https://www.youtube.com/watch?v=KGsRGiz4hwU
" Pháp - Tổng Quan Kim Cương Thừa " - Sư ông Thích Đạo Ấn giảng 30-12-2013. ( Đĩa 13 )
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=KGsRGiz4hwU
" Pháp - Tổng Quan Kim Cương Thừa " - Sư ông Thích Đạo Ấn giảng 30-12-2013. ( Đĩa 13 )
https://www.youtube.com/watch?v=mNR_pXAM0sc
Đại Lễ Hỏa Tịnh tại Chùa Thiên Phúc Poland cuối năm 31-12-2013.
https://www.youtube.com/watch?v=Znl_dorzWHE
Lễ Hỏa Tịnh tại Thiên Phúc Tự 05-09-2013 .
Thể theo thỉnh nguyện của Đạo Tràng Kim Cương -- Thiên Phúc Tự . Ba Sư ông Thích Đạo Từ, Thích Đạo Tâm, Thích Đạo Giới bố thí cho lễ hỏa tịnh tại Chùa. Buổi lễ thành công viên mãn
https://www.youtube.com/watch?v=u0XNkQxwFao
Sang Offering at Amitayus / Cúng khói tại tu viện Vô Lượng Thọ
Nghi thức cúng khói là một nghi lễ phổ thông của Phật Giáo Mật Tông được thực hành mỗi buổi sáng dùng để tịnh hóa đạo tràng cũng như không khí của đạo tràng. Đồng thời cũng nhắc nhở hành giả các pháp hữu vi như khói sương, tuy có hình nhưng không thật.
https://www.youtube.com/watch?v=FQ6gTU7PIvM
Mật Tông Cương Yếu 01
Thay chu Giang la Thich Pháp Quang
http://s2.upanh123.com/2017/03/12/Gc22ab.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/12/0f47fe.jpg
蓮花生大士系解脫咒輪
( http://kyanbaby.blogspot.com/2016/04/blog-post_21.html / http://blog.sina.com.cn/s/blog_b39ccfb90102uyo2.html )
功德:蓮花生大士系解脫輪 《日月吻合女續》中說:"學密利根者即 生成就,中根者中陰. 下根者來世幻化界得解脫。 索達吉堪布解釋說:確確實實密宗裡 見解脫. 聞解脫、系解脫等一般凡夫所無法想 的眾多方便加特法。 因此蓮花生大士也雲:「現見畫物即成 ,身觸彼者即成佛,聽聞彼聲即成佛 。 ”
使用方法:此解脫咒輪可佩帶和供奉 若需佩帶應祈請上師折疊,也可帖于 室進門之上方,或閘上頂棚處均可。
出處:德格印經院刻版
http://s2.upanh123.com/2017/03/17/65...917688a6af.jpg
药师佛法门修持仪轨》
莲华生大士的伏藏心要
仪轨正文
发心:
生命的目的,是要消除众生所有的苦 内心的苦因,并且令他们获得所希求 平和快乐,特别是圆满佛果无可比拟 的快乐。为此,我必须体魄强健,内 清淨无垢。为了惠泽广如虚空的无量 情,现谨修习药师佛的疗病仪轨。
观想方法:
此法最好在黎明时份修习,但在其他 间修亦可。修时保持平常的相貌,观 脏位于胸部中央,尖端向上,内为八 瓣白莲,中心为月轮,上有药师佛, 殊胜化身相。药师佛的圣身澄明通透 散射深蓝色光,右手持诃梨勒,左手 托钵。
药师佛前方为白药天女所成智;右方 黄药天女俱生财;后方为红林天女孔 项;左方为绿树天女耀明光。天女散 射大乐光芒,一面二臂,右手持诃梨 ,左手持瓶,瓶身饰以众宝。众天女 腿而坐(并非结金刚坐),向药师佛 曲躬礼敬。
念药师佛长咒或短咒七遍、廿一遍、 ○八遍或更多遍:
药师佛短咒:“爹也他 唵 般嘎惹 般嘎惹 吗哈般嘎惹(般嘎惹)惹喳 森木嘎地 梭哈”
药师佛长咒:“唵 南磨 百加哇的 般嘎结 咕噜班都也 趴巴 喇喳也 打他嘎打也 啊克爹 三秒三 不达也 达也他 唵般嘎结 般嘎结 吗哈般嘎结(般嘎结)喇渣 三秒嘎得梭哈”
之后作以下祈请:
薄伽梵明行足善逝(药师佛)与四药师天 女,愿助我免受病苦逼恼,并即时止 种种疾患。
心中的药师佛和四天女散射蓝、白、 、红、绿光,想像心脏和身体充满大 光芒,彻底消除疾患、魔害、恶业和 恶业的印记。五色光芒由每个毛孔向 散射,同时观想药师佛手中的钵、四 女左手所持的瓶流出甘露,遍满心脏 和身体,确信所有疾病从此消灭,并 摆脱所有疾患。
一心专注观想,一面诵药师咒。
如被传染病或其他疾患所苦,念咒后 左掌吐一口唾液,以右手无名指指尖 抹,再把唾液涂在左右鼻孔孔口(即 谓遍行王脉的所在处),然后涂在患处 。
之后尽力多诵梵文子音母音咒,并加 十二因缘咒:
梵文母音咒:嗡 阿阿 以以 乌乌 日以日以 哩哩 耶耶 喔喔 昂阿 梭哈
梵文子音咒:嗡嘎客卡嘎哈额阿杂囃 阿札娘阿炸踏达达哈那大踏塔达哈拿 帕 琶拔玛牙惹阿拉瓦夏客阿萨哈阿喀讶 哈
缘起心咒:嗡 耶达吗嘿堵 札巴娃嘿杜得 看达他嘎豆 海呀哇底 底看杂 育尼 若达 耶汪巴底 嘛哈夏嘛纳耶 娑哈(三遍)唵 阿啊 衣依 乌呜 里哩 娌 浬 诶唉 噢欧 暗 啊 梭哈
OM A AA I II U UU RI RII LI LII E AI O AU AM AH SVAHA
这是莲华生大士的伏藏心要,可免除 者受其他疾病侵害,更能除去现今所 的病苦!!!
迴向:
谨以带来安乐的过去、现在、未来三 功德,愿最圆满的菩提心爱惜众生的 提心,以及自他三世快乐的泉源—— 在自己和他人的心中生起,并愿已生 者辗转增盛!
谨以自身和愿行清淨的诸佛菩萨三世 积的功德,愿如母有情皆安稳快乐!
愿我独力完成此事,并愿三恶道(地 、饿鬼、畜生道)当下成空!
愿诸佛菩萨利益众生的愿望当下圆满 并愿我独力完成这些愿求!
谨以自身和诸佛菩萨三世的功德,愿 获得开悟无上的快乐(开悟即心灵已 离种种过患和圆满种种功德的境地) ,并引领众生臻至正等正觉!
跋:
此疗病仪轨由尊贵的梭巴仁波切在一 九一年九月一日于澳洲墨尔本度母中 译出。发心和迴向部分是随后加插的 。由护持大乘法脉联合会中央办事处Mu rray Wright 在一九九三年五月重新编排格式。此 轨原本由波士顿智慧丛书在一九九四 刊行。其后由护持大乘法脉联合会教 育服务部Constance Miller 师在二零零一年六月增订。
( http://blog.sina.com.cn/s/blog_63d2aae70102vvnt.html )
莲师所传-密相马头明王轮"]莲师所传-密相马头明王轮
http://s3.sinaimg.cn/middle/50ecf213t83de199135e2&690
Công đức nhiễu tháp
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...uc-nhieu-thap/ )
http://kimcuongthua.org/wp-content/u..._n-450x222.jpg
Giáo Pháp vô song, sâu xa, thâm sâu, vi tế, tuyệt diệu
Trong hàng trăm nghìn triệu kiếp thật khó gặp gỡ,
Giờ đây con đã gặp và nghe, thọ nhận và gìn giữ,
Con thề sẽ thấu triệt ý nghĩa chân thực của Thiện Thệ.
Để làm lợi lạc mọi hữu tình chúng sinh, hãy quyết tâm thành tựu Bồ đề tâm quý báu và tối thượng.
Hôm nay, tôi sẽ tận dụng buổi học này để giới thiệu lợi lạccủa việc nhiễu quanh các bảo tháp Phật giáo. Phần lớn Phật tử đều biết về lợi lạc lớn lao từ việc nhiễu tháp. Tuy nhiên, vài người có thể không biết về khía cạnh này nếu các chi tiết nhất định không được giới thiệu. Bởi thế, bây giờ tôi sẽ nói với các bạn về chủ đề này một cách ngắn gọn.
Bảo tháp đại diện cho tâm linh thiêng của tất cả chư Phật. Về mặt lịch sử, bảo tháp tồn tạitrước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – trong Kinh Bách Nghiệp, có một vị vua tên Chakpa. Trong đời quá khứ, Ngài xây dựng bảo tháp Sharira (bảo tháp thờ xá lợi Phật) sau khi Câu Lưu Tôn Phật nhập diệt. Trong thời kỳ của Phật Ca Diếp, có một vị vua tên Zhizhi cũng xây dựng nhiều bảo tháp. Khi Phật Thích Ca từ bỏ đời thế tục và trở thành tu sĩ, Ngài làm vậy trước bảo tháp Brahma Tathagataya. Bảo tháp Swayambhu[1] ở Nepal cũng tồn tại trước sự xuất hiện của nhiều vị Phật. Về khía cạnh này, lịch sử của các bảo tháp khác với lịch sử của tượng và kinh Phật.
Ở Ấn Độ, sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, Vua A Dục đã xây dựng 84000 bảo tháp ở khắp nơi trên thế giới; Tổ Long Thọ cũng xây dựng bảo tháp Sharira; cũng có một bảo tháp Phật giáo ở Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Có nhiều bảo thápĐại thừa và Theravada ở Ấn Độ. Khi bảo tháp được giới thiệu đến Tây Tạng, Vua Trisong Detsen xây dựng nhiều bảo tháp trong đó có Bảo tháp Samye ở U-Tsang và bảo tháp đã lan rộng đến vùng Amdo và Kham, rồi dần dần trên toàn Tây Tạng. Bảo thápQuiyun ở chùa Bạch Mã thuộc Lạc Dương (Trung Quốc) là một trong những bảo tháplâu đời nhất ở vùng Trung Hoa. Nó được xây dựng trong thời phong kiến. Tuy nhiên, vài người tuyên bố rằng Chùa Putong[2] còn lâu đời hơn. Dù thế nào, sau khi Phật nhập diệt, các bảo tháp đã lan khắp cõi Nam Thiệm Bộ Châu (cõi Jambudvipa trong vũ trụ học Phật giáo), và nhiều kẻ chí thành đã dâng những cúng phẩm và đỉnh lễ các bảo tháp này. Đặc biệt, những bảo tháp Sharira được xây dựng bởi Vua A Dục là ruộng phước điền vĩ đại để cả con người và phi nhân tỏ lòng kính lễ và dâng cúng dường nhằm tích lũy công đứclớn lao.
Khi phân loại các bảo tháp, có tám bảo tháp lớn ở Ấn Độ và ở Tây Tạng, các bảo thápKalachakra (Kim Cương Thời Luân) thường được thờ phụng. Theo những nghi lễ của Mật thừa Phật giáo, có nhiều kiểu bảo tháp khác nhau. Có vài bảo tháp trong các Terma của Đức Liên Hoa Sinh, thứ được sử dụng để thực hành Pháp. Theo các bản văn Đại thừa chẳng hạn Niết Bàn Kinh, các bảo tháp Phật giáo khác với bảo tháp của Thanh Văn và Duyên Giác Phật về mặt hình dạng và sức mạnh linh thiêng. Bảo tháp đại diệncho tâm của Đức Phật, theo Mật Tập Kim Cương (Guhyasamaja Vajra), “Một bảo tháplà cung điện nơi chư Phật an trú”. Vì thế, người ta cần xem bảo tháp là cung điện của tất cả chư Phật. Trong Giảng Giải Về Các Giới Luật Gốc Của Phật Giáo Theravada có viết rằng “bảo tháp là Pháp thân”. Về mặt này, theo Kinh Đại Bảo Tích (Maharatnakuta Sutra), “Không có sự khác biệt giữa công đức của những vị dâng cúng dường khi Ta còn sống với những vị cúng dường lên một bảo tháp sau khi Ta nhập diệt. Tại sao vậy? Bởi Đức Phật là sự hiển bày thanh tịnh của Pháp thân chứ không phải Hóa thân hay thân vật lý”. Bởi thế, bảo tháp là biểu tượng của Tam Bảo, nó là đại diện tinh túy của Pháp thân Phật và là hiện thân của Đức Phật.
