Ồ kìa có đám mây xanh,
ở giữa mây trắng,
xung quanh mây vàng.
Printable View
Ồ kìa có đám mây xanh,
ở giữa mây trắng,
xung quanh mây vàng.
Những bước chân đầu tiên đi vào quê hương giác ngộ
Đức Phật đặt sự hiểu biết là điều quan trọng hơn niềm tin. Do đó nên dành thời gian để dò xét cho kỹ về Đạo Phật, rồi mới đi đến quyết định. Đức Phật chỉ muốn mọi người nên thực hành theo lời dạy của ngài bằng cách tìm hiểu và suy xét cẩn thận.
Sau khi tìm hiểu và chấp nhận lời Đức Phật dạy, nên tham gia vào những sinh hoạt của những ngôi chùa để tiếp tục học hỏi thêm về giáo lý một cách thực tế. Sự tu học là cả cuộc đời, không phải chỉ thời gian ngắn. Có nhiều Phật tử, vì thiếu sự tìm hiểu, quyết định quy y vội vàng, rồi sau đó có những bất mãn, xa chùa, bỏ bạn.
Tìm một vị thầy chân chính để học hỏi những gì mà chưa hiểu, để tránh đi những lý do, sau khi quy y Tam Bảo, rồi cả đời không hiểu Phật pháp là gì. Khi bạn đã sẵn sàng chính thức, muốn trở thành Phật tử, thì xin Quy y tam bảo với người thầy đã hướng dẫn mình.
Tam bảo gồm có : Phật, Pháp, Tăng.
Phật : Người đã giác ngộ hoàn toàn bản thể vũ trụ vạn hữu, các pháp hữu tình cũng như vô tình, các pháp xuất thế gian cũng như thế gian, các pháp hữu vi cũng như vô vi.
Pháp : Là những lời dạy về những sở ngộ của đức Phật về phương pháp giác ngộ các pháp trong vũ trụ đưa đến giải thóat khổ đau và đạt an vui tịch diệt Niết-bàn.
Tăng : Là đoàn thể Tăng già, hòa hợp thanh tịnh, là những người nối dõi hạt giống trí tuệ của chư Phật; đại diện cho chư Phật truyền trao Chánh pháp lại cho mọi người, khiến cho mọi người cùng giác ngộ như chư Phật.
Sau khi đã quay về nương tựa nơi ba ngôi báu, người Phật tử cần phải phát tâm cầu mong đạt được giác ngộ như các chư Phật. Kế đến phải giữ gìn, không được phạm vào những cấm giới mà mình đã nguyện thọ trì trong khi quy y thọ giới.
Đức Phật nói : Mọi người trước hết hãy hoàn thiện chính mình đã, rồi sau mới hướng dẫn cho mọi người cũng thực hành như chính mình đã thực hành. Người Phật tử không những chỉ sống cho chính bản thân mình, mà còn sống và liên hệ với những quan hệ chung quanh mình.
Tóm lại, khi có ý định hướng đời mình về với đạo Phật để trở thành một người con Phật, thì phải có thời gian chuẩn bị chu đáo kỹ càng. Một khi đã quyết tâm rồi, không còn gì phải áy ngại ngỡ ngàng.
Bây giờ, chỉ còn một con đường quyết chí tiến tu, lấy Tam Bảo làm nơi nương tựa, để học hỏi, để tịnh hóa thân tâm của mình, rồi hướng dẫn mọi người đến chổ an ổn thanh tịnh ấy.
Có như vậy chính bản thân của mỗi người được an lạc hạnh phúc thì gia đình, xã hội mới được cuộc sống yên vui bền vững. Việc làm này là bước chân đầu tiên để đi về quê hương giác ngộ.
st từ phật giaó.com
Na Mô A DI Đà Phật
Hành theo lời Ngài chỉ tốn tối đa 7 năm dụng công thôi mà !
rất khó.......
theo mình thì thật sự không khó các bạn ơi ...vì sao mình nói như thế .rất đơn giãn .vì khi các bạn luôn niệm phật .luôn nghĩ tưỡng đạo pháp hay công án thiền .hoặc là thường niệm chú thì các bạn LÀM GÌ CÓ THỜI GIAN RẢNH ĐỂ NGHĨ RẰNG KHÓ HAY DỄ ..
vài lời tâm sự ..đó cũng là kinh nghiệm cũa bãn thân mình ..cứ lầm lũi mà thực hành thì THỜI GIAN đâu mà nghĩ tưỡng lung tung
thân
sưu tầm CŨA THIENDIANHAN [lược trích ]
, muốn đạt đến cứu cánh giác ngộ không thể không thông qua phương pháp thiền định. Nhưng khi nghe nói đến Thiền, một người Phật tử bình thường khó hình dung ra nổi và nghĩ đến nó như là một cái gì đó mông lung, trừu tượng, huyền bí. Thậm chí Phật tử rất hoang mang vì trong thời đại hiện nay, có rất nhiều loại "thiền" khác nhau xuất hiện trên thị trường, được khai thác nhằm mục đích thương mãi hơn là giúp con người đạt đến bến bờ giải thoát, và đôi khi biến Thiền trở thành một cái "mốt" thời thượng làm người ta bối rối và dễ bị mê lầm. Cho nên, để có thể tu tập đúng hướng, hành giả cần phải có một số nhận thức căn bản đúng đắn về các loại Thiền Phật giáo.
Khái niệm về các loại Thiền Phật Giáo:
Thiền chỉ (Thiền định) và Thiền quán (Thiền minh sát).
Thông thường khi nói đến Thiền là người ta thường nghĩ ngay đến thiền đốn ngộ, đến "dĩ tâm truyền tâm", đến những công án hóc búa... Hình ảnh của những vị Thiền sư "hoát nhiên đạt ngộ" khi tâm thức bùng vỡ trước tiếng thét của một bậc minh sư, khi soi mặt mình trên một vũng nước mưa đọng trước hiên nhà... bỗng trở thành như những câu chuyện thần thoại, người căn cơ thấp kém khó mà lãnh hội được ý nghĩa của sự đạt ngộ này. Như vậy phải chăng Thiền là một thứ "xa xỉ phẩm" chỉ dành riêng cho những bậc thượng căn đã đứng mấp mé ở bên bờ giác ngộ, chỉ cần chờ một sự khai thị đúng lúc là tỏ ngộ chân lý? Dĩ nhiên Thiền không phải hoàn toàn như thế, bởi lẽ nếu hiểu Thiền theo cung cách này thì lịch sử của tông phái Thiền Phật giáo trong suốt bao nhiêu thế kỷ qua chỉ sản xuất ra được mấy chục vị Tổ!
chúng ta nên hiểu rằng các pháp hành thiền, như đã được lưu truyền đến nay trong kinh điển, đều được căn cứ trên những phương pháp mà chính Đức Phật đã áp dụng, căn cứ trên sự kinh nghiệm của chính bản thân Ngài trong suốt quá trình tu tập, trau giồi và phát triển tâm, pháp môn hành thiền đó đã đưa Ngài đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn.
Để kiểm soát, uốn nắn và giải phóng tâm Phật giáo có hai loại Thiền chính yếu sau đây:
- Thiền chỉ hay Thiền định(samatha bhavana hay samadhi): là gom tâm vào một điểm, hay thống nhất, tập trung tâm vào một đề mục (cittekaggata, Sanskrit là cittaikagrata, nhất điểm tâm), tức là an trụ tâm.
- Thiền Quán hay Thiền Minh Sát (vipassana, Sanskrit là vipasyana hay vidarsana), - cũng gọi là thiền tuệ - tức là hướng tâm soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn pháp.
