https://www.youtube.com/watch?v=kF8vRYeIBNE
﹝ 蓮師七句祈禱文 • 每周共修法會 ﹞
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=kF8vRYeIBNE
﹝ 蓮師七句祈禱文 • 每周共修法會 ﹞
http://s2.upanh123.com/2017/03/19/Th...Senge16134.png
Kagyu Gunchoe - Third Jamgön Kongtrül Rinpoche
http://s2.upanh123.com/2017/03/20/vgh09488.jpg
密宗咒轮八种 城市解脱轮 莲花生大士系解脱轮 时运亨通轮
( https://www.taobao.com/product/%E5%9...2%E8%BC%AA.htm )
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/11...771_o5af89.jpg
Khandro-la Trinlay Chodon Rinpoche
( https://shakyashrieu.wordpress.com/guru/ )
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/lamas-heart9fb81.jpg
( https://suvacobhikkhu.wordpress.com/...im-by-waddell/ )
In the Outmost Circle,-” Guard the Body, Mind and Speech of this charm-holder! Rakhya, rakhya, kuruye swaha ! Angtadyatha! Om muni muni mahamuniye swaha.”
(Here follows ” The Buddhist Creed “:-)
“ OM! Ye dharmā hetu prabhavā
Hetum teshān Tathāgato
Hyatha data teshān chayo nirodha
Evam vādi Māha Śramaṇa.1″
(Here follows the Dhyāni Buddhas:-) “Birotsana Om bajra Akshobha
Hung, Ratna Sambhava Hri, Bargudhara Hri, Amoga Siddha Ah!”
In Second Circle.-“ Om! nama Samanta Buddhanam, Wama
Samanta Dharmanam, nama Samanta Sanghanam. Om Sititabatrai.
Om Bimala, Om Shadkara, Om Brahyarigar bajra ustsikhatsa krawarti
Sarbayana manta mūla barma hana dhanamhā. Namkilanibā
makriayena keni chatkramtamtata sarban rātsin rātsin dakhinda
bhinda tsiri tsiri giri giri mada mada hung hung phat phat. ”
In Third Circle.-“Guard the Body, Mind and Speech of this
charm-holder! Mama rakya rakhya kuruye swahā. (Here follow the
letters of the alphabet:-) Ang, a, ā, i, ī, u, ū, ṛi, ṛī, h, H, e, ai, o, au,
ang, a, ka, kh, g, gh, ng, ts, tsh, ds, dsā, ny, ta, th, d, dā, na, ṭ,ṭh, ḍ,
ḍh, ṇ, p, ph, b, bh, m, y, r, 1, w, sh, ṣh, s, h, khy! ”
In Fourth Circe.-“Hung, Hung,” &c.
In Fifth Circle.-“ Hri, Hri,” &c.
In Sixth Circle.-“Om ! Ā ! Hung ! Hri! Guru ! Deva ! Dakkini ! Sarba siddhi pala Hung ! Ā !”
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/57...92400f3550.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/57...9240172189.jpg
遮遣“甲流”利器:邬金药师佛伏藏 法/
转载遮遣“甲流”利器:邬金药师佛 藏修法/特尼上师掘藏 [图片]
( http://blog.163.com/con_grui/blog/st...1222105451598/ )
遮遣“甲流”利器:邬金药师佛伏藏 法/特尼上师掘藏
仁波切手持伏藏法本
邬金药师佛唐卡
法本藏汉对照
法本汉文部分(藏音、汉译):
嗡
嗡
哎玛 让雄益西敦结亚艺那
哎玛 自生智慧胜义无量宫
让热迪谢邬金蔓拉约
本觉善逝邬金药师佛
若匝麼噶桑吉迪谢嘉
无碍游舞佛陀八善逝
需森念让扎炯帕毕措
声闻独觉罗汉菩萨众
让囊玛噶东比隆德萨
自现不灭空界中显明
嗡阿吽 班资尔 格热 班玛 色德 吽 嗡 贝卡贼 贝卡贼 玛哈 贝卡贼 贝卡贼 燃匝呀 萨门 噶迪 梭哈(尽力念诵)
智旺特丹尼玛于心意伏藏虚空库 大界取出,解脱四百二十四疾患,尤 遮遣“人染猪疾(猪流感,又称甲流 感)”病无疑,若持(邬金药师佛心 )十万乃至千万等,驱除病患定无疑 嘱托印!伏藏印!