Có nhiều bảo tháp ở nơi mà Phật giáo phổ biến. Hãy lấy Thái Lan làm ví dụ, dù bạn đến vùng núi non hay thành thị, bạn có thể thấy nhiều bảo tháp dọc đường. Giống như vậy, ở Tây Tạng, người ta có thể thấy những bảo tháp màu trắng ở khắp nơi. Các bảo tháp ở Thái Lan được dát vàng và vì thế có màu vàng, nhưng có lẽ, bởi sự thực là người Tây Tạng chúng tôi nghèo hơn và không có vàng, các bảo tháp màu trắng thì phổ biến hơn. Tôi từng đọc câu chuyện về một quan chức chính phủ, người đã đến đây để kiểm tra, và nói rất không hài lòng rằng: “Tại sao lại có nhiều bảo tháp trắng như vậy? Tôi không hài lòng về điều này!”. (Đây có lẽ là sự hiển bày ác nghiệp của ông ấy. Trong những hoàn cảnh thông thường, một người cần cảm thấy hoan hỷ khi thấy nhiều bảo tháp như vậy.) Chúng tôi, người Tây Tạng, có một truyền thống – khi người Tây Tạng thấy một bảo tháp, tu viện hay tu sĩ, họ sẽ xuống ngựa, cởi mũ và chắp tay. Nếu đang vội và không thể đến gần đỉnh lễ, họ sẽ chắp tay từ trong xe hơi, trên ngựa hay trên đường từ xa. Hành động như vậy cũng tạo ra công đức to lớn.
Những lợi lạc đặc biệt của việc xây dựng bảo tháp đã được giải thích chi tiết trong Kinh Lợi Lạc Xây Dựng Bảo Tháp. Thí Dụ Kinh (Avadana Sutra)[3] liệt kê 10 công đức của việc xây dựng một bảo tháp, chẳng hạn những người xây dựng bảo tháp sẽ không sinhở vùng xa xôi, hay họ sẽ không chịu nạn đói khủng khiếp, họ sẽ không có tà kiến với Phật giáo. Kinh Xây Dựng Bảo Tháp Để Kéo Dài Thọ Mạng[4] cũng giải thích chi tiếtvề bảy lợi lạc chẳng hạn những vị xây dựng một bảo tháp sẽ không chết bất đắc kỳ tử. Bởi vậy, theo các bản văn Đại thừa, chúng ta cần xây dựng các bảo tháp nếu điều kiệncho phép và chúng ta có khả năng. Ở Tây Tạng, nhiều người từ các tu viện hay làng mạc quyết tâm xây dựng bảo tháp. Một năm nọ, Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche yêu cầu tất cả đệ tử xây dựng thật nhiều bảo tháp, điều được đáp lại và dẫn đến việc kiến lập10 000 bảo tháp. (Tôi không nhớ con số chính xác, nhưng nó là một con số rất lớn.)
Khi so sánh, ở Trung Hoa ngày nay, người ta xây dựng ít bảo tháp hơn. Nếu bạn có khả năng trong tương lai, bạn cần xây dựng một bảo tháp ở đâu đó, để những người thấy nó, đi nhiễu hay đỉnh lễ, cuối cùng sẽ đạt giác ngộ. Đức Phật đã dạy chúng ta nhiều lợi lạccủa việc xây dựng bảo tháp trong Vô Cấu Tịnh Quang Đà Ra Ni (Vimala Suddha Prabhasa Mahadharani Sutra) và nói rằng “những người phạm phải ngũ nghịch tội dẫn đến địa ngục Vô gián, nếu anh ta đi ngang qua bóng của một bảo tháp hay nhìn thấy bảo tháp từ xa hoặc nghe thấy tiếng chuông của một bảo tháp, hay nghe thấy danh hiệu của một bảo tháp, sẽ được tịnh hóa năm tội ngũ nghịch hoặc bất cứ nghiệp chướng nào”. Vì thế, những lợi lạc của việc xây dựng bảo tháp là không thể nghĩ bàn.
Dĩ nhiên, một tiêu chuẩn khá nghiêm túc được áp dụng cho việc xây dựng bảo tháp. Nếu nó nằm ngoài khả năng, điều được khuyên là thỉnh một bảo tháp nhỏ, việc tương đối dễ dàng. Đức Phật nói về nhiều loại bảo tháp trong Kinh Lợi Lạc Xây Dựng Bảo Tháp và bảo chúng ta rằng dù một bảo tháp nhỏ bằng lá của cây táo ta hay mỏng như cây kim, nó vẫn có thể đem lại công đức bao la. Những bảo tháp nhỏ như vậy được bán ở nhiều cửa hàng Phật giáo. (Có phải cửa hàng của chúng ta sẽ phát đạt? Bạn có bán bảo thápkhông? Không? Quá tệ … hãy quên nó đi.) Thông thường, xá lợi hay các đối tượng linh thiêng được yểm trong bảo tháp, nếu các bạn không có Mật chú để đặt vào trong, bạn có thể đặt bốn đoạn kệ từ Kinh điển[5] trong bảo tháp, điều cũng được xem là một kiểu xá lợi. Sau đó, đặt nó lên bàn thờ và nó trở thành hiện thân của Tam Bảo. Nếu một người thực sự không có khả năng xây dựng bảo tháp, thì hãy tặng người khác những bảo thápnhỏ làm bằng vàng, bạc, gỗ, đá hay kính, yểm xá lợi và tạo kết nối nghiệp với họ. Hành động như vậy cũng có những lợi lạc to lớn.
Ngoài những bảo tháp với những kích thước tiêu chuẩn, thậm chí những thứ được lũ trẻ làm khi đang chơi đùa cũng có thể đem lại công đức lớn lao. Liên Hoa Kinh nói rằng, “Đám trẻ làm những đụn cát thành bảo tháp, những người làm điều này đều sẽ đạt giác ngộ”. Đôi lúc, khi trẻ nhỏ đang chơi, nếu chúng có những gốc rễ của sự từ tâm, chúng sẽ tạo kết nối tốt lành với các bức tượng hay bảo tháp của chư Phật, điều sẽ trở thànhnguyên nhân giác ngộ cuối cùng. Điều này nhắc tôi về thuở ấu thơ, tôi nghĩ tôi có nghiệp khá tốt. Khi tôi đang chơi đùa với bạn bè hàng xóm, mặc dù chúng tôi sống ở một thung lũng nơi chẳng có cát, chúng tôi thường giả vờ vài viên đá đẹp là bảo tháp và rắc hoa phía trước chúng. Đôi lúc, tôi tìm thấy mảnh xương trắng nhỏ, một vài trong đó có đầu nhọn, một số tròn, và tôi giả vờ chúng là bảo tháp hay tôn tượng rồi lễ lạy và cúng dường. Khi ấy tôi chưa đọc Liên Hoa Kinh, nhưng tôi đã có những trải nghiệm tương tựnhư vậy. Tôi nghĩ chúng dần dần trở thành nguyên nhân của giác ngộ.
Sửa chữa bảo tháp cũng đem lại công đức vĩ đại, như Ma-ha-tăng-kì Luật có viết, “Bố thí hàng nghìn cân vàng cũng không nhiều công đức bằng việc sửa chữa bảo tháp bằng bùn với tâm xao lãng”. Công đức tích lũy được nhờ đóng góp hàng nghìn cân vàng mườicho người nghèo cũng không lớn bằng công đức của việc lấy một đống bùn và nhét vào vết nứt trên bảo tháp. Vì thế năm ngoái, tôi và nhiều Pháp hữu đã sửa chữa các bảo thápở cửa của Phật học viện. Chúng tôi đều biết về những lợi lạc vĩ đại mà nó đem lại.
Trong lúc xây dựng bảo tháp, tốt hơn là làm theo các hướng dẫn. Tuy nhiên, vẫn có công đức lớn lao ngay cả khi người ta không tuân thủ. Vào thời Đức Phật, trưởng lão Sumana đã xây dựng và cầu nguyện đến một bảo tháp ở vùng xa xôi và trong bảo tháp, Ngài đặt ít tóc và móng tay của Đức Phật. Lúc đó, năm trăm A La Hán ở đó và xem bảo tháp là vị Phật thực sự, đi nhiễu và đỉnh lễ mỗi sáng và tối. Trong vùng núi này, cũng có 500 con khỉ, sau khi thấy những nghi thức sùng kính của chư A La Hán mỗi ngày, đã làm một bảo tháp bằng bùn và lễ lạy mỗi sáng và tối. Sau đấy, vùng núi bị lụt, lũ khỉ không thể chạy thoát và bị chết đuối. Lũ khỉ đã tái sinh thành năm trăm vị thiên trong cõi trời, những vị mà nhờ cái nhìn linh thiêng đã thấy rằng nguyên nhân của sự tái sinh về cõi trời là nhờ xây dựng và thờ cúng bảo tháp bằng bùn trong các đời quá khứ. Vì lòng biết ơn, họ đã xuống cõi người và đi nhiễu bảy lần xung quanh di hài của những con khỉ, rắc hoa và cúng dường. Sau đó, họ được nghe Đức Phật thuyết Pháp và chứng thánh quả.
Nhìn chung, một bức tượng hay bảo tháp phải được xây dựng theo những hướng dẫn phổ quát. Tuy nhiên, bởi bảo tháp là những đối tượng linh thiêng, thậm chí xây dựng một bảo tháp không đạt tiêu chuẩn vẫn có thể là cội nguồn của công đức vô cấu nhiễm. Hãy thử tưởng tượng, các bảo tháp được xây dựng bởi lũ trẻ trong Liên Hoa Kinh chắc chắn không theo tiêu chuẩn và có đủ mọi hình dạng bất thường; bầy khỉ mà chúng tavừa nhắc đến, dù khéo léo thế nào, các bảo tháp mà chúng xây dựng không thể so sánhvới con người. Hơn thế nữa, lũ trẻ chỉ đùa vui và bầy khỉ chỉ bắt chước, và khi làm vậy, chúng không làm vậy để đạt giải thoát cũng không kính trọng như một đối tượng linh thiêng. Tuy nhiên, bởi sự thật là đối tượng của hành động là một bảo tháp, công đức lớn lao vẫn đạt được. Bởi vậy, chúng ta không nên khinh thường một cách bất cẩn giáo lýsâu xa như vậy về nhân và quả.
Khi bảo tháp được xây dựng, các lợi lạc của việc đi nhiễu là gì? Theo Chaitya Pradakchina Gatha, “tất cả thiên long, dạ xoa và ma quỷ sẽ đến gần và dâng các vật phẩm, nếu con đi nhiễu quanh bảo tháp theo chiều kim đồng hồ”. Tất cả chư thiên và long, dạ xoa và ma quỷ sẽ đến bên con và cúng dường con, và họ sẽ không cố tình làm hại con. Rất nhiều những lợi lạc khác của việc nhiễu tháp được nhắc đến trong Kinh điển, hãy đọc nó nếu bạn có thời gian rảnh.