Thiền quán đã được một vị danh tăng Phật giáo đương đại, Đại Đức Piyadassi giải thích như sau:
"... Danh từ vipassanà (vi + passanà), trong một biến thể, có nghĩa là "thấy một cách phi thường", thấy khác với lối thấy thông thường, do hai thành phần "passati" là thấy và "vi" hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Đây không phải là nhìn thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát (vipassanà bhàvanà) là loại thiền mà chính Đức Phật đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban truyền, trước kia chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..." (*)
Pháp hành "thiền chỉ" trong Phật Giáo đưa đến tột đỉnh là đắc Thiền (Jhana), trong khi pháp hành "thiền quán" dẫn đến bốn tầng Thánh mà bậc Thánh cuối cùng là A La Hán, hay tiến thêm một bước nữa là đạt qủa vị Phật, giải thoát.
Cứu cánh tu tập của chúng ta dứt khoát là không nhắm đến trạng thái Định hay thư giản. Ta vận dụng công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi -bằng cách chuyên tâm trì tụng Thần chú này một số biến nhất định- như là một pháp hành của Thiền Chỉ, và chỉ xem đó như là một cổ xe đưa ta đến bến bờ giác ngộ. Cho nên, khi tâm đã an trụ vững vàng, chúng ta bắt đầu bước vào Thiền minh sát, lúc này dùng hình trạng và tướng mạo của Thần chú Đại Bi làm nội dung thiền quán: Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng, Tâm Vô Vi,Tâm Không Quán... và nên được bắt đầu bằng Tâm Đại Từ Bi.
Tại sao chúng ta bắt đầu nội dung Thiền quán bằng Tâm Đại Từ Bi? Trước tiên, đây là một yêu cầu của Bồ Tát. Trì Chú Đại Bi sẽ không linh nghiệm nếu không được phát khởi bằng Đại Bi tâm. Thứ hai, khi chọn phương pháp thiền định dùng Thần Chú Đại Bi như là phương tiện - vắn tắt xin được tạm gọi là Thiền Quán Âm- chúng ta đã phát tâm noi theo hạnh nguyện ban vui cứu khổ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nguyện trở thành một cánh tay, một chiến sĩ trong đạo quân tình thương của Ngài, đem gieo rắc ánh sáng từ bi đến khắp muôn loài chúng sanh, góp phần xây dựng một cỏi Tịnh Độ Nhân Gian trên cõi thế.
Thiền Quán Âm như thế là một loại thiền tích cực, đi thẳng vào đời sống, tác động vào đồng loại, chúng sanh và môi trường sống. Hành giả khi dùng Thiền quán sẽ vận dụng Tâm Đại Bi làm ngọn đuốc soi đường, rọi chiếu vào tất cả ngỏ ngách tâm linh và hành động của chính mình trong từng mỗi phút giây hiện tại.
Làm Thế Nào Để Thực Hiện Đại Từ Bi Tâm Quán?
Từ Bi Quán là phương thức để huân tập lòng Từ Bi. Trong Phật giáo có rất nhiều phương pháp Từ bi quán mà cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng rõ trong cuốn "Phật Học Phổ Thông", ở đây xin được tóm tắt lại bằng ba phép quán từ thấp đến cao như sau :
1. Quán chúng sinh duyên từ : Quán sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi dục giới mà phát khởi lòng từ.
onhững kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị hành phạt, loài ngạ quỷ đói khát..
oloài súc sanh (trâu, bò heo, gà...) bị hành hình, phân thây xẻ thịt làm thức ăn cho loài khác...
oloài a tu la phải đấu tranh chém giết
ochúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng phải bị đọa lạc
onhững cảnh khổ của kiếp người...
Thấy được những cảnh khổ của chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi, Phật dạy ta phải xem tất cả chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại gia đình. Nhân loại như đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài khác cũng là thành phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể họ đã là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ ta trong những kiếp tương lai...