掘藏缘起:
自甲型流感在全球爆发之后,大 满掘藏上师特尼仁波切非常关注,2009 年中期应邀到内地弘法期间,每至一 都会尽力为弟子做驱除流感的加持, 回藏区后也一直尽力修法回遮甲流全 球流感的疫情。
2009年11月,末学因故前往红原仁 切家中,在上师谈话中有又谈及全球 流疫情,由此末学郑重供养缘起物, 恳请仁波切不舍悲愿为众生观察抉择 除病患及恐慌的方法。仁波切非常感 ,应允当晚即入梦观察。
第二日清晨,仁波切很早即将我 入房中,上师开示:昨夜梦中,首先 现了一片由无尽黑暗笼罩的黑色恐怖 大地,大地之上无数有情哀号不已, 状况惨不忍睹。我心中升起极难忍受 悲悯之心,发起巨极信心向根本上师 无别的莲花生大师祈祷,即在此时在 空中忽然升起了邬金药师佛(莲师药 佛无别)圣尊,圣尊于虚空莲花上安 住,犹如须弥一般的身躯放出无量威 ,刹那之间驱除了无尽黑暗,由圣尊 持的颅碗中涌出无尽甘露遍布大地, 大地之上的悲苦有情畅饮甘露之后, 苦顿消欢喜非常,做歌乐舞蹈……
仁波切言讲,在梦中现见邬金药 佛的同时,一个邬金药师佛的修法在 中显现,其文句清晰明现犹如凿刻在 岩石上的玛呢一般。随之,仁波切取 纸笔,未加思索之下一笔迅疾书写圆 。最后,仁波切在法本按上了两枚指 印,在指印上自然显现了莲花生大师 相与诸佛原始智慧总集种子——藏文 阿”字。
修法利益:
随之,仁波切为末学做了传承的 诵,并对法本做了简单的讲解。诵至 解脱四百二十四疾患,尤其遮遣“人 染猪疾”病无疑”时,仁波切开示:此 金药师佛修法,可遣除一切病患,乃 至众生最重之无明大病,然本法轨有 共之功德,即可以遮蔽遣除当今人类 染了由猪为缘起的疾病,也就是“猪 流感”或称甲流。“若持(邬金药师 心咒)十万乃至千万等,驱除病患定 疑!”即便感染了甲流,如具足净信 如法修持,利根障轻者可以诵持邬金 师佛心咒十万即可遣除患病之苦,顿 障重者诵至千万也必然能遣除病苦。
修法要求:
当末学询问欲修持者如何获得师 的时候,仁波切略作沉吟之后如是开 :“若以密法传规,应该得到灌顶、 传承、引导后方可修持,最少也应是 得传承与开许,然而考虑到能使更多 情能依之修持获益,我开许本法不经 传承也可修持!”
凡得见此法者,皆可由此时开始 持,必获殊胜利益,真诚随喜!
共修计划:
鉴于仁波切近期将至成都做较长 间的居留,仁波切几位成都弟子商议 将在仁波切到达成都时,祈请仁波切 每日领修此殊胜伏藏以共修功德之力 遮全球甲流疫情,遣除众生患病恐怖 苦。以仁波切素来悲悯,应会慈悲应 允,欲参加共修者敬请关注。
有情如幻之身病危时
于大疾苦极难堪忍受
恭敬祈请心中勿疑惧
莲师药师如来无差别
灭除非时夭亡之障难
祈请乌金莲花生大士
如愿加持意乐乃成就
——引自《莲花生大士七章祈请颂》
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/112225938a9ec3.jpg
为何要祈祷莲师?莲师心咒有何功德 益?