Bạn cần chú ý khi đi nhiễu quanh bảo tháp, bạn phải làm vậy theo chiều kim đồng hồ. Hoa Nghiêm Kinh hay Avatamsaka Sutra cũng nói, “đi nhiễu ba lần theo chiều kim đồng hồ”. Đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ là bắt buộc, nếu bạn đi nhiễu theo chiều ngược, bạn không những không có được bất cứ công đức nào mà còn tạo ra ác nghiệp khi làm vậy. Khi đến Ngũ Đài Sơn, chúng tôi đi nhiễu quanh bảo tháp trắng suốt cả ngày. Khi ấy, chúng tôi gặp nhiều hành giả Phật giáo và thậm chí vài tu sĩ đang đi nhiễu theo chiều ngược. Trong số chúng tôi có một vị Lama tên Yangyi. Nhiệm vụ của ông ấy mỗi ngày là ngăn họ làm vậy. Lần nọ ông ấy cầm tay một cô gái trẻ và bảo cô ấy không được đi nhiễu như vậy, nhưng ông ấy không nói được tiếng Trung, vì thế chỉ kéo tay cô gái và làm cô ấy sợ đến mức la lên rằng “đừng kéo tôi, đừng kéo tôi!”. Thực tế là, vị Lama này có ý định thanh tịnh – ông ấy đã xây dựng nhiều bảo tháp ở vùng Daofu và thường in những lá cờ cầu nguyện. Ông ấy đã sáu hay bảy mươi tuổi khi ấy và không quen với phong tục của người Trung Hoa, ông ấy chỉ đứng đó và bảo mọi người không đi nhiễu theo cách thức sai lầm.
Những công đức lớn lao sẽ có được nhờ đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ. Trong một bản văn Phật giáo có nói, ngày xưa, có một nhóm thương gia ra khơi tìm kiếm kho báu, và trên đường đi họ gặp một con cá voi. Khi họ sắp bị nuốt chửng, họ kêu to hồng danhĐức Phật. Con cá voi ngậm miệng lại và chết. Sau này con cá này tái sinh làm người, với tên gọi Xá Lợi Phất, người đến một tu viện và trở thành tu sĩ khi còn rất trẻ và cuối cùng đạt quả vị A La Hán. Nguyên nhân của việc thành tựu thánh quả này là gì? Hóa ra, trong đời trước, ông ấy là một con ruồi và bị thu hút bởi đống phân bò gần bảo tháp. May mắn thay, con ruồi bay xung quanh bảo tháp theo chiều kim đồng hồ. Người khác nói rằng con ruồi đậu trên bãi phân bò, thứ bị cuốn trôi xung quanh bảo tháp. Với công đứccủa hành động này, ông ấy đã đạt được thánh quả vào thời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vì thế, đừng bao giờ xem thường công đức của một lần nhiễu tháp hay thậm chí chỉ lạy một lần trước bảo tháp, bởi bảo tháp là đối tượng linh thiêng với sức mạnh vô biên và thậm chí một hành động tốt lành nhỏ bé cũng tịnh hóa ác hạnh và tích lũy công đức. Trong Kinh Bảo Khiếp Bí Mật Xá Lợi có nói “những người sẽ đọa xuống địa ngục Vô gián, nếu họ lễ lạy một lần trước bảo tháp hay hay đi xung quanh một lần theo chiều kim đồng hồ, họ sẽ đạt giác ngộ”. Vì thế, khi đi qua một bảo tháp, bạn cần đi nhiễu quanh nó, đừng chỉ chụp ảnh rồi rời đi luôn.
Trong trường hợp bạn không thể tìm được một bảo tháp, vài tu viện có thờ di cốt của chư đạo sư, nếu vị đạo sư này là một tu sĩ thành tựu với thiện hạnh lớn lao, bạn cần đi nhiễu quanh di cốt của Ngài. (Sau khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche nhập diệt, không có bảo tháp xá lợi nào được xây dựng nhưng một bảo tháp được kiến lập ở nơi mà Kyabje Rinpoche chào đời và mỗi lần đến đó, chúng tôi đều đỉnh lễ.) Trong trường hợpkhông có bảo tháp thờ xá lợi của một vị đạo sư lỗi lạc, các bạn có thể đi nhiễu quanhtượng Phật trong tu viện. Trong các tu viện Tây Tạng, tôn tượng thường được gắn vào tường phía sau, nên chẳng có khoảng trống để đi quanh nó trong chính điện. Nhưng ở phần lớn các chùa Trung Hoa, một khoảng trống được chừa ra để mọi người đi qua đằng sau bức tượng. Đi xung quanh tượng Phật cho phép sự vun bồi công đức to lớn. Trong Phật Dạy Vua Ba Tư Nặc Kinh có nói “nếu với động cơ thanh tịnh, một người đi nhiễu quanh bảo tháp hay tượng Phật, đời sau, thậm chí kẻ thù cũng sẽ kính trọng người này, và người này sẽ sở hữu công đức và thiện hạnh và trở thành bình chứa Giáo PhápĐại thừa”. Nếu người ta đi nhiễu quanh một bảo tháp hay bức tượng Phật, ma quỷ, người theo dị giáo, chướng ngại hay kẻ thù ngăn cản con đường thực hành Giáo Phápsẽ biến mất và họ sẽ sở hữu tất cả công đức và thiện hạnh, nhờ đó, trở thành bình chứa Giáo Pháp Đại thừa. Nhìn từ bề ngoài, một vòng quanh bảo tháp dường như chẳng phải chuyện gì to tát, nhưng thực sự, công đức rất lớn. Trong quá khứ, khi mọi người đến thăm Patrul Rinpoche, Ngài thường nói rằng: “Xui xẻo thật! Các ông chẳng để lão già này nghỉ ngơi. Tại sao các ông không đi nhiễu quanh bảo tháp xá lợi của thầy tôi – Lama Jigme Gyalwai Nyugu? Cứ vây quanh xác chết của tôi thì có gì tốt?”. Trong Lời Vàng Của Thầy Tôi, Patrul Rinpoche nói về các đời quá khứ của thí chủ Huajie và bảy tu sĩđầu tiên[6] của Tây Tạng. Khi thí chủ Huejie trở thành tu sĩ ở tuổi 100, nhiều A La Hánkhông biết rằng ông ấy sở hữu hạt giống giác ngộ tức thì. Chỉ Đức Phật mới biết. Thực sự, vào thời của Phật Ca Diếp, ông ấy là một con lợn đã chạy quanh bảo tháp khi bị chó đuổi. Với hạt giống tốt lành này, cuối cùng ông ấy đạt được quả vị Niết bàn linh thiêng. Bảy tu sĩ là bảy con sâu trên cây, chúng bị rơi xuống suối, trong đó có một bảo tháp cổ. Lũ sâu bị cuốn đi bởi dòng nước và đi nhiễu quanh bảo tháp theo chiều kim đồng hồ bảy lần và điều này trở thành hạt giống giác ngộ.
Vì thế, nếu có cơ hội, các bạn nên để cha mẹ đi nhiễu quanh một bức tượng Phật hay bảo tháp, những vị có kết nối cát tường với giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ đạt giác ngộ trong Pháp hội của Phật Di Lặc. Nếu họ không tin Phật giáo, bạn có thể lừa họ đi bộ quanh bảo tháp. Nếu đó là một người con, hãy dụ dỗ bằng cách cho kẹo và bảo nó đi theo bạn quanh bảo tháp. Nếu đó là cha mẹ bạn, bạn có thể nói rằng, “Bố mẹ có muốn đi chơi không? Con biết một nơi rất tốt”. Sau đấy, dần dần đưa họ đi nhiễu quanh bảo tháp– “Ồ, vậy là kết thúc chuyến đi!”.
Về bề ngoài, đi nhiễu chỉ một lần quanh bảo tháp có vẻ không phải chuyện lớn, nhưng thực sự, chỉ Đức Phật mới biết được công đức của nó. Trong Kinh Hiền Ngu(Damamukl Nidana Sutra) có đoạn, “Đừng nghĩ rằng thiện hạnh nhỏ bé không đáng chú ý. Thậm chí những giọt nước nhỏ cũng có thể làm đầy bình lớn”. Thành ngữ cổ từng nói: Tòa tháp được xây bằng cát, núi được chất lên từ đất, đại dương hợp thành từ sông, và thiện hạnh được tích lũy nhờ các hành động tốt lành. Thiện hạnh cần được tích lũy dần dần; không thể lập tức có đủ mọi điều cần thiết để trở thành Phật. Thậm chí việc học bắt đầu từ mẫu giáo và dần dần tiến đến người giám sát cho nghiên cứu sinh. Khá là khó để có được bằng tiến sĩ mà thậm chí chưa hoàn thành việc học mẫu giáo. Mặc dù chúng taphải tin tưởng Đức Thế Tôn, chúng ta không nên quá ngạo mạn và các hành động thiện lành nhỏ bé vẫn cần được thực hiện. Liu Bei (Lưu Bị) trong thời kỳ Tam Quốc nói với con trai Liu Chan lúc lâm chung rằng, “Đừng từ bỏ hành động từ ái dù nó rất khiêm nhường, cũng đừng phạm phải ác hạnh dù nó rất nhỏ bé”.
Vì thế, bất cứ khi nào bạn thấy một ngôi chùa hay tu viện Phật giáo, một bức tượng Phậthay bảo tháp, ít nhất hãy đi nhiễu ba lần nếu bạn không có nhiều sức lực hay thời gianđể làm nhiều hơn. Thỉnh thoảng có vài nhóm nghiên cứu hay tổ công tác viếng thăm Phật học viện. Trong những người này, những vị có gốc rễ thiện lành đề xuất rằng họ không chỉ nên nhìn vào Mandala Đại Huyễn Võng[7], mà còn cần đi xung quanh và xem xétcảm nhận. Sau đấy, họ chụp ảnh ở chỗ này và chỗ khác, và vô tình đi nhiễu quanh bảo tháp. Thậm chí nếu những người không-tôn giáo còn như vậy, là Phật tử, chúng ta cần nhấn mạnh tầm quan trọng hơn nữa. Khi có thời gian, chúng ta cần trì tụng vài Mật chú, lễ lạy hay đi nhiễu quanh một bức tượng Phật hay ngôi chùa. Nếu không có, chúng tacần xem các bảo tháp mà chúng ta có là đối tượng được tịnh hóa và đi nhiễu.
Sự đi nhiễu như vậy được xem là rất quan trọng bởi nhiều vị đạo sư Ấn Độ. Khi Đức Atisha đến Tây Tạng, Dromtonpa và các học trò khác hỏi Ngài, “Tại sao Ngài nhấn mạnhtầm quan trọng của việc đi nhiễu quanh bảo tháp đến vậy trái ngược với mọi thiện hạnhkhác?”. Tổ Atisha đáp rằng, “Trong tất cả các hành động tương đối thiện lành, chẳng có điều gì đem lại nhiều công đức hơn việc nhiễu tháp, bởi nó là sự tích lũy thiện nghiệp của thân, tâm. Ở Ấn Độ, có những vị đạt giác ngộ bằng cách đi nhiễu quanh thành thị hay chùa thiêng và có vài người hồi phục khỏi bệnh tật hay đạt giác ngộ nhờ đi nhiễu quanhthánh tượng Quán Thế Âm … Vì thế, mọi người cần đi nhiễu với sự tinh tấn!”. Sau đó, Lama Dromtonpa đã làm như được khai thị và đi nhiễu mỗi ngày. Khi chân của Ngài không còn nhanh nhẹn nữa, người ta nói rằng, Ngài vẫn đi nhiễu với sự giúp đỡ của một thiết bị (có lẽ giống với xe lăn). Ngài kiên quyết đi nhiễu ba lần cho tới ngày qua đời. Khi Tôn giả Atisha đi nhiễu quanh bảo tháp ở Bồ Đề Đạo Tràng, thỉnh thoảng, Ngài nhận được lời thọ ký từ Độ Mẫu Tara, lúc khác từ chư Dakini. Từ những câu chuyện này, chúng ta có thể nói rằng, Ngài Atisha rất nhấn mạnh vào việc đi nhiễu. Ba Huynh Đệ Cao Quý của truyền thừa Kadampa đi nhiễu quanh bảo tháp hay chính điện. Theo những bản tiểu sử nhất định, chư đạo sư vĩ đại như Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Ngài Tsongkhapa, cũng không tiếc công sức để đi nhiễu.