1.Quán Pháp duyên từ :
Cao hơn một bậc, hành giả có thể quán sát thấy tất cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như ngài Duy Ma Cật, "vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh", chúng sanh khổ nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng không chấp rằng ta đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồng một bản thể, đồng một pháp giới tánh.
3. Quán Vô duyên từ : Đây là lòng từ bi của chư Phật, theo thể tánh chơn tâm mà phát ra, bao la trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp gần xa một cách vô tư, không dụng công và không bỏ sót một nơi nào. Loại này chúng ta chỉ biết qua chứ không áp dụng vào thiền tập vì quá cao siêu.
5.Thần Chú Đại Bi,
Một Con đường tắt đến Tịnh Độ
Nói đến Thần Chú Đại Bi, nói đến tu tập Thiền định, ta không thể không nói đến Tịnh Độ. Tại sao? Bởi vì chuyện sinh tử là chuyện quan trọng của đời người. Ta nhận thức được rằng kiếp sống thế gian rất ngắn ngủi và ta cũng không muốn luẩn quẩn mãi trong cảnh luân hồi sinh tử cho nên ta tu tập để mong cầu vươn đến một cảnh giới đích thực, vĩnh cữu. Cảnh giới đó có thể mang tên là Niết Bàn. Cảnh giới đó cũng có thể là Tịnh Độ.
Trước hết, khi nói đến Tịnh Độ, Phật tử thường liên tưởng ngay đến một cảnh giới cực lạc. Đó là một cảnh giới lý tưởng, đẹp đẽ, an lành mà bất cứ người con Phật nào cũng thường ước mơ được vãng sanh đến sau khi từ giã cõi đời. Đức Thế Tôn đã tuyên xưng rất nhiều cảnh giới Tịnh Độ trong các kinh sách, mà đặc biệt là cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Để đạt đến cảnh giới này, pháp môn Tịnh Độ đặt nền móng tu tập trên ba nguyên tắc căn bản: Tín, Nguyện và Hạnh. Trước hết là lòng tin. Ta tin có sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Tây phương do Đức A Di Đà làm giáo chủ. Tin như thế ta Nguyện sẽ được vãng sanh về cảnh giới này. Nguyện được thể hiện bằng Hạnh qua phương thức trì danh, tức là trong suốt hành trình tu tập của mình ta phải hành trì pháp môn niệm Phật A Di Đà cho đến "nhất tâm bất loạn", thì chắc chắn sẽ được Ngài tiếp dẫn ta về cảnh giới này sau khi ta từ giã cõi đời.
Một cảnh giới Tịnh Độ khác cũng thường được Đức Thế Tôn nhắc tới đó là cung trời Đâu Suất (Tutsia) của Di Lặc, vị Bồ Tát đã được Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ trở xuống cõi trần thành lập hội Long Hoa và trở thành vị Phật tương lai. Nỗ lực của Ngài là hóa độ quần sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ. Quan niệm Tịnh Độ này rất phù hợp với niềm tin và hạnh nguyện của người tu tập theo pháp hành Thiền Quán Âm bởi tính tích cực của nó. Bắt nguồn từ phương châm "Học Phật đạo, hành Bồ Tát đạo", ta sẽ không bao giờ mong cầu mình được sanh về một thế giới cực lạc, hoặc Niết Bàn cho riêng mình. Đây là thông điệp chính yếu của Thần chú Đại Bi, tiếng Phạn là Maha Karuna, mà Karuna có nghĩa là "ngưng tìm kiếm hạnh phúc". Ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc, Niết bàn cho chính ta khi muôn loài chúng sanh chưa hạnh phúc, an lạc, chưa đạt được cảnh giới Niết Bàn, như Đức Di Lặc đã thuyết trong kinh Trang Nghiêm Minh Giác: "Với từ bi ta không trụ nơi cực lạc an bình", có nghĩa là với Đại Từ Bi ta không mưu cầu sự giải thoát cá nhân.