( http://rufodao.qq.com/a/20141010/047222_all.htm )
GYALWA DHO KHAMPA SHEDRUB NYIMA
24 Tháng 12 2014 lúc 7:04
CUỘC ĐỜI NGÀI GYALWA DHO KHAMPA SHEDRUB NYIMA, KHAMTRUL RINPOCHE thứ 9
Không lâu sau khi Khamtrul Rinpoche thứ tám viên tịch, theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng liên quan đến sự tái sinh của các Lama cao cấp, Tu viện Khampagar đã thỉnh cầu Đức Gyalwa Karmapa thứ 16, vị đứng đầu trường phái Kagyupa của Phật giáo Tây Tạng, dựa trên mối liên hệ mật thiết của các vị, tiên đoán những chi tiết liên quan đến sự tái sinh của hóa thân kế tiếp. Theo đó, Dorzong Rinpoche, Drugu Choegyal Rinpoche và Tu viện Khampagar đã nhận được một bức thư từ Đức Karmapa vào ngày 6 tháng 7 năm 1981, thứ chỉ ra rõ ràng tên gọi của cha và mẹ, năm sinh của đứa trẻ và địa điểm nơi cậu bé chào đời. Chẳng bao lâu sau, Đức Dilgo Khyentse Rinpoche, vị Lama cao cấp của trường phái Nyingmapa và là đạo hữu thân thiết nhất của Khamtrul Rinpoche thứ 8, cũng gửi tới một bức thư, làm sáng tỏ địa điểm chào đời là Bomdila, Arunachal Pradesh.
Sau đấy, Đại Đức Khenpo Losal từ Tu viện Khampagar, cùng với một nhóm, được cử đến Bomdila để tìm kiếm đứa trẻ, người đã được tìm thấy theo đúng bức thư tiên đoán và các linh kiến.
Khamtrul Rinpoche thứ 9 sinh ra ở Bomdila, vào ngày 6 tháng 12 năm 1980, trong gia đình Phật tử thuận thành ở Arunachal Pradesh, Ấn Độ.
Đoàn người dẫn đầu bởi Khyentse Yeshe Rinpoche, Dorzong Rinpoche và các đại diện của Tăng đoàn Khampagar, của Tashi Jong, đã tới Bomdila để dâng lên nghi lễ công nhận vào ngày 19 tháng 9 năm 1982, và nhanh chóng thỉnh mời cậu bé và gia đình tới Tu viện Khampagar ở Tashi Jong, thung lũng Kangra miền Bắc Ấn Độ.
Ngài được hộ tống về trụ xứ ở Tashi Jong và trên đường đi, đám đông những tín đồ người Tạng và các tu viện của mọi trường phái đã dâng lên những nghi lễ chào đón ở nhiều vùng khác nhau. Ngài tới Tashi Jong vào ngày 7 tháng 11 năm 1982, ngày Phật trở về từ cõi trời.
Đức Dilgo Khyentse Rinpoche đã cử hành lễ tấn phong cho Ngài vào ngày 6 tháng 1 lịch Tạng, tức ngày 18 tháng 2 năm 1983 tại Pháp tòa hoàng kim của Khampa Gar, Tu viện Pal Phuntsok Choekhor Ling thuộc Tashi Jong và ban cho Ngài các giới luật cư sĩ và bồ đề tâm giới cùng với danh hiệu Dho Khampa Shedrub Nyima. Với nghi lễ này, Ngài chính thức trở thành người đứng đầu Tu viện Khampagar ở Ấn Độ và ở Tây Tạng, cũng như trên 200 học viện kết nối với Khampa Gar.
Nghi lễ tấn phong được tham dự bởi vị đại diện của Đức Dalai Lama và lãnh đạo của các trường phái khác thuộc Phật giáo Tây Tạng và của các cộng đồng Hi Mã Lạp Sơn, cũng như Hoàng gia Bhutan, các tu viện chính yếu ở Bhutan và Hoàng gia Sikkim.
Các vị Tokden vĩ đại của Tu viện Khampagar chăm lo cho Ngài và phụng sự Ngài với sự tôn kính lớn lao. Ngài thọ nhận những bài giảng về đọc và viết cùng với các nghiên cứu căn bản khác từ một vài vị Tokden của Khampagar, Khanpo Lhawang từ Tây Tạng và Dorzong Rinpoche. Sau đấy, Rinpoche thọ nhận nhiều bộ quán đỉnh và giáo lý từ Đức Dilgo Khyentse Rinpoche vào các dịp khác nhau ở Ấn Độ và Nepal.
Dorzong Rinpoche đã thỉnh mời Đức Adeu Rinpoche từ Thanh Hải, Trung Quốc đến Tashi Jong, Ấn Độ và Đại Đức Sengtrak Rinpoche từ Nepal để đảm bảo chắc chắn rằng Khamtrul Rinpoche thứ 9 thọ nhận toàn bộ giáo lý và quán đỉnh của truyền thừa Drukpa Kargyud. Theo lời thỉnh cầu của các Rinpoche và Tokden của Tu viện Khampagar, Dorzong Rinpoche đã dâng lên các giáo lý về những bản văn triết học quan trọng của Phật giáo và đặc biệt là các quán đỉnh của truyền thừa Drukpa Kargyud, thứ mà Ngài đã thọ nhận từ Đại Sư Khamtrul Rinpoche thứ 8 – Đức Kalzang Dongyud Nyima.