Ở Tây Tạng, đi nhiễu quanh một bảo tháp là hành động rất hoan hỷ. Về mặt này, người Tây Tạng có lợi thế hơn các dân tộc khác. Hãy lấy ví dụ về bảo tháp trắng vĩ đại của Ngũ Đài Sơn, đó là một bảo tháp linh thiêng ở vùng Trung Hoa, vì thế người Hán cần phải chiếm đa số ở đó, nhưng người ta nói rằng, ngày nay, phần lớn những người đang nhiễu tháp là người Tây Tạng. Khi Trung Quốc chưa mở cửa, chỉ có người Tây Tạng ở phía trước Đại Bảo Tháp Boudha (Jyarung Khasyor) của Nepal, ngoài người Tây Tạng, có rất ít người Nepal, Ấn Độ hay quốc gia khác đang đi nhiễu. Hoàn cảnh tương tự cũng có thể thấy ở Bồ Đề Đạo Tràng. Đặc biệt ở Thái Lan, nhiều người không biết gì về việc nhiễu tháp, vài người thậm chí đi ngược chiều. Khi ấy, tôi không thể chịu đựng sự thậtrằng thậm chí công đức được ghi chép lại trong kinh văn cũng bị thờ ơ ở một nơi mà Phật giáo thịnh vượng đến vậy. Tôi đã viết nó lại trong nhật ký hành trình của mình.
Tôi hy vọng rằng, nhờ bài giảng này, bất cứ khi nào các bạn thấy một bảo tháp Phật giáo, bạn sẽ không chỉ nhìn ngắm nó, mà còn đi nhiễu quanh nó ít nhất ba lần, dù lịch trình có bận rộn đến đâu. Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche đang đi nhiễu quanh các ngọn núi thiêng, dù lịch trình rất bận, Ngài vẫn đi ít nhất ba vòng. Khi bạn lái xe qua một bảo tháp, bạn cũng cần đi vòng quanh nó một lần. Trên đường đến Mã Nhĩ Khang (Barkam), có một bảo tháp gần Kim Xuyên (Jinchuan) được thánh hóa bởi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche. Mỗi lần đi ngang qua, tôi sẽ lái xe quanh nó một lần. Tôi hy vọng rằng bất cứ khi nào thấy một bảo tháp, các bạn sẽ có thói quen đi nhiễu quanh nó. Nếu hành hươngđến một bảo tháp Phật giáo, các bạn cần chăm chỉ đi nhiễu.
Thực sự, vùng Trung Hoa cũng có lịch sử về việc đi nhiễu tháp. Trong triều Đường, có một vị trưởng lão là Pháp Sư Zilin, khi Ngài muốn từ bỏ đời sống thế tục, Ngài gặp nhiều chướng ngại to lớn, cha mẹ Ngài phản đối mạnh mẽ, vì thế, Ngài buộc phải chạy tới Tu viện Guang’ai ở Đông Thành, nơi Ngài trở thành tu sĩ. Nhiều năm sau, Ngài trở lại quê nhà và phát hiện ra rằng mẹ Ngài đã mất và cha Ngài bị mù. Rất đau buồn, Ngài đến Chùa Yue để tụng Liên Hoa Kinh nhằm tìm xem mẹ Ngài đã sinh về đâu. Đêm đó, Chúa Tể Đỉnh Đông báo mộng rằng mẹ Ngài đã tái sinh không tốt, nhưng nếu Ngài hành hương đến bảo tháp Sharira của Tu viện Vua A Dục, mẹ Ngài có cơ hội được giải thoát. Ngài lập tức lên đường hành hương và lễ lạy ở đó trong nước mắt và sự đau buồn, và khi Ngài lạy được bốn mươi nghìn lần, Ngài thực sự nhìn thấy mẹ Ngài trên trời, nói với Ngài rằng bà đã rời khỏi cõi xấu để sinh về cõi trời.
Hơn thế nữa, trong triều Thanh, có một vị “tu sĩ chạm đầu” từ Tu viện Baotong ở Wuchang, người có thể chữa lành bất cứ căn bệnh nào dù nặng hay nhẹ bằng cách chạm nhẹ tay. Tại sao tay ông ấy có năng lực chữa lành diệu kỳ như vậy? Người ta nói rằng, có một ngôi chùa trong Tu viện này, nơi mà ông ấy đi nhiễu mỗi ngày, chạm tay vào gạch của ngôi chùa, lặng lẽ trì tụng Mật chú Đại Bi. Bởi ông ấy liên tục đi nhiễu trong mười năm và không bao giờ ngừng dù chỉ một ngày, bàn tay ông ấy đạt được sức mạnhkỳ lạ như vậy.
Dù trong triều Đường hay Thanh, có rất nhiều câu chuyện về những bậc đạo sư vĩ đại đi nhiễu quanh bảo tháp Phật giáo. Bây giờ chúng ta cũng cần ủng hộ điều này, đặc biệt với hành giả cư sĩ. Họ cần đi nhiễu quanh các bức tượng Phật hay bảo tháp ở tu việnthường xuyên hơn. Ngày nay trong các tu viện, có nhiều người lễ lạy hay thắp hương, nhưng rất ít người đi nhiễu. Một ngày, chúng tôi đến đỉnh lễ nhục thân của Đệ Lục Trưởng Lão. Khi ấy, chúng tôi đi nhiễu nhiều lần, nhưng vẫn có nhiều người không đến và đi nhiễu. Tôi chẳng biết làm gì khác ngoài việc hét to: “Nào, hãy đến và đi nhiễu cùng tôi!”. Vì thế, họ đi theo tôi và đi nhiễu vài lần. Sau đấy, nhiều người muốn dừng lại, không phải bởi họ nghĩ không có công đức nào đến từ hành động này, mà bởi nhiều người không biết về mức độ lớn lao của công đức mà họ có thể đạt được. Thực sự, nhiều đạo sư Phật giáo Trung Hoa nhấn mạnh vào điều này. Trưởng lão Bổn Hoán đã tròn 100 tuổi vào năm ngoái, hôm sau tôi đến đỉnh lễ Ngài, sau khi thọ trai, Ngài nói, “Hãy cùng đi nhiễu quanh bức tượng Phật!”. Ngài đi rất nhanh; đôi lúc chúng tôi không thể theo kịp. Vì thế, người Hoa cần nhấn mạnh nhiều hơn tầm quan trọng của việc phổ biến việc đi nhiễu, nếu không, nhiều người sẽ có quan niệm không đúng đắn về mặt này.
Khi đi nhiễu, chúng ta cần trì tụng điều gì? Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche dẫn chúng tôi đi nhiễu quanh đại bảo tháp ở Bồ Đề Đạo Tràng, chúng tôi trì tụng đoạn kệ từ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương – “Nguyện sức mạnh của hành động được tịnh hóa, sức mạnh của phiền não bị phá hủy, sức mạnh tà lực của ma vương được điều phục và sức mạnh hành động của Phổ Hiền Bồ Tát được viên thành”. Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche dạy chúng tôi rất nhiều về những công đức lớn lao của việc trì tụng đoạn kệ này và nói rằng nếu chúng ta có thể hoàn thiện bốn sức mạnh này, thực hành bất cứ Pháp nào cũng sẽ thành công. Vì thế, khi bạn đi nhiễu trong tương lai, nếu bạn không có cách thức đi nhiễu đặc biệt của riêng mình, điều khá tốt lành, hãy trì tụng đoạn kệ này từ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương.
Công đức của việc nhiễu tháp là vô biên, nếu bạn có thời gian, bạn cần đi nhiễu quanhmột bảo tháp. Có nhiều bảo tháp ở khắp nơi xung quanh Phật học viện của chúng ta, trong đó Bảo tháp Mandala là đặc biệt nhất. Khi nó được xây dựng, Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche chôn giấu 100 Terma cực kỳ lợi lạc gồm các bức tượng Phật và tượng Ấn Độ cổ bên trong. Bên trong cũng được yểm nhiều Pháp khí linh thiêng vô giá, thứ ban tặng giải thoát qua sự thấy, sự nghe, sự xúc chạm, chẳng hạn xá lợi của Tổ Namchos Migyur Dorje[8], điều được Ngài và nhiều vị Lama vĩ đại khác gia trì. Chỉ nhìn thấy Mandala không thôi cũng vô cùng lợi lạc. Trong Phật giáo Bí Mật, có nhiều bằng chứng về mặt giáo lý liên quan đến điều này, Đức Kim Cương Thủ rằng, “những ai thấy Mandala sẽ được tịnh hóa khỏi mười một kiểu thệ nguyện samaya gốc và 25 thệ nguyệnsamaya nhánh và đạt được thân, khẩu, ý, công đức và hoạt động bất khả tư nghì của Thiện Thệ”. Trong Mật Điển Giải Thoát Qua Sự Nghe có nói, “những người thấy Mandala sẽ đạt giác ngộ trong vòng 7 đời”. Mật điển An Bình Và Phẫn Nộ nói rằng “những người chưa thực sự thấy Mandala nhưng đã nghe danh hiệu Mandala của vị Bổn tôn chính sẽ tránh khỏi đọa địa ngục”. Bởi thế, khi thời gian cho phép, tôi hy vọng mọi người có thể viếng thăm và đi nhiễu quanh Mandala Đại Huyễn Võng, nơi được đích thân Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche gia trì. (Nhiều hành giả nam và nữ thường đến đó, nhưng ở đó lộng gió đến mức họ gần như trở thành những người châu Phi.)
Khi đi nhiễu, các bạn có thể trì tụng danh hiệu của Đức Bảo Tràng Như Lai, hoặc trì tụng Mật chú nhiễu tháp, điều có thể nhân công đức lên một nghìn lần[9]. Mật chú nhiễu tháplà:
OM NAMO BHAGAWATE RATNA KITU RATZAYA TATHAGATAYA ARHATE SAMYAKSAM BUDDHAYA TAYATA OM RATNE RATNE MAHA RATNE RATNE VIZAYA SOHA[10]
(Hãy ghi nhớ thật tốt, nếu không nó có thể không hữu ích! Khi chúng ta trì tụng Những Bài Ca Chiến Binh Của Vua Gesar, cuối mỗi bài đều có đoạn “Hãy ghi nhớ càng nhiều càng tốt, nếu không, sẽ không thể lặp lại”.)
Theo những giáo lý liên quan, có nhiều công đức trong việc đi nhiễu quanh Mandala của chư Bổn tôn an bình và phẫn nộ. Mật Điển Sám Hối Vô Cấu Nhiễm nói rằng “bất cứ ai đỉnh lễ vị Bổn tôn của Mandala an bình và phẫn nộ của Đại Huyễn Võng, mọi giới nguyện bị vỡ có thể được tịnh hóa, mọi ác nghiệp dẫn đến cõi địa ngục Vô gián có thể được tẩy trừ”. Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche thường trích dẫn điều này. Thực sự, giáo lý này không chỉ được tìm thấy trong Mật Điển Sám Hối Vô Cấu Nhiễm, mà còn trong nhiều bản văn nghi lễ của các Terma. Nếu chúng ta lễ lạy Mandala an bình và phẫn nộ với sự kính trọng, các thệ nguyện Samaya gốc và nhánh có thể được tịnh hóa và thậm chí ngũ nghịch tội dẫn đến địa ngục Vô gián cũng có thể được tịnh hóa. Các hành giả ở đây rất gần với Mandala Đại Huyễn Võng, thật đáng tiếc nếu các bạn không đi nhiễu quanh nó sau thời gian dài ở Phật học viện, giống như bà lão sinh ra ở Lhasa nhưng chết mà không thấy bức tượng Jowo Rinpoche.