Như vậy, nếu hiểu Tịnh Độ là pháp môn dựa trên căn bản Tín, Nguyện, Hạnh, thì phương pháp hành Thiền sử dụng Thần Chú Đại Bi cũng không xa lìa pháp môn Tịnh Độ, chỉ khác một điểm nhỏ là thay vì trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, chúng ta trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Bi Thần Chú. Đến đây, những hành giả bị ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng Tịnh Độ -những người thường lo lắng đến hậu sự- chắc chắn sẽ nêu ra câu hỏi:
Nhưng rồi sau khi quá vãng, chúng ta, những người tu tập Thiền định -Thiền Quán Âm, nếu không đạt được giác ngộ trong hiện kiếp sẽ vãng sanh về đâu? Thưa bạn, câu hỏi đặt ra thật đúng lúc, vì qủy vô thường có thể đến thăm viếng ta bất cứ lúc nào, tốt hơn hết là ta nên chuẩn bị. Tuy nhiên, bạn cũng đừng phí thì giờ để lo nghĩ nhiều đến vấn đền này vì bạn nhớ không, trong kinh Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa với chúng ta rằng những người trì tụng thần chú Đại Bi chắc chắn sau khi chết sẽ không bị rơi vào con đường ác đạo. Những điều Bồ Tát đã hứa là chắc chắn không thể nào thay đổi, có nghĩa là bạn đã biết chắc một điều rằng mình sẽ không bao giờ bị rơi vào con đường ngạ quỹ, địa ngục hay súc sanh. Như vậy vấn đề còn lại quả thật rất đơn giản: Bạn có quyền tự do lựa chọn cảnh giới Tịnh Độ mà mình mong muốn để được vãng sanh kể cả về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Tuy nhiên, do noi theo hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm, người hành Thiền Quán Âm như đã nói ở trên, không phải chỉ mưu cầu giải thoát cho riêng cá nhân mình mà còn muốn bắt tay vào việc cãi thiện xã hội, môi trường, xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian trên cõi thế, cho muôn loài chúng sanh, trong thời đại mà chúng ta đang sống cho nên gần gũi hơn với Tịnh Độ Di Lặc.
Do tính cách tích cực đó, xin được đề nghị thêm với bạn ba cảnh giới sau đây để suy nghĩ và chọn lựa. Sau khi đã có quyết định, bạn phải phát nguyện ngay cùng Bồ Tát Quán Thế Âm để Ngài thọ ký cho và chắc chắn bạn sẽ được Ngài hiện đến tiếp dẫn trước phút lâm chung, hướng dẫn bạn đến cảnh giới mong cầu:
oTái sanh trở lại cõi trần tiếp tục hành Bồ tát đạo, hoằng pháp lợi sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ.
oVề cảnh giới của Bồ Tát Địa Tạng, tức là xuống cõi địa ngục tiếp tục tu tập cùng Bồ Tát, thực hành công hạnh theo lời nguyện: "Nếu con hướng về cõi địa ngục, địa ngục liền mau tự tiêu tan".
oVề cõi Trời Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc để tiếp tục tu học, cho đến khi nào Bồ Tát giáng trần ta sẽ cùng theo chân Ngài trở lại cõi thế dự hội Long Hoa.
Tuy nhiên, xin được nhắc lại một lần nữa, điều quan trọng nhất là chúng ta hiện đang sống trong cõi thế này, trong giây phút hiện tại này, cho nên công việc trước mắt của người Phật tử chúng ta là phải bắt tay ngay vào việc xây dựng một cõi Tịnh Độ Nhân Gian, tức cũng là cõi Tịnh Độ Di Lặc mà mọi Phật tử đều mong cầu, mơ ước. Đó cũng chính là thông điệp của Thần Chú Đại Bi.
Xin chắp tay trì tụng và hồi hướng công đức vô lượng của Thần Chú này đến muôn loài chúng sanh...
Tâm Hà Lê Công Đa
Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm Thành Đạo, 19/6.
sưu tầm ..bài của THIENDIANHAN
:D:D:D:D:D
HIC ...ĐẠO VỐN KHÔNG LỜI DIỂN ĐẠT
nhưng vì phương tiện độ sanh
khéo dùng trở thành DIỆU PHÁP
qua sông đã sẵn con thuyền
hic hic
........................................
nếu biết PHÁP ÂM vi diệu
phá vở TÂM THỨC đão điên
nếu hiễu sao là TAM MẬT
CÒN GÌ để nói nửa đây
................................
chĩ là tạm dùng phương tiện
như đói thì phãi đi ăn
nếu biết TẠI SAO LÀ PHẬT
làm gì mà có chúng sanh
thân
còn biết nói gì đây hichic
khó thì có khó mà dể thì có dể
VÔ MINH .hành .thức .danh sắc .lục nhập .xúc thọ .ái .thũ .hửu .sinh .tử
hic hic ...huhuhuhu
từ HOAN HỶ ...nghĩa là vui ..dù là vui với việc mình làm hay vui với sự thành tựu cũa mọi người
khi niềm vui ..hoan hỷ hay hỹ lạc ..vẩn tiềm ẩn mả hành giã không thấy biết ...ĐÂY LÀ những CHŨNG TỮ chưa thành ý tưỡng hay niệm ..RẤT VI TẾ ...chĩ có thể thấy nó bằng THIỀN ĐỊNH còn thiền mà chưa ĐỊNH thì khó thấy NÓ ....
đôi khi nó thoáng qua ta nhân ra NÓ ngay ...nhờ TÂM an TỊNH ...
TAM LUÂN KHÔNG TỊCH [không người .không ta ..không cảnh]là 1 pháp rất khó thật hành ....NGƯỜI NÀO THÀNH TỰU NÓ ..người ấy thường là đả được THỌ KÝ từ giới VÔ HÌNH ...
HÀNH GIÃ NÀO THẬT HÀNH DC ...Hành giã ấy chắc chắn đả hiễu dc câu 49 năm TA CHƯA HỀ NÓI LỜI NÀO CẢ cũa như lai
nếu các bạn thấy chưa đầy đũ ...xin hoan hỹ bổ sung để hậu học sau này có thêm kinh nghiệm thực hành trong con đường hoằng dương chánh pháp ..nối chí như lai .thừa hành phật sự
thơ rằng
người hay nói không ta
vây hõi ai hành đạo
ai là người nghe pháp
và ai đang nói đây
cho nên ..vô trụ ..vô sanh ..vô úy ..vô trước ..rất khó hiểu và khó thật hành
thân
Bàn luận tới lui,vậy các bạn biết được ai đã giải thoát nào...tất nhiên trừ đức phật,các vị tổ bắc tông có ai giải thoát nào,kể cả các vị trên tây tạng có ai đã giải thoát nào.
theo bạn ..như thế nào được gọi là GIÃI THOÁT
xin được nghe cao kiến
thân
Nghiệp làm tướng là khổ.
trước tưởng khổ sau mới thấy khổ
không có gì là khổ , tự mình làm khổ nên mới khổ
Sướng ......... khổ.......... trói buộc .......... giải thoát............
Giải thoát đâu cho xa. Chỉ cần đạt giải thoát ngay trong hiện tại cuộc sống hàng này. Thấy đó ... biết đó..... nhưng tâm không dính nhiễm thì đó coi như là giải thoát. Nếu không giải thoát được ngay trong hiện tại mà nói chuyện giải thoát xa với ở tận đẩu tận đâu thì liệu có hợp lý chăng?????
Vô Pháp
Vô Pháp hay tánh không của vạn hữu. Vô pháp có nghĩa là sự hiểu biết chơn chánh về tánh không của ngũ uẩn, không phải vì chúng là ngũ uẩn, mà vì bản chất thật của vạn pháp là không. Theo Bát Nhã Tâm Kinh, "Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát quán ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Theo Phật giáo Tiểu Thừa, ngã là sự kết hợp của ngũ uẩn hay nhiều vật chất hợp lại mà thành, nên không thật (đây là cái không tương đối). Theo Phật giáo Đại Thừa, vạn hữu giai không, từ bản chất đã là không (đây là cái không tuyệt đối)
mỗi ngày 1 bài kệ
gọi là DỤNG tùy duyên
thế nào là khế hợp
DUYÊN chúng sanh ...chẵng đồng
..................................
cãnh trước mặt nói gì ??
nếu TÂM đang quán chiếu
thấy DIỂN BIẾN thế nào
gọi là NGƯỜI TINH TẤN
................................
Ý THƯỜNG HAY MƠ TƯỞNG
hồi quang xem muốn gì
phãn chiều TÌM nguồn cội
LÂU ngày sẽ NGỘ ra
.....................................
bậc thượng căn ĐỐN NGỘ
nhưng cũng phãi THẬT HÀNH
trung hạ căn TIỆM ngộ
CŨNG VỀ GIAĩ thoát thôi
.....................................
viên mãn như trăng tròn
cái một QUI về ĐẠO
THEO TỰ NHIÊN NHI NHIÊN
gọi là VÔ LƯỢNG NGHĨA
.................................
VÔ lượng nghĩa là gì
nếu hiểu rằng THÂT TƯỚNG
CÁC PHÁP VỐN không ta
gọi LIÊN HOA DIỆU PHÁP
..............................
TÙY THUẬN CÙNG TÙY DUYÊN
như HƯ KHÔNG ...VÔ TẬN
dung nạp khắp muôn loài
mà không hề dư thiếu
..............................
như ĐẤT MẸ dịu hiền
con hư hay con dại
mẹ chẳng hề chán bõ
chẵng hề phiền trách chi
................................
3 thời tâm không vường
thời gian DỪNG LẠI NGAY
BỞI tâm không dính mắc
THẬT TƯỚNG đã hiện bày
...........................
vì CÓ chính là KHÔNG
CHĨ do duyên hòa hợp
là KHÔNG TRUNG DIỆU HỮU
NGƯỜI ẤY đã về quê
:happy::happy::happy:
tự mình làm khó mình
rồi tìm cầu GIÃI THOÁT
GIÃI THOÁT CÁI GÌ ĐÂY ???
hiểu rồi thì BUÔNG BÕ
THÂN
buông bõ cái gì đây
nếu là người không có
lấy gì mà buông bõ
hõi người có biết chăng
uế tịnh là ngôn ngữ
tâm thanh thể cũng thanh
ngôn ngữ làphương tiện
tạm dùng tùy duyên thôi
Dạ! vâng ạ! cảm ơn bạn nguoiconhukhong nhiều nhiều!!!!
người làm vì bỗn phận
cho nên người rất vui
người làm vì trách nhiệm
nên hoan hỹ mà làm
............................
bảo rằng ko rằng có
hiểu về người ấy sao
bão rằng không ai thấy ..
hõi rằng CÓ CẦN CHĂNG
.....................
bổn phận người đưa đò .\
.là an toàn qua sông
bôn phân người cầm bút
là sự thật rõ ràng
bổn phận người đưa đò
vượt qua khỏi nghi ngại
bổn phận người đi đò
là không nghi không ngại
thuyền sao không có đáy
đó là tự tánh không
vượt qua sông nghi ngại
vượt qua tướng an lành
bổn phận người đưa đò
dẫu trước và dẫu sau
không xem ta đưa đò
ta là thân tự tại
tùy duyên sanh các pháp
tùy duyên diệt các pháp
nên ta thân tự tại
ta chẳng có đưa đò
mà tùy duyên tâm khởi
quả nhiên
PHẬT PHÁP CAO SIÊU QUÁ NHIỆM MẦU
hahahahaha
thành tựu viên mãn nhé
hahahaha svaha
Giải thoát vốn không khó tại vì ta trói buộc ta thôi ,nhưng ví dụ thực tế con số người được vãng sanh khi tu hành giải thoát là con số bao nhiêu đó là câu trả lời .Câu trả lời là con số bao nhiêu Phật tử có thể liễu sanh thoát tử khi bắt đầu cố gắng tu tập 1 pháp môn nào đó .Quy tựu lại thì do tâm hành giả tự ngăn ngại nên vốn không giải thoát được chứ các con số không là câu trả lời cố định .
Thanh văn hiểu khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo; cũng vậy, Bồ tát học hiểu Phật pháp trên cơ sở bốn Thánh đế ,Duyên Giác quán các pháp vô thường ,vô ngã mà chứng đạo .Con đường tu học của Thanh Văn ,Duyên Giác hay Bồ Tát có dị biệt .
Trước hết Phật Tử lưu ý điều này chút cái cơ bản để phá vô minh là Phật Tử phải thấu được nhân - quả .Thuyết Nhân quả của Phật thuyết ra không phải là để Phật tử cứ gieo nhân tốt rồi mình cứ luân hồi hưởng quả tốt mãi ( hiểu như vậy là đùa với lửa ),mà là yếu tố cơ bản để cần phá vô minh .Tại vô minh là chấp trước ,bất thiện và khổ .
Căn tánh dị biệt ,pháp môn có sai khác bao nhiêu nhưng cơ bản là chúng sanh hiểu khổ và tìm con đường thoát khổ đơn giản như vậy ,nhưng Phật Tử cũng không quên cái chí nguyện Đại Thừa tiến tới đạo quả Bồ Đề .Để có thể đầy đủ siêu việt trí huệ ,siêu việt phương tiện của Như Lai .
Tứ hoằng thệ nguyện không phải là "chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" là đứng đầu hay sao .
giải thoát! mình hông nói đến mấy cái cao siêu đâu nhe!
giải thoát là đây! như zậy là được, zầy là đủ, không cần vướng bận điều gì, rồi từ từ mà ...
Như ăn cơm, như đi làm, v v.
Như bạn ghét ngò gai, nên mỗi lần ăn cơm tiệm mà có ngò gai là cứ gắp, lựa bỏ ra, nhiều lúc ăn trúng một miếng là la làn! ăn mất ngon! tự mình làm mình khổ
Như sinh viên, học sinh đi học đi học đi đi học! học sinh giỏi bị điểm 9 là khó sướt mướt, còn học sinh trung bình được con 5 là đủ rồi!
Như người làm ăn, muốn có nhiều tiền, nên suốt ngày nghĩ cách kiếm tiền, đến lúc ngủ cũng trằn trọc vì suy nghĩ hay mơ thấy núi tiền! hic hic! trong khi đó, nhà bên cạnh với số tiền ít mà vẫn sống đủ!
Nam Mô A Di Đà Phật
úi tôi cũng đang mơ núi tiền đây
chân tình ướt đọng tâm
hoa sen ướt đọng cánh
cánh hoa nâng ngọc minh
trĩu lòng hay trĩu cánh
SVCZ YouTube Player
TÂM là thể muôn PHÁP
DỤNG là HÀNH cũa TÂM
bỡi VÔ SANH BẤT DIỆT
nên TỰ NHIÊN THƯỜNG HẰNG
Thân là hợp ngũ hành
Ngũ hành có luân chuyển
Nên thân tuỳ biến hiện
Do vậy nó vô thường
là cái thấy của trí!
tánh an trụ vô thường
tâm là mây rụng rớt
nguồn cội chẳng đầu đuôi
thường hằng là thật tướng .
chẳng có cũng chẳng không
đềudo duyên khế hợp
nên rằng có rằng không