Đức Gyalwa Dho-Khampa Shedrub Nyima được mời trở lại Tây Tạng, đến Khampagar và tới cả Nangchen Tsechu Gar của Adeu Rinpoche, vị lãnh đạo tâm linh tối thượng của cả vùng Nangchen ở Thanh Hải, Trung Quốc. Tại tất cả những nơi này, Rinpoche được đón tiếp với sự kính trọng lớn nhất từ hàng vạn tín đồ từ Khampa Gar và các nhánh, cũng như từ Tăng đoàn thuộc mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng nơi đó.
Đức Dho-Khampa Shedrub Nyima hiện dành nhiều thời gian nhập thất tại Tashi Jong để nghiên cứu, hành trì giáo pháp. Trong mọi đại đàn tại Tu viện Khampagar, Rinpoche đã chủ trì với tư cách là Kim Cương Thượng Sư và giám sát mọi việc.
Năm 2006, Rinpoche thọ đại giới từ Je Khanpoche của Bhutan và Dorzong Rinpoche thứ 8.
Rinpoche cùng với các thị giả đã có nhiều chuyến hành hương đến phần lớn các Thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ, Thái Lan và Sri Lanka, dưới sự tài trợ của Khyentse Yeshe Rinpoche.
Sự hiện diện của Ngài đã trở thành suối nguồn của hỷ lạc và sức mạnh lớn lao cho sự phát triển các hoạt động của môn đồ gần xa. Kể từ thời nhỏ, Rinpoche luôn điềm tĩnh, từ ái và sự ấm áp chiếu tỏa trong đời sống hàng ngày của Ngài cũng như các phẩm tính khác đều đến từ đời trước của Ngài.
Việt dịch: Liên Hoa Trí.
Mọi sai sót trong bản dịch là lỗi của người dịch. Xin thành tâm sám hối trước Tam Bảo, Tam Gốc.
Mọi công đức có được xin hồi hướng hết thảy hữu tình chúng sinh.
https://vi-vn.facebook.com/Gyalwa.Do...ed_target_id=0
Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche từng nói: “Về các vấn đề quan trọng, chẳng hạn Bổn tôn của tôi, tôi không bao giờ nói chúng cho bất kỳ ai, kể cả những người thân thiết nhất”. Rất hiếm người có thể giữ bí mật, những điều không nên được phát lộ. Nếu bị lộ ra, mọi người đều sẽ biết và nó trở thành “bí mật mà ai cũng biết”. Tổ Sakya Pandita chỉ ra rằng, “Những bậc thượng căn không che giấu một cách không cần thiết, mà giữ các bí mật trọng yếu, dù cho phải trả giá bằng mạng sống”.
~ Khenpo Sodargye
https://scontent.fsgn2-1.fna.fbcdn.n...f9&oe=5964401E
( https://www.facebook.com/KimCuongThu...type=3&theater )
“Đừng tiết lộ bí mật cho bất kỳ ai” đòi hỏi chúng ta phải giữ các bí mật. Các giáo lý về Mật thừa trong Diệu Huyễn Võng (Guhyagarbha Mayajala) giải thích rất chi tiết về bí mật nào có thể được chia sẻ với chư đạo sư và bí mật nào có thể được chia sẻ với huynh đệ kim cương. Những bí mật này, chẳng hạn trạng thái chứng ngộ và các giới luật giữa những huynh đệ kim cương, cần được giữ bí mật hoàn toàn, nếu không Mật giới sẽ bị bẻ gẫy. Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche từng nói: “Về các vấn đề quan trọng, chẳng hạn Bổn tôn của tôi, tôi không bao giờ nói chúng cho bất kỳ ai, kể cả những người thân thiết nhất”. Rất hiếm người có thể giữ bí mật, những điều không nên được phát lộ. Nếu bị lộ ra, mọi người đều sẽ biết và nó trở thành “bí mật mà ai cũng biết”. Tổ Sakya Pandita chỉ ra rằng, “Những bậc thượng căn không che giấu một cách không cần thiết, mà giữ các bí mật trọng yếu, dù cho phải trả giá bằng mạng sống”.