Có vài người nghĩ rằng đi nhiễu quanh các bảo tháp, trì tụng Mật chú, tụng hồng danhĐức A Di Đà hay quay kinh luân là dành cho những người có căn cơ thấp hay kẻ ngu dốt, hoặc hành động thiện lành dành cho người già. Điều mà chúng ta cần làm là nghiên cứu Năm Đại Luận [các bộ luận không chỉ dành riêng cho Phật giáo Tây Tạng, cũng không của riêng Hiển giáo], và chúng ta không cần những kiểu thực hành này. Lối suy nghĩ như vậy là vô lý. Trong Kinh Thập Địa có viết “thậm chí chư Bồ Tát từ địa thứ nhất đến địa thứ chín cần cúng dường và tỏ lòng kính lễ bức tượng của chư Phật của ba thời”. Chưa kể đến chín cấp độ, chúng ta thậm chí chưa đạt đến con đường của sự tíchlũy hay con đường của các thực hành sơ khởi, vì thế, không nên dễ dàng phá hủynhững gốc rễ tốt lành của hành động thế gian. Bồ Tát Địa Luận dạy nhiều nguyên tắc về cách chư Bồ Tát cần cung kính và cúng dường lên Thế Tôn. Thậm chí những vị Bồ Tátvĩ đại cũng cần hành xử như vậy, chúng ta, người chưa bước vào con đường Đại thừa, không nên xem nhẹ bất cứ hành động tốt lành nào.
Có lẽ, những người nhất định nghĩ rằng họ là những Bồ Tát vĩ đại, nhưng điều đó cần vài sự xem xét. Trước đây có một vị Lama già tên Kerang. Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche dạy chúng tôi về công đức của Bồ đề tâm và nói rằng, “Các con đều đã thọ nhận giới luật linh thiêng của chư Bồ Tát, vì thế từ nay trở đi, các con có thể được gọi là Bồ Tát vĩ đại”. Vì thế, ông ấy gọi mình là “Bồ Tát vĩ đại” mỗi ngày. Khi ai đó đắn đo về những lời của ông ấy, Lama Kerang nói một cách nghiêm túc rằng, “Các ông đang nói rằng một vị Bồ Tát vĩ đại như tôi sẽ nói dối? Không thể nào!”. Ai đó lại hỏi, “Ông thực sự là một vị Bồ Tát vĩ đại?”. “Dĩ nhiên! Chẳng phải Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche đã nói vậy với chúng ta? Tôi là một vị Bồ Tát vĩ đại”. Tôi băn khoăn có phải các bạn đều nghĩ rằng mình là đại Bồ Tát. Thực sự, chư Bồ Tát chân chính là những vị đạt đến bát địahoặc cao hơn, và khi ấy mới có thể được gọi là Bồ Tát vĩ đại.
Vài người thậm chí còn chưa bước gần đến con đường của sự tích lũy, nhưng đã tự cho bản thân không còn cần trì tụng Mật chú hay tụng hồng danh Phật A Di Đà thêm nữa, họ cũng không cần đi nhiễu, bởi đây là hành động của những người với căn cơ thấp. Những ý nghĩ như vậy thật vô lý. Bất cứ điều gì mà chúng ta làm, chúng ta cần đánh giáhành động bằng lời dạy của Phật, nếu Phật nói rằng nó là phước lành theo giáo lý Đại thừa, thì sẽ không có nghi ngờ hay sự lừa dối nào về nó, chúng ta phải tin tưởng 100% và làm theo điều mà Đức Phật đã dạy. Kinh Định Vương nói rằng, “Thậm chí nếu bầu trời và các vì sao rơi xuống từ bầu trời, đất đai và đại dương, thành thị và thị trấn sụp đổ, khoảng không vẫn không khác nhưng bên trong thay đổi, và Thế Tôn không bao giờ thốt ra một từ không thật. (Bản dịch Tạng ngữ có đôi chút khác biệt với bản Hoa ngữ.)”[11]Điều này nghĩa là, dù cho các vì sao, mặt trời và mặt trăng rơi xuống từ bầu trời, đại dương khô cạn và mặt đất tách rời, Thế Tôn không bao giờ nói dối. Vì thế, với niềm tinlinh thiêng, chúng ta phải tin tưởng tất cả Kim Cương khẩu của Phật; chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ điều Ngài đã nói. Lúc nào đó nếu chúng ta rối loạn, điều này chỉ bởi vì sự vô minh của bản thân mà chúng ta không hiểu. Nếu chúng ta thực sự hiểu, những lời dạy của Đức Phật không thể sai lầm. Với kiểu kính trọng này, chúng ta cần đi nhiễu quanh các bảo tháp Phật giáo.
Về cách quán tưởng khi đi nhiễu, nó được viết trong các giáo lý của Vua Songtsen Gampo. Ví dụ, khi đi nhiễu quanh thánh tượng Quán Thế Âm, chúng ta cần quán tưởngrằng, bên ngoài, chư Phật và Bồ Tát đều hòa nhập vào bức tượng Quán Thế Âm, bên trong, tất cả chư đạo sư của truyền thừa hòa nhập vào bức tượng, và bí mật, chư Không Hành Nữ (Dakini) và Bổn tôn (Yidam) hòa nhập vào bức tượng, và sau đó trì tụng “OM MANI PADME HUM” khi đi nhiễu. Trong lúc đi nhiễu, ánh sáng chiếu tỏa từ Quán Thế Âm hòa vào chúng ta, mọi tội lỗi phạm phải bởi thân, khẩu và ý được tịnh hóa. Nhiều người với thiện hạnh lớn lao nói rằng họ có thể mở rộng phạm vi quán chiếu, nhưng nếu không thể, ít nhất hãy quán tưởng phần này. Ví dụ, nếu bạn đi nhiễu quanh một bảo tháphôm nay, hãy quán tưởng rằng bảo tháp này là sự kết tập ân phước gia trì từ chư Phật và Bồ Tát khắp mười phương. Khi đi nhiễu, ánh sáng chiếu tỏa tịnh hóa tất cả ác nghiệpphạm phải trong vô lượng kiếp. Trì tụng Mật chú nhiễu tháp là điều được đề nghị. (Tôi thực sự không phải là một người hâm mộ nhiệt thành nhưng) Nếu các bạn không thể, hãy trì tụng OM MANI PADME HUNG hay Mật chú trăm âm hay thần chú của Đức Kim Cương Tát Đỏa. Khi đi nhiễu, tôi thường trì tụng Mật chú Kim Cương Tát Đỏa bởi tôi đã phạm phải quá nhiều nghiệp chướng trong vô số kiếp quá khứ và đời hiện tại, và bởi vậy, cần nương tựa vào Mandala như vậy của Đấng Tôn Quý để tịnh hóa tội lội. Mỗi lần chúng ta quán tưởng ánh sáng phóng tỏa từ Mandala, tội lỗi phạm phải bởi thân, khẩu và ý có thể được tịnh hóa.
Về số lần đi nhiễu, Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche từng nói rằng, tốt nhất là đi nhiễu hơn 10 000 lần, trung bình đi nhiễu hơn 1000 lần và ít nhất đi nhiễu hơn 100 lần. Đức Dalai Lama thứ 7 – Kelzang Gyatso nói, “Số lần đi nhiễu cần giống như pháp tu 500 000, vì thế 100 000 là con số tốt nhất”. Là người bình thường, chúng ta đi nhiễu càng nhiều càng tốt. Đừng chỉ đi nhiễu ba lần đã thở không ra hơi và nói, “Tôi không làm nữa, tôi sẽ về nhà!”. Vài người không cảm thấy hết hơi khi phạm ác nghiệp nhưng về thiện hạnh, thân thể không thể chịu đựng thêm hay tâm trạng của họ bắt đầu trở nên xấu đi.
Các bức tượng và bảo tháp Phật giáo là ngọc báu như ý thực thụ; chúng có lợi lạc và ân phước lớn lao cho đời này và các đời sau. Nếu chúng ta có được sự hiểu vững chắc về điều này, sau đó nương tựa nó, chúng ta chắc chắn thoát khỏi nghiệp chướng, mở rộngtrí tuệ, kéo dài tuổi thọ và mọi mong ước đều trở thành hiện thực. Đây là sức mạnh gia trìkhông thể tưởng tượng của Tam Bảo. Chúng ta có bằng chứng về mặt giáo lý và lý thuyết; vì thế, chư đạo sư thành tựu trong quá khứ đã nhấn mạnh vào việc đi nhiễu quanh bảo tháp và tượng Phật.
Tôi hy vọng rằng trong tương lai, khi đi nhiễu, tâm thức các bạn sẽ thanh tịnh và xem bảo tháp là bảo tháp của kho tàng, thứ là sự tích lũy công đức của thân, khẩu và ý của Phật. Hôm khác khi tôi trên đường đến Thanh Hải, có một bảo tháp Phật giáo mà trong đó có thờ tóc của Vua Tri Ralpachen. Chúng tôi nghĩ rằng đó là một cơ hội tốt lành để đi nhiễu và có cảm giác mạnh mẽ về điều này. Khi tôi đang đi nhiễu, những giọt nước mắt cứ tuôn ra, bởi Vua Tri Ralpachen là vị vua rất kính trọng Phật giáo. Bất cứ khi nào Ngài thấy một tu sĩ, Ngài sẽ để tóc xuống sàn và để vị tu sĩ đi lên đó. Trong bảo tháp này là tóc quý giá của Ngài, tôi cảm thấy vô cùng ân phước khi thấy một bảo tháp như vậy trên đời.
Thực sự, các đối tượng thù thắng như bảo tháp ở khắp nơi; chỉ là chúng ta quá ngu dốt nên không biết giá trị của chúng. Bởi chúng ta đã hiểu nhiều hơn, chúng ta cần làm như thế – đầu tiên đi nhiều càng nhiều càng tốt khi gặp một bảo tháp và nếu thời gian cho phép, đi nhiễu bất kể ngày đêm. Khi tôi đang học ở Trường Sư Phạm Garze, có một phòng cung điện Kyabje (nghĩa là phòng của đấng bảo hộ). Tôi đi nhiễu mỗi sáng, trong cả ngày và buổi tối. Vì thế, chúng ta không nên dừng lại ở một hay hai vòng mà hãy đi nhiễu càng nhiều càng tốt. Thứ hai, như các bản văn Phật giáo có viết, chúng ta cần đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ, đây là điều được hướng đến hành giả Phật giáo nhất định. Chúng ta cần nhớ hai điểm này. Sau khi đi nhiễu, chúng ta cần trì tụng một vài bản văn hồi hướng đơn giản hoặc mở rộng, hồi hướng công đức vì sự giác ngộ của mọi hữu tìnhchúng sinh.
Dĩ nhiên, cúng dường, đỉnh lễ và thậm chí lau dọn các bảo tháp mang lại rất nhiều công đức, nhưng bởi thiếu thời gian, tôi không thể nói nhiều ở đây. Nói ngắn gọn, công đứccủa việc nhiễu tháp là vô biên, chúng ta cần phát triển niềm tin không dao động!
Để thực hành hành động trí tuệ của Đức Phổ Hiền,
Con nay hồi hướng tất cả gốc rễ thiện lành được vun bồi
Để tuân theo chúng bằng những nghiên cứu miên mật.
Được tất cả chư Phật ba thời tán dương,
Đó là những đại nguyện oai nghiêm nhất;
Con nay hồi hướng tất cả gốc rễ thiện lành được vun bồi
Để đạt được hành động tối thắng của Đức Phổ Hiền.
Các câu hỏi để quán chiếu:
Bảo tháp Phật giáo đại diện cho điều gì? Công đức của việc xây dựng, sửa chữavà đi nhiễu quanh bảo tháp là gì? Hãy giải thích với những bằng chứng giáo lý đặc biệt.
Có công đức hay không nếu người ta xây dựng một bảo tháp hay đi nhiễu quanhnó với tâm tán loạn? Tại sao?
Nếu bạn không có một bảo tháp ở vùng xung quanh, làm sao bạn có thể tích lũy công đức về mặt này? Làm sao bạn có thể giúp cha mẹ và bạn bè tích lũy kiểu công đức này?
Từ thời cổ xưa cho đến nay, kiểu thái độ nào mà chư đạo sư Phật giáo vĩ đại dành cho việc đi nhiễu? Bạn cảm thấy thế nào về điều này?
Bạn cần trì tụng điều gì khi đi nhiễu tháp? Bạn cần thiền định thế nào? Sau khi biết được những công đức thù thắng đến từ một bảo tháp, hai hoạt động bạn cần làm gì?
Bạn đã thấy kiểu bảo tháp Phật giáo nào? Bạn đã làm gì khi ấy? Sau khi nghiên cứu bài học này, bạn sẽ làm gì trong tương lai? Làm sao bạn có thể nói cho nhiều người hơn biết về công đức của việc đi nhiễu bảo tháp theo chiều kim đồng hồ?
Nguyên tác: The Merits of Circumambulating Stupas(http://www.khenposodargye.org/2013/0...lating-stupas/).
Đức Khenpo Sodargye giảng
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
Mọi sai sót là lỗi của người dịch, xin thành tâm sám hối.Mọi công đức có được xin hồi hướng tất cả hữu tình chúng sinh, nguyện sớm đạt thành Phật quả.
[1] Bảo tháp Swayambhu là bảo tháp Phật giáo cổ nhất trên thế giới. Theo các tài liệu lịch sử, khi tuổi thọ con người là 10 000 năm, bảo tháp pha lê cao khoảng 30 cm được tạo thành một cách tự nhiên từ trí tuệ của chư Phật; trong thời của Câu Lưu Tôn Phật, toàn bộ Nepal là đại dương, bảo tháp này xuất hiện từ đại dương; vào thời của Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, bảo tháp này được gọi là bảo tháp ngữ vô ngại của cõi giới của sự thực; vào thời của Phật Ca Diếp, Ngài Jide mở rộng bảo tháp này để bảo vệ nó, cho đến ngày nay, bảo tháp vẫn an nhiên ở đó.
[2] Theo các tài liệu lịch sử, việc xây dựng bảo tháp Putong ở Quận Hà Bắc bắt đầu từ Năm 12 triều Ming Yongping của Đông Hán Triều (năm 69 sau Công nguyên) và hoàn thành vào ngày 15 tháng 1 năm Yongping (Vĩnh Bình) thứ 15, hai năm trước bảo thápcủa Tu viện Baima ở Lạc Dương.
[3] Avadana Sutra nhắc đến mười nghiệp quả của việc xây dựng bảo tháp: 1. Người ta không sinh ở vùng biên địa; 2. Người ta không đau khổ vì nghèo đói; 3. Người ta không vô minh và tà kiến; 4. Người ta thọ nhận ngai tòa của 16 vương quốc vĩ đại; 5. Cuộc đờidài lâu; 6. Người ta đạt được Sức Mạnh Kim Cương Không Thể Phá Hủy; 7. Người ta đạt được sự gia trì và thiện hạnh bao la; 8. Người ta nhận được lòng bi mẫn của chư Phật và Bồ Tát; 9. Người ta có được ba kiểu tỉnh thức siêu việt; và 10. Người ta sẽ sinh về cõi Tịnh độ.
[4] Theo Công Đức Xây Dựng Bảo Tháp Để Kéo Dài Thọ Mạng Và Tích Lũy Công Đức, khi người ta xây dựng bảo tháp với tâm thanh tịnh, công đức tích lũy được như sau: 1. Người ta sẽ không bị nhiễm độc trong đời này, cuộc đời sẽ bền lâu, họ sẽ không chết bất ngờ và cuối cùng sẽ đạt thân bất hoại. Tất cả ma quỷ và chư thiên sẽ không dám tiếp cận, mọi kẻ thù đều tiêu tán; 2. Họ thoát khỏi mọi bệnh tật; mọi hữu tình chúng sinh sẽ hoan hỷ khi gặp họ; 3. Các giới luật bị nhiễm ô sẽ được tịnh hóa, những giới không quy phục sẽ được điều phục, những giới không thanh tịnh sẽ được tịnh hóa, những giới luật mà họ bẻ vỡ sẽ được sửa chửa; 4. Bốn sự đại cấm và năm kiểu ác hạnhdẫn đến địa ngục Vô gián (ngũ nghịch tội) mà người ta đã phạm phải sẽ được hủy bỏ. Mọi nghiệp chướng tích lũy từ vô lượng kiếp quá khứ sẽ được tịnh hóa; 5. Nếu họ muốn sinh con trai, người con trai sẽ được phú bẩm thiện hạnh và sức khỏe; 6. Họ sẽ liên tụcđược bảo vệ bởi tứ Thiên vương; 7. Thậm chí nếu bảo tháp bị phá hủy và trở nên bụi bẩn, bụi được gió cuốn đi ngang qua các khu rừng, núi non, sông và biển, tất cả hữu tìnhchúng sinh chạm vào bụi này sẽ không bao giờ tái sinh với thân thể bất tịnh và sẽ luôn luôn có thể gặp được Phật.
[5] “Từ bỏ mọi ác hạnh, tiến hành thiện hạnh, điều phục tâm mình – đó là giáo lý của chư Phật”. Hoặc “Mọi hiện tượng khởi lên từ các yếu tố nguyên nhân và Đức Phật nói rằng nó là nguyên nhân; những hiện tượng này kết thúc khi các yếu tố nguyên nhân biến mất và đó là lời nói của Đại Sa Môn”. Cả hai đoạn đều tốt, nhưng đoạn sau thì thường được sử dụng hơn.
[6] Bảy vị tu sĩ được thử thách: nhóm tu sĩ Phật giáo đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng. Khi ấy, Vua Trisong Detsen muốn xem liệu người Tây Tạng có thể giữ gìn giới luật hay không, vì thế Ngài yêu cầu bảy người trở thành tu sĩ như một sự thử thách, Đức Shantarakshita đã truyền giới luật theo truyền thống Nhất Thiết Hữu Bộ Sarvastivada. Và họ bao gồm: Ba Selnang, Ba Trizhi, Pagor Vairocana, Ngenlam Gyelwa Choyang, Khonlui Wangpo Sungwa, Ma Rinchen Chog và Lasum Gyalwa Jangchub. Theo các tài liệu lịch sử của Phật giáo Tây Tạng, có nhiều khác biệt trong tên gọi của bảy vị tu sĩ này.
[7] Mandala Đại Huyễn Võng cũng là một bảo tháp. Nó được xem là Bảo tháp Mandala.
[8] Namchos Migyur Dorje là một vị đạo sư Tây Tạng. Ngài thề sẽ chữa bệnh tật bằng những di hài của mình. “Namchos” là Giáo Pháp Hư Không thuộc truyền thừa Palyul Nyingma.
[9] Theo Gongtang Danbi Zhunmei, tác giả của Cách Ngôn Nước Và Gỗ, công đức có thể được nhân lên 1000 lần. Tuy nhiên, cũng có những tuyên bố khác nói rằng nó có thể tăng lên 10 000 lần.
[10] Có nhiều cách thức trì tụng Mật chú nhiễu tháp này.
[11] Even if the sky and the stars plummet from the sky, and the land and the sea, the cities and towns have collapsed, the void is indifferent but the heart changes, and the Tathagata never utters an untruthful word
Chúc Thư Lời Cầu Nguyện Đức Liên Hoa Sinh
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...lien-hoa-sinh/ )
http://kimcuongthua.org/wp-content/u...a1-450x222.jpg
EH MA HO!
Đức Phật Phổ Hiền Samantabhadra và Đức Kim Cương Trì Vajradhara
là Pháp thân của Ta, Thân Chân Lý Đích Thực!
Đức Kim Cang Tát Đỏa Vajrasattva và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Shakyamuni
là những Bậc Dẫn Đạo của Ta!
Đức Phật Vô Lượng Thọ Amitayus và Đức Quán Tự Tại Quán Âm Avalokiteshvara
là những Bậc Thủ Hộ của Ta!
Con cầu nguyện tới Đạo Sư Liên Hoa Sanh – Đấng các Ngài đã hợp nhất!
Phật Thân của Ta là Đức Yamantaka Văn Thù Phẫn Nộ Manjushri Yamari!
Phật Khẩu của Ta là Đức Mã Đầu Minh Vương Hayagriva Wangchen Taked Tsher!
Phật Tâm của Ta là Yangdag Heruka!
Con cầu nguyện tới Ngài, Đạo Sư – Hỡi Viên Ngọc Như Ý!
Phẩm Tánh Linh Thánh của Ta,
Là Bậc Hàng Phục Rực Rỡ Ma Quỷ, Chemchok Heruka!
Hoạt Động Hoàn Hảo Viên Mãn của Ta được thực hiện và phô diễn bởi Phật Thân
Vajrakumara Kim Cang Quyết!
Con cầu nguyện tới Todtrengtsal Vinh Quang,
Bậc Đạo Sư Chiến Thắng của Chư Dakini Phẫn Nộ!
Trong cảnh giới Phật Thân
Là các Hóa Thân Phẫn Nộ và Hiền Minh.
Trong âm thanh du dương của Phật Khẩu là Mười Hai Âm Điệu.
Tâm Ta, ôm trọn lấy, thấm nhập khắp tất cả, không chút ngăn che!
Con cầu nguyện tới Đấng Chúa Tể Tôn Kính của các Dakini!
Bậc Tiên Tri Các Đấng Nhiếp Chính Linh Thánh,
Bậc Cất Dấu Giáo Lý Bí Mật,
Bậc Ban Truyền Giác Tánh Tới Chúng Đệ Tử Thiện Nghiệp,
Bậc Phó Chúc Di Sản Thiện Tâm tới loài người thế gian,
Con cầu nguyện Ngài, Thân Bi Mẫn Nhân Từ Độ Lượng!
Tưởng nhớ tới thiện tâm của Ngài, Hỡi Guru Rinpoche – Bậc Đạo Sư Tôn Quý,
Nhận lãnh sự phó chúc của Ngài,
xin hãy gìn giữ chúng con trong tâm Ngài!
Không hy vọng nào khác có thể phát sinh trong thời khắc khó khăn này!
Xin hãy nhìn lên chúng con với lòng bi mẫn, Hỡi Orgyen Tulku!
Xin đẩy lui sự bối rối và mơ hồ của ngày đen tối ma quỷ này với năng lực
cùng sự thiện xảo của Ngài!
Xin ban cho chúng con những ân phước quán đảnh nhập môn đi vào sự thấu suốt!
Xin ban phát và mở rộng năng lực của chúng con để hiểu được bản chất của thể nghiệm!
Xin cho phép và giúp đỡ chúng con cứu độ tất cả chúng sinh trong Giáo Lý
Để chúng con có thể thành Phật ngay trong đời này!
Đã kêu gọi, sách tấn mọi người khát khao tới sự thức tỉnh một vị Phật theo cách này, Ta, Padma, cưỡi trên con ngựa thần kỳ diệu và được nâng đỡ bởi bốn Dakini. Một lần nữa, Ta đã nói với mọi người rằng,“Ta sẽ đến để loại bỏ sự đau khổ của con người trên thế gian vào ngày thứ 10 của mỗi tháng, nhưng đặc biệt là vào ngày mùng 10 tháng Thân. Hãy đừng quên cầu nguyện!” Sau đó, hướng mặt về phía tây nam, Ta khởi hành. Hoàng tử Murub Tsanpo và những thần dân của mình trở về, ai về nhà người ấy, và mỗi người với thực hành riêng của mình…
Giáo lý Guru yoga
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...-ly-guru-yoga/ )
http://kimcuongthua.org/wp-content/u...ll-272x300.jpg
Tính chất quan trọng của sự Khẩu truyền
Dù giáo lý hay thực hành mà chúng ta đang thảo luận trong truyền thống Phật Giáo đặc biệt tới mức độ nào, dù truyền thống đó là Tiểu thừa, Đại thừa hay Kim Cương thừa, tiến trình của việc phát triển tâm linh là tiến trình của đệ tử nương tựa một vị Thầy. Chúng ta có thể gọi vị Thầy đó là một Lạt ma, một Guru, hay bất kỳ danh hiệu gì, nhưng vấn đề trọng yếu là có một sự khẩu truyền xảy ra trong đó một vị Thầy giảng dạy đệ tử: đệ tử nghe các giáo lý, thâm nhập ý nghĩa của chúng và đưa chúng vào thực hành.
Việc chúng ta nhấn mạnh vào một sự khẩu truyền là có lý do. Từ thời đại của Đức Phật cho tới ngày nay, Phật Pháp luôn luôn được truyền dạy và có nghĩa là được khẩu truyền, bảo đảm rằng có một truyền thống sống động vẫn thấm đẫm sự ban phước và năng lực của những giáo lý nguyên thủy. Sự khẩu truyền này cũng ngăn ngừa việc có thể có những kẻ gọi là Thầy chỉ xuất phát từ những ý tưởng của riêng họ. Thay vào đó, vị Thầy phải kinh qua một truyền thống giáo lý được chứng minh.
Điều này làm cho Phật Pháp khác biệt với những loại kiến thức khác ở đó người ta có thể làm đổi mới. Trong những lãnh vực kiến thức như thế việc nảy sinh ra những hệ thống tư tưởng mới hay đưa vào những ý tưởng mới mẻ có thể là điều thích đáng. Nhưng khi ta nói về Phật Pháp thì để một giáo lý có giá trị, mỗi giáo lý phải nối kết với những giáo lý nguyên thủy của Đức Phật. Những giáo lý không thể là điều mà một người nào đó hoàn toàn phát khởi trong đầu họ. Các giáo lý là những gì vị Thầy kinh qua.
Cũng thế, trong những loại kiến thức khác của nhân loại, người ta có thể chấp nhận được việc đưa ra thông tin theo một cách càng làm vui lòng và dễ chịu thì càng tốt. Nhưng mặc dù các Giáo Pháp cần được giới thiệu trong một phương cách dễ nghe, điều tối quan trọng là những giáo lý được trao truyền có năng lực để ban phước và gây ảnh hưởng cho những người nghe chúng trong một cách thế tích cực – không chỉ trong đời này, mà còn cả những đời sau. Vì thế mặc dù việc giảng dạy Pháp cần tao nhã và được giới thiệu khéo léo, điều tối quan trọng là sự ban phước của thông điệp cốt tủy.
Những Phẩm tính của Lạt ma
Những giáo lý mà chúng ta biết là Phật giáo được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy trước tiên. Những giáo lý này đã được hộ trì nhờ một dòng truyền dạy sống động cho tới ngày nay bởi những người được hứng khởi để đi theo gương mẫu của Đức Phật và nghiên cứu con đường đó và truyền dạy nó cho những người khác. Trong bất kỳ truyền thống Phật Giáo khác nhau nào chúng ta cũng nhận ra rằng có vô số người nhờ nghiên cứu và thiền định mà trở nên vô cùng uyên bác, có năng lực và chứng ngộ tâm linh. Nhưng lý do tại sao các ngài giảng dạy và lý do vì sao những cá nhân này cam kết để trở nên uyên bác trong lãnh vực Giáo Pháp thì không nên để cho mình chìm ngập trong việc tự thổi phồng mình lên. Ta không trở nên uyên bác về Pháp để tự cho rằng bản thân ta uyên bác và để đạt được một địa vị đặc biệt nào đó. Ta cũng không giảng dạy người khác từ một cảm thức tự phụ có tính cách cá nhân. Pháp được hộ trì bởi nó mang lại những lợi ích cho những người lắng nghe giáo lý. Đó là động lực đằng sau việc giảng dạy.
Để trở thành một vị Thầy đích thực của truyền thống thì sẽ không đủ nếu chỉ đọc sách vừa đủ để trở nên thật tinh thông giáo lý và sau đó tự coi mình như một vị Thầy. Đúng hơn, ta phải được vị Thầy của ta, một người chứng ngộ một cách đặc biệt, cho phép giảng dạy. Cũng có thể có trường hợp ta được ban cho một thị kiến về Bổn tôn chọn lựa của ta, trong kinh nghiệm đó Bổn tôn sẽ ban cho ta sự ban phước và thẩm quyền để giảng dạy.
Như vậy vấn đề không chỉ đơn giản là việc một người bình thường phát điển đầy đủ sự thông minh tài giỏi để có thể nói thật hay về Pháp. Lợi ích thật sự của những giáo lý không xảy đến nhờ một sự tiếp cận thông thường, bởi lẽ càng thêm sự tiếp cận thông thường thì chỉ càng tăng thêm khuynh hướng nuôi dưỡng sự tự phụ và những cảm xúc mâu thuẫn của riêng ta. Chẳng có lợi lạc nào có thể đến từ điều đó. Chỉ khi việc giảng dạy là một hành động vô ngã để làm lợi lạc người khác được đặt nền trên một sự truyền dạy đích thực thì ta mới thực sự có lợi lạc là điều cần thiết để Giáo Pháp được hộ trì.
Nếu ta chiếu cố tới tất cả những giáo lý của Đức Phật, bao gồm mọi luận giảng về những giáo lý đó của các đại thành tựu giả vĩ đại – những pundit (học giả) uyên bác của Ấn Độ, Tây Tạng và những truyền thống Phật Giáo khác – thì một cá nhân đơn độc không thể nỗ lực và đưa tất cả những giáo lý đó vào thực hành. Điều này không có nghĩa là có phương diện nào đó của những giáo lý đó là vô ích và không có chức năng. Trong thế giới này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp luân trong ba lần truyền dạy liên tiếp trong thời đại của Ngài. Trong Kim Cương thừa khi chúng ta khảo sát hàng ngàn pho sách được gọi chung là Phật Pháp, bao gồm 84.000 tuyển tập của những giáo lý của Đức Phật và 6.400.000 bản văn Tantra (Mật điển), thì rõ ràng là không một người đơn độc nào có thể thâm nhập và thực hành tất cả những giáo lý đó.
Khảo sát vị Thầy
Như thế điều này đưa chúng ta tới chủ đề guru yoga. Ta hãy xem xét từ nguyên của từ ‘lama’ trong tiếng Tây Tạng. Âm đầu tiên ‘la’ có nghĩa là ‘cái gì không thể vượt qua’ (vô song). Từ thứ hai ‘ma’ theo nghĩa đen có nghĩa là mẹ. Điều này có nghĩa là thái độ của vị Thầy thì giống như thái độ của một bà mẹ đối với những đứa con của bà. Có một hàm ý rằng mối liên hệ với Lạt ma mang theo nó rất nhiều sức nặng. Đệ tử cũng có một tiềm năng khổng lồ để được lợi lạc từ mối liên hệ đó.
Đây là lý do tại sao trong con đường thần chú bí mật của giáo lý Kim Cương thừa, điều được nhấn mạnh ngay từ lúc khởi đầu là việc vị Thầy và đệ tử khảo sát lẫn nhau thì rất quan trọng. Hẳn đó phải là một tiến trình phê phán nhờ đó người này chọn lựa người kia. Ví dụ như các Mật điển có nói rằng nếu một Lạt ma hám lợi, tham vọng, bị lệ thuộc vào những cảm xúc mâu thuẫn, tràn đầy kiêu ngạo, ganh tị hay tranh đua, thì việc một đệ tử nương tựa vào một vị Thầy như thế sẽ không thích hợp cho dù Lạt ma đó là ai. Lạt ma phải có những phẩm chất đúng đắn, kể cả phẩm tính của lòng bi mẫn. Nếu vị Thầy không có những phẩm tính căn bản này thì một Lạt ma như thế sẽ rất khó ban phước cho đệ tử – sự ban phước là điều cần thiết để mối liên hệ Thầy/trò mang lại kết quả tốt đẹp.
Trong việc khảo sát những phẩm tính của một Lạt ma, một người bình thường khó có thể đánh giá được những phẩm tính của dòng tâm thức của Lạt ma đó, đặc biệt là khi mới gặp vị Thầy này. Nhưng một yếu tố quyết định được cân nhắc là dòng truyền thừa mà vị Lạt ma hộ trì và dòng truyền đó có được duy trì với samaya thanh tịnh hay không.
Ta không thể xác định một cách đơn giản dựa vào mức độ hiểu biết của một vị Thầy để xem ông có năng lực tâm linh có thể trao truyền ân phước chân chính hay không. Nếu dòng tâm của vị Thầy không được thúc đẩy bởi một phẩm tính vị tha và bi mẫn – phẩm tính của Bồ đề tâm – mà đúng hơn bị kích động bởi một phẩm tính kiêu ngạo và những cảm xúc phiền não, thì điều đó sẽ không phải là một mối liên hệ lợi lạc cho dù vị Thầy đó rất uyên bác. Đây là bởi động lực của vị Thầy không đúng đắn.
Vì thế vào lúc đầu, điều quan trọng đối với đệ tử là khảo sát một vị Thầy tương lai. Một khi đệ tử đi tới chỗ quyết định nương tựa một vị Thầy nhất định thì không còn gì để thảo luận nữa. Quyết định đã được lập ra. Vào lúc đó điều quan trọng đối với đệ tử là nương tựa toàn tâm toàn ý nơi vị Thầy. Nếu ta trải qua tiến trình khảo sát để kiểm tra những phẩm tính của vị Thầy và quyết định rằng vị Thầy này thích hợp đối với bản thân ta, thì ta sẽ có thể duy trì một sự tôn kính và một niềm tin nơi vị Thầy.
Khi ấy, miễn là đệ tử duy trì một thái độ tin tưởng và sùng mộ đối với một Lạt ma được chọn lựa theo cách này, sẽ không đệ tử nào không được trực tiếp nhận những sự ban phước của Đức Phật trong dòng truyền thừa sống động này. Điều này thì hoàn toàn không thể sai lầm.
Câu chuyện của Lạt ma-Chăn cừu
Ở Tây Tạng có một gia đình du cư chăn nuôi gia súc. Họ sinh sống bằng nghề nuôi và bán thú vật và tuyệt nhiên không hiểu biết gì về Pháp. Công việc của họ có bản chất thế tục.
Một người chăn gia súc làm thuê cho gia đình này được cho thực phẩm khi anh ta đưa đàn thú ra ngoài mỗi ngày. Vào lúc giữa trưa, anh đi tới một bờ sông, để mặc đàn thú gặm cỏ, anh ngồi xuống uống trà và dùng bữa trưa của mình. Ở nơi anh ngồi có một tảng đá nhô lên. Mỗi ngày anh dùng những thực phẩm dư thừa gồm thức ăn và trà và để chúng trên tảng đá. Anh ta làm điều này mà không suy xét rằng việc đó là tốt hay xấu. Việc để thức ăn thừa trên tảng đá chỉ là một tập quán lười nhác của anh.
Tảng đá nhô lên đặc biệt này có ba mặt trên đó anh ta thường đặt thức ăn. Khi sự việc đó xảy ra, những tảng đá này có một vài tinh linh địa phương tới cư ngụ. Trong số đó có một tinh linh rồng, một tinh linh ma quỷ và một tinh linh khác được gọi là tsen. Ba tinh linh phi nhân này rất tán thưởng những “vật cúng dường” này mà người có vẻ là một con người tâm linh và hành giả thành tựu này đang ban tặng họ mỗi ngày. Họ thảo luận với nhau: “Để tỏ lòng biết ơn, ít nhất là một người trong chúng ta phải làm điều gì đó. Ai sẽ làm việc ấy?” Và họ đi tới kết luận là tinh linh ma sẽ là người giúp đỡ người chăn cừu. Và vì thế tinh linh ma nhập vào người chăn cừu khiến anh ta bị thay đổi toàn diện. Anh thực sự trở thành một người rất thông thái và tài giỏi.
Khi từ cánh đồng trở về nhà, anh là một người khác. Thay vì chỉ về nhà như thường lệ, anh trở về nhà và bắt đầu nói về Pháp, anh bắt đầu thuyết giảng. Trải qua một thời gian, anh có tới hàng ngàn đệ tử. Anh tạo được một ấn tượng sâu sắc như một vị thầy tâm linh đến độ tập họp được quanh mình một nhóm đệ tử khổng lồ. Anh cũng viết nhiều quyển sách và nổi danh là người rất uyên bác về Pháp. Điều này tiếp diễn trong nhiều năm và danh tiếng của anh tiếp tục phát triển.
Anh ta đang tiếp tục những hoạt động này thì một Lạt ma khác đang du hành trong vùng nghe nói về anh. Nhờ những năng lực tâm linh đích thực, vị Lạt ma chân chính này hiểu rõ là Lạt ma-chăn cừu không phải là người thực sự có những phẩm tính chân chính. Ngài nhận ra rằng một tinh linh ma ám nhập đã truyền cho Lạt ma-chăn cừu khả năng giảng dạy.
Và vì thế Lạt ma chân chính nói với một tu sĩ thị giả của ngài: “Ta muốn ông để hương trầm xuống những nơi Lạt ma này giảng dạy và đốt nó, làm khói thoảng khắp vùng để Lạt ma này và tất cả những đệ tử đều ngửi thấy mùi khói. Ông có thể làm được điều đó cho ta không?”
Vị sư nói: “Chẳng có vấn đề gì,” và ông để hương trầm xuống và đốt. Ông đi qua đám đông hàng ngàn người đang lắng nghe người chăn cừu biến thành vị Thầy này. Ngay khi người chăn cừu ngửi thấy mùi khói hương, tinh linh ma xuất ra khỏi thân thể anh ta. Người chăn cừu khốn khổ ngồi trên ngai nhìn quanh đám đông và nói: “Cừu của tôi đâu?”
Trọng tâm của câu chuyện này là cho dù một vị Thầy có thể tài giỏi, nổi tiếng và có biện tài về Pháp, nhưng điều đó không quyết định tính chất xác thực. Bạn cần khảo sát rõ ràng những gì bạn đang tìm kiếm ở một vị Thầy.
Khi bạn đã trải qua tiến trình khảo sát này với tư cách một đệ tử và đi tới quyết định rằng bạn muốn nương tựa một vị Thầy nhất định, thì với một cảm thức của niềm tin và thị kiến thanh tịnh, bạn sẽ không gặp rắc rối gì liên quan tới vị Thầy đó. Như thế, khi bạn nhận các giáo lý từ vị Thầy, bạn hoàn toàn tiếp thu được những gì vị Thầy ban cho.
Nương tựa vị Thầy
Một số vấn đề trong những điều quan trọng nhất mà bạn nên tự hỏi chính mình là: “vị Thầy này có kinh nghiệm giải thoát khỏi đau khổ và vô minh để có thể truyền đạt loại tự do đó cho tôi không? Vị Thầy này có được thúc đẩy bởi Bồ đề tâm hay không? Vị Thầy này có thực sự từ bi khi quan tâm tới tôi như một đệ tử không?” Đây là điều chúng ta tìm thấy trong tất cả những giáo lý của Kinh điển, các Tantra (Mật điển) và đặc biệt là trong những giáo lý tâm của những trường phái Mahamudra (Đại Ấn) và Dzogchen (Đại Viên mãn): Điều cực kỳ quan trọng là phải khảo sát những phẩm tính của một Lạt ma để xác định rõ những phẩm tính ấy trước khi nương tựa vị Thầy đó.
Toàn bộ vấn đề của tiến trình khảo sát là không xét đoán một vị Thầy trong một diễn đàn công cộng hay trong một ý nghĩa trừu tượng. Thay vì thế, đó là việc đánh giá vị Thầy ngay trên một bình diện cá nhân để xác định xem mối quan hệ với vị Thầy đó sẽ có lợi ích cho bạn với tư cách một đệ tử hay không. Vị Thầy này có những phẩm tính và giáo lý để hiến tặng khiến cho bạn có thể được lợi lạc khi thọ nhận những giáo lý ấy hay không? Việc khảo sát hoàn toàn xuất phát từ quan điểm của riêng bạn chứ không từ viễn cảnh có tính chất khái niệm.
Việc nương tựa một vị Thầy thì tuyệt đối cần yếu đối với đệ tử để thọ nhận một cách thuần tịnh sự trao truyền các giáo lý. Điều này hoàn toàn đúng trong trường hợp các giáo lý Đại Viên mãn. Bạn chỉ có thể nhận sự trao truyền thuần tịnh của Đại Viên mãn từ một vị Thầy còn sống. Không có nguồn mạch trao truyền nào khác ngoài suối nguồn của việc bạn làm việc với một vị Thầy đích thực.
Và thêm nữa, điều quan trọng là Lạt ma hay các Lạt ma mà bạn nương tựa không phải là những cá nhân bị thúc đẩy bởi những tham muốn vị kỷ cho những lợi lạc cá nhân; về mặt nào đó họ không phải là người thủ đoạn hay lừa dối; cách họ nói Pháp không mâu thuẫn và phản tác dụng; họ không kiêu ngạo về những phẩm tính của riêng mình và thường xuyên nói về hay phô bày những phẩm tính của họ trong một cách thế tranh đua hay tự khoa trương. Tất cả những loại phẩm tính này nơi một vị Thầy cần phải được tránh xa.
Trái lại, khi bạn gặp một Lạt ma hay vị Thầy có một tính cách cao quý, những phẩm tính tuyệt vời, thiện xảo và quan tâm sâu sắc tới thực hành Phật giáo nói chung và con đường Kim Cương thừa nói riêng, có dòng tâm thức được Bồ đề tâm thúc đẩy, hết sức từ ái và bi mẫn khi quan tâm tới người khác, và bản thân đã chứng ngộ bản tánh nền tảng của các hiện tượng trong một cách thế rất đáng tin cậy và trực tiếp, thì khi bạn gặp một người nào đó hiện thân tất cả những phẩm tính này, bạn đang có cơ hội lý tưởng để nương tựa người ấy như một vị Thầy. Người này hội tụ tất cả những phẩm chất của một vị Thầy tốt lành và đích thực.
Vì thế, khi ta nói về một người nào đó là một Lạt ma đích thực, ta không chỉ đang nói về một người có danh hiệu hay được coi là một Lạt ma theo một ý nghĩa nói chung hay thông thường. Chỉ khi nào ta nói về một người thực sự có những phẩm tính đáng tin cậy này thì ta mới đang thực sự nói về một Lạt ma có phẩm chất và đích thực, có nghĩa là người mà nếu bạn nương tựa vào họ bạn sẽ chỉ nhận được những lợi lạc. Thực hành và kinh nghiệm của bạn trong Pháp sẽ chỉ phát triển như kết quả của một sự nối kết với người thực sự xứng đáng với danh hiệu “Lạt ma.”
Khi thái độ của đệ tử đối với Lạt ma của họ là một thái độ tin tưởng và sùng mộ đến nỗi người đệ tử thực sự thấy vị Thầy là một vị Phật thực sự, hay là hiện thân đích thực của Pháp Thân Vajradhara (Kim Cương Trì), hay là hiện thân đích thực của Bổn tôn của đệ tử – khi đệ tử có loại tin cậy và niềm tin đó mà không có chút nghi ngờ và do dự nào - thì những sự ban phước và phẩm tính của thân, ngữ và tâm giác ngộ của tất cả chư Phật và Bồ Tát được trao truyền qua Lạt ma tới đệ tử.
Cũng có những trường hợp trong đó ta gặp một Lạt ma mà với ngài ta có một mối liên hệ trong nhiều đời. Dấu hiệu bạn sẽ có trong trường hợp này là chỉ nghe nói tới danh hiệu của vị Thầy thì cũng đã là một kinh nghiệm thật cuốn hút đối với bạn: mọi lông tóc trên thân thể bạn liên tục dựng đứng lên. Đó là một điều gì xảy ra hoàn toàn tự nhiên và không phải là một kinh nghiệm giả tạo.
Khi có một sự xác quyết trong tâm bạn rằng đây chính là một vị Phật, đây đích thực là Pháp Thân Kim Cương Trì, hay đây thực sự là Guru Rinpoche mà bạn đang gặp và nương tựa vào Lạt ma của bạn, và khi bạn cầu nguyện với sự xác quyết đó trong tâm bạn, thì chắc chắn là bạn sẽ nhận được những sự ban phước từ mối liên hệ đó. Nhưng điều này cũng hàm ý rằng bạn, với tư cách là một đệ tử, hãy giữ gìn thái độ của riêng bạn đối với vị Thầy và bảo đảm rằng bạn luôn luôn tôn kính và lĩnh hội dễ dàng những gì vị Thầy đang nói. Đừng nhượng bộ những tập quán thông thường của sự kiêu ngạo hay khoa trương hay trong một cách thế làm suy yếu mối liên hệ với vị Thầy bằng cách phủ nhận những gì Thầy nói hay bằng cách cố gắng ngăn trở những nỗ lực của Thầy. Tất cả những thái độ này cần phải né tránh bởi chúng không hỗ trợ cho mối liên hệ đáng tin cậy và cởi mở rất cần thiết để những sự ban phước tuôn chảy từ vị Thầy tới đệ tử.
Các Tantra (Mật điển) lập đi lập lại tầm quan trọng của việc nương tựa Lạt ma như suối nguồn của những sự ban phước trong thực hành của ta. Bất luận lời cầu nguyện đặc biệt mà đệ tử dâng lên Lạt ma, bất luận nó có thể có vẻ tầm thường và nhỏ bé ra sao, nếu lời cầu nguyện đó được đặt nền trên sự tin cậy và niềm tin trọn vẹn nơi Lạt ma, thì những sự ban phước của Lạt ma sẽ luôn luôn đến được với người đệ tử. Trong Tantra Đại dương Giác tánh Phi Thời gian có nói rằng một lời cầu nguyện nhỏ bé tới vị Thầy với niềm tin và lòng sùng mộ thanh tịnh thì tốt hơn nhiều nếu so với việc thực hiện hàng trăm triệu lần trì tụng các thần chú Bổn tôn. Kết quả của lời cầu nguyện sẽ mãnh liệt hơn nhiều khi nó thực sự là một biểu lộ của niềm tin và lòng sùng mộ của ta nơi Lạt ma.
Khi ta đã thiết lập một mối liên hệ với Lạt ma dựa trên sự tin cậy, niềm tin và lòng sùng mộ, thì có những cách thức khác nhau để nương tựa mối liên hệ ấy nhờ đó những loại thành tựu khác nhau có thể xảy ra. Nếu một đệ tử có ý định đạt được thành tựu giác ngộ cao cả nhất, đệ tử đồng nhất Lạt ma với Đức Vajradhara (Kim Cương Trì) – Đức Phật Pháp Thân. Nếu đệ tử được đặc biệt thúc đẩy để phát triển trí tuệ sâu xa hơn, đệ tử đồng nhất Lạt ma với Đức Manjushri (Văn Thù), Bồ Tát của trí tuệ. Để khuyến khích lòng từ và bi của họ, đệ tử thiền định về Lạt ma như bất khả phân với Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm), Bồ Tát của lòng bi mẫn. Để thâu đạt năng lực tâm linh vĩ đại hơn, đệ tử tập trung trên Lạt ma như bất khả phân với Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ), Bồ Tát của năng lực tâm linh. Để chiến thắng những loại sợ hãi và phiền muộn khác nhau, ta nương tựa Lạt ma như hiện thân đích thực của Đức Tara tôn quý. Để tăng trưởng sự trường thọ của ta, ta thiