-
Những điều xảy ra bất như ý trong cuộc sống, thậm chí là những khó khăn vô cùng to lớn. Đó là những nghiệp của chính mình đổ xuống, là những chướng ngại mà phải vượt qua, là những thử thách để vững vàng hơn, là những kinh nghiệm để nhìn thấy sai sót của chính mình để sau đó nhận ra bài học và trở nên tiến bộ hơn. Thậm chí sau khi gặp Bậc Thầy, sau khi đi Pháp hội, bao nhiêu khó khăn bất như ý có thể xảy đến. Đó chính là những gia trì, những cơ hội thực hành để chuyển hóa tâm. Còn đối với một số người tà kiến thì coi đó là "vận đen" và đổ lỗi cho ai đó hoặc cái gì đó. Thậm chí trở nên nghi ngờ Tam Bảo, nghi ngờ Bậc Thầy, họ oán trách và cảm thấy như mình "bị oan".
Các Bậc Thầy luôn cố gắng hết sức, dù chúng sinh có một chút xíu nhân duyên, tuy nhiên không phải khi nào các Ngài cũng thành công trong việc cứu độ chúng sinh, trên thực tế tỷ lệ % thất bại là lớn hơn thành công bởi vì thiện duyên chúng sinh không vượt qua nổi ác nghiệp của chính họ.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
CON XIN ĐẢNH LỄ TẤT CẢ CÁC NGÀI:
1 Karmapa Dusum Khyenpa (1110-1193)
2 Karmapa Karma Pakshi (1206-1283):
3 Karmapa Rangjung Dorje (1284-1339):
4 Karmapa Rolpe Dorje (1340-1383):
5 Karmapa Dezhin Shegpa (1384-1415)
6 Karmapa Thongwa Donden (1416-1453):
7 Karmapa Chodrag Gyaltsho (1454-1506):
8 Karmapa Mikyo Dorje (1507-1554):
9 Karmapa Wangchuk Dorje (1555-1603):
10 Karmapa Choying Dorje (1604-1674):
11 Karmapa Yeshe Dorje (1676-1702):
12 Karmapa Changchub Dorje (1703-1732):
13 Karmapa Dudul Dorje (1733-1797):
14 Karmapa Thegchog Dorje (1798-1868):
15 Karmapa Khakhyab Dorje (1871-1922):
16 Karmapa Rangjung Rigpe Dorje (1923-)
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
h giả đang hành trì Ngondro Longchen Nyingtik có thể quán tưởng các đám lửa và những con bọ cạp phóng ra từ chày kim cương của Guru Rinpoche, những con bọ cạp này đớp lấy mọi chướng ngại và nuốt chửng chúng cho tới khi tất cả hoàn toàn biến mất.
● Khi cái chết đến gần, hãy quán tưởng bậc thầy trong hình thức Đức Vô Lượng Quang màu đỏ và tan biến vào tâm của ngài, làm như vậy nhiều lần.
Hãy nghĩ rằng mọi người và mọi thứ bạn gặp trong cả ngày đều chính là Guru Rinpoche.
Đây là một thực hành khá sâu xa, và những người mới ban đầu có thể thấy hơi khó, vì thế hãy bắt đầu ở mức độ mong ước.
ADVICE FOR PRACTITIONERS
Try imagining Guru Rinpoche above your head, or sitting in front of you, or in your heart.
● As you chant the mantra, imagine an uninterrupted stream of nectar flows down from the guru and dissolves into you.
● At night visualise your guru sitting on a lotus in your heart.
● As you eat, imagine your guru in your throat.
● If you are facing an obstacle, perhaps a dispute in your family, or if you are depressed, visualise your guru on your shoulder, wrathfully baring his fangs.
● Longchen Nyingtik Ngöndro practitioners can imagine sparks of fire and scorpions shooting out from Guru Rinpoche’s vajra, the scorpions snapping up each and every obstacle and swallowing them until they are all completely annihilated.
● As death approaches, visualise your guru in the form of red Amitabha and transfer yourself into Amitabha’s heart, again and again.
Imagine that everyone and everything you encounter throughout the day is none other than Guru Rinpoche.
This is quite a profound practice, and beginners may find it a little difficult at first, so start by doing it on an aspirational level.
NAMO GURU
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...42889102_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
● Nếu bạn gặp phải một chướng ngại, chẳng hạn xung đột trong gia đình, hoặc nếu bạn nản lòng, hãy quán tưởng bậc thầy trên vai, nhe răng đầy phẫn nộ.
● Các hành giả đang hành trì Ngondro Longchen Nyingtik có thể quán tưởng các đám lửa và những con bọ cạp phóng ra từ chày kim cương của Guru Rinpoche, những con bọ cạp này đớp lấy mọi chướng ngại và nuốt chửng chúng cho tới khi tất cả hoàn toàn biến mất.
● Khi cái chết đến gần, hãy quán tưởng bậc thầy trong hình thức Đức Vô Lượng Quang màu đỏ và tan biến vào tâm của ngài, làm như vậy nhiều lần.
Hãy nghĩ rằng mọi người và mọi thứ bạn gặp trong cả ngày đều chính là Guru Rinpoche.
NAMO GURU
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...45582074_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...78677010_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69119587_n.jpg
( https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/ )
HÔM NAY 05/11/2017 KỶ NIỆM 36 NĂM NGÀY THỊ TỊCH CỦA ĐỨC KARMAPA 16 - RANGJUNG RIGPE DORJE
Đức Karmapa thứ mười sáu, Rangjung Rigpe Dorje, sanh tại Denkhok vùng Dege xứ Kham gần sông Yangtse ngày trăng tròn tháng 6 năm con Chuột Mộc (1923). Ngài sanh trong một gia đình quý tộc họ Athub. Tên cha ngài là Tsewang Norbu và tên mẹ là Kakzang Choden. Sự sanh của vị đại Bồ tát trong gia đình Athub đã được tiên tri trước bởi Dzok Chen Tulku là Chokyi Dorje, trụ trì chùa Dzok Chen nổi tiếng của phái Nyingma. Theo lời khuyên của vị này, bà mẹ sanh đứa bé gần hang động của Padmasambhava, gọi là lâu đài Trời Sư Tử.
Trước khi được sanh ra, đứa bé hoàn toàn biến mất trong một ngày tròn và rồi trở lại vào ngày hôm sau. Vào đêm Ngài sanh ra, bầu không khí đầy những điềm lành, mà bất kỳ ai ở địa phương cũng cảm thấy.
Sự xuất hiện của Ngài trong thế gian này đã làm an dịu mọi nỗi thống khổ của chúng sinh. Cầu mong những hóa thân nhiều như những hạt bụi trong không gian của Ngài sẽ giải phóng mọi nỗi khổ trong tam giới. Cầu nguyện những người nghĩ tưởng đến Ngài, nghe nhắc pháp hiệu của Ngài đều được Ngài an lập trong trạng thái Phật Quả Tối thượng.
Mong mọi sự tốt lành !
Đọc thêm tiểu sử cuả Ngài tại http://www.ripavietnam.org/tieu-su-n...-16-1923-1981/
-
KỆ KẾT TƯỜNG
NANG SIT DA DI LAMA CHI NE SA
Thực tướng của vạn vật là dấu hiệu bên ngoài biểu hiện của bậc thầy
MA RAC RIT LAI LAMA NANG NE SA
Trí tuệ vô ngại minh giác là dấu hiệu bên trong của Bậc Thầy
NGO CHA CHUE KHI LA MAY RANG SAN MANG
Và khát khao tìm được bổn lai diện mục của bậc Thầy Pháp Thân
KU SUNG THUC THIC LA MAY TRA SI SO
Cầu Nguyện Thân Khẩu ý minh điểm của bậc Thầy Kết Tường
(Tung hoa gạo_lắc chuông trống)
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...18559918_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
CÁC CẤP BẬC TRONG KIM CANG THỪA
1. CƯ SĨ tức là những người tại gia ,họ trì 5 giới có nhiệm vụ phụng sự TAM BẢO
2. SA DI(36 GIỚI) là tiểu LAMA khoảng 7 đến 8 tuổi
3.TỲ KHEO (250 GIỚI)
4.GESHE (TIẾN SĨ PẬT HỌC) muốn đạt đến học vị này TĂNG SĨ phải nắm vững 5 lĩnh vực căn bản trong 3 phạm trù (kinh , luật, luận)
(a) KINH. TĂNG SĨ phải thông thạo hệ thống bát nhã nhất là kinh kim cương
(b)LUẬT . TĂNG SĨ phải hiểu luật tạng (riêng với ATY DATMA VỀ TRUNG QUÁN VÀ NHÂN MINH đó là những bộ luật quan trọng cần thiết và thông thạo
(c) LUẬN mất khoảng 12 năm tu học và hành trì vấn đáp sát hạch và những khó khăn
5.GYUPA (TỨC QUÁN ĐẢNH) Trong PHẬT GIÁO TÂY TẠNG cấp bậc này dc xem trọng nhất ,bởi cấp này tu sĩ dc đào tạo trong các PHÁP mật tông ,trao dồi thuần thành lý thuyết cả thực hành sự chứng ngộ ..khi 1 LAMA đạt đến trạng thái siêu việt này (LATMA có thể truyền quán đảnh qua con đường ấn chứng tại tâm ,không nhất thiết phải lệ thuộc vào sách vở và kinh điển
6. Là các vị ĐẠI SƯ ,SƯ TRƯỞNG (RINGPOCHE) đứng đầu những tu viện ,bao quán tất cả các mặt đời sống và tinh thần cả tăng chúng toàn viện.
Tăng chúng muốn thọ giới quán đảnh đuề phải có sự cho phép và ấn khả.....
OM AH HUM VAJRA GURU PADME SHIDHI HUM
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Lạy Thế Nào Thì Đúng?
🙏🙏🙏
Có rất nhiều đạo hữu dù đi chùa đã lâu nhưng vẫn bối rối trong cách quỳ lạy. Vậy quỳ lạy sao cho đúng? Lạy "Ngũ thể đầu địa" giữa truyền thống Tiểu Thừa (Nam Tông), Đại Thừa (Bắc Tông) và Đại Thừa- Kim Cương Thừa (Kim Cương Thừa bắt nguồn từ Đại Thừa) có gì khác?
🌸Tại sao lại lạy 3 lần? Lạy 3 lần chính là lạy Tam Bảo (3 ngôi quý báu): Phật, Pháp, Tăng.
🌸Lạy "Ngũ Thể Đầu Địa" hay còn gọi là Năm Vóc Sát Đất ( gối trái, gối phải, tay trái, tay phải, và đầu, đều gieo sát đất). Cách lạy này đều sử dụng trong Tam Thừa, dùng để chí tâm đảnh lễ Phật, tôn tượng Phật; Bồ Tát; Bổn Tôn; và Sư Trưởng...
Lễ lạy như vậy ngoài bày tỏ lòng thành kính tới bề trên, thì còn thể hiện sự xả bỏ ngũ độc, trừ khử ngã mạn, và giúp cho thanh tịnh ác nghiệp.
🌸Trong Tam Thừa thì Kim Cang Thừa lại chia ra làm 2 cách lạy: Ngũ Thể Đầu Địa (lạy ngắn), Ngũ Thể Nhập Địa (lạy dài).
Dưới đây là hình ảnh Phakchok Rinpoche đang sử dụng Ngũ Thể Đầu Địa để dạy Phật tử lễ lạy tranh Phật (Thangka). Hai tay chắp lại bắt đầu từ ngực thể hiện lòng thành kính từ sâu thẳm trong trái tim, tiếp đó tay hướng lên đỉnh đầu thể hiện cho Thân, xuống tới miệng là thể hiện cho Khẩu, xuống tới ngực là thể hiện cho Ý. Thanh tịnh Thân- Khẩu- Ý, rồi cúi xuống lạy, 2 bàn tay úp xuống, thể hiện cho sự nhất tâm thành kính và thanh tịnh ngũ độc ( tham, sân, si, ngả mạn, và bám chấp). Sau khi lạy 3 lạy, thì đứng lên và xá. Hoàn thành.
Trong Kim Cang Thừa khi lạy thì 2 bàn tay luôn úp xuống. Còn trong Đại Thừa (Bắc Tông) có một số nơi úp tay xuống và một số nơi khác lại ngửa tay lên, gây nên tranh cãi sai đúng. Thực ra không có sai hay đúng ở đây. Phật giáo Đại Thừa ở Việt Nam ảnh hưởng lớn từ Phật Giáo Trung Quốc. Theo giải thích của Phật Giáo Đại Thừa- Trung Quốc, cách lạy ngửa tay mang ý nghĩa cung kính nâng bàn chân Phật và đón nhận phước báu.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
TRẢI NGHIỆM TÂY TẠNG PHIÊN BẢN MỚI KHỞI HÀNH 06/11; 22/11; 06/12 VÀ 22/12 TRỌN GÓI 27,9 triệu.
- ĐƯỜNG BAY THẲNG TỪ TP HCM Khởi hành 22/11 trọn gói 32,9 triệu
- Trải nghiệm đường tàu đẹp nhất thế giới trên cao nguyên Thanh Tạng
- Ngắm nhìn sông băng núi tuyết, thảo nguyên vô tận với những đàn Yak
- Khám phá Polata cung kỳ quan của thế giới hiện đại
- Chiêm bái chùa Đại Chiêu linh thiêng nhất Tây Tạng
- Tận hưởng không gian hùng vĩ nơi thánh hồ Dương Trác Ung Thác
- Thăm tu viện Tashilhunpo, một trong 4 đại tu viện lớn nhất Tây Tạng
- Cơ hội chụp ảnh cùng Yak và Ngao Tạng thật dễ dàng
- Hướng dẫn viên Lantours am hiểu về Tây Tạng và Mật giáo Tây Tạng đi cùng Quý vị suốt hành trình
Hỗ trợ trực tuyến
093.170.8818
093.171.8828
Xem nội dung đầy đủ tại: http://lantours.vn/lob30-trai-nghiem...-phien-ban-moi
Nguồn: lantours.vn
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Khi Guru Rinpoche rời Tây Tạng đến cõi giới của loài La Sát trên tiểu lục địa Chamara và sau khi Vua Pháp Trisong Deutsen qua đời, Mune Tsenpo, trưởng nam của đức vua, đã kế vị ngôi vua. Nhưng đức vua chỉ trị vì trong ba năm sáu tháng bởi Ngài bị sát hại - bị đầu đọc - bởi Bà Tsepang Margyen, một trong những vị hoàng hậu của vua Trisong Deutsen và cũng là mẹ ruột của Mune Tsenpo! Một cách diệu kỳ, Đức Vimalamitra đã trở về Samye từ Ngũ Đài Sơn ở Trung Quốc để chủ trì tang lễ và Nyak Jnanakumara đã bắt lấy cơ hội này để đỉnh lễ Tôn giả. Trong y áo, Nyak Jnanakumara mang theo ba phần vàng và Ngài đã cúng dường tất cả lên Tôn giả Vimalamitra.
"Ồ, dịch giả", Đức Vimalamitra nói, "Con vẫn hạnh phúc chứ?"
"Có quá nhiều chướng ngại với thực hành Pháp," Nyak Jnanakumara đáp, "Quá nhiều người đang gây ra các vấn đề. Vì thế, con không hạnh phúc".
Đó là một tin rất xấu.
Đức Vimalamitra nói, "Bất cứ ai làm hại một vị Lotsawa [dịch giả] cũng tức là đang làm tổn hại đến giáo lý nói chung." Sau đấy, Tôn giả trao cho Nyak Jnanakumara pho giáo lý Nyak Luk Phurba, ban các quán đỉnh và giải thích Mật điển cùng chỉ dẫn cốt tủy. Những giáo lý này sau đó được chôn giấu như một Terma [bảo tạng] và được phát lộ bởi chư vị Không Hành Nữ trí tuệ, những vị đã thị hiện trước Dilgo Khyentse Rinpoche và trao những cuộn kinh vàng chứa đựng các giáo lý này. Với sự giúp đỡ của Tổ Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, Dilgo Khyentse Rinpoche đã giải mã bản kinh và viết lại kho tàng giáo lý này. Chúng giờ đây được biết đến là Phổ Ba Kim Cương của [Dịch Giả] Nyak Jnanakumara.
~ ORGYEN TOBGYAL RINPCOHE
Photo: Shechen Rabjam Rinpoche trao truyền quán đỉnh Phổ Ba Kim Cương theo truyền thừa Nyak Jnanakumara tại Tu viện Shechen, tháng 4 năm 2017.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...09947989_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
" Khi GURU RINPOCHE bị huyền thuật ngoại đạo đe dọa, Ngài mở tráp của Dakini Sư Tử Diện trao cho ngài và ngài tìm thấy thần chú “14 chữ”
[ AH KA SA MA RA TSA SHA TA RA SA MA RA YA PHAT ] "
Khi ta chợt nhận ra chướng ngại đang trùng trùng đổ xuống bên ngoài bên trong và bí mật , ta sẽ mãnh liệt trì tụng
[ AH- KA -SA -MA -RA -TSA -SHA -TA -RA -SA -MA -RA -YA -PHAT ]
-
Mandala tịnh thất
19 Tháng 9 ·
KIM CANG GIỚI (VAIJAYANA SAMAYA)
I. Mật giới căn bản tội:
1/ Phỉ báng khinh, chê, coi thường Kim Cang Đạo Sư của mình.
2/ Chứng tỏ mình coi thường giới luật.
3/ Chỉ trích, nói xấu Kim Cang Hữu.
4/Bỏ tâm từ với mọi chúng sinh.
5/Từ bỏ Hạnh, Nguyện Bồ Đề.
6/Kinh chê giáo pháp Kinh Thừa, Mật thừa.
7/Chỉ bày các bí mật đàn ấn chú cho người không xứng đáng.
8/Tự hành hạ thân thể.
9/Từ bỏ tánh Không.
10/Nương tựa nơi Ác tri thức.
11/Không quán niệm về tánh không.
12/Huỷ niềm tin Tam Bảo của kẻ khác.
13/Không giữ gìn kính trọng vật Tam Muội Da nếu có thể( chuông, chày, chuỗi).
14/Coi khinh người nữ.
II. Mật giới phụ:
1/Gắng bỏ ác nghiệp, nhất là giết, trộm, tà dâm, dối gạt, rượu.
2/Chân thành nương tựa nơi Đạo Sư – Coi đạo sư là Phật, kính trọng các Kim Cang Hữu, tu Guru Yoga hàng ngày, giữ 10 giới. (Không được : nói dối, nói lưỡi đôi chiều,nói thêu dệt, nói thô ác, ăn cắp, tà dâm, uống rượu, tham, sân, si.)
3/Phải nương nơi Bồ Đề Tâm, tránh khinh chê Chư Thiên, giẫm đạp lên vật thiêng liêng.
III. Đại giới – Vi phạm Nặng
1/ Chửi mắng Kim Cang Đạo Sư và bỏ ngang lệnh Ngài.
2/ Cãi cọ đánh lộn với Kim Cang Hữu.
3/Ở 7 ngày trong nhà người chống đối Kim Cang Thừa.
4/Giả vờ là một hành giả chứng ngộ.
5/Tiết lộ Thánh Pháp cho người không tin-phỉ báng.
6/Lập Đàn Tác Pháp khi chưa hoàn mãn nhập thất độc cư.
7/Vi phạm các giới khi không cần thiết.
8/Làm ngược lại cuốn “Năm mươi câu kệ về Đạo Sư”.
IV. Giới nguyện của 5 bộ:
Phật bộ: Hành hạnh bồ tát, Đoạn ác, tu Thiện, làm lợi ích chúng hữu tình.
Kim cang bộ: Không xa lìa Đạo sư, Chày Chuông, Ấn.
Bảo bộ: Bồ thí -tài vật, pháp, vô uý, tình thương.
Liên hoa bộ: Học hỏi hết các Pháp của tam thừa.
Nghiệp bộ: Giữ mọi giới và hành pháp cúng dàng thích hợp.
***
Tất cả các bộ giới ở đây là các Giới Nguyện ( samaya ) mà người tu Mật Thừa phải nhận. Đó là lời thệ nguyện không vi phạm các giới luật của Mật chú thừa. Có giới mới sinh định, có định mới sinh tuệ. Bởi vậy một hành giả Mật thừa mà không gìn giữ những samaya này như tròng con mắt thì sẽ không thể thành tựu chút gì. Khi vi phạm, hành giả phải có tâm biết hổ thẹn và tâm sám hối.
Riêng Vi Phạm Đại Giới sẽ bị đoạ vào địa ngục Kim Cang, giới thứ 1 không thể sám hối.
Giới còn lại phải phát tâm sám hối và tu trì tịnh hoá Kim Cang Tát Đoả 100.000 lần.
Cái lợi của việc giữ đúng Samaya là làm cho hành giả củng cố thân tâm, đem lại sức đại định và tín tâm vô hạn. Một số hành giả có thể đạt giác ngộ khi giữ trọn giới trong một đời, kế tiếp là bảy đời hay mười sáu đời sau…
(Trích từ website hoibongsen.com)
-
-
-
-
-
Mối Quan Hệ Đạo Sư và Đệ Tử - Khai Thị của Đức KARMAPA 17
Bài được dịch bởi Chú Tiểu Nhỏ, được cô Hiếu Thiện hiệu đính Đọc bản tiếng Anh
Khi đức Milarepa theo ngài Marpa tu tập thì trong lúc đầu, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa cái gì cả ngoại trừ sự khó khăn. Trong suốt một thời gian dài, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa một lễ quán đảnh hay giáo huấn nào nhưng lòng sùng mộ của đức Milarepa đối với vị đạo sư của mình tuyệt nhiên không chút nào bị suy suyển mặc dù nhiều lần, đức Milarepa đã có phần bị thối chí.
Chúng ta, những người đệ tử đang theo dấu chân những bậc tiền bối vinh quang vô địch của dòng truyền thừa Kagyu, có mặt ngày hôm nay để tu tập. Từ góc độ đó, tôi nghĩ rằng sẽ là điều tốt lành nếu trong khóa lễ này, tôi nói vắn tắt về mối quan hệ đạo sư – đệ tử trong bối cảnh của phần đầu của đại lễ Kagyu Monlam.
Nơi tổ chức đại lễ Kagyu Monlam lần thứ 26 này có những đặc điểm mới, như cách bố trí các cổng chính chẳng hạn, và vân vân. Và tôi nghĩ sẽ là điều tốt để chỉ ra một cách vắn tắt ý nghĩa tượng trưng của bánh torma [theo cách trang trí mới mẻ này]. Các bánh torma chính dùng để trang trí [trong đại lễ lần này] như sau: ở bên phải là các bánh mà trên đó có hình ảnh của các ngài Marpa, Milarepa và Gampopa, và ở bên trái là những chiếc bánh trên đó có hình ảnh của các bậc tiền bối của phái Cựu dịch tức dòng Nyingma, cũng như dòng Sakya vinh quang, và dòng Geluk.
Nguyên tắc chính yếu mà các bánh torma này minh họa là: khi chúng ta nghiên cứu giáo lý Phật giáo Tây Tạng thì chúng ta sẽ thấy rằng, về cơ bản, chẳng có dòng truyền thừa nào lại chẳng hòa trộn với các dòng truyền thừa khác. Khi ba Pháp vương Songsten Gampo, Trisong Deutsen, và Tri Ralpachen lần đầu tiên thiết lập nền móng Phật giáo tại Tây Tạng, dòng truyền thừa nổi trội lúc ấy được biết đến dưới cái tên ‘Dòng phái Mật tông Nyingma’. Do đó, Nyingma là dòng phái Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Sau đó, dưới thời vua Langdarma, giáo Pháp đã bị quét sạch khỏi Tây Tạng, rồi sau đó một thời gian giáo Pháp lại tiếp tục được truyền bá. Đó là sự khác biệt giữa các phái Cựu dịch và Tân dịch.
Sau đó, dòng truyền khẩu truyền của các bậc thầy Kadampa được trao truyền từ ngài Atisha tôn quý, và từ đó các dòng truyền thừa Sakya, Kagyu, và Geluk lần lượt xuất hiện. Các giai đoạn tu tập, cùng với những điểm khởi đầu căn bản của tất cả các dòng truyền thừa này đều giống như nhau. Các dòng truyền thừa riêng biệt khác nhau xuất hiện là do những dòng truyền riêng biệt từ các bậc đạo sư khác nhau và cách dạy của các ngài có khác nhau; tuy nhiên, về cơ bản, chẳng có một dòng truyền thừa nào mà lại không hòa trộn các dòng truyền thừa khác. Tóm lại, tất cả các dòng truyền thừa Tây Tạng được truyền xuống trong mối quan hệ hòa trộn với nhau; tất cả đều có một điểm chung đó là: những kết nối về Pháp và những kết nối về mật nguyện (samaya).
Thỉnh thoảng có một vài sự cố nho nhỏ xảy ra giữa các dòng truyền thừa, bởi vì mỗi dòng truyền thừa khác nhau có cách hành xử khác nhau và điểm nhấn khác nhau. Đôi lúc, một số người do không hiểu cách tu tập cảm thấy thất vọng trước sự khác biệt đó và, cũng bởi lý do đó, vài sự cố nho nhỏ đã xảy ra. Tuy nhiên, như ngài Marpa đã nói, khi ngài bắt đức Milarepa trải qua muôn vàn gian khó không thể tưởng tượng nổi; và mặc dù một người phàm phu có thể thoạt nghĩ lúc đầu rằng ngài tuyệt nhiên chẳng có chút lòng bi mẫn nào đối với đức Milarepa, thì thực ra ngài Marpa làm như vậy là để đức Milarepa tịnh hóa ác nghiệp và chướng ngại của mình. Rõ ràng là ngài Marpa không hành động như vậy vì sở thích riêng tư của mình hay hành động mà chẳng hề có mục đích hoặc lý do nào cả.
Như vậy, nếu chúng ta xem những câu chuyện ấy như những tấm gương thì trong suốt chiều dài lịch sử các dòng truyền thừa Tây Tạng tồn tại cho đến ngày nay - chẳng có dòng truyền thừa nào là ngoại lệ - thì luôn có những đạo sư thể hiện những hành động, những mẫu hành xử, những tấm gương cuộc đời rất khác biệt. Kẻ phàm phu không hiểu biết gì về giáo Pháp có thể nhìn vào các hành động đó rồi sinh ác cảm, mất niềm tin và phạm tà kiến. Nhưng chẳng có điều gì cho phép chúng ta nói rằng các hành động đó, các mẫu hành xử đó, về bản chất, là không nhất quán hay trái với giáo Pháp.
Do đó, sự hiện diện của các hình ảnh của các bổn sư hay đạo sư của tất cả các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng ở đây, trong ngày hôm nay, có một ý nghĩa là tất cả các dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng chẳng là gì khác hơn là giáo Pháp của đức Phật: Tất cả các dòng truyền thừa đều giống nhau. Một ví dụ là mười tám tông phái trong thời kỳ đầu của Phật giáo. Như được khẳng định trong câu chuyện kể về linh ảnh trong giấc mộng của vua Krikin: tất cả mười tám tông phái này đều giống nhau ở chỗ tất cả đều là giáo Pháp của đức Phật. Tương tự như vậy, điều rất quan trọng là mỗi chúng ta phải biết quán xét và suy ngẫm về ý nghĩa này. Tôi nghĩ rằng chỉ khi nào việc này được thực hiện thì chúng ta mới có thể trì giữ mật nguyện đối với các vị đạo sư gốc và đạo sư của dòng truyền thừa mà không hề xảy ra sự xung đột hay phạm giới. Vấn đề quan trọng là tất cả chúng ta phải trải rộng tâm thức theo hướng này.
Một điểm quan trọng khác là nếu chỉ nghĩ về ‘mối quan hệ đạo sư – đệ tử’ trong phạm vi các đạo sư mà chúng ta đã trực tiếp gặp gỡ hay có quan hệ mà không màng đến các đạo sư khác thì vẫn chưa đủ. Có nhiều loại đạo sư, như bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa chẳng hạn. Do đó, khi nói đến ‘đạo sư’ thì chúng ta phải mở rộng tầm nhìn đối với điều mà chúng ta hàm ý muốn nói. Chúng ta không thể chỉ xem những đạo sư mà chúng ta đã từng gặp gỡ hoặc nhìn thấy tận mắt trong kiếp sống này là những bậc thầy thực thụ và làm như mình chẳng hề quen biết bất kỳ vị thầy nào khác. Khi chúng ta đọc một bài khấn nguyện thiền định, dù rằng đó chỉ là một bài ngắn, chúng ta luôn bắt đầu với việc khẩn cầu từng vị đạo sư của dòng truyền thừa, từ đức Phật Kim Cang Trì xuống bổn sư của chúng ta. Điều rất quan trọng là phải quán chiếu để hiểu tại sao cần thiết phải trân quý các vị lạt ma của dòng truyền thừa và niệm danh hiệu của các ngài.
Trong các dòng truyền thừa của chúng ta có rất nhiều chân sư vĩ đại thuộc mọi bộ phái và chúng ta quán tưởng các ngài như một ruộng công đức hiện hữu trong hình ảnh một hàng bảo châu ở chót đỉnh của dòng truyền thừa của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không nghĩ tưởng tới các ngài vào những lúc khác [ngoài thời khóa] trong khi lại vẫn luôn nói lời thệ nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh và thực hành giáo Pháp, thì việc chúng ta quán tưởng cây quy y là vô nghĩa, vô ích. Cũng như vậy, khi chúng ta quán tưởng những hình ảnh sống động của các đạo sư dòng truyền thừa nơi cây quy y, khi chúng ta hành động để làm lợi lạc cho chúng sinh và giáo Pháp, chúng ta phải nhớ nghĩ tới lòng tốt của các đạo sư dòng truyền thừa và noi theo gương của các ngài. Nếu chúng ta cho rằng chỉ cần tuân thủ huấn lệnh và tri kiến của vị thầy chính trong tu viện [của chúng ta] mà thôi thì có lẽ chúng ta chẳng thực sự suy ngẫm gì về chính giáo Pháp. Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cơm ăn, áo mặc cho bản thân chúng ta mà thôi.
Vị sư trưởng trong tu viện của chúng ta là người có lòng tốt giúp đỡ chúng ta về cơm ăn, áo mặc. Nhưng nếu chúng ta chỉ lo tập trung đứng về phía vị đó và ủng hộ tất cả những gì vị đó làm hoặc nói thì chúng ta sẽ không thể suy nghĩ rộng, thoáng và hòa hợp với các nguyên lý, chủ đề chung của giáo Pháp trên phương diện tổng thể được. Cuối cùng thì sẽ như thể Phật pháp nguyên khối nguyên hình vững chắc, sống động bị vỡ ra thành nhiều mảng nhỏ và chúng ta chẳng thể chỉ vào một mảng nào đó để nói rằng: ‘Đây chính là giáo Pháp của đức Phật’. Chúng ta sẽ tìm thấy khiếm khuyết ở mọi nơi và sẽ chỉ phạm phải tà kiến. Vì lý do đó, khi chúng ta biết nói đến các cụm từ ‘các lạt ma gốc và các lạt ma dòng truyền thừa’, thì điều rất quan trọng là cần phải biết các chữ đó có ý nghĩa gì.
Chúng ta phải có lòng sùng tín, mối quan tâm khao khát và niềm tin đối với các bổn sư và các đạo sư của dòng truyền thừa, tự xác định mình là đệ tử của mỗi một đạo sư [trong số các đạo sư đó]. Với lòng sùng tín có cơ sở vững chắc và được ý thức một cách sâu sắc như vậy thì bất kỳ hoạt động tu tập và tu học nào mà chúng ta tham gia cũng sẽ hài hòa với giáo Pháp; và chúng ta sẽ hội đủ các tiêu chuẩn của một đệ tử đích thực của các đạo sư. Còn nếu không có được lòng sùng tín mạnh mẽ như vậy thì mọi thứ sẽ trở nên rất khó khăn đối với chúng ta. Đó là lý do tại sao hình ảnh đạo sư các dòng truyền thừa lại được thể hiện trên các bánh torma mà chúng ta đang có ở đây. Hình ảnh của các ngài không chỉ ở đây vì mục đích trang trí hay trưng bày cho người khác được thấy; những chiếc bánh torma này được làm ra để giúp chúng ta nhớ đến lòng tốt của các vị bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa đích thực của mình. Khi chúng ta nhìn thấy các bánh torma, chúng ta phải nhớ đến lòng tốt của các ngài và quán chiếu rằng nếu không có các ngài thì sẽ khó khăn cho chúng ta biết bao để bước qua được cánh cửa Phật pháp trân quý và để có cơ hội làm lợi lạc cho chúng sinh với tâm không phân biệt. Thật rất quan trọng để chúng ta suy ngẫm về điều này.
Chúng ta cần phải nghiên cứu về tiểu sử của các ngài Marpa và Milarepa mà tôi vừa tuyên đọc nhưng nếu chỉ đọc sách không mà thôi thì vẫn chưa đủ: chúng ta phải suy ngẫm, quán chiếu ý nghĩa và dấn thân vào việc thực hành tu tập theo gương các đạo sư này, và tìm phương cách để ứng dụng ngay giáo Pháp vào cuộc sống của chúng ta. Nếu không thì việc đọc tiểu sử của ngài Milarepa ở đây chẳng có mục đích gì cả. Thay vào đó thì nghiên cứu sách triết học hoặc tu học thêm về giáo pháp luyện tâm có thể còn hay hơn.
Lý do khiến tôi cảm thấy nhất thiết phải tuyên đọc tiểu sử của đức Milarepa là để chúng ta có thể cảm nhận được cách tu tập mà một con người có thật đã thực sự hành trì [như thế nào] trong chính cuộc đời mình. Chúng ta có thể cảm thấy rằng mình tạo được một mối giao tiếp thân tình với một con người, như thể chúng ta có thể cầm lấy bàn tay của người ấy vậy. Dĩ nhiên là còn có nhiều câu chuyện cuộc đời của các vị đạo sư phi thường, như chư Phật và chư Bồ tát. Nhưng kẻ phàm phu không thể đặt tâm chăm chú vào các câu chuyện cuộc đời này, huống chi là nương theo để tu tập. Tuy nhiên, với ngài Milarepa, chúng ta có câu chuyện về một người hoàn toàn bình thường, lúc đầu phạm nhiều ác hạnh nhưng cuối cùng đã thực sự viên thành đạo quả với sự toàn tâm kiên định. Tôi nghĩ rằng chính câu chuyện có thật như vậy về một đạo sư chân thực sẽ là cái đọng lại trong tâm chúng ta và thấu tới trái tim của mỗi chúng ta.
http://3.bp.blogspot.com/-1_k1kXH40t...K+Feb+2010.jpg
http://minhtamkientanh.blogspot.com/...i-thi-cua.html
-
Hướng dẫn thực hành Thiền trong Phật giáo do Khenpo Tsultrim Tenzin phụ trách
Lúc 17h30 ngày 31/08/2017 tại chùa Như Thị Thất, 29 Bình Long, Bình Hưng Hòa A, Bình Tân, TP HCM
BTC kính thông báo quý Phật tử đến tham dự
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...b4&oe=5AA14DD6
-
-
Dharamsala - miền đất của đức tin
Thanh Niên 03/07/2015 07:00 GMT+7Gốc
Được xem là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại, nơi khởi nguồn cho kỷ nguyên Phật giáo từ bi và trí tuệ, Ấn Độ luôn ẩn chứa một sức quyến rũ lạ kỳ đối với du khách, nhất là các tín đồ hành hương trên khắp thế giới.
Các nhà sư Tây Tạng ở Dharamsala (Ấn Độ) - Ảnh: Shutterstock
Dharamsala có rất nhiều tu viện, đền đài mang đậm dấu ấn văn hóa, kiến trúc và đời sống của người Tây Tạng. Đây cũng là nơi Đức Dalai Lama 14 đang tạm cư và hướng dẫn tu học. Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Dalai Lama là vị thần bảo hộ có năng lực nhất của Tây Tạng. Vị Dalai Lama hiện nay - Tenzin Gyatso là vị thứ 14, được xem như là sự tái sanh tiếp theo của Đức thánh sư. Với tuyên ngôn bất hủ “Tôn giáo của tôi chính là lòng từ bi”, như những cánh chim chao lượn giữa bầu trời bao la không quản ngại nhọc nhằn, Đức Dalai Lama cùng các đệ tử của ngài đã đến hơn 40 quốc gia để truyền bá tinh thần Phật pháp trí tuệ và sự thật bằng tất cả niềm tin về một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Chính vì vậy, ngài đã được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989.
Tiếp nối những buổi thuyết pháp thành công, năm nay nhân dịp sinh nhật thứ 80 của Đức Dalai Lama, chương trình “Đảnh lễ Đức Dalai Lama” dự kiến sẽ diễn ra từ 7 - 10.9 dương lịch tại Dharamsala. Một lần nữa, đây là cơ hội quý giá dành cho các phật tử VN cũng như cộng đồng phật tử trên thế giới được tiếp xúc và lắng nghe những pháp thoại đầy ý nghĩa của Đức Dalai Lama.
Trong dịp này, với mong muốn được đồng hành cùng du khách trong chuyến đi đảnh lễ, đặc biệt là các phật tử có ý nguyện từ tâm, TST Tourist đã thiết kế chương trình hành hương vô cùng đặc sắc “Pháp hội của Đức Dalai Lama 14”. Theo đó, du khách sẽ có 4 ngày trọn vẹn tham dự buổi thuyết giảng đặc biệt của ngài với nội dung “Dẫn nhập Bồ tát đạo” của Shantideva (Bồ tát Tịch Thiên). Bên cạnh việc lắng nghe thuyết giảng được phiên dịch rõ ràng và kỹ lưỡng từ sư cô Nhất Hạnh, du khách còn có cơ hội ngắm nhìn tổng thể bức tranh thanh bình, trong xanh của vùng đất thiêng ẩn mình dưới những cánh rừng thông tuyết tùng cao vút. Từ Viện Bảo tồn nghệ thuật Tây Tạng Norbulingka cho đến các tu viện Mật pháp Gyuto, Namgyal, chùa Tsulakhang... du khách sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng các bức vẽ có hồn, sống động đến chân thực của các vị Phật, bồ tát và hộ pháp trong truyền thống Kim cương thừa. Qua đó hiểu thêm về nghệ thuật tranh thangka - vẽ trong trạng thái thiền định. Đây cũng là dịp để du khách chiêm bái nơi tạm trú giản dị, thanh tao của Đức Dalai Lama 14 và Đức đại bảo pháp vương Karmapa Chenno thứ 17 cùng nhiều vị hóa thân khác... Tour Ấn Độ: Pháp hội của Đức Dalai Lama 14 (10 ngày), KH 3, 4.9, giá 43,88 triệu đồng.
Mùa hè 2015, khi mua tour tại TST Tourist du khách có cơ hội hưởng nhiều ưu đãi: Giảm giá trực tiếp từ 5 - 10%; Mua tour trả góp lãi suất 0%... Đặc biệt, khi mua tour vào khung giờ 10 - 11 giờ thứ bảy hằng tuần, du khách có cơ hội nhận giải thưởng là chuyến đi Thái Lan, Đà Nẵng với giá “0 đồng”; đến Nhật Bản, Singapore với mức giảm giá 50% và những giải thưởng giá trị khác để tăng thêm niềm vui.
Tour tham khảo: Đông Nam Á: Bangkok - Pattaya (5 ngày), KH 15, 16, 29.7; 12, 19, 25.8, giá 7,78 triệu đồng; Bangkok - Pattaya - Kanchanaburi (6 ngày), KH 21.7; 25.8, giá 8,98 triệu đồng; Singapore - Malaysia (6 ngày), KH 14, 21.7; 4, 11, 28.8, giá từ 12,98 triệu đồng; Bali (4 ngày), KH 23.7, giá 17,98 triệu đồng. Đông Bắc Á: Hồng Kông - Disneyland - Bảo tàng sáp (4 ngày), KH 6, 27.8, giá từ 15,98 triệu đồng; Osaka - Universal Studios - Kobe - Kyoto - Nagoya - núi Phú Sĩ - Tokyo (6 ngày), KH 20.8, giá 38,88 triệu đồng. Châu Âu: Đức - Hà Lan - Bỉ - Luxembourg - Pháp (10 ngày), KH 14, 28.8, giá từ 58,98 triệu đồng; Pháp - Thụy Sĩ - Ý (11 ngày), KH 25.8; 26.9, giá từ 75,98 triệu đồng; Pháp - Bỉ - Hà Lan (8 ngày), KH 18.8, giá từ 49,98 triệu đồng. Úc và New Zealand: Melbourne - Canberra - Sydney (7 ngày), KH 24.7; 29.8, giá 54,98 triệu đồng; Auckland - Tepuke - Rotorua - Waitomo (7 ngày), KH 21.8, giá 54,98 triệu đồng; Sri Lanka - Maldives (7 ngày), KH 30.7; 21.8, giá 39,98 triệu đồng...
Liên hệ: TST Tourist - 10 Tú Xương, P.7, Q.3, TP.HCM, ĐT: (08) 39328328. Hotline: 0909 026116/118. Fax: (08) 39321321. Chi nhánh Tây Đô: 17 Cách Mạng Tháng Tám, P.Thới Bình, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ, ĐT: (0710) 3769681, fax: (0710) 3769682, website: www.tsttourist.com
Hoa Mai
https://baomoi.com/dharamsala-mien-d...c/16969434.epi
-
PHIM TÀI LIỆU: ĐỨC KARMAPA CỬ HÀNH NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN -- HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony New Hampshire USA
PHIM TÀI LIỆU: ĐỨC KARMAPA CỬ HÀNH NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony New Hampshire USA
Những thước phim vô cùng quý giá quay lại toàn bộ buổi lễ Vương Miện Đen do Đức Karmapa XVI cử hành tại New Hampshire, Hoa Kỳ. (Ngài cũng đi hoá duyên độ rất nhiều đệ tử tại các địa phương trong nhiều tiểu bang khác tại Hoa Kỳ trong chuyến thăm nước này lần thứ 2 không phải vài tuần mà nhiều tháng từ năm 1980 bước qua năm 1981. Đặc biệt Đức Karmapa 16 tái sanh và viên tịch nhiều lần tại Tây Tạng, nhưng lần này Ngài chọn sự hoàn trả vây mượn thân tứ đại và viện tịch tại nước Hoa Kỳ, đó là một đại sự thắng duyên phúc báu cho đất nước này).
Đức Karmapa XVI Rangjung Rigpe Dorje là một trong những đạo sư thành tựu giả vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi viếng thăm các nước châu Âu và Mỹ, Ngài đã để lại vô số câu chuyện mầu nhiệm về năng lực thần thông cũng như trí tuệ, chuyển hóa mạnh mẽ tâm thức của những người may mắn được gặp Ngài.
Thời xưa ở Tây Tạng để thỉnh cầu các vị Karmapa thực hiện nghi lễ Black Crown thì người ta phải cúng dường rất nhiều vàng.
Kể từ sau khi Đức Karmapa XVI qua đời năm 1981 đến nay thì nghi lễ này chưa bao giờ được thực hiện,và chưa biết đến bao giờ mới có thể được thực hiện lại vì chiếc vương miện đen đã bị mất tích.
NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
Trong một kiếp quá khứ lâu xa, có một hành giả ẩn dật đã tu tập thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ 8. Các Dakini đã dâng cúng lên ngài chiếc vương miện đen được bện bằng tóc của chính họ. Đức Karmapa thứ nhất chính là hóa thân của vị Bồ tát này.
Vương miện này, một cách biểu trưng, luôn luôn hiện diện trên đầu của mọi hóa thân Karmapa biểu thị sự chứng ngộ bản tánh thực tại của các ngài.
Tuy nhiên,chiếc vương miện này hoàn toàn vô hình đối với đa số những chúng sinh bình phàm.
Vào thời Đức Karmapa đời thứ 5,trong một lần hoằng pháp tại Trung Quốc, hoàng đế Trung Quốc - Minh Thành Tổ,là người đã tích lũy được đủ công đức nên ông đã nhìn thấy chiếc vương miện đen lơ lửng trên đỉnh đầu của Đức Karmapa.
Sau khi nghe đức Karmapa kể về nguồn gốc của chiếc vương miện,hoàng đế đã sai người chế tác ra một chiếc vương miện được chạm trổ bằng đá quí, mô phỏng lại hình dáng chiếc vương miện mà ông đã nhìn thấy, để tất cả mọi chúng sinh đều có thể nhận được sự gia trì của đức Karmapa, Ông đã cúng dường chiếc vương miện này lên đức Karmapa thứ 5. Sự kiện này là khởi nguồn của nghi lễ Vương Miện Đen cho đến sau này.
Để chuẩn bị cho buổi lễ, Đức Karmapa thâm nhập vào cảnh giới thiền định sâu xa để hiện thân thành Đức Quán Thế Âm, Vị Phật Từ Bi.
Một mạn đà la cúng dường được dâng lên, theo sau bởi lời cầu nguyện Bảy Dòng. Điều này là để tích lũy nền tảng tốt đẹp cho buổi lễ diễn ra. Đức Karmapa sau đó đặt vương miện lên đầu của mình trong khi trì tụng thần chú "Om Mani Peme Hùng," trao truyền ân phước gia trì cho mỗi người tham dự trong buổi lễ tùy vào khả năng tiếp nhận của họ.
Người ta nói rằng ai đó chỉ đơn thuần nhìn thấy chiếc vương miện đen trong buổi lễ, thì người đó sẽ trở thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ nhất (Thánh quả Bồ tát đầu tiên) trong vòng 3 kiếp. Đây là một trong những lý do chính tại sao Vương Miện Đen rất quan trọng trong truyền thống Kagyu.
Good Video clips:
Ngay cả khi xem qua video cũng sẽ nhận được năng lực gia trì, tùy theo mức độ chí thành và tín tâm
Good Video clips:
Đức Karmapa XVI cử hành tại New Hampshire, USA
https://vimeo.com/78320697
Đức Karmapa 16 came to the USA in 1974 and 1980-1981 by CBS News
https://vimeo.com/106991896
Tibetan Buddhist Resource Center
https://www.facebook.com/TBRC.org/
More: CBSnews.com/Religion-and-culture
===================================
The Black Crown of the Karmapas
http://blog.hophap.com/2016/12/phim-...hanh-nghi.html
==========================
[video Crowning Ceremony of His Holiness Gyalwang Karmapa 16th on his Anniversary by today]
Clip quý giá quay lại toàn bộ buổi lễ Vương Miện Đen do Đức Karmapa 16 cử hành tại New Hampshire, Hoa Kỳ_nhân ngày hôm nay 07/11 là ngày Kỷ niệm Đức Gyalwang Karmapa thứ 16
(re-post từ trang của FBker Tuệ Phú)
----
Đức Karmapa 16, Rangjung Rigpe Dorje (sư Tổ, Pháp vương truyền thừa Karma Kagyu, học phái Kagyu) là một trong những đạo sư, thành tựu giả vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi viếng thăm các nước châu Âu và Mỹ, ngài đã để lại vô số câu chuyện màu nhiệm về năng lực thần thông cũng như trí tuệ, chuyển hóa mạnh mẽ tâm thức của những người may mắn được gặp Ngài.
Thời xưa ở Tây Tạng để thỉnh cầu các vị Karmapa thực hiện nghi lễ Black Crown thì người ta phải cúng dường rất nhiều vàng. Kể từ sau khi Đức Karmapa XVI qua đời năm 1981 đến nay thì nghi lễ này chưa bao giờ được thực hiện,và chưa biết đến bao giờ mới có thể được thực hiện lại vì chiếc vương miện đen đã bị mất tích.
NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
Trong một kiếp quá khứ lâu xa,có một hành giả ẩn dật đã tu tập thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ 8. Các Dakini đã dâng cúng lên ngài chiếc vương miện đen được bện bằng tóc của chính họ. Đức Karmapa thứ nhất chính là hóa thân của vị Bồ tát này. Vương miện này, một cách biểu trưng, luôn luôn hiện diện trên đầu của mọi hóa thân Karmapa biểu thị sự chứng ngộ bản tánh thực tại của các ngài. Tuy nhiên,chiếc vương miện này hoàn toàn vô hình đối với đa số những chúng sinh bình phàm.
Vào thời Đức Karmapa đời thứ 5,trong một lần hoằng pháp tại Trung Quốc,hoàng đế Trung Quốc - Minh Thành Tổ, là người đã tích lũy được đủ công đức nên ông đã nhìn thấy chiếc vương miện đen lơ lửng trên đỉnh đầu của Đức Karmapa. Sau khi nghe đức Karmapa kể về nguồn gốc của chiếc vương miện, hoàng đế đã sai người chế tác ra một chiếc vương miện được chạm trổ bằng đá quí, mô phỏng lại hình dáng chiếc vương miện mà ông đã nhìn thấy, để tất cả mọi chúng sinh đều có thể nhận được sự gia trì của đức Karmapa. Ông đã cúng dàng chiếc vương miện này lên đức Karmapa thứ 5. Sự kiện này là khởi nguồn của nghi lễ Vương Miện Đen.
Để chuẩn bị cho buổi lễ,Đức Karmapa thâm nhập vào cảnh giới thiền định sâu xa để hiện thân thành Đức Quán Thế Âm,Vị Phật Từ Bi. Một mạn đà la cúng dàng được dâng lên,theo sau bởi lời cầu nguyện bảy nhánh. Điều này là để tích lũy nền tảng tốt đẹp cho buổi lễ diễn ra.Đức Karmapa sau đó đặt vương miện lên đầu của mình trong khi trì tụng thần chú 'Om Mani Peme Hung, trao truyền ân phước gia trì cho mỗi người tham dự trong buổi lễ tùy vào khả năng tiếp nhận của họ.
Người ta nói rằng ai đó chỉ đơn thuần nhìn thấy chiếc vương miện đen trong buổi lễ, thì người đó sẽ trở thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ nhất (Thánh quả Bồ tát đầu tiên) trong vòng 3 kiếp. Đây là một trong những lý do chính tại sao Vương Miện Đen rất quan trọng trong truyền thống Kagyu.
Nguồn: FB Tuệ Phú
https://vimeo.com/78320697
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony ( New Hampshire USA )
-
N ĐỘ: Đức Karmapa thứ 17: “Các tu viện sẽ được trao giải thưởng bảo vệ môi trường”
Himachal Pradesh, Ấn Độ - Ngày 15-1-2015 tại học viện Norbu Lingka gần thị trấn Dharamshala, vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng Karmapa Ogyen Trinley Dorjee thứ 17 nói rằng: một giải thưởng về môi trường sẽ được tặng cho tăng viện hoặc ni viện đang thực hiện các dự án bảo vệ môi trường.
Ngài nói rằng các tu viện đang cho thấy có nhiều công việc sáng tạo, hoặc đã làm nhiều dự án môi trường phù hợp thì sẽ được trao giải thưởng này.
Ngài nói rằng đây là một cách để công nhận tất cả công việc vất vả mà các tu viện đã làm để bảo vệ môi trường.
Đức Karmapa 17 đến học viện Norbu Lingka nhân ngày lễ bế mạc hội nghị môi trường lần thứ 6. Sự kiện này do quỹ từ thiện Tây Tạng Kun Kyong tổ chức cho các tăng ni viện trong vùng Hi Mã Lạp Sơn.
Hội nghị môi trường thường niên bắt đầu vào năm 2009 với sự hướng dẫn của vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng Karmapa thứ 17 về bảo vệ môi trường.
(ANI – November 15, 2015)
http://www.chanhphap.us/TintucPGTG/2...s/image020.jpg
Đức Karmapa thứ 17
Photo: Google
http://www.chanhphap.us/TintucPGTG/2...oc%20dich).htm
-
-
[english n/a]
"Đừng nói về những giáo lý thâm sâu/bí mật mà bạn có thể đã thọ nhận: Vài người dường như thấy rằng sẽ là sành điệu nếu thốt ra vài từ như “Dzogchen” hay “Mahamudra” từ miệng họ. Nếu bạn đã thọ nhận những chỉ dẫn thâm sâu, sẽ thật tốt nếu bạn làm theo những chỉ dẫn này và giữ kín chúng.
Đừng cố gắng chia sẻ cái-được-gọi-là trí tuệ của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng thọ nhận giáo lý thâm sâu cho bạn giấy phép để tuyên bố chúng, bạn có lẽ sẽ chỉ hiển bày sự ngu dốt của bản thân. "
Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche
---
Nguồn: FB Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche | Việt dịch: Ngawang Jampa
Ảnh: Sư phụ Drubwang Sonam Jorphel Rinpoche
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...b2&oe=5A911EFB
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
==========
[english below]
...Điều quan trọng là giữ gìn các bí mật trong Kim Cương thừa. Kim Cương thừa được gọi là “Chân ngôn thừa bí mật” bởi nó cần phải thực hành trong bí mật. Nó không phải bí mật bởi có điều gì đó để che giấu, mà để bảo vệ hành giả khỏi những cạm bẫy và sai lầm mà [cái] Ngã có thể gây ra cho thực hành. Đặc biệt, hành giả thường có xu hướng trở thành con mồi của “chủ nghĩa vật chất tâm linh,” ở đó thực hành trở thành một tuyên bố thời trang được dùng để điểm tô cho [cái] Ngã và khiến họ cảm thấy quan trọng hơn, hoặc giúp họ thấy rằng họ là một phần của nhóm người đặc biệt, thay vì điều phục và chuyển hóa tâm. Khi được thực hành theo cách này, con đường Kim Cương thừa trở nên vô cùng tệ hại.
Các giáo lý Kim Cương thừa cũng “được che giấu” theo cách mà ý nghĩa của chúng không rõ ràng với người chưa thọ nhận giáo lý thích hợp. Nó giống như một ngoại ngữ. Bởi nhiều hình ảnh và biểu tượng có thể rất lạ lẫm, hay thậm chí là bạo lực với những người chưa quen, các đạo sư thường khuyên chúng ta giữ nó bí mật để nó không làm những hành giả sơ cơ rối trí, người có thể phát triển tà kiến về con đường Đạo Phật nói chung và con đường Kim Cương thừa nói riêng.
Khi đăng bài trên các mạng xã hội, hãy nhớ rằng bạn không chỉ đăng tải cho riêng bản thân, mà còn cho toàn bộ thế giới rộng lớn, những người phần lớn không thích thú những bức ảnh “cuồng” giống bạn, cũng không tán thưởng hay yêu mến những nhân vật đặc biệt mà bạn gọi là GURU [2].
Bởi thế, tôi xin đưa ra một số gợi ý cho các học trò Kim Cương thừa về cách thức bạn có thể bảo vệ bản thân –bằng việc tránh gây bối rối và bảo vệ thực hành Pháp của bạn – cũng như bảo vệ truyền thống Kim Cương thừa thâm sâu:
(1) Hãy giữ bí mật về Kim Cương thừa (điều này bao gồm bí mật về Đạo sư, thực hành, các bức hình Mật giáo [3], các quán đỉnh, giáo lý mà bạn đã thọ nhận …
- Đừng đăng tải các bức hình về Mật giáo: Nếu bạn nghĩ rằng việc đăng các bức hình như vậy (chẳng hạn hình chư Bổn tôn với nhiều tay, đầu động vật, hợp nhất và bổn tôn phẫn nộ) khiến bạn trở nên quan trọng, bạn có lẽ đã không hiểu ý nghĩa.
- Đừng đăng tải các thần chú và chủng tử gốc: Nếu bạn cho rằng thần chú và các chủng tự gốc này cần được đăng trên FACEBOOK để khích lệ tinh thần hay trợ giúp cải thiện bản thân, một sự thay đổi hay đổi kiểu tóc có lẽ sẽ tốt hơn.
- Đừng nói về các quán đỉnh của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng các hình ảnh từ lễ quán đỉnh Kim Cương thừa vào cuối tuần xứng đáng được đăng bên cạnh bức hình về những con mèo của bạn trên facebook, bạn cần gửi con mèo của bạn đến Nepal để đăng ngôi. Nếu bạn không được thầy cho phép, đừng đăng bất cứ bức hình, video hay đoạn thu âm quán đỉnh, giáo lý hay thần chú Kim Cương thừa
- Đừng nói về những giáo lý thâm sâu/bí mật mà bạn có thể đã thọ nhận: Vài người dường như thấy rằng sẽ là sành điệu nếu thốt ra vài từ như “Dzogchen” hay “Mahamudra” từ miệng họ. Nếu bạn đã thọ nhận những chỉ dẫn thâm sâu, sẽ thật tốt nếu bạn làm theo những chỉ dẫn này và giữ kín chung.
(2) Đừng để bị cuốn vào những cám dỗ của chủ nghĩa vật chất tâm linh và sử dụng Pháp để phục vụ ngã của bạn (đừng cố phô bày về vị thầy, sự hiểu hay thực hành của bạn. Giống như vậy, đừng nói xấu về những hành giả hay con đường khác.)
- Đừng chia sẻ về trải nghiệm và cái-được-gọi-là thành tựu của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng tuyên bố điều bạn cho rằng bạn đã đạt được là xứng đáng, bạn có thể đang bận rộn với việc giúp đỡ cho vô minh của bản thân. Cố gắng làm người khác ấn tượng bằng thực hành của bạn không phải là một phần của thực hành. Hãy cố gắng trung thực và khiêm tốn. Không ai quan tâm đến những trải nghiệm thiền định của bạn, thậm chí nếu chúng là những linh kiến về Phật, kỳ lân hay cầu vồng. Nếu bạn nghĩ rằng bạn thoát khỏi sự dối gạt của [cái] Ngã, hãy suy nghĩ thật kỹ càng.
- Đừng khoe khoang về Thầy của bạn: Dù bạn nghĩ Ngài vĩ đại đến đâu, sẽ tốt hơn nếu bạn giữ kín lòng sùng mộ. Hãy nhớ rằng là một Phật tử không phải là việc thờ cúng. Nếu bạn nghĩ rằng Đạo sư của bạn tốt hơn của người khác, có lẽ bạn đã cho rằng hạnh xả và nhận thức thanh tịnh của bạn cũng tốt hơn của người khác.
- Đừng cố gắng chia sẻ cái-được-gọi-là trí tuệ của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng thọ nhận giáo lý thâm sâu cho bạn giấy phép để tuyên bố chúng, bạn có lẽ sẽ chỉ hiển bày sự ngu dốt của bản thân. Trước khi “chia sẻ” một đoạn trích từ Phật hay bất cứ vị thầy nào của bạn, hãy nghĩ xem liệu các Ngài có thực sự nói những lời này và thính chúng mà Ngài hướng đến thực sự là ai.
- Đừng nhầm lẫn Phật giáo với ngoại đạo: Dù bạn có thể thích thú cầu vồng và hình cầu ra sao, và dù bạn tin tưởng về tận thế thế nào, cố gắng đừng trộn lẫn sự yêu thích/phong cách của bạn với Phật giáo
- Hãy kính trọng người khác: Không có Tiểu thừa và Đại thừa làm nền tảng, sẽ chẳng thể có Kim Cương thừa. Sẽ thật là ngu ngốc nếu những hành Kim Cương thừa lại xem thường hay khinh thường Tiểu thừa và Đại thừa. Nếu bạn nghĩ rằng tấn công những Phật tử khác sẽ giúp cải thiện Phật giáo, giúp đỡ Phật giáo, thì thay vào đó hãy hướng về ngã và thiên kiến của bản thân.
- Đừng tạo ra bất hòa: Hãy cố gắng là một người đem lại sự hòa hợp Tăng Đoàn với những người bạn online, thay vì gây ra rắc rối và xung đột.
- Luôn ghi nhớ động cơ: Đừng cố phô diễn “trí tuệ cuồng” trong các hành vi trực tuyến, hãy truyền cảm hứng để người khác có một trái tim tốt lành. Nếu bạn cho rằng bạn đăng tải một điều gì đó vì lòng từ bi, đầu tiên hãy chắc chắn bạn đang không gây hại. Khi bạn không thể không đăng tải một thứ gì đó, hãy chắc chắn rằng nó giúp ích bất cứ ai đọc được cũng như làm lợi lạc giáo pháp.
Nguồn: Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche
Việt dịch: Ngawang Jampa
[1] Ở đây, Rinpoche dùng từ “cool” để chỉ nhóm người này. [ND]
[2] Vị thầy, hay đạo sư trong Phật giáo Tây Tạng [ND].
[3] Ví dụ, các bức thangka, hình ảnh, tượng, … của Phật giáo Kim Cương thừa [ND].\\
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Dấu Chân Sự Tu Tập Của Một Vị Latma
Dấu chân hằn sâu năm tháng công phu tu hành của một vị lạt-ma Tây Tạng . Thích Minh Trí dịch Theo Science Editor
Trong khoảng 20 năm, lạt-ma Hua Chi đã và đang lễ bái, cầu nguyện tại cùng một vị trí trong một tu viện mà ông đang tu hành. Vì vậy, trải qua nhiều năm, lòng đôi bàn chân của vị lạt-ma này đã ăn sâu xuống mặt sàn gỗ. Hiện nay, trong vài chỗ dấu vết của lòng đôi bàn chân ấy đã lõm sâu xuống khoảng 1,2 inch. Lạt-ma Hua Chi rất thành tâm lễ lạy trung bình mỗi ngày khoảng từ 500 đến 1000 lạy ở bất cứ nơi đâu. Và lạt-ma Hua Chi tin rằng sự lễ bái và cầu nguyện này chắc chắc sẽ làm cho ông được nhẹ nhàng tái sinh sang thế giới khác mỗi khi ông viên tịch.
Tu viện Rongwo Gonchen Gompa tọa lạc tại thị trấn Tongren, tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, được xem là một tự viện lớn nhất Tây Tạng. Quả thật, hàng trăm tăng-ni sinh bách bộ trên các con đường của tu viện, và tất cả họ đều xác nhận lạt-ma Hua Chi rất tinh tiến trong việc tu hành của ông. Chính lạt-ma Hua Chi cũng thừa nhận rằng, khi còn trẻ, ông thực hành lễ bái còn nhiều hơn thế nữa. Lạt-ma Hua Chi năm nay 70 tuổi nói rằng, trung bình mỗi ngày, ông vừa lạy đến 3000 lạy, lại vừa quán chiếu bằng các chuẩn mực của Phật giáo.Vì lạt-ma Hua Chi luôn luôn cầu nguyện tại cùng một vị trí, nên chính lòng đôi bàn chân của ông đã ăn sâu xuống sàn gỗ, trong cái trông giống như là sự tôn kính qua nhiều năm với một đức tin liên tục. Mỗi sáng, sau khi thức dậy, lạt-ma Hua Chi giẫm trên dấu đôi bàn chân của chính bản thân ông, và bắt đầu lễ bái trong hầu hết những buổi cầu nguyện của ông. Theo giáo lý Phật giáo, con người phải sống trong trạng thái thiền định và trầm tư, nhờ vậy mà sau khi chết, con người có thể đạt đến Niết-bàn, một trạng thái hạnh phúc vĩnh hằng.
Trong một cuộc phỏng vấn, lạt-ma Hua Chi tiết lộ rằng: “Trong suốt những năm đầu tôi có thể lạy từ 2000 đến 3000 lạy một ngày. Nhưng nay tôi đã có tuổi, nên trong những năm gần đây, tôi chỉ có thể lạy được 1000 lạy mỗi ngày. Tôi đã trùng tu tu viện này và đã lễ bái và kinh hành xung quanh tu viện trong tất cả những lần cầu nguyện đó, nhờ thế mà sau khi tôi viên tịch, thần thức của tôi sẽ không phải tái sinh vào cảnh giới khổ đau.”
Lạt-ma Hua Chi cũng là một vị lương y, bởi vì ông thích làm điều thiện và thích làm cho mọi người cảm thấy tốt hơn mà không cần sử dụng những liệu pháp chữa trị bắt người khác phải thực hiện theo mình.
“Mỗi ngày tôi đến đây và mỗi ngày tôi chăm chú nhìn vào mảnh gỗ, và nó đã truyền cảm hứng cho tôi tiếp tục tạo nên những dấu vết đôi bàn chân của chính tôi,” lạt-ma Genden Darji 29 tuổi, hiện tu học trong tu viện này cho biết thêm và nói tiếp rằng, tấm gương của lạt-ma Hua Chi đã ảnh hưởng đến một số lượng lớn các chú sa-di trong tu viện. Qua tấm gương đó, các chú sa di có thể bắt đầu dành phần lớn thời gian cho việc lễ bái tu hành hơn là dành thời gian cho riêng bản thân họ.
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...d9&oe=5AAB0FF6
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...94&oe=5AA89E63
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...a5&oe=5AA41820
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...a9&oe=5A899402
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...59&oe=5AABA78D
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
-
Trong lễ Hoả tịnh trừ chướng, phần cuối của Khoá nhập thất Kim cương Phổ Ba (17-23/11/2016) do Đạo sư Garchen Rinpoche hộ thất tại Học viện Garchen, Chino Valley, Arizona, Hoa Kỳ, trung tâm đã ghi lại khoảnh khắc kỳ diệu khi Ngài đốt các tờ giấy trong nghi lễ thì lửa cháy bùng lên có hình tương tự đôi cánh trí tuệ của Đức Kim Cương Phổ Ba
Nguồn: Garchen Institute
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...03&oe=5AA259ED
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Trì tụng thần chú mà không thực hành theo nghi quỹ nào cả thì có được quán tưởng mình là Bổn tôn không?
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Các con cần phải quán tưởng. Như ta đã từng dạy, thực hành dù ngắn chỉ 15-20 phút cũng phải có đầy đủ ba phần. Nếu không đầy đủ, công phu hành trì của các con sẽ bị uổng phí. Phải thực hiện đầy đủ ba phần của một thời khóa công phu: trước tiên phải phát khởi Bồ đề tâm, tiếp theo là trì chú (có quán tưởng), cuối cùng là phần hồi hướng. Trì tụng thần chú của vị [bổn tôn] nào thì quán tưởng hình tướng của vị đó.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...02&oe=5AAA2340
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Thưa thầy, con đang thực hành ngondro nhưng do điều kiện không gian và gia đình chưa cho phép nên con không thể tạo được một bàn thờ đúng cách của Kim cang thừa được. Xin thầy cho con lời khuyên.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Nếu không có điều kiện lập bàn thờ thì con chỉ cần treo một bức ảnh đức Phật trong phòng riêng của mình là đủ. Nếu thậm chí không thể treo cả tranh Phật thì con quán tưởng hình ảnh các Ngài trong khi hành trì cũng được.
"Bài giảng của Thầy"
Sonam Jorphel Rinpoche
Việt dịch: Hiếu thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Một người tu có được theo hai dòng truyền thừa hoặc có hai Guru không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Đi chân nào bước chân nấy thôi, bước hai chân cùng một lúc sẽ bị té. Hành giả sơ cơ thường có một Bổn sư. Hành giả quán tưởng vị Bổn sư của mình và quán tưởng các đạo sư khác cũng hiệp hội trong đức Bổn sư của mình. Trong Guru của mình có tất cả chư Phật, chư Bồ Tát. Cái cây chỉ có một gốc. Mình phải phân biệt như thế thì phương pháp tu mới thuận. Tâm thành tín của ta phải như nhau không khác đối với tất cả các bậc đạo sư. Trong tâm thành kính của mình các đạo sư đều phải như nhau không có sự phân biệt. Nhưng về pháp tu của riêng cá nhân thì phải làm đúng theo như Bổn sư hướng dẫn.
Câu hỏi: Các thầy thường khuyên không nên “guru shopping”. Thế nhưng tuy con đã gặp nhiều Đạo sư mà chưa thấy thật sự gắn kết được với vị nào. Xin thầy cho con lời khuyên có nên tiếp tục tìm kiếm Đạo sư không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Ở thời gian đầu, tìm đến nhiều vị thầy để nghe giảng pháp là điều rất tốt lành. Tuy nhiên, sau một thời gian thì các con phải tự quyết định chọn lựa Bổn sư cho mình. Do mối kết nối đạo sư-đệ tử là kết nối nghiệp cho nên cũng không khó lắm để nhận biết. Nối kết được với một vị thầy là điều rất quan trọng. Vì lúc đó các con mới có thể thật sự khởi tu theo lộ trình của dòng truyền thừa dưới sự dẫn dắt của Guru được.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu chuyện về Ông Lão và Con Ruồi
Jindag Palgyey (Tu Bạt Đà La) 80 tuổi trước khi ông bắt đầu thực hành Pháp, nhưng ông vẫn có thể thể nhập con đường và trở thành một A La Hán trong một đời. Ông đã thành tựu trí tuệ chứng ngộ tánh Không và có thể giải trừ mọi ô nhiễm. Ông đã chán ngấy đời sống gia đình bởi tất cả những đứa trẻ chế nhạo ông mỗi ngày. Ông cho rằng ông sẽ rất an bình nếu trở thành một tu sĩ sống trong tu viện. Vì thế ông tới thăm Tu viện trưởng của tu viện để xin thọ giới. Vị tu viện trưởng là ngài Mục Kiền Liên, một trong những đệ tử tâm yếu và là bậc có thần thông đệ nhất trong tất cả đệ tử của Đức Phật. Ngài Mục Kiền Liên quán sát và bảo ông lão rằng ngài thấy ông lão không có nghiệp để trở thành một tu sĩ: “Ông đã già, ông không thể đọc, không thể nghiên cứu trong tu viện. Thậm chí ông không thể chấp tác trong tu viện.”
Ông lão hết sức thất vọng. Ông gục đầu trên thanh chắn thấp ở cổng tu viện và kêu khóc. Ông đi tới công viên khóc lóc và mặc dù Đức Phật ở một nơi khác tại Ấn Độ, Ngài nhìn thấy ông lão và cảm thấy lòng bi mẫn lớn lao đối với ông. Đức Phật nhìn tất cả chúng sinh bằng tâm toàn trí của Ngài. Bất kỳ ở đâu có một chúng sinh đầy đủ duyên nghiệp để được dẫn dắt, do bởi lòng bi mẫn Đức Phật tới ngay nơi đó không trì hoãn dù chỉ một giây.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trước ông lão và hỏi có điều gì sai trái. Ông lão trình bày những khó khăn của ông ở nhà và việc ông đã xin thọ giới nhưng không được Tu viện trưởng chấp thuận. Đức Phật nói: “Ta đã thành tựu những công đức của trí tuệ và đức hạnh vì thế ta có thể thấy rằng ông có nghiệp để trở thành một tu sĩ.” Điều này có nghĩa là nhờ đã hoàn tất hai loại công đức và toàn bộ con đường, và khi đã giải trừ những ô nhiễm thô và tế, tâm Đức Phật đã trở nên toàn trí. Ông lão nói với Đức Phật rằng ngài Mục Kiền Liên đã nói là ông không có nghiệp để trở thành tu sĩ, nhưng Đức Phật giải thích rằng thật lâu xa về trước ông lão này là một con ruồi ở gần một bảo tháp (stupa). Có phân bò chung quanh tháp và là một con ruồi, ông lão đã bay theo mùi phân bò, vì thế đã đi nhiễu quanh tháp. Công đức nhỏ bé mà ông đã tạo ra đó đủ để làm ông trở thành một tu sĩ. Sau đó với tâm toàn trí, Đức Phật quán sát để khám phá xem ai là người có thể dẫn dắt ông lão này. Đức Phật thấy rằng đệ tử tâm yếu khác của Ngài là Đức Xá Lợi Phất, người có trí tuệ kiệt xuất trong tất cả các đệ tử và là Tu viện trưởng của tu viện khác, chính là người có thể dẫn dắt ông lão. Vì thế Đức Phật giao ông lão cho ngài Xá Lợi Phất.
Ông lão trở thành một tu sĩ tại tu viện của ngài Xá Lợi Phất nhưng các tu sĩ trẻ trêu chọc ông mỗi ngày. Ông lại rơi vào tâm trạng chán ngán, trốn khỏi tu viện, và nhảy xuống một con sông. Khi ấy ngài Xá Lợi Phất, tu viện trưởng của ông, bằng các năng lực tâm linh đã tìm kiếm vị tu sĩ già. Ngài đã xuất hiện ngay tại nơi đó và túm lấy ông lão kéo lên. Vị tu sĩ già hết sức bàng hoàng và bối rối bởi ông không được phép rời tu viện. Ông giải thích rằng ông chán ngán bởi tất cả những tu sĩ trẻ đã trêu chọc ông, vì thế ông đã trầm mình xuống sông. Ngài Xá Lợi Phất nói với ông: “Ông đang hành động như thế này bởi ông không từ bỏ luân hồi sinh tử.”
Ngài Xá Lợi Phất bảo ông nắm chặt chiếc y của ngài và sau đó bay qua đại dương và đáp xuống một ngọn núi đầy xương. Ngài Xá Lợi Phất giải thích: “Đây là xương của tất cả những đời quá khứ của ông.” Có những khúc xương của một con cá voi, con vật lớn nhất trong đại dương. Giây phút ông lão nghe nói: “Đây là xương của tất cả những đời quá khứ của ông,” mọi lông tóc trên thân ông dựng đứng lên và ông đã từ bỏ sinh tử. Ông đã nhận ra những lỗi lầm của sinh tử: không có gì là chắc thật, những niềm vui của sinh tử thì bất định, bạn không thể tìm được sự toại nguyện, và những lạc thú sinh tử chỉ có bản chất là đau khổ. Ông đã đi vào con đường tích tập và trở thành một bậc thánh (arya) ngay trong đời đó.
Trích NHỮNG THỰC HÀNH TRỌNG YẾU | Lạt ma Zopa Rinpoche
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời (được trích) như trên. Bài do Michelle Bernard biên tập.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
https://www.facebook.com/drikung.kag...889077538664:0
-
[english below]
Gyalwa Karmapa 16 | "Chính vì bị vây bủa bởi những nỗi âu lo quá đỗi về vật chất, nhịp độ sinh hoạt của họ [con người] cũng trở nên khẩn trương hơn. Một hoàn cảnh bận rộn này sẽ dẫn đến một hoàn cảnh bận rộn khác, và cứ thế tiếp tục mãi không ngừng. Bạn luôn luôn bận rộn. Chân lý luân hồi biểu hiện rõ ràng trong cuộc sống của bạn. Để cứu chữa tình trạng này, trước tiên một người cần an tịnh tâm mình. Đừng để cho mình bị cuốn hút hoàn toàn bởi ngoại cảnh. Hãy phát huy một vài mức độ tĩnh lặng. Hãy trau giồi việc hàng phục đơn giản đối với tâm, cũng như hãy vun bồi tâm thức an tịnh, trong sáng. Ít nhất là hãy làm cho tâm được cởi mở, rộng thoáng. Cho dù bạn là ai, mọi người trước tiên cần hướng đến thiền tập cơ bản, mà thiền tập này được sáng tạo một cách cụ thể hầu mang lại sự an tịnh trong tâm cho chúng sinh bị bận rộn này nọ liên miên. Đây là bước đầu tiên trong việc hành Pháp, mà Pháp lại vô cùng quan trọng cho chính mình và người khác."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
[english below]
Gyalwa Karmapa thứ 16 | "Thật là cần thiết để thực tập rốt ráo và thấu hiểu nghĩa lý giáo pháp. Và để đạt được điều đó, thì yếu tố quan trọng nhất, một lần nữa, lại là sự thực hành Bồ đề tâm, tức là tâm Giác ngộ, mà theo đó bạn sẽ dần dà bước trên con đường Kim Cang thừa. Ở mọi lúc mọi nơi, Bồ đề tâm là tuyệt đối cần thiết. Trừ phi các phương thức kỹ xảo uyên thâm của Kim Cương thừa cần được hỗ trợ bởi Bồ đề tâm, một người sẽ không nhất thiết phải đạt cho được các chứng ngộ cao sâu, đầy ý nghĩa. Vì thế, bạn có thấy không, thật ra vạn sự vạn vật đều bắt nguồn từ sự thực hành Bồ đề tâm."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
Nguồn ảnh: wernererhardfoundation.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
"Khi các bạn tới đây và thấy tôi, thấy điện thờ, thấy lễ puja đang kết thúc bạn sẽ thốt lên trong tim: “Wow!” Điều đó chỉ trong vòng hai ba ngày là các quý vị sẽ quên ngay đi. Ngoại trừ bạn tranh luận, bàn cãi với chính bản thân mình, trong trái tim mình cái mà bạn đã nghe thấy được khi tôi nói với bạn, với tất cả mọi người. Vì vậy nếu chỉ đơn giản tới đây và nghe bài Pháp thoại thôi thì chưa thể nói là đủ được. Phải thảo luận (discussion), tranh cãi (debate) nhiều hơn, nhiều hơn nữa với chính bản thân mình để cho những gì đã nghe không chỉ lưu lại trong bộ óc mà còn cả trong con tim. Rồi sau đó mỗi ngày quý vị nghĩ một chút, nghĩ một chút, nghĩ một chút và nhờ vậy mà trái tim của quý vị sẽ lớn thêm một chút và khi đó thì bài học ngày hôm nay sẽ có một ít hiệu quả nào đó."
HH Dalai Lama
"Bài giảng của Đức Dalai Lama tại Ladakh"
Việt dịch: Hiếu Thiện | Hiệu đính: Lama Đạt
Ảnh: Oliver Adam
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
(live) Khen Rinpoche Lobsang Phanda, Viện trưởng mật viện Gyudmed cùng tăng đoàn đang làm lễ Hoả tịnh Yamantaka Hàng Phục Dạ Ma Vương tại chùa Như Thị đường Bình Long, tp HCM
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a] HH Gyalwang Karmapa 17, Ogyen Trinley Dorje
...Đôi khi có người nói với tôi là… theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, các bạn có nhiều vị Phật gia hộ cho các bạn quá, nào là đức Dược Sư gia hộ sức khỏe, chữa lành bệnh tật, đức A Di Đà (Vô Lượng Quang) tiếp dẫn cho bạn tái sinh về cõi Cực Lạc, đức Vô Lượng Thọ gia hộ cho bạn tuổi thọ, vân vân. Như vậy thì các bạn đâu có cần gì đến bác sĩ hay thầy thuốc nữa. Nhưng (trên thực tế) chúng tôi vẫn cần thầy thuốc, cần bác sĩ. Và trên con đường tu tập Đạo Pháp thì chúng ta rất cần đức Dược Sư Phật để nương tựa, để có thể chữa lành những chứng bệnh lâu đời trong ta.
Mục đích của các phương thuốc, do dù là thuốc tự nhiên đến từ dược thảo hay các loại thuốc đến từ sự kết hợp, bào chế, thì mục đích của thuốc là để chữa lành bệnh tật. Làm sao có thể biết được thuốc nào thì thích hợp cho căn bệnh nào? Trước hết, ta phải chẩn bệnh và tìm hiểu xem nguyên nhân của căn bệnh đến từ đâu.
Đối với mỗi căn bệnh, có tất cả hai nguyên nhân khác nhau: nguyên nhân dài hạn (long‐term cause) và nguyên nhân ngắn hạn (short‐term cause) {Ghi chú: Tạm gọi là nguyên nhân xa và nguyên nhân gần}. Nguyên nhân xa là nguyên nhân gốc hay là nguyên thủy. Nguyên nhân gần là nguyên nhân tạm thời hay tức thời. Ở đây, gọi là dài hạn (xa) và ngắn hạn (gần) không có ý ám chỉ thời gian. Nhưng xa vì có liên quan đến nguyên nhân căn bản (từ vô thỉ) và gần vì có liên quan đến những nguyên nhân tức thời (giúp cho nguyên nhân căn bản trổ sanh).
Đối với tất cả chúng ta thì nguyên nhân căn bản, hay nguồn gốc của tất cả mọi bệnh tật, chính là tam độc, là tham, sân và si.
Đối với bệnh tật thì tam độc là nguyên nhân gốc. Còn nói đến tứ đại, tức các yếu tố đất, nước, gió, lửa trong thân ta thì đây lại là các nhân duyên phụ, giúp cho bệnh tật trổ sanh. Một trong ba độc (tham, sân và si) là chất xúc tác để làm cho một trong các tứ đại (đất, nước, gió, lửa) nổi trội lên hay bùng lên.
Nếu ta bị tâm tham khống chế thì yếu tố nước trong ta sẽ bùng lên. Nếu ta bị tâm sân khống chế thì yếu tố lửa trong ta sẽ bùng lên. Nếu ta để cho tâm si khống chế thì hoặc yếu tố đất, hoặc yếu tố khí, hoặc cả hai yếu tố đất và khí đều bùng lên. Nếu tứ đại trong ta có được sự quân bình thì ta sẽ khỏe mạnh. Nếu tứ đại trong ta thiếu quân bình thì ta sẽ sanh ra bệnh tật. Trong tất cả mọi trường hợp, sự thiếu quân bình xảy ra là vì một trong tam độc đã nổi trội lên. Nếu tâm ta không giữ được sự quân bình thì tham sân si sẽ nổi lên.
Nói đến ‘klesa’ thì từ vựng này không phải chỉ thuần tuý nói về các cảm thọ hay cảm xúc. Không phải cảm thọ hay cảm xúc nào cũng là ‘klesa.’ ‘Klesa’ chỉ là để ám chỉ những cảm thọ hay cảm xúc tiêu cực, độc hại,.
Trong thế kỷ thứ 21 này của chúng ta, có thật nhiều loại bệnh tật gây ra bởi các cảm xúc tiêu cực và độc hại, gây ra bởi các nguyên nhân tinh thần, chứ không phải chỉ là do vi trùng, hay vi khuẩn, vân vân. Nguồn gốc chính yếu của mọi căn bệnh vẫn là các cảm xúc tiêu cực, phiền não. Và khi nguyên nhân chính yếu gây ra bệnh tật liên quan đến tinh thần thì việc ta chỉ sử dụng thuốc men, uống thuốc hay đi châm cứu chẳng hạn, sẽ không đủ giúp ta lành bệnh. Hoàn toàn không đủ.
Bất cứ lúc nào cũng vậy, chúng ta cũng có thể nương tựa vào đức Phật Thích Ca để dẫn dắt chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta đang phải đương đầu với một loại khó khăn đặc biệt như là bệnh tật gây ra bởi các cảm xúc độc hại thì chúng ta nên nương tưạ vào đức Phật Dược Sư bởi vì đức Dược Sư có một sự gắn bó đặc biệt với năng lực chữa lành bệnh tật. Đây là hạnh nguyện chính yếu của ngài. Và đây cũng là lý do tại sao có sự xuất hiện của đức Phật Dược Sư. Ngài thị hiện cũng vì lý do đó, để chữa lành bệnh tật của tất cả chúng sinh.
HH Gyalwang Karmapa 17, Ogyen Trinley Dorje
Trích buổi pháp thoại và đại lễ Dược Sư Phật tại trung tâm Karma Thegsum Choling-New Jersey vào ngày 23 tháng 5, năm 2008
Bản Việt ngữ thực hiện ngày 25 và 26 tháng 5, 2008, bởi Tâm Bảo Đàn
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...52&oe=5A996B89
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...fe&oe=5A8E7AC5
https://www.facebook.com/drikung.kag...80920835402155
-
[english n/a]
Câu hỏi: Xin thầy chỉ dạy con trì tụng minh chú như thế nào là đúng? Nên trì thành tiếng hay trì thầm trong miệng? Nên trì tụng trước bàn thờ hay đi, đứng, nằm, ngồi đều trì tụng được?
Sonam Jorphel Rinpoche: Cần phải trì tụng minh chú bằng cả thân và tâm. Trước hết về thân, thân phải trang nghiêm. Đó là tư thế bảy điểm mà ta đã dạy các con. Về phương diện tâm, các con phải có động cơ đúng đắn. Khi thực hành ngondro thì quán chiếu bốn niệm chuyển tâm và phát Bồ đề tâm mà tâm sẽ thanh tịnh và trì tụng thần chú sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn. Thứ hai, trong khi tụng không được ngừng quán tưởng. Phải liên tục quán tưởng để giữ cho hình ảnh Phật, bổn tôn, bổn sư luôn ở trong tâm mình.
Nói về trì tụng thần chú, có sáu cái KHÔNG mà hành giả Mật thừa cần lưu ý:
1) Không to
2) Không nhỏ
3) Không nhanh
4) Không chậm
5) Không thêm
6) Không bớt
Và các con cần phải lưu ý thêm một điều đó là tuyệt đối không được nói chuyện khi trì chú, nếu không thì sẽ tạo ra những chướng duyên rất lớn.
Vừa đi nhiễu Phật vừa tụng thần chú, đó là một hệ thống khác. Khi đi nhiễu thì thân tạo công đức. Miệng trì thần chú là khẩu tạo công đức. Tâm không ngừng quán tưởng là ý tạo công đức. Cả thân, khẩu, ý đều tạo được công đức.
Sonam Jorphel Rinpoche
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch: Hiếu Thiện & nhóm Liên hoa tâm
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english below]
(truc tiep) Dâng y và mão cúng dường. Đây là một nghi thức hết sức tốt lành để hành giả kết nối nghiệp dài lâu với dòng truyền thừa. Pháp chủ Jigten Sumgon đã từng tuyên nhận rằng, những ai từng một lần có duyên lành đội chiếc mão này sẽ không bao giờ bị đoạ sinh vào các cõi thấp
-
[english n/a]
THIỀN ĐỊNH | Meditation | Shantideva
1- Sau khi phát khởi tinh tấn, hãy để tâm an trú trong thiền định. Người mà tâm tán loạn thì sẽ bị rơi vào nanh vuốt của phiền não mê muội.
2- Nếu cả thân và tâm đều viễn ly (thân viễn ly là ở nơi vắng vẻ - tâm viễn ly là không tham đắm thế tục_ND) thì kể tán loạn không sinh. Bởi thế, cần phải xa lìa trói buộc của đời sống thế tục (gia đình, bè bạn) và từ bỏ những tư tưởng thế tục (liên hệ tài sắc, danh, ăn, ngủ).
3- Vì ái luyến thân bằng quyến thuộc, yêu mến danh lợi nên khó bỏ thế tục. Bậc trí hoàn toàn từ bỏ những thứ ấy đẻ tuần tự thực hành thiền quán theo những nguyên tắc sau đây :
4- Vì biết rõ chỉ có tuệ quán thù thắng (gọi tắt là tuệ, hay chiếu, sáng suốt) nghĩa là có kèm theo tịnh chỉ (định, hay tịch, vắng lặng) mới diệt được mê lầm phiền não, trước tiên nên tu tịnh chỉ. Tịnh chỉ thành tựu là do lìa tham ái.
5- Tự bản thân đã vô thường (nay còn mai mất, chóng thay đổi), lại còn đi tham luyến những kẻ khác cũng vô thường, thì dù có tái sinh trở lại cả ngàn lần cũng không gặp được những người mình yêu mến.
6- Khi chưa tìm thấy họ, đương nhiên ta sẽ sầu khổ không vui, vì không vui nên không thể đi vào chánh định (còn gọi tam ma địa, đẳng chí… là (Thiền ChỈ). Dù có gặp được cũng không biết đủ (muốn gặp hoài), nên cũng lại sầu khổ vì ái luyến như trước.
7- Tham đắm những người, vật hữu tình là hoàn toàn ngược với thực chất của các pháp (hay hiện tượng, vì thực chất chúng là vô thường, như huyễn). Sự tham đắm ấy cũng huỷ hoại cái tâm cầu đạo hướng đến giải thoát, chán lìa sinh tử, và rốt cuộc phải rước lấy sầu khổ khóc than.
8- Nếu ta cứ nhớ thương những người thân, thì cuộc đời này trôi qua một cách vô nghĩa. Và như vậy là ta để cho những thân bằng quyến thuộc vô thường phá hỏng cơ hội tu chứng đạo lý chân thường.
9- Hành vi đã giống với phàm phu ngu si như vậy, thì chắc chắn ta phải đọa lạc vào ba ác đạo (ba cõi xấu : địa ngục, quỷ đói, súc sanh). Nếu mục đích của ta là hướng đến cảnh giới giải thoát thì cần gì phải thân gần những người phàm phu ngu độn ?
10- Mới phút trước bạn bè thân thiết, phút sau đã thành thù địch. Vào dịp vui cũng có thể chuốc oán cừu, ôi, kẻ phàm phu thật khó mà làm cho họ vừa lòng.
11- Khi ta lấy lời thành thật bảo họ, họ nổi giận và lại còn xúi ta từ bỏ việc lành. Nếu ta không nghe lời, họ sẽ nổi sân nà rơi vào đường ác.
12- Ganh ghét với kẻ hơn mình, cạnh tranh với kẻ bằng mình, ngạo nghễ với kẻ thua mình, được khen thì kiêu căng, nói lời trái tai thì nổi giận. Làm bạn với những người ngu như thế đâu có ích gì ?
13- Làm bạn với kẻ ngu chắc chắn sẽ sinh cái lỗi khen mình chê người, ưa bàn chuyện thế tục và những điều không tốt.
14- Bởi thế, gần thân tộc bạn bè chỉ rước lấy tổn hại. Họ không có lợi gì cho ta, ta cũng không ích gì cho họ.
15- Vậy cần phải xa lìa phàm phu ngu si. Khi gặp họ hãy vui vẻ chào đón, nhưng đừng quá thân mật, hãy theo cách giao tiếp của chính nhân quân tử (nghĩa là không vồn vã lắm).
"Nhập Bồ tát hạnh" | Bồ tát Tịch Thiên
Việt dịch" Thích Nữ Trí Hải
nguồn: thuvienhoasen.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kag...922124968693:0
-
[English n.a]
Câu hỏi: con muốn thực hành Tonglen nhưng đôi khi cảm thấy khó thực hành trọng hoạt động hàng ngày. Xin Rinpoche chỉ dẫn.
Garchen Rinpoche: Thật sự thì những cái chúng ta làm và phục vụ người khác chính là Tonglen trong hoạt động thực tế. Đó chính là Tonglen trao trực tiếp - những thứ chúng ta mang lại lợi ích cho người khác trong hoạt động thường ngày. Ví dụ khi chúng ta làm việc vất vả, chúng ta nghĩ “để cho mọi người được nghỉ ngơi, tôi sẽ làm giúp cho họ, tôi chịu khổ đỡ cho họ…” và chúng ta cầu nguyện “cầu cho mọi chúng sinh không phải làm việc vất vả nhưng vẫn được trả lương cao, để họ có thời gian nghỉ ngơi..” . Ví dụ khi ta đói, ta có thể nghĩ “Cái đói con đang chịu cũng giống như cái đói mà chúng sinh chịu. Thông qua cái đói này mà con đang chịu đựng, cầu cho mọi chúng sinh được giải thoát khỏi bị đói”. Hoặc khi chúng ta bị ốm đau, chúng ta nghĩ “Con xin nguyện chịu việc đau ốm này thay cho chúng sinh, cầu cho thông qua việc con phải chịu đựng ốm đau mà những đau bệnh của chúng sinh được giải phóng”. Chúng ta có thể áp dụng điều này với mọi khó khăn mà ta gặp phải. Và đôi khi chúng ta thiền định và tâm trở nên rất hạnh phúc, hoặc khi chúng ta có công việc tốt, có lương cao và ta hạnh phúc, thì những lúc đó chúng ta nghĩ rằng: “cầu cho mọi chúng sinh cũng có được những thứ thuận duyên như vậy, cũng được hạnh phúc, con chia sẻ hạnh phúc này cho tất cả mọi chúng sinh”.
Tong-len chính là cho đi hạnh phúc và nhận lại khổ đau. Hoặc khi chúng ta cảm thấy vui vẻ và an lạc khi uống một cốc trà, thì cũng nghĩ: “xin cho mọi chúng sinh cũng được thưởng thức trà vui vẻ và an lạc”. Và đây cũng là cúng dường lên tất cả chư Phật. Và thực sự thì thông qua tâm, chúng sinh sẽ cảm nhận được điều đó. Làm sao họ nhận được, đó là thông qua tình yêu thương ta giành cho họ. Tình yêu của người mẹ cho đứa con đã giúp bà sản sinh sữa cho con mình. Người mẹ không biết sản xuất sữa nhưng sữa đó đến một cách tự nhiên nhờ tình yêu thương. Ngay cả những con bò hay các con vật khác cũng không biết cách làm ra sữa, nhưng vì chúng cũng có tình yêu thương cho con của chúng nên sữa đã chảy ra một cách tự nhiên.
Vì vậy nếu chúng ta có tình yêu thương thì chúng ta sẽ làm lợi lạc cho chúng sinh một cách tự nhiên. Và tình yêu thương cũng giúp chính bản thân mình vì nó làm cho chấp ngã biến mất đi. Tình yêu thương giống như mặt trời và chấp ngã thì giống như là tảng băng. Khi tình yêu thương càng nhiều thì tảng băng chấp ngã càng tan chảy dần đi. Tình yêu thương càng nhiều thì chấp ngã càng giảm thiểu.
Trích nội dung Garchen Rinpoche gặp gỡ và trả lời câu hỏi của nhóm Phật tử Hà nội, sáng 13/8/2014 tại Singapore | Trần Lan Anh ghi chép và dịch
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
BẢN CẦU NGUYỆN XÍCH LÔI CÂU hay KURUKULLA
(Log Mar Chag Kyu chuyển dich)
E Ma Hô. Đây là căn bản chí chính là thân kim cang siêu việt mọi biến kiến,
Tự bổn nguyên đã đoạn đứt lưới khổ đau.
Hỡi Phật Mẫu Kurukulla, nguyện tiếng cười của Ngài là sự hiệp nhất của lạc và không ,
đẩy lùi sự bám chấp nơi các pháp bởi vô minh .
Hỡi đức Di Đà, Quán Âm, Liên Hoa, Mã Đầu,
Orgyen Dzambhala, Tara, Varahi Đỏ,
Kamaraja cùng phối thân, các Ngài chính là kho năng lực phẫn nộ và đại lạc,
Xin hãy ban cho những thành tựu(tất địa) tối thắng và tương đối, đó là sự hiệp nhất nhiệm mầu của hữu và không.
Bức màn hư ảo hữu kì diệu
Của kim cang thân, khẩu, ý và đức hạnh của chư Phật.
Chính là diện mục của thần lực là đại tạng mầu nhiệm của trí tuệ,
hỡi Phật Mẫu Kurukulla, con xin nguyện với Ngài.
Nguyện cho những con sóng của biển vọng tưởng được an định,
nó khiến chúng con bất lực trước những cảm thọ sướng hay khổ,
bởi tập khí xấu chấp thiện ác là thật,
Chú tâm vào đầu liền khởi ngay vọng tưởng,
Bởi tập khí hay chấp tướng như thực.
nên chúng con bị quăng vào ngục tù của vọng tưởng sướng khổ.
Là những chúng sinh bất lực chẳng được đoái giúp.
nên chúng con kêu lên xin quy y nơi Phật Mẫu, vì Ngài chính là kho thần lực.
Bởi thân ham muốn trói chặt, nên khí mạch loan động
Làm năng lực thô tháo của giọt nguyệt tinh(giọt tinh trắng) trồi sụt,
Nguyện cho những hạt nhân của vòng luân hồi này
Hòa tan vào những vi tử hư huyễn của thân Phật Mẫu Kurukulla.
Thể nghiệm tối thượng của giọt bồ đề tinh trắng và đỏ tụa những vầng mây kim cang rực rỡ,
Trong nhị hoa của điệu vũ hỉ lạc bởi Hư Không Chủ Mẫu( Yingchukma) vô sinh,
Luân hồi và niết bàn được bao bọc bởi mật ấn đại lạc.
Nguyện cho vòng luân chuyển của mọi hiện tượng huyễn hóa nay được hiển lộ.
Chiếu không hiệp nhất là những vẻ đẹp và tướng tốt, cũng là sinh lực rực rỡ của luân hồi và niết bàn.
Thành không hiệp nhất. Là những lời du dương, là thị hiện của những kí tự và vũ điệu nhân duyên tương sinh,
Trí không hiệp nhất. Là đại bi vô biên phổ nhập nhất thiết pháp,
Nguyện tất cả các pháp khắp hư không thị hiên như Phật Mẫu Kurukulla.
Nguyện tất cả chúng con, cho đến khi thành chánh giác,
Chăng bao giờ bị năng lực của ác nghiệp và thói sấu trói buộc,
Và đạt được kho báu của Liên Hoa Bộ của thần lực nhiệm mầu,
Rồi tự thành tựu công hạnh vô tắc làm lợi lạc chúng sinh.
Nguyện những ai thấy, nghe, mong, nghĩ đến con đều được phúc lạc diệu kì,
Và được nhân duyên bất khả kháng do oai lực thần kỳ của lưỡi câu bén không gi thoát được,
Và sư thị hiện từ năng lực của vũ điệu lạc_không.
Đó chính là sinh lực của luân hồi và niết bàn,
Nguyện cho trí tuệ và từ bi vô trụ là yếu tố của viên ngọc báu tự hữu,
Được như búp sen bừng nở do năng lực của ánh sáng mặt trời,
Và mãi trụ như hư không thường trụ,
Như kho phúc lạc của biển quốc độ chúng sinh.
Nguyện tất cả nạn như ma, chướng, yểm đều đứt tuyệt,
Nguyện cho tho mạng, năng lực, tài khí, oai lực, phúc lạc đều sung mãn,
Bởi tâm nguyện này, mà làm lợi lạc cho quyến thuộc của con và tất cả chúng sinh.
Và nguyện cho con được như Ngài là người mẹ duy nhất.
Khi tấm thân này, là nơi thành quách của lý nhân duyên tương sinh, đến lúc hoại diệt,
Nguyện rằng trong vầng hào quang đỏ của Phật Mẫu Đại lạc Kurukulla Đỏ.
Và trong cảnh giới đầy hơi ấm của niềm hoan hỷ thuần nhất,
Có được sự thể nghiệm nhất vị giọt đại bồ đề tinh bình đẳng.
(24/10/2008 Ngài Hungkar viết tại Việt Nam trong chuyến hoành pháp của Ngài . Nguyện nhưng ai xem tụng bản Nguyện này được thành tựu viên mãn kết tường)
https://www.facebook.com/permalink.p...76977395702081