~ Khenpo Sodargye
Một thệ nguyện cực kỳ quan trọng khác là hoàn toàn từ bỏ việc hút thuốc. Theo Kim Cương thừa, thuốc lá được xem là chất tiêu cực nhất, và điều này là bởi rất lâu trước đây thuốc lá thực sự đã bị nguyền rủa bởi một ma nữ. Bất cứ nơi nào có thuốc lá, Kim Cương thừa không thể được truyền bá thành công. Đức Kim Cương Thủ, bậc nắm giữ Bí Mật thừa, có đại nguyện sẽ đến vùng đất nơi thuốc lá – thứ đáng nguyền rủa – phát triển mạnh mẽ, để xiển dương Bí Mật thừa. Ngài không thể làm được bởi sự hiện diện của thuốc lá, nhưng sau đấy, nhờ thần thông, ngài đã đi tới và nỗ lực thu thập thuốc lá và đem nó tới ngoài khơi xa. Không may là, một ít vẫn bị bỏ lại và vì thế đã tiếp tục phát triển và sẽ hiện diện trên thế gian trong thời gian rất dài. Nó là một chất cực kỳ nguy hiểm. Thậm chí chỉ mùi thuốc lá cũng có sức mạnh làm hỏng các chất liệu Mật thừa, như tượng, kinh văn, bảo tháp hay tương tự. Nếu khói thuốc bay xung quanh những vật này, sự thánh hóa bên trong sẽ bị phá hủy. Nếu ai đó đang hút thuốc và tình cờ bạn hít phải khói thuốc, cả hai sẽ đọa vào cõi thấp nhất. Người sử dụng thuốc lá sẽ không thể thành tựu Phowa – chuyển di thần thức vào lúc chết, và thậm chí người cố gắng làm Phowa cho người như vậy cũng sẽ chẳng thành công bởi kinh mạch đã bị chặn; các con cần hiểu rằng việc sử dụng thuốc lá phải được loại bỏ từ gốc. Đây chính là những lời dạy của bậc trì giữ Mật thừa – Đức Kim Cương Thủ.
~ KYABJE YANGTHANG RINPOCHE, Bình giảng về Thực hành Hàng ngày Thành Tựu Bí Mật Phổ Ba Kim Cương Cực Mật, một Terma của Terton Ratna Lingpa.
( https://www.facebook.com/KimCuongThuaVajrayana/ )
========
Người sử dụng thuốc lá sẽ không thể thành tựu Phowa – chuyển di thần thức vào lúc chết, và thậm chí người cố gắng làm Phowa cho người như vậy cũng sẽ chẳng thành công bởi kinh mạch đã bị chặn; các con cần hiểu rằng việc sử dụng thuốc lá phải được loại bỏ từ gốc. Đây chính là những lời dạy của bậc trì giữ Mật thừa – Đức Kim Cương Thủ.
~ YANGTHANG RINPOCHE
Liên Hoa Sinh
“Ngự giá Luân-Niết” cho thấy rằng Đức Liên Hoa Sinh đã đạt được thành tựu rốt ráo và vì thế, kiểm soát được tất cả luân hồi và Niết bàn. Nói cách khác, Ngài đã làm chủ tất cả hiện tượng hữu tình và vô tình.
Đức Liên Hoa Sinh màu trắng ánh đỏ, cầm chày kim cương và bát sọ người trên tay, với chĩa ba đặt ở khuỷu tay. Thông thường, Ngài được vẽ với một vị phối ngẫu, nhưng Kyabje Rinpoche yêu cầu không thêm vị phối ngẫu. Thay vào đó, chĩa ba là biểu tượng của vị phối ngẫu Dakini.
Liên Hoa Vương là một trong nhiều danh hiệu của Đức Liên Hoa Sinh. Theo tiểu sử của Ngài, khi Vua Indrabhuti xứ Orgyen trên đường trở về trên hành trình tìm kiếm kho báu, Ngài đi ngang qua một hồ nước. Ở giữa hồ, Ngài thấy một cậu bé khôi ngô ngồi trên bông sen. Cậu bé này là Liên Hoa Sinh. Đứa vua rất hoan hỷ khi thấy vậy và đưa cậu về cung điện, nơi cậu được nhận nuôi và trở thành hoàng tử. Sau đấy, Đức Liên Hoa Sinh ban quán đỉnh cho đứa vua và trao truyền giáo lý bí mật cho Ngài. Vô cùng hoan hỷ, đức vua dâng tất cả của cải và tùy tùng lên Đức Liên Hoa Sinh và tôn vinh Ngài bằng danh hiệu Liên Hoa Vương.
Đức Liên Hoa Sinh thuộc về Liên Hoa Bộ ở phương Tây. Theo các Mật điển, Ngài là hóa hiện của Đức Vô Lượng Quang và Quán Thế Âm. Trong Lời Cầu Nguyện Vãng Sinh Tịnh Độ Cực Lạc của Tổ Karma Chakme Rinpoche có nói rằng Liên Hoa Sinh bắt nguồn từ ánh sáng phóng từ tim của Đức A Di Đà. Bởi Ngài có sức mạnh kiểm soát luân hồi và Niết bàn, chúng ta cần dâng lên Ngài những lời cầu nguyện chí thành nhất. Nhờ cầu khẩn đến Ngài, những sức mạnh ma quỷ và chướng ngại sẽ được tiêu trừ và chúng ta sẽ kiểm soát được thân và tâm của mình.
Các hành động của Đức Liên Hoa Sinh đã được giảng dạy trong những bài giảng trước của tôi về Bình Giảng Lời Cầu Nguyện Bảy Dòng. Đức Liên Hoa Sinh hiển bày sức mạnh và làm lợi lạc vô số chúng sinh khắp Ấn Độ, Tây Tạng và Trung Hoa. Những hành động của Ngài lớn lao và vô số đến mức chúng chẳng thể tính đếm. Điều này đặc biệt đúng với Tây Tạng. Không có ảnh hưởng của Guru Rinpoche, sự hợp nhất thuận hòa của Kinh thừa và Kim Cương thừa không thể thành công như nó đã từng. Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng trên thế giới và ân phước gia trì của Đức Liên Hoa Sinh là bất khả phân. Nói rõ hơn, nếu không nhờ sự gia trì của Đức Liên Hoa, thậm chí các bạn, người đọc, cũng không thể nhận được lợi lạc từ Phật giáo Tây Tạng. Bởi vậy, chúng ta cần biết ơn Đức Liên Hoa Sinh.
Trong thời kỳ đen tối hiện nay, những giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh đang hiển bày sức mạnh tuyệt diệu hơn bao giờ hết. Về ảnh hưởng của việc chuyển hóa các phiền não tinh thần, không có kiến thức tâm linh nào khác có thể so sánh với những giáo huấn của Đức Liên Hoa Sinh. Dĩ nhiên, vài người có thể không đồng ý, nhưng tôi nói điều này từ kinh nghiệm cá nhân có được nhờ sự hành trì của mình. Đây không phải điều gì đó vô lý để nói thậm chí từ quan điểm khách quan. Nếu tôi muốn tán dương người đầu bếp sau khi tận hưởng một bữa ăn ngon, tôi sẽ làm thế, dù cho nó làm vài người khó chịu, bởi tôi thực sự đã thưởng thức nghệ thuật nấu ăn tuyệt hảo của ông ấy.
( https://thuvienhoasen.org/p38a27452/...-tho-van-phap- )
Mipham Rinpoche dạy rằng đừng bao giờ sử dụng những lời không chân thật, cho dù chủ đề tán dương là bậc thầy gốc của bạn. Với những người sống trong xã hội thế tục, nói sự thật là một phẩm tính quan trọng và điều này còn quan trọng hơn nữa với những người tận tụy với thực hành Phật giáo.
Trong suốt cuộc đời, Kyabje Rinpoche luôn xem trọng Wang Dü. Bất kể thánh địa nào mà Ngài viếng thăm, Ngài sẽ trì tụng bài cầu nguyện này ít nhất ba lần. Tôi cũng trì tụng bài cầu nguyện này khi đi hành hương hoặc khi nào tôi thấy một bức tượng Phật tôn quý. Nếu tôi không có thời gian trì tụng một lời đại nguyện dài hơn, tôi sẽ trì tụng bài cầu nguyện này ít nhất ba lần. Tôi hy vọng các bạn đều hiểu tầm quan trọng của Wang Dü và xem nó là điều mà bạn sẽ tiếp tục thực hành trong suốt cuộc đời.
~ WANG DÜ “ĐÁM MÂY BAN TẶNG ĐẠI ÂN PHƯỚC – Bài Cầu Nguyện “Tự Tại Nhiếp Thọ Vạn Pháp”
Khenpo Sodargye bình giảng
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
( https://www.facebook.com/KimCuongThuaVajrayana/ )
LAMA CHENNO - Gọi Thầy từ Phương xa
- Nguồn gốc của câu Chú Karmapa Chenno -
Việc thực hành quan trọng nhất trong Phật giáo Tây Tạng là Guru Yoga, thiền định và trì chú về Đạo Sư đứng đầu dòng truyền, vốn được xem là Phật sống, là hiện thân của ba thân và thập địa (năng lực phi thường). Trong truyền thống Kagyü, Đạo Sư đứng đầu là Gyalwa Karmapa và câu chú của Ngài là Karmapa Chenno. Người ta rằng tin âm thanh của câu chú này được kết nối trực tiếp với tâm giác ngộ của Ngài Karmapa và mang phẩm chất giác ngộ cũng như mang lại sự giúp đỡ cần thiết nhất cho lợi ích của người thực hành.
Ở đây tôi muốn chia sẻ một câu chuyện về nguồn gốc của câu chú Karmapa Chenno. Câu chú Karmapa có nguồn gốc từ thời Ngài Karmapa thứ 8, Mikyo Dorje (1507-1554) trong buổi giảng dạy về Pháp "Gọi Thầy từ xa".
"Karmapa Chenno" có thể được tạm dịch là "hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật, xin hãy nghĩ đến con". Ở Trung Tây Tạng, Sikkim và Bhutan, câu chú được phát âm Karmapa Kyen-no hoặc Karmapa khen-no. Ở Đông Tây Tạng, câu chú được phát âm là "Karmapa Chenno". Ở các nước phương Tây phát âm phổ biến nhất là Karmapa Chenno và được xem là chính xác.
Một ngày nọ, trong thế kỷ 16, người đứng đầu của một gia đình du mục trong hoang vu, lộng gió bắc Tây Tạng qua đời. Trong một khu vực thưa thớt dân cư như vậy rất hiếm để tìm thấy tu viện và các vị Lạt Ma để thực hiện nghi thức tang lễ Phật giáo, vì vậy gia đình tự hỏi phải làm gì. Sau đó, họ thấy một người rách rưới đi bộ giống như là một yogi hoặc một người hành khất, nên họ yêu cầu giúp đỡ. Người khất sĩ trên thực tế là một Lạt ma. Gia đình đau buồn thỉnh cầu Ngài thực hành nghi thức cho người chết, và Ngài đã đồng ý.
Khi Ngài đến giường của người chết và bắt đầu tụng chú, gia đình trân trọng yêu cầu Lạt ma để thực hiện Phowa (chuyển di thần thức). Tuy nhiên, Lạt ma cho biết: "Tôi chỉ là một người thực hành nghèo, ít học giáo lý của Đức Phật, tôi đã không thực hiện được thực hành bí truyền. Nhưng tôi có một phẩm chất tích cực, tín tâm to lớn ở Đức Phật sống, Ngài Lạt Ma Karmapa. Ngài như cổng lớn để đến Dewachen (cõi tịnh độ của Đức Phật A Di Đà). Tên của Ngài là mật khẩu ma thuật đối với niềm tin tuyệt vời".
Sau đó, ông bắt đầu đọc một lần nữa và một lần nữa câu chú uy lực, "Karmapa Khyenno!" "Karmapa Khyenno, Karmapa Khyenno," ông tụng to, một lần nữa và một lần nữa.
Sau mỗi lần hạt của 108 trì tụng nhiệt thành, ông sẽ gia trì xác chết bằng chuỗi hạt cầu nguyện đó, tin rằng, trong danh hiệu của Đức Phật Karmapa, người chết được tái sinh trong cõi Dewachen.
Sau một thời gian, mọi người đều nhận thấy những dấu hiệu của sự chuyển di thần thức thành công bắt đầu xuất hiện. Tóc từ đỉnh đầu của tử thi đã giảm; có một mùi thơm dễ chịu trong không khí, và một lỗ hở xuất hiện ở đỉnh đầu nơi tâm thức vi tế của người quá cố đã về thế giới khác.
Mọi người có mặt vui mừng, lòng biết ơn và cảm ơn các vị Lạt Ma khất sĩ. Tất cả bắt đầu tín tâm thực hành thần chú của Đức Karmapa, cầu nguyện đạt được sự hỉ lạc tự tại của cõi Tịnh Độ A Di Đà ngay trong đời này.
Vị Lạt Ma hành khất ngay đó tiếp tục hành trình của Ngài. Một hôm, ông nghe nói rằng Karmapa toàn trí đã đến thăm miền nam Tây Tạng, vì vậy ông quyết định đi đến gặp Ngài và tỏ lòng tôn kính.
Cuối cùng Lạt Ma đã đến được điểm hành trình của Ngài. Điều đầu tiên Ngài Karmapa toàn tri nói với anh ấy là: "Đó có phải là một Pháp Chuyển Di Thần Thức (Phowa) khó khăn được thực hiện ở phía bắc không?" Đức Karmapa cười, dùng chuỗi của Ngài chạm vào Lạt Ma.
Ngài Lạt Ma khất sĩ tin 1 niềm tin không thể lay chuyển rằng Karmapa là một vị Phật sống toàn trí, và cho dù các môn đệ của Ngài đang ở bất cứ nơi nào, Ngài luôn đặt họ trong trái tim và tâm trí Ngài.
Từ đó câu chú Karmapa Chenno trở thành câu chú quan trọng nhất để gọi phẩm chất giác ngộ và năng lực của Ngài Karmapa trong truyền thống Kagyü của Phật Giáo Tây Tạng. Tên Karmapa được hiểu không chỉ là tên một số cá nhân cụ thể, mà là những phẩm chất giác ngộ của tất cả Chư Phật và Bồ Tát. Karmapa là một trong những hiện thân của nguồn quy y Tam Bảo, Phật, Pháp và Tăng đối với các đệ tử của Ngài.
Đây là câu chuyện về nguồn gốc của câu chú Karmapa mà tôi đã nghe.
( https://www.facebook.com/phapkhimatt...2771703680521/ )
PRAYER TO KYABJE KUSUM LINGPA
སྔོན་ཚེ་འཕགས་ཡུལ གྲུབ་ཆེན་དྲིལ་བུ པ༔
Before, Mahāsiddha Ghaṇṭapa in India,
བར་དུ་ལྷ་ལུང་དཔལ གྱི་རྡོ་རྗེ་རྩལ༔
In-between, you were Lhalung Palgyi Dorje Tsal
མ་འོང་རིག་ལྡན་སྲ ་པོ་ཚངས་པ་ཆེ༔
In the future, you will be the Kalkin Prince Mahābrahma
པདྨ་གཏུམ་དྲག་རྡོ རྗེ་གསོལ་བ་འདེབས
I pray to you, Pema Tumdrak Dorje Mahābrahma
ཚེ་འདིར་དགྲ་གྱོད ནད་གདོན་རྐྱེན་ངན སེལ༔
Dispel in this life enemies, disputes, illness, demons, and bad circumstances
ཕྱི་མ་པདྨ་འོད་དུ དྲང་དུ་གསོལ༔
And I pray that in the next life you will lead me to Padmabhāsa.
སརྦ་མངྒ་ལཾ༔
LỜI CẦU NGUYỆN ĐẾN ĐỨC KUSUM LINGPA:
Phiên âm:
ngön tsé pakyul drubchen drilbu pa
bardu lha lung pal gyi dorje tsal
ma ong rikden sepo tsangpa ché
pema tumdrak dorje solwa deb
tsé dir dra gyö nedön kyen ngen sel
chima pema ö du drang du sol
Quá khứ là Đại thành tựu giả Ghantapa xứ Ấn Độ,
Ở giữa, Ngài là Tôn giả Lhalung Palgyi Dorje Tsal,
Tương lai tái sinh làm Hoàng tử Mahabrahma của vua Kalki*.
Con cầu nguyện đến Ngài - Đức Pema Tumdrak Dorje
Xin hãy xua tan kẻ thù, tranh đấu, bệnh tật, ma quỷ và nghịch cảnh trong đời này
Và cầu nguyện rằng trong đời tiếp theo, Ngài sẽ dẫn dắt con đến cõi Liên Hoa Quang.
~ Nguyện mọi sự tốt lành.
*vua của xứ Shambhala.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
Mọi sai sót trong bản dịch là lỗi của người dịch. Xin thành tâm sám hối.
Mọi công đức có được xin hồi hướng tất cả hữu tình chúng sinh.