nơi trú ngụ lý tưởng của các thần linh có thần lực cực mạnh (như sức mạnh rắn chắc của đá), người xưa coi đá là một trong những vật vô cùng linh thiêng. Theo dòng chảy của thời gian, tín ngưỡng thờ đá có ở nhiều nơi trên thế giới và có nhiều hình thức thể hiện khác nhau. Ở khu vực Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng, tín ngưỡng này vẫn tồn tại dưới hình thức thờ cúng rất nguyên sơ. Cư dân của nhiều cộng đồng dân tộc trong vùng Đông Nam Á (Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar…) coi đá như là vật bảo mệnh của cả cộng đồng. Người ta xếp đá thành từng đống lớn trước cửa làng, đặt đá dưới cây cột hiến tế cạnh ngôi nhà chung của làng, hoặc đặt trên bàn thờ cạnh các tượng Phật để thờ cúng. Thậm chí, ở một số dân tộc, đá còn được xếp ở các kho thóc để canh giữ, bảo vệ sự an toàn cho các thần lúa, hồn lúa… Không chỉ có vậy, cư dân trong vùng còn thường xuyên mang theo mình một vài viên đá với hy vọng, thần lực của thần linh trong những viên đá lấn át mọi thần lực gây hại, bảo vệ họ khi họ bị thần lực gây hại tấn công(2).
NeakTa là vị thần trông coi sức khỏe và sự thịnh vượng ở những nơi mà ông gìn giữ. Ông chịu trách nhiệm về những chuyện xảy ra ở đó, nên mỗi khi có dịch bệnh, mất an ninh trong phum sóc, mùa màng thất bát, nhất là khi hạn hán xảy ra, người ta đều làm lễ cúng NeakTa. Vì vậy, NeakTa là vị thần của dân gian, đồng thời cũng là vị thần có quyền uy tối thượng khiến những kẻ làm ác phải kiêng dè. Nơi thờ cúng NeakTa thường là những ngôi miễu nhỏ, đơn sơ được làm bằng cây lá dựng ở khúc quanh con đường, ở ngã ba sông hay dưới gốc cây to trong mỗi ấp; cũng có khi miễu thờ được xây to hơn bằng gạch được đặt trong khuôn viên chùa, hay ở một vị trí trung tâm nào đó trong phum, sóc. Trên bệ thờ mỗi miễu thường là những viên đá cuội bóng láng, người ta tin rằng đó là hóa thân của NeakTa.
Trên bước đường khai hoang mở cõi, những lưu dân người Việt từ miền ngoài vào không khỏi lo lắng trước một thực tế thiên nhiên còn hoang sơ, những nỗi lo về dịch bệnh, thú dữ… luôn thường trực trong cuộc sống. Họ có tín ngưỡng thờ ông Thổ thần, Thổ địa, nhưng cũng kính trọng quyền năng của các vị NeakTa. Để yên tâm trong công cuộc phá rừng, đào mương, cày cuốc… họ cũng dần tiếp nhận niềm tin vào vị thần Đất của người Khmer đang ngự trị trên khu vực đất đang khai phá với ước mong được yên ổn làm ăn, cầu xin thần phù hộ tai qua nạn khỏi… Trong quá trình giao tiếp, lưu dân người Việt lần hồi tiếp nhận vị thần này bằng cảm quan cho phù hợp với tâm tính của dân tộc mình. Từ đó, có tính ngưỡng thờ ông Tà với chức năng của một vị thần Đất ra đời.
Tập quán thờ NeakTa với tư cách là thần sông, thần cây đa, thần giếng nước của người Khmer được người Việt tiếp tục thực hiện nhưng có ít nhiều cải biên cho phù hợp với tín ngưỡng của địa phương. Miễu ông Tà của người Việt cũng được dựng lên đơn sơ như miễu NeakTa của người Khmer bản địa, cũng với vài hòn đá có hình trái dưa gang, được dựng ở ven sông, ven đường, gò đất cao nơi hoang vắng… Miễu là cái am nhỏ khoảng một mét vuông, thường là theo kiểu nhà sàn, bên trong bài trí đơn sơ với vài viên đá hình tròn hoặc bầu dục, một lọ cắm nhang, vài chung nước.
Cá biệt có nơi, miễu ông Tà được xây bằng xi măng, trong có bài vị bằng chữ Hán ghi hai chữ Thạch Thần - Thần Đá. Trong miễu, ngoài những viên đá hình tròn còn có thờ thêm các vị Tài thần, Thổ địa như miễu ông Tà trong khuôn viên đình Thới Bình, thuộc phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Cũng như người Khmer từ trước tới nay, trong khi đào mương, làm ruộng lập vườn, tình cờ gặp những viên đá hình bầu dục giống như quả dưa gang, người Việt cũng đưa vào miễu ông Tà để thờ, hoặc lập miễu mới. Đó là trường hợp của miễu ông Tà trong khuôn viên miễu Bà ở Xóm Chài, thuộc phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Khi người dân nơi đây đào đất đắp đường, phát hiện những viên đá hình tròn, họ cho rằng đó là đá thần nên lập miễu thờ trong khuôn viên miễu Bà.
So với thần NeakTa của người Khmer thì quyền năng của ông Tà người Việt ít hơn nhiều. Trong khi nội dung thờ NeakTa của người Khmer là cả một hệ thống niềm tin tín ngưỡng rất phong phú, bao gồm nhiều chức năng vừa là thần của một vùng núi rừng, ruộng rẫy, làng xóm… vừa là tôn thờ nhân vật có công với làng nước, vừa là ông tổ của một dòng họ … thì ông Tà của người Việt chỉ có chức năng cai quản khu vực đất ruộng rẫy, không nằm trong khuôn viên đất thổ cư(3).
Tính giao tiếp trong tín ngưỡng thờ ông Tà ở Cần Thơ, trước hết và trên hết chính là nhằm để tăng cường thêm sức mạnh tinh thần cho người khai hoang trong quá trình tiếp xúc, chung sống và quan hệ với những cộng đồng người cũng như với những thế lực siêu nhiên trên đường đi đến và ở lại của họ nơi vùng đất mới. Cứ như thế, những giá trị được tích hợp thông qua các quá trình giao lưu, hội nhập, tiếp biến văn hóa… ngày càng mở rộng để từng bước góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa ở địa phương(4).
(1) Huỳnh Quốc Thắng (2003), Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.45-46.
(2) Lê Như Hoa (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.37-38.
(3) Nguyễn Hữu Hiếu, Sđd, tr.261-265.
(4) Huỳnh Quốc Thắng, Sđd, tr.156-158.
https://baocantho.com.vn/tinh-giao-t...ho-a94284.html
ÔNG TÀ - TỤC THỜ ĐÁ NAM BỘ
Biên soạn: Thanh Thu
-----
Có ai ngờ rằng, những viên đá hình tròn, nhẵn nhụi lại đặt trong miếu, hay trên gò đất cao hoặc bên cạnh gốc cây được người dân thành kính thờ cúng và gọi là Thần. Ngoài ra, ở vài địa phương khác, xung quanh viên đá lớn còn có nhiều viên nhỏ tượng trưng cho ma quỷ theo hầu. Đó là tín ngưỡng thờ cúng Ông Tà dân gian của người Việt. Nhưng đây là cách xử trí dân gian hay còn mang một ý nghĩa đặc biệt nào khác? Liệu “Ông Tà” có tà hay không? Trong đêm trăng này, Ma Quỷ Dân Gian Ký sẽ vén bức màn bí mật về tục thờ cúng Ông Tà độc đáo của người Việt ta.
1. ĐỊNH NGHĨA
Ông Tà là tên gọi có nguồn gốc từ tín ngưỡng của người Khmer và theo thời gian lưu truyền cũng được người Việt thờ phụng ở nhiều nơi. Đó là vị thần có tên Neak Ta, có quyền năng cai quản trong phạm vi phum sóc hoặc một khu vực rộng lớn hơn nên ai nấy đều tôn kính.
Neak-Tà nói chung là “thần bảo hộ” được đồng bào Khmer suy tôn qua giá trị thực tiễn trong đời sống. Tách riêng 2 từ này ra thì có nghĩa cụ thể sau:
“Neak” có nghĩa là “người” nói chung. Ngoài ra, từ "Neak" trong ngôn ngữ của người Khmer có ý nghĩa tương đồng với sự uyên bác về kiến thức, sự uy tín trong cộng đồng. Một góc nhìn nghiên cứu khác cho rằng, từ Neak Tà có ý nghĩa tương tự như các vị thần linh trong tín ngưỡng của người Việt như ông Địa, ông Thần Tài.
“Ta” nghĩa là đàn ông đứng tuổi và được người dân tôn trọng gọi thành “ông”.
Chính vì thế, khi ghép 2 hai chữ “Neak” và “Ta” thì người dân gọi thành Ông Tà để thể hiện sự tôn kính bậc thần linh.
Còn nói về việc hình tượng hóa Ông Tà với tảng đá thì dân gian quan niệm rằng, đá là chất liệu đầu tiên gắn với bước chân chập chững của con người từ xã hội nguyên thủy sang xã hội văn minh. Đá tham gia vào mọi hoạt động sinh hoạt, lao động của con người và họ tin rằng, giữa đá và người có mối quan hệ tâm linh chặt chẽ. Vì thế, dân gian đã huyền thoại hóa hình tượng tảng đá cũng có linh tánh và thần thức phù trợ con người.
Với đức tin “hữu thành tắc hữu thần”, ở đâu người dân cũng mong có thần phù hộ, từ thần sông, thần núi đến thần rừng thì ngoài đồng cũng cần một vị thần cai quản ruộng đất, hoa màu là ông Tà. Vì thế, dân gian có câu “Ông Ðịa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng” và từ đấy hình tượng ông Tà đã ăn sâu vào tâm thức của nhiều người.
2. NGUỒN GỐC
Về thời điểm xuất hiện tục thờ Ông Tà, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Song dựa vào dã sử và truyền khẩu của người dân, nhiều người cho rằng tục thờ ông Tà đã ra đời trước khi đạo Phật nguyên thủy lẫn Bà La Môn giáo được người Khmer trên bán đảo Đông Dương biết đến.
Theo đó, tục thờ Ông Tà được xác định là có nguồn gốc xa xôi từ tục thờ đá của cư dân nguyên thuỷ, xuất hiện ở nhiều nước Ðông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tổ tiên của loài người sống trong hang đá nên rất sùng bái Thần Núi, trong quá trình di cư đến các vùng đồng bằng vẫn mang theo tín ngưỡng thờ đá, như một cách để tưởng nhớ tổ tiên. Một số vật dụng, dụng cụ bằng đá như cối đá (cối xay bột, cối giã gạo, cối quết cốm dẹp...), bàn đá, ghế đá, vòng tay, mặt dây chuyền, trang sức bằng đá... vẫn còn gặp ở nhiều nơi.
Từ đó, ông Tà được cộng đồng người Khmer khơi nguồn thờ cúng như bậc thần linh, với quyền năng cai quản nhiều nơi hoặc một khu vực rộng lớn hơn nên ai nấy đều tôn kính. Nhiều người khi đi ngang qua miếu thờ ông Tà đều dở nón, lột khăn, kính cẩn nghiêng mình.
Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa người Kinh và người Khmer qua nhiều thế hệ cộng cư đã biến Ông Tà của người Khmer trở thành Ông Tà của người Kinh. Cộng đồng các dân tộc anh em đã gửi gắm niềm tin tín ngưỡng vào vị thần bảo hộ này, có nhiệm vụ trông coi đồng áng, giúp mùa màng bội thu cho làng quê.
3.ĐẶC ĐIỂM
Hình tượng ông Tà là một hòn đá nhẵn nhụi, có khi nhỏ như hòn sỏi, có khi nặng đến vài chục ký-lô-gam. Ông Tà thường được thờ trong miếu, hoặc hốc cây, hoặc phối thờ cùng với bàn thờ Thông Thiên, bàn thờ ông Ðịa... người ta tin rằng ông Tà thường “đi, về” trong hòn đá vào lúc khoảng nửa đêm, nhất là những đêm không có trăng, lúc đó hòn đá sẽ lóe sáng trong nháy mắt, người nào rất may mắn mới được nhìn thấy những khoảnh khắc “đi, về” ấy.
Ở vài địa phương, ông Tà có hình tượng là phiến đá xanh, được quấn một chiếc khăn đỏ tượng trưng cho niềm vui, phúc lạc và cũng xem như là áo của vị Thần.
Ngoài ra, để đánh dấu vị trí tồn tại của một ông Tà, người ta dùng một hay nhiều hòn đá có hình dạng ngẫu nhiên, không có bất kỳ sự tác động nào của bàn tay con người để thờ tự, nhang khói. Ở một số nơi, người ta còn dùng vải để che lại và xem đó như là trang phục của ông Tà và trang phục này chỉ được mở khi lễ cúng ông Tà diễn ra.
Về phần miếu ông Tà, thường được làm bằng tre lá hoặc bằng gạch ngói. Đá ông Tà được trang trọng đặt vào vị trí trung tâm miếu. Có miếu người ta chỉ dùng một viên đá ông Tà, song không ít nơi người ta thờ cùng lúc nhiều viên đá khác nhau, trong đó viên lớn nhất tượng trưng cho ông Tà, những viên còn lại có kích thước nhỏ hơn là linh hồn ma quỷ. Cũng có nơi xem hình tượng Ông Tà là chính, những viên đá cạnh bên là đại diện cho các vị thần khác như: Thần núi, Thần lửa, Thần sông, Thần gió…
Ông Tà (Neak-Ta) nói riêng của đồng bào Khmer còn căn cứ vào những đặc điểm, chức năng, truyền thuyết để phân thành hai nhóm tên gọi (tức ghép tên Neak-Tà với một đặc điểm khác phù hợp với nơi thờ cúng):
Nhóm Ông Tà thứ nhất, được gọi theo tên một vật tiêu biểu trong thiên nhiên, hoặc tên của một loài thực vật hoặc mang tên một đặc điểm địa lý như núi sông.
Nhóm Ông Tà thứ 2, có liên quan đến người hoặc mang tên người như: Neak- Tà Kơhom Co (cổ đỏ), Neak-Tà Xòm đạch (lưỡi trắng), Neak-Tà Taxây ao Bà Om.
4. VỊ THẾ TÂM LINH
Đối với người dân Khmer, ông Tà không chỉ là nhân vật có quyền năng trong việc mang lại phước lành cho người dân, mà ông còn là người lãnh nhận trách nhiệm trừng phạt cái xấu, cái ác. Hay nói cách khác, ông chính là hiện thân của mong ước về một xã hội công bằng.
Ngoài các tài liệu thư tịch ghi chép về Ông Tà là vị thần cai quản chuyện đồng áng của bà con thì đặc biệt, ông Tà cũng có vài điểm tương đồng với ông Địa là mỗi khi làm mất một vật gì người ta cũng hay “nhờ” Ông Tà kiếm giúp. Người dân cũng ví von Ông Tà rất vui tính và cởi mở với bà con. Nhưng nếu gặp những chuyện sai trái thì cũng sẽ rất nghiêm khắc trừng trị người phạm tội.
Theo quan niệm dân gian, khi bắt đầu thờ Ông Tà nếu người dân đến chia sẻ nói chuyện thường xuyên, đông đúc thì từ một tảng đá bình thường, chỉ chừng 5 đến 10 năm thì tánh linh tảng đá ấy thức tỉnh, Ông Tà đó thực sự trở thành một Thạch Tử, có thể an ủi, tương tác cảm ứng với các tâm tư nguyện vọng của chúng sinh bá tánh.
Bên cạnh đó, những linh hồn được ông Tà phục thiện, thu nạp làm tùy tùng để cùng với ông cai quản đất đai, diệt trừ cái xấu, phù hộ độ trì cho người dân trong xóm làng, phum sóc.
5. NGHI THỨC THỜ CÚNG
Việc thờ Ông Tà rất đa dạng, xuất phát từ tính cách bình dị, giản đơn của đời sống người dân nông nghiệp, khác hẳn việc thờ những vị thần khác miếu thờ sang trọng. Ông Tà được thờ ở khắp mọi nơi và chỉ sở hữu ngôi miếu nhỏ sơ sài giữa bạt ngàn cây gáo, cây tre hay dưới gốc cây Đa. Hình thức thờ này chứng tỏ ông là vị thần bình dị, gần gũi với tính cách của người nông dân.
Tại chùa Phù Ly (Vĩnh Long), đồng bào Khmer thường tổ chức lễ cúng Ông Tà vào tháng 4 dương lịch hàng năm. Vì tháng này là thời điểm giao mùa giữa mùa nắng với mùa mưa, đây cũng là thời điểm đồng bào Khmer tổ chức đón Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay và chuẩn bị cho vụ mùa mới, do vậy đồng bào Khmer tổ chức lễ cúng Ông Tà nhằm cầu mong Ông ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Bên cạnh đó, đồng bào Khmer khi có vấn đề khó khăn trong cuộc sống hay cầu mong điều gì cũng đến miếu Ông Tà cúng viếng.
Về mâm lễ cúng cũng không mang tính quy định, rườm rà, người dân vái gì cúng lễ vật ấy. Có khi là đầu heo luộc, có lúc lại cặp cá lóc nướng trui và xị rượu, hay con gà đem luộc và rượu, cũng có thể là nải chuối, miếng bánh. Có điều rất đặc biệt là khi người dân vừa vái cúng xong thì phải ăn trước một miếng, nhấp một xíu rượu tượng trưng thì ông Tà mới dám “ăn”. Điều này cũng xuất phát từ quan niệm cẩn thận và đa nghi mà người dân gán ghép cho ông Tà sợ nhiều người cúng vái, đôi khi ông ăn nhầm đồ có độc.
Tục thờ ông Tà từ lâu trở nên quen thuộc với người dân, không chỉ phổ biến trong đồng bào dân tộc Khmer mà cả người Kinh cũng tổ chức thờ cúng. Điều này cho thấy sự dung hòa giữa đạo và đời trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của cư dân bản địa.
6. GIAI THOẠI DÂN GIAN
Tại chùa Phù Ly (Vĩnh Long) có miếu thờ Ông Tà cùng với huyền tích đặc biệt. Tích kể rằng, thời xa xưa, trong một gia đình nọ có 3 người, người mẹ mất sớm, còn lại người cha và người con. Một hôm nọ, người cha lên núi ngồi thiền, ở nhà người con không biết cha đi đâu và đi tìm. Khi người con tìm gặp thì người cha đã qua đời. Người con tiếc thương, làm lễ an táng cha mình tại núi nọ và lấy một tảng đá để thờ, tượng trưng cho cha mình. Sau này, khi người con cũng mất, người dân lập ngôi miếu cạnh bên tảng đá đó, xung quanh có hai viên đá tròn nhỏ hơn tượng trưng cho người mẹ và người con. Từ đó, tín ngưỡng thờ Ông Tà hình thành.
Câu chuyện ông Tà kiện ông Địa rất phổ biến đối với người Nam Bộ, thể hiện đậm nét tinh thần hợp tác, cùng chung sống của hai tộc Kinh và Khmer. Theo đó, ông Tà vốn là tín ngưỡng của người Khmer, là vị thần phù hộ của họ. Ông Địa là thần phù hộ cho người Việt. Thấy đất đai mà dân của ông Địa khai phá ngày một trù phú, còn đất đai mình ngày càng thu hẹp, ông Tà bèn đi kiện lên ông Thần Thành Hoàng. Thần phán ông Địa thắng kiện vì tỏ ra khá siêng năng trong việc lo cho dân, còn ông Tà chỉ biết lêu lổng không chăm sóc dân. Ông Tà chẳng những bị thua kiện mà còn bị xử làm dân tùng ngụ. Ông Địa thắng kiện nhưng không kiêu căng, không lấn lướt ông Tà, mà ngược lại còn an ủi và chia phần cho ông Tà. Theo đó ông Tà vì thích thanh vắng nên coi giữ chỗ đồng ruộng, còn ông Địa do thích náo nhiệt nên coi giữ nơi chợ búa. Từ ấy có câu “Ông Địa canh nhà, ông Tà giữ ruộng”.
7.Ý NGHĨA
Tục thờ ông Tà trong tâm thức của người dân Việt là sự tiếp nối quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa người Kinh và người Khmer qua nhiều thế hệ cộng cư đã biến thần Neak-Tà của người Khmer trở thành ông Tà của người Việt. Qua đó, thể hiện mong ước của con người có cuộc sống sung túc, ấm no, hạnh phúc, gửi gắm niềm tin, tín ngưỡng vào vị thần bảo hộ, có nhiệm vụ trông coi đồng áng, giúp mùa màng bội thu. Vì lẽ đó, câu nói “Ông Tà mà không tà” cũng được dân gian ví von khi nhắc về vị thần này.
----
https://www.facebook.com/share/p/1GTcWpS3wQ/
Thần chú câu Ông Tà mang lại may mắn và bình an
https://iili.io/KAhg4SI.md.png
https://i.ibb.co/xqmLPtLC/cau-than-chu-ong-ta.png
Câu thần chú câu Ông Tà là một chủ đề có rất nhiều sự quan tâm từ phía người dân Việt Nam. Được coi là một trong những câu thần chú linh thiêng nhất, câu thần chú ông tà được sử dụng để chống lại các thế lực ma quỷ và đem lại may mắn, bình an cho con người. Vậy bạn đã biết những câu thần chú của ông tà nào mang lại linh nghiệm cao nhất chưa? Cùng phần mềm Ninja tìm kiếm đáp án trong nội dung bài viết dưới đây!
I. Thần chú câu Ông Tà là gì?
Câu thần chú Ông Tà là một câu thần chú linh thiêng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Thần chú Ông Tà có tác dụng chống lại các thế lực ma quỷ và mang lại sự bình an, may mắn cho con người.
Câu thần chú này có nội dung như sau: “Ông Tà cứ đi đường Ngựa phi, bước qua mương nước, chân không ướt, áo không nhàu. Ai đem lễ vật đến trước mặt ông, thì ông ban cho tài lộc, cát tường bình an”.
Câu thần chú này được coi là linh thiêng và được sử dụng rộng rãi trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam.
II. Tổng hợp thần chú Ông Tà linh nghiệm nhất
Thần chú câu Ông Tà được coi là linh thiêng và được sử dụng trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam để xin đoái hoài các vị thần linh, mong nhận được sự bảo trợ và phù hộ của các vị thần linh, đồng thời mang lại may mắn, bình an cho con người. Dưới đây là một số câu thần chú ông tà phổ biến trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam:
“Ông Tà cứ đi đường Ngựa phi, bước qua mương nước, chân không ướt, áo không nhàu. Ai đem lễ vật đến trước mặt ông, thì ông ban cho tài lộc, cát tường bình an.”
“Ông Tà đến thăm, cành mai nở hoa. Phật Tổ về đây, tất cả nạn loạn đều tạnh. Nam mô A Di Đà Phật.”
“Ngọc Hồ, Quế Lâm, Kim Sơn, Đại Hùng, cùng chư vị đại diện các vị thần, xin đoái hoài, ban tài lộc, cát tường bình an.”
“Ông Tà đến thăm, bảo vệ phủ đầu. Phật Tổ hộ pháp, vạn phước tràn đầy. Tịnh độ sớm thành, gia đạo hạnh phúc. Nam mô Đại Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.”
“Ông Tà đến thăm, dòng sông nở hoa. Thiên Đàng phù hộ, Phật Tổ bảo vệ. Tài lộc thịnh vượng, gia đạo an khang. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.”
“Ông Tà đến thăm, mây trời phủ kín. Chư vị thần linh, hộ trì pháp đạo. Tài lộc như ý, gia đạo hạnh phúc. Nam mô Bồ Tát Quan Âm.”
Trên đây là tổng hợp những thần chú câu Ông Tà. Việc áp dụng các câu thần chú ông Tà cần được thực hiện đúng cách. Không nên lạm dụng hoặc lạm dẫn trong mục đích cá nhân. Phải kết hợp với đạo lý tốt, có ý thức trách nhiệm trong việc làm phúc đức cho bản thân và xã hội.
https://www.phanmemninja.com/than-chu-cau-ong-ta
Một quan niệm về văn hóa thờ Tà của người Việt
https://iili.io/KAjumwx.md.jpg
https://i.ibb.co/G4J4DczS/nhhhhhhhhhhhhhhhhhyyyy.jpg
Miếu thờ Ông Tà cạnh cây cổ thụ ở Trà Vinh. Ảnh: internet
VNTN - Người Việt xa xưa kia họ không có tục thờ Tà, mà họ bắt đầu thờ vị thần này là từ sau khi Chúa Nguyễn đưa lưu dân vùng Thuận Quảng vào khai phá vùng đất Nam Bộ. Khi người Việt đến vùng đất mới khai phá và sinh sống thì họ bắt đầu giao lưu và chịu ảnh hưởng ít nhiều văn hóa Khmer. Và tục thờ Tà đến với họ trong môi trường cộng cư là như thế. Một điều cần lưu ý là vùng đất Tây Ninh xưa chủ yếu là rừng rậm, bưng trảng, bàu suối rất nhiều. Những lớp người đầu tiên đến đây khai hoang tất yếu phải hòa mình vào thiên nhiên vốn có của nó. Bên cạnh đó các phum sóc Khmer sống rải rác khắp nơi ở nhiều vùng đất khác nhau, mà tục thờ Tà là nét văn hóa rất phổ biến đối với họ, chính vì vậy mà lưu dân Việt chịu ảnh hưởng tín ngưỡng này cũng là lẽ tất nhiên.
Ngày nay, do ảnh hưởng và giao lưu văn hóa người Việt thờ Tà không đậm đặc và phổ biến, mà chỉ tập trung rất ít ở các thôn xóm vùng nông thôn hoặc vùng ven rừng ven suối mà thôi. Và trong tâm thức người Việt ngày nay chỉ thờ ông Tà một cách chung chung, gần như một vị thần Đất (thổ địa) chứ không chia ra nhiều loại Tà như người Khmer. Đối với người Việt, Tà được xem là vị thần trấn an, phù hộ cho công ăn việc làm, đặc biệt là những việc có liên quan đến đất đai hoặc sông suối, núi rừng mà thôi. Người Việt xưa cũng dựng các miếu tạm và dùng đá cuội để tượng trưng mà thờ Tà. Khi cúng Tà thì cũng thường ăn trước một miếng để cho Tà chứng giám thức ăn không có độc. Khi có chuyện gì oan ức thì cũng đem Tà ra thề thốt như “Tà bẻ cổ, Tà vặn họng…”. Nói chung, chỉ có những xóm người Việt nào sống gần gũi với người Khmer thì mới thờ Tà mà thôi.
Đối với người Khmer thì thờ Tà là một việc không thể thiếu. Nơi họ thờ đó là những cái miếu ven suối, giữa rừng, trong phum sóc mà người dân thường cúng bái lúc đi nương rẫy, săn thú, câu cá… mà họ gọi đó là Miếu Ông Tà. Theo quan niệm của Khmer, chữ “Tà” là dạng nói tắt của Nắc Tà, chữ này được phiên âm từ chữ Neack Ta. “Neack” có nghĩa là người nói chung, “Ta” là đàn ông cao tuổi, hai chữ này hợp lại có nghĩa là Thần linh. Nếu Phật (Preah) là đấng minh chứng cho việc làm lành tránh dữ nói chung, thì Tà là thần phù trợ cho những việc lẻ tẻ trong gia đạo, những việc riêng tư, làm ăn, bệnh tật… Bởi vậy mới có nhiều loại Tà, mỗi vị có thứ bậc và chức năng khác nhau như Tà Sông (Neack Ta Prek), Tà Rừng (Neack Ta Prey), Tà Núi (Neack Ta Phnom)… Người ta thờ Tà cũng không ở một chỗ nào cố định cả, có khi miếu Tà ở ven bờ suối, ở giữa khu rừng, ở ngã ba ngã tư đường, thờ trong bộng cây to, thờ trong xóm, trong nhà… Nếu như bà con người Việt thờ Địa bao giờ cũng có tượng đất mang một số điểm chung như miệng cười, vú bụng to… thì Tà của bà con Khmer không hề có hình dạng gì cụ thể cả. Tà có khi là cục đất gò mối, là khúc cây khô, là tảng đá, là những viên đá cuội hơi to to… Tà có loại thiện cứu giúp người chuyện này chuyện nọ, nhưng cũng có loại Tà chuyên xúi giúp chuyện bậy bạ… nhưng trong tâm tưởng người dân Khmer thì bao giờ Tà cũng đều rất linh thiêng, ít ai dám xúc phạm hay nói bậy bạ đến.
Một điểm đặc biệt khác là có vị Tà được bà con người Khmer thờ sát dưới đất ngay cạnh góc giường ngủ của đôi vợ chồng chủ nhà. Tà này là chuyên chỉ ra những kẻ ăn trộm vặt. Nhà ai bị mất trộm thì đến nhờ Tà này chỉ giúp. Có thể nói đây là vị Tà rất đặc biệt. Mỗi lần cầu Tà lên thì người bị nhập bao giờ cũng chửi thề nói tục tĩu rất dữ dội. Người ta cho rằng loại Tà này kiếp trước vốn là tiện nhân nên mới vậy. Trước khi hỏi Tà về việc mất trộm thì họ sẽ hỏi về chuyện sinh hoạt phong the của vợ chồng gia chủ trước. Nếu Tà nói trúng phóc, được người vợ hay người chồng công nhận đúng là Tà lên thật. Rồi họ mới hỏi về việc nhờ Tà chỉ dùm ai trộm cắp đồ đạc. Còn nếu Tà nói sai là họ cho Tà xạo và cho thăng ngay, không hỏi gì nữa cả. Khi “giao tiếp” với Tà này là phải nói thẳng ra, chứ không được nói bóng gió hay úp mở gì cả… Cúng loại Tà này ngoài rượu thịt thông thường thì phải có thêm máu gà tươi bỏ trên miếng lá chuối xanh… Tục này hầu như ngày nay không còn nữa. Lại có vị Tà chuyên trị rắn cắn. Đây là vị Tà được bà con Khmer rất sùng bái. Ông Tà này cũng khá đặc biệt, nhà ai bị rắn cắn khi đến rước thầy thì tuyệt đối không được nói nhỏ nhẹ, ngọt ngào, năn nỉ… mà vừa vào đến cửa là phải chửi ông thầy như tát nước vào mặt, chửi bậy bạ thô tục càng tốt, khi thấy ông thầy giận đỏ ngầu hai con mắt, người run rẩy lên là biết Tà đã nhập, lập tức đi cứu chữa liền. Còn một loại Tà nữa thường hay thờ trong phum xóm, thường là đầu xóm dưới gốc cây to, có khi họ đục thân cây một lỗ rồi đặt vào đó một cục đá cuội dài dài cỡ trái bí đao và vài viên sỏi trắng bằng đầu ngón chân cái. Người ta cho cục đá ấy là ông Tà còn mấy viên sỏi kia là đám ma quỷ theo hầu để Tà sai vặt. Ông Tà này có nhiệm vụ là canh chừng kẻ gian, ăn cắp ăn trộm vào phum xóm. Hễ kẻ nào đi vào nhà ai ăn cắp, ngang miếu thì Tà sẽ vặn cho trật cổ. Ngoài ra, ông Tà này còn có thêm nhiệm vụ là làm chứng cho những người thề thốt. Hễ ai làm gì gian dối mà không dám nhận thì bị kêu ra miếu ông Tà thề độc… Phong tục này làm cho con người ta sống thật thà, không dám gian dối bậy bạ vì sợ Tà bắt, và đó cũng chính là lương tâm của con người ta không cho phép vậy.
Đối với người Khmer, Tà hết sức quan trọng và có nhiều màu sắc linh ứng là thế. Nhưng đến với người Tà Mun thì lại hoàn toàn khác, mặc dù tục thờ Tà của người Tà Mun cũng ảnh hưởng từ Khmer mà ra. Bà con dân tộc Tà Mun ở Tây Ninh hiện nay đa phần theo tôn giáo Cao Đài và trong suốt quá trình cộng cư họ chịu ảnh hưởng khá sâu sắc văn hóa đời sống của người Khmer từ cách ăn mặc đến nếp sinh hoạt tinh thần. Một trong những nghi lễ còn tồn tại hiện nay là lễ cúng miếu Tà.
Lễ cúng miếu chính thức diễn ra vào ngày 16 tháng 11 âm lịch hàng năm ở các xóm bà con Tà Mun sinh sống. Đây là lễ cúng tạ ơn vị thần bảo hộ đất đai mùa vụ và các chiến sĩ trận vong giữ gìn cương thổ…. Cúng miếu là công việc chung của mọi người trong xóm chứ không phải là việc riêng lẻ của từng hộ gia đình. Vì vậy mọi người mọi nhà đều có nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau, cùng nhau góp tiền, cùng nhau làm, sắm sanh mọi lễ vật để cúng bái. Trong lễ cúng miếu của họ vị thần trung tâm là ông Tà. Ông Tà của người Tà Mun vừa là thần đất vừa là tổ tiên của họ. Miếu Tà của người Tà Mun thường được xây cất dưới gốc cây cổ thụ, vì họ quan niệm vong linh của người đã khuất thường ẩn mình dưới những gốc cổ thụ lâu năm. Khu miếu thường có hai ngôi miếu một to một nhỏ đối diện nhau. Trước ngày cúng chính thức một ngày thì các cụ già trong xóm sẽ đến miếu quét dọn, rửa các vật thờ cúng cho sạch sẽ và làm lễ xin Tà cho phép làm lễ cúng vào ngày mai. Đó là một nghi thức không thể thiếu, vì họ quan niệm phải xin phép thì Tà mới chứng giám và phù hộ.
Cũng trong ngày này các thanh niên tập trung lại tại nhà già làng để làm cây bông. Cây bông trong lễ cúng miếu cũng như cây cờ trong các lễ hội vậy. Bà con người Tà Mun chọn một cây tre nhỏ hoặc cây trúc to dài độ 1,5 mét, cắt bằng hai đầu. Đầu trên chẻ đều rồi banh ra giống như cái lồng hái trái cây vậy và họ để trầu cau têm sẵn vào đó. Trên thân cây cứ cách độ một tấc sẽ buộc một vòng dây, họ chẻ các nan trúc cho tưa mỏng ra như hình những cành hoa và cắm so le vào các vòng dây đó kèm theo một ít tiền lẻ. Đó gọi là cây bông. Cây bông có ý nghĩa tượng trưng cho việc báo hiệu lễ cúng, trầu cau và tiền lẻ có ý nghĩa là hóa cho những vong hồn lang thang không nơi nương tựa, thiếu ăn thiếu mặc.
Sáng sớm hôm sau, những người phụ nữ trong xóm với những bộ quần áo đẹp nhất sẽ đi ra chợ mua đồ cúng. Trong lễ cúng này có năm thứ quan trọng làm hoa tươi, đầu heo, gà, xôi nếp… và voi ngựa làm bằng cây chuối. Ngoài ra còn có trái cây và rượu trắng. Đối với lễ cúng miếu, bà con Tà Mun lựa chọn hoa rất kỹ, họ quan niệm mua được hoa đẹp càng nhiều thì càng gặp nhiều điều may mắn. Voi và ngựa sẽ được một người khéo tay trong xóm làm ra bằng thân cây chuối và tàu lá chuối. Họ cho rằng voi và ngựa là những con vật mà các chiến sĩ của họ ngày xưa trong quá trình giữ gìn cương thổ, chống giặc ngoại xâm đã sử dụng. Khi cúng thần thì cúng luôn họ như một sự tri ân sâu sắc…
Nói tóm lại, tục thờ Tà có nguồn gốc từ văn hóa Khmer. Đây là một phong tục lâu đời được người Khmer gìn giữ. Người Việt và người Tà Mun trong quá trình cộng cư đã chịu ảnh hưởng văn hóa thờ Tà của Khmer. Nhưng ở mỗi dân tộc đều có nét tâm linh cũng như nghi lễ khác nhau. Ngày nay ở miền Nam nếu có dịp đi đến các vùng đất ven núi, sông, bưng, suối, trảng, ruộng… thì chúng ta vẫn thấy đâu đó các miếu thờ Tà. Đó là những dấu vết của một thời khai phá vùng đất mới, của sự hòa nhập và chung sống của các dân tộc anh em. Nghiên cứu về tục thờ vị thần này cũng là điều thú vị và cần được bảo tồn để phát huy các giá trị văn hóa cũng như bản sắc của người Việt.
Hoài Chi
https://www.vannghethainguyen.vn/mot...et-p25481.html
12 VỊ THẦN TÀ
Ông Tà có nguồn gốc từ kho tàng văn hóa của người Khmer. Đó là một vị thần mang tên Neak-ta, có quyền năng cai quản trong phạm vi phum sóc hoặc một khu vực rộng lớn hơn. Người Khmer cho rằng những thiên tai, bệnh tật đều do sự bất kính của con người đối với ông Tà. Mỗi lần đi ngang qua miễu ông Tà, họ đều giở nón, lột khăn và kính cẩn nghiêng mình.
Thần Neak-ta khi đi vào cách phát âm của người Việt đã được biến âm thành “Tà”, “ông Tà”. Té ra là vậy, khỏi phải suy nghĩ méo mó.
Theo khảo cứu của cụ Vương Hồng Sển, “Neak-ta có nhiều cấp bậc. Có những ông Tà được thờ nơi góc giường, chuyên lo chuyện trong nhà ngoài cửa. Có những ông lại lo việc cứu người bị rắn cắn. Lại có những Neak-ta có miếu thờ đàng hoàng ở các ngã ba, ngã tư đường hoặc đầu gành cuối bãi, trách nhiệm và địa vị cũng giống như thổ địa của người Việt”.
Trong quá trình cộng cư ở miền Tây Nam Bộ, người Việt, Khmer, Hoa đã có sự giao thoa văn hóa với nhau. Tục thờ ông địa và thần tài của người Việt xuất phát từ người Hoa, còn thờ ông Tà là của người Khmer.
Trong cuốn Nửa tháng trong miền Thất Sơn, tác giả Nguyễn Văn Hầu có đoạn ghi: “Ông Tà của người Miên cũng như ông thần của mình. Người ta tin rằng ông thần đã nhập vào viên đá mới xui khiến cho ai đó bắt gặp được mà đem về thờ. Bao giờ thần không muốn ở nữa thì bỏ mà đi và viên đá tự nhiên mất tích”. Tương truyền tại vùng biên giới Tây Nam, xưa kia có một cái miễu ông Tà rất linh, nhiều người thường mang tiền và lễ vật đến cúng, đặt trước các viên đá rồi bỏ về nhưng không ai dám trộm cắp vì sợ thần bẻ cổ.
Về lai lịch của ông Tà xưa nay có rất nhiều giai thoại thật huyền bí và hấp dẫn. Có người đồn rằng ông Tà được thờ trên bọng cây, nếu có ai đó bướng bỉnh, chơi cắc cớ đem ném xuống ruộng, nhất định vài hôm sau ổng sẽ trở về chỗ cũ.
Để có được một chỗ thờ trang nghiêm, bà con chọn một gò đất thật cao, xung quanh vắng vẻ để dọn nền cất miễu thờ ông Tà. Cạnh bên miễu thường trồng cây đa, cây xộp hoặc bụi tre để tạo bóng mát.
Với người Việt, bà con chấp nhận tục thờ ông Tà cũng giống như tục thờ thổ thần hoặc thần tài và ông địa, bởi vì ai cũng muốn trong nhà ngoài ngõ luôn có một vị thần trông coi việc gia cư, định đoạt phúc họa và mang lại an cư lạc nghiệp cho xóm làng. ( HOÀI VŨ ).
===================
ÔNG TÀ …….!!!
🍁 Thờ ông Tà là một kiểu văn hoá của người khơ-me , gọi là Neakta (Nẹc-Tà ). Cách gọi Tà là lấy từ chữ này mà ra , Tà nghĩa là đàn ông , giống như ông địa , ông Tà cai quản ruộng lúa , đất đai , hoa màu , súc vật …..vv…
Ngoài ra còn có các ông Tà khác như : Tà Nhum ( coi núi ) Tà Rẹc ( coi sông ) Tà Phây ( coi nói ) Tà Đá , Tà Mun , Tà Mi , Tà Bạch , Tà Sa , Tà Sơn , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Á Rặt …vv..
Ông Tà có rất nhiều hình dạng khác nhau , phần lớn là hình xoài hoàn toàn tự nhiên không qua một công đoạn chế tác nào của con người cả . Đi lễ bà chúa xứ núi Sam Châu Đốc , có miếu thờ ông Tà bên cạnh , người ta thường vào lễ xin phép ông Tà trước khi vào lễ bà Chúa Sứ , giống như kiểu đền trình ngoài Bắc bộ , người ta soạn lễ trình trước thổ Thần sau đó mới vào lễ các vị Tôn Thần .
Lễ vật cúng ông Tà thường là bánh kẹo heo quay , thịt trứng , cá lóc nướng , hoa quả , xôi chè , trầu cau , rượu , thuốc lá ….vv..! Đặc biệt trước khi cúng phải ăn trước một miếng , vì nghe người ta truyền miệng dân gian là ông Tà sợ bị thuốc .
=====================
12 Ông Tà
12 vị Tà Á Rặc
12 vị quan Tà Á Rặc
ÔNG TÀ –Á RẶC: Những vị thần bảo hộ của người Khmer.
(Vật phẩm trong Đèn nước thường bị trẻ em giành lấy và chia phần – Người ta cho rằng chúng là con cháu của : Ông Tà, Á Rặc”)
phụng thỉnh Tà Mun , Tà Bạch , Tà Sấm , Tà Gầm , Tà Hầm , Tà Há , Tá Sắc , Tà Sét , Tà Rắn , Tà Hồng.
Phụng thỉnh Tà Muôn , Tà Bạch , Tà Gầm , Tà Hầm , Tà Há , Tà Sấm , Tà Sắc , Tà Sét , Tà Rắn , Tà Hồng .
Vận chuyển thập nhị Thần Tà : Tà Mun, Tà Ná, Tà Vẹt, Tà Thần, Tà Khét, Tà Khao, Tà Mao, Tà Hom, Tà Rút, Tà Mặc.
Vận chuyển thập nhị Thần Tà : Tà Mun, Tà Ná, Tà Vẹt, Tà Thần, Tà Két, Tà Khao, Tà Mao, Tà Hom, Tà Rút, Tà Mặc.
Vận chuyển thập nhị thần Tà : Tà Mun, Tà Ná, Tà Vẹt , Tà Thần, Tà Khét , Tà khao, Tà Mau, Tà Hom, Tà Rút, Tà Mặc.
Ngoài ra còn có các ông Tà khác như : Tà Nhum ( coi núi ) Tà Rẹc ( coi sông ) Tà Phây ( coi nói ) Tà Đá , Tà Mun , Tà Mi , Tà Bạch , Tà Sa , Tà Sơn , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Á Rặt …vv..
-
Lục Tà
Thập lục ông Tà Bà Tà.
-
Tiếng Miên TÀ= Thần , Lục = Thầy .
Người Việt hay gọi trại trại ra thành Tà .
Ông Tà tức là Ông Thần vậy thôi em ạ !
Tà Đá là chỉ những Ông Thần bản thổ nhập vào những tảng đá có linh ứng với sự cầu đảo của dân chúng , được hưởng hương khói , có Miếu thờ .
Riêng chử Lục là Thầy nhưng bao hàm nghĩa những Pháp Sư chánh Đạo đời xưa đã khuất núi nhưng vẫn đang tu luyện ở 1 thế giới khác . Khi người học Pháp kêu Họ tức tốc giáng trợ , rất linh ứng .
=====
* KÊU TÀ-ĐÁ : Ề hế Bút Thô rốp bờ xây mặc mặc.
* KÊU CHƯ-VỊ ÔNG-TÀ : Ề hế cà sa dắ mặc mặc , ề hế bề xê mặc mặc , Bút thô rép bòn Tà Mun , Tà Mi , Tà Bạch , Tà Sơn , Tà Sa , Tà sét , Tà Ắ Rặc , Tà Hồng xây xây lơn do mo .
-
Câu chú : “ 12 Vị tà á rặc , ông tà mun ới , ô mặc bành thăn , ma ha bành thăn , up là cạch tha vặc inh chru sa rặc ni “ .
Thần chú quấn dây: "12 vị tà á rặc, ông tà mun ới, ô mặc bành thăn, ma ha bành thăn, up là cạch tha vặc inh chrư sa rặc ni" .
-Chú : “ Sư Ông , sư Bà si la mát , Ông đạo yarana chứng minh .
Um tà mun tà mát sa ghi ta kru rộ rộ , kru rộ soa hắt “
https://phayant.blogspot.com/2013/07...-phan-hai.html
https://buangaiplus.blogspot.com/2014/07/ong-ta-a.html
https://phongthuyvietabc.blogspot.co...n-mon-nam.html
https://www.facebook.com/groups/2728...8062671429193/
https://dienbatnblog.blogspot.com/20...on-nam_10.html
https://thegioivohinh.com/diendan/sh...BB%8A-N%C3%80O
https://fr.scribd.com/document/407656670/BUA
https://lotusleanh.blogspot.com/2016...ai-ong-ia.html
https://www.vietnam.vn/hai-ngoi-mieu-tho-ba-thien-hau
https://mail.vanchuongviet.org/index...detail&id=1601
https://www.vinhthong.com/2023/09/ch...cua-nguoi.html
==========================
https://youtu.be/Ylil_0KJvUE?si=nIMJKVzfL4rE9jyB
Ớn lạnh Ông Tà Lục Tổ quá linh thiêng cầu gì được đấy
(https://www.youtube.com/watch?v=Ylil_0KJvUE / https://youtu.be/Ylil_0KJvUE?si=nIMJKVzfL4rE9jyB)
Miếu Mạch Nước thờ Thủy Long Thánh Mẫu
Miễu Mạch Nước (hay còn gọi là Chùa Mạch Nước) trên đường Bùi Thị Lùng (huyện Hóc Môn, TPHCM)
https://youtu.be/fSAfHfqVk2o?si=fy5n97acybxNGLHd
Miếu mạch nước Hóc Môn - Nước phun trào 200 năm không cạn
(https://www.youtube.com/watch?v=fSAfHfqVk2o / https://youtu.be/fSAfHfqVk2o?si=fy5n97acybxNGLHd / https://dantri.com.vn/doi-song/nguoi...1143950247.htm)
LỤC-TÀ - ÔNG THẦN ẾCH - ÔNG THẦN ĐÁ
https://youtu.be/BXq2wl3Y1Ck?si=lBFaydZlny5NpFeX
Ông Tà linh thiêng | ông Thần ếch và ông Lục Thần biết hút thuốc và đùa giỡn với người
(https://www.youtube.com/watch?v=BXq2wl3Y1Ck /https://youtu.be/BXq2wl3Y1Ck?si=lBFaydZlny5NpFeX)
https://youtu.be/73spKX6lirw?si=lKNrSKFb3fNDMzoh
Miếu Ông Tà Linh Thiêng. Xuất Hiện Bài Thuốc Thần Dược Cứu Sống Bà Lão Dưới Chân Núi Cấm
(https://www.youtube.com/watch?v=73spKX6lirw / https://youtu.be/73spKX6lirw?si=lKNrSKFb3fNDMzoh)
Kỳ lạ chuyện xung quanh Đá Ông Tà Á Rặc tại vùng đất Tây Ninh - NATN
https://www.facebook.com/watch/?v=673785250594237
=================
https://youtu.be/QcrYVphFJvc?si=C-YswQXlAApG8Bl0
ĐÌNH THÁI NINH THÀNH PHỐ TÂY NINH 2021 (TT82)
(https://www.youtube.com/watch?v=QcrYVphFJvc / https://youtu.be/QcrYVphFJvc?si=RlQ8-2Gn7dtiFeqb)
Tiếng Khơ me gọi người lớn tuổi là Tà, các bậc thần cũng gọi là Tà như miếu ông Tà chẳng hạn. Tiếng Khơ me gọi đủ là Nặc Tà (Nec Ta) nghĩa là Tà thần.
* Người Khơ me thờ 3 tôn vị, đó là:
1. Préa (Phật Đà, tức Đức Thích-Ca Mâu-Ni),
2. Nec Ta tức Tà thần vừa nói ở trên
3. và Á Rặc (tức Ma quỷ). Xây Á Rặc là kiểu lên đồng của Khơ me, cấm người lấy ống lá đu đủ xoi vách xem lén qua lỗ cuống lá.
https://cvdvn.net/wp-content/uploads...hi-quyen-6.pdf
Niềm tin và thực hành tín ngưỡng Arak
1. Quan niệm về Arak
Arak là tín ngưỡng bản địa của người Khmer ở Cambodia có từ thời kỳ tiền Phật giáo. Đến lúc Phật giáo du nhập vào Cambodia thế kỷ XII rồi về sau trở thành quốc giáo, việc thờ cúng Arak vẫn tiếp tục tồn tại. Khi di cư xuống châu thổ hạ lưu sông Mekong, họ mang theo hệ thống tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có Arak và duy trì suốt nhiều thế kỷ trên vùng đất mới.
Trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Khmer ở Việt Nam trước nay, Arak thường ít được nhắc đến, hoặc nếu có cũng chỉ điểm qua sơ lược. Do đó, việc tìm kiếm thông tin đầy đủ về đối tượng tín ngưỡng nầy - dù qua tư liệu sơ cấp hay thứ cấp - đều khó khăn. Nhìn chung, các quan niệm về Arak có thể tạm chia thành hai nhóm chính như sau:
(1) Arak là bà tổ trong dòng họ mẫu hệ, chết bất đắc kỳ tử và hiển linh. Theo quan niệm nầy, “Arak có nghĩa là ma quỷ, là thần tổ của dòng họ bảy đời… có chức năng bảo hộ gia đình trừ tà ma hại người trong dòng họ. Arak là một nhân thần thuộc phái nữ đã chết” [Nguyễn Công Bình & Lê Xuân Diệm & Mạc Đường 1990: 229].
(2) Arak là thần trong thế giới tự nhiên, bảo vệ và chi phối đời sống cộng đồng. Nguyễn Xuân Nghĩa [1979: 47] cho biết, phần đông người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long hiểu Arak là thần hoặc ma quỷ không có hình dáng rõ rệt, nhưng cũng có quan niệm cho rằng Arak là thần bảo vệ, thần giữ gìn…
Kế thừa và tổng hợp từ hai nhóm ý kiến trên, những nghiên cứu sau nầy cho rằng Arak vừa có thể là nhân thần lẫn nhiên thần. Định nghĩa của Viện Văn hóa [1993: 51] viết: “Arak tượng trưng cho vị thần bảo hộ của giòng họ, một loại thần không có hình dáng, biểu hiện rõ rệt và tính chất thiện, ác cũng khó phân biệt. Có thể là một người nào đó trong dòng họ chết từ lâu nhưng linh thiêng nên được tôn là thần và được các gia đình trong dòng họ thờ cúng nhờ bảo hộ.”
Arak có nhiều loại như Arak chou buo (Arak của dòng họ), Arak phum (Arak của phum), Arak veal (Arak ruộng rẫy), Arak preay (Arak giữ rừng), Arak phteah (Arak nhà cửa)… Trong đó, Arak chou buo được xem là quan trọng nhứt, mỗi dòng họ có thể thờ cúng nhiều Arak, ngược lại một Arak có thể được thờ cúng bởi nhiều dòng họ. Những gia đình ó cùng một bà tổ tính theo dòng họ mẹ đều thờ cúng chung một Arak chou buo.
Dù là nhân thần hay nhiên thần thì trong quan niệm của người Khmer, Arak vẫn là thần linh không có lai lịch rõ ràng, không hình tướng, không được thể hiện bằng biểu tượng hay hình ảnh nào cụ thể. Arak có tính chất thiện ác không rạch ròi, vừa có thể bảo vệ con người, nhưng sẵn sàng quở phạt những người nào tỏ thái độ không tôn kính. Người Khmer tin rằng Arak có thể quở phạt khiến họ gặp xui xẻo, đau bịnh, tai nạn…
2. Nghi lễ Pleng Arak
Gắn liền với tục thờ cúng Arak là nghi lễ nhập đồng, được gọi là Pleng Arak, cũng gọi là Chôl Arak. Người Khmer xưa, mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống như bịnh tật hay mất mùa, thường tổ chức Pleng Arak. Ngoài những lúc hữu sự, một số nơi còn tổ chức nghi lễ nầy định kỳ mỗi năm hoặc ba năm một lần.
Người nhập đồng được gọi là Rup Arak, có vai trò trung gian cho Arak nhập vào để giao tiếp với thế giới trần tục, giải đáp những thắc mắc mà dân chúng muốn cầu hỏi. Rup có thể là nam hoặc nữ, nhưng đa phần là nữ. Người làm Rup thường do cha truyền con nối hoặc mẹ truyền con nối. Bên cạnh Rup còn có thêm một thầy cúng, thông thạo nghi lễ, được gọi là Krou Teay.
Lễ vật được dâng cúng thường đơn giản, đa phần là những món ăn gần gũi với đời sống hằng ngày của người Khmer như đầu heo, gà luộc, vịt luộc, trái dừa, nải chuối, trầu, rượu, bánh bò, bánh hỏi… Song, tùy theo vị Arak nào được cầu cúng mà lễ vật có đôi chút khác biệt để phù hợp “sở thích” của Arak đó. Ngoài thức ăn còn một số vật phẩm đặc trưng của văn hóa Khmer như slachôm, slathô, baisei… [Tư liệu điền dã 2017]
Diễn biến nghi lễ Pleng Arak về cơ bản theo trình tự cố định. Đầu tiên, chủ lễ đốt nhang đèn khấn vái, rồi dàn nhạc trỗi nhạc và cất lời hát thỉnh Arak về. Đó là dàn nhạc dân gian truyền thống của người Khmer, với khoảng năm người chơi các nhạc cụ như trống, kèn, đờn… và một người hát. Trong lúc đó, những người dân xung quanh cùng hò reo và vỗ tay như một hình thức “cổ vũ”.
Khi Arak nhập vào, đầu tiên Rup sẽ nhảy múa, sau đó người dân bắt đầu hỏi những vấn đề mình thắc mắc để Arak giải đáp. “Người lên đồng lúc đó uốn éo, có nhiều hành động khác thường như uống nước liên tục, ngậm rượu phun vào người bệnh… và nói những câu đặc biệt để chữa bệnh hoặc nói với chủ nhà phải làm một số điều gì đó thì bệnh mới khỏi được” [Trần Văn Bính chủ biên 2004: 179]. Cuối cùng, sau khi cuộc hỏi đáp hoàn tất, Arak xuất khỏi Rup và Rup không còn nhớ những gì vừa xảy ra trước đó.
Ngoài lễ cúng, người Khmer còn thờ Arak trong khuôn viên nhà ở, lập miếu Arak trong phạm vi phum srok. Không những vậy, đối với giới bùa chú, Arak là một trong những đối tượng tín ngưỡng được các pháp sư thờ cúng để tăng thêm quyền năng. “Theo lời các vị pháp sư, linh hồn Arak sẽ thừa hành theo lệnh của họ, giúp họ đạt được ý nguyện đề ra” [Nguyễn Khắc Cảnh & Lê Huyền Trang 2014].
3. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng Arak và Neak Ta
Ngoài Phật giáo Nam truyền là tôn giáo chính, trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Khmer, Neak Ta có thể được xem là thần linh quan trọng nhứt. Đây là danh xưng chung dành cho những phúc thần bảo hộ cộng đồng trong đời sống hằng ngày, chức năng tương tự Thành Hoàng của người Việt hay Ông Bổn của người Hoa. Khi thờ cúng, Neak Ta thường được biểu trưng bằng hòn đá, hoặc tranh, tượng… Neak Ta và Arak có một vài điểm cơ bản giống nhau khiến không ít người nhầm lẫn giữa hai thần linh nầy, song bên cạnh đó cũng có những khác biệt.
Về nguồn gốc, người Khmer cho rằng Arak là thần linh xuất hiện trước và cổ xưa hơn Neak Ta, do vậy trong nghi lễ, họ thường khấn vái “Arak - Neak Ta” chứ không phải “Naek Ta - Arak” [Tư liệu điền dã 2017]. Arak mang những đặc điểm của vật linh giáo (animisim) là niềm tin của con người về sự tồn tại linh hồn trong vạn vật. Neak Ta thể hiện những đặc trưng của bái vật giáo (fetishism), ở đó con người đặt niềm tin và thờ cúng thần linh thông qua một vật thể nhứt định. Như vậy so với Neak Ta, Arak chưa được biểu hiện bằng hình thức vật thể. Ngoài ra, cả hai hình thái nầy có yếu tố ma thuật giáo (shamanism) là hình thức giao tiếp giữa thế giới thiêng và phàm thông qua người trần tục làm đại diện. Song, hình thức ma thuật thể hiện rõ và mang tính chất bắt buộc ở tín ngưỡng Arak, tín ngưỡng Neak Ta thỉnh thoảng có hình thức ma thuật nhưng vai trò không quan trọng.
Ở một góc nhìn khác, khi đặt hai loại hình tín ngưỡng trong bối cảnh lịch sử - xã hội Khmer, Nguyễn Xuân Nghĩa [1987: 118] nhận định: “Arak là tàn dư của sự thờ cúng totem trong thị tộc mẫu hệ mà dấu vết là vai trò đặc biệt quan trọng của Arak nữ […]. Còn Neak Ta là tín ngưỡng của công xã láng giềng, khi các thành viên trong công xã không còn quan niệm về một tổ tiên chung nên đã tôn người đứng đầu công xã hay người có công làm thần bảo hộ công xã.”
Về quy mô và tính chất, nếu cúng Neak Ta để cầu mong thời tiết thuận lợi, mùa màng tươi tốt, con người khỏe mạnh… thì cúng Arak chủ yếu để chữa bịnh và phạm vi gói gọn trong gia đình hay dòng họ. Như một nghiên cứu từng nhận định: “Thần trong tín ngưỡng Neak Ta được khái quát cao hơn, có địa vị lớn và do đó phát huy ảnh hưởng phạm vi rộng. Nếu ảnh hưởng của Arak trong phạm vi gia đình, giòng họ, thì ảnh hưởng của Neak Ta trong phạm vi xã hội rộng lớn và giải quyết những chuyện của cả cộng đồng phum, sóc… có nghĩa là mỗi khi có hạn hán, đe dọa mất mùa, địch họa xẩy ra, người ta phải cầu cúng Neak Ta, còn khi gia đình có người bệnh, người ta cầu cúng Arak” [Viện Văn hóa 1993: 53-54].
Điều hết sức thú vị là, cả Arak và Neak Ta đều để lại dấu ấn tương đối sâu đậm trong văn hóa người Việt ở Tây Nam Bộ, không chỉ qua những miễu thờ, mà còn nhiều biểu hiện khác. Đơn cử trường hợp lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, qua khảo sát văn tế, Huỳnh Quốc Thắng [2003: 127] nhận thấy trong nội dung đã cung thỉnh nhiều thần thánh của người Chăm, Khmer và Hoa như Chúa Ngung Man Nương, Thạch Trụ Cô Nương, Nặc Tà Á Rặc, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Khổng Tử, Thất Vị Thánh Mẫu, Tứ Vị Thánh Nương, Nhị Vị Công Tử… để “đồng lai phối hưởng”.
-
Về biểu hiện, Neak Ta có biểu tượng cụ thể (hòn đá, tượng, tranh…), trong khi Arak “vô hình vô tướng”. Người Khmer cảm nhận rằng họ có thể “hình dung” được phần nào về Neak Ta, trong khi với Arak thì không. Về tính chất, Arak có tính chất thiện ác không phân biệt rõ ràng, vừa giúp đỡ con người nhưng có thể quở phạt con người nếu bất kính. Bởi thế, dù người Khmer thờ cúng Arak nhưng lo sợ có lúc bị Arak quở phạt, họ không cảm thấy thật sự an toàn. Ngược lại, họ thường xem Neak Ta như vị phúc thần luôn mang đến sự tốt lành, nên gần như hoàn toàn tin tưởng (dù Neak Ta vẫn có lúc quở phạt nhưng rất hiếm). Về chức năng, trong quan niệm của người Khmer, Arak mang một số chức năng có ảnh hưởng trong phạm vi nhỏ, còn Neak Ta là thần linh đa chức năng và ảnh hưởng khắp mọi nơi. Niềm tin vào Arak càng giảm, niềm tin vào Neak Ta càng tăng, khi đó chức năng của Neak Ta càng mở rộng và bao trùm những chức năng trước đây vốn thuộc về Arak.
https://www.vinhthong.com/2023/09/ch...cua-nguoi.html
Á Rặt, ký âm từ tên tiếng Khmer "Arak" (Neat Ta Arak), do là tên ký âm nên có nhiều cách viết, như À-rắch, Arat, Á Rặc. Ông Lê Hương nói: "Trong gia đình có thờ ông Tà gọi là Arak (người Việt quen gọi là ông Tà Á Rặt)" (Người Việt gốc Miên 1969, tr. 76).
https://cuoituan.tuoitre.vn/nghi-ve-...2165844855.htm
Thờ Neakta (Ông Tà) thì trong làng có tổng cộng ba ngôi miếu. Neakta chùa được thờ cặp bờ rào của chùa theo hướng Tây - Bắc. Đây là vị Tà có nhiệm vụ trông coi mọi việc trong chùa như đề phòng trộm cắp, ma quỷ quấy phá, và phù hộ sức khoẻ cho các sư…
Á Rặc được hiểu là vị thần giữ gìn, bảo vệ cho dòng họ gia đình hoặc làng xóm.
https://baotayninh.vn/nhung-gia-tri-...t-a122002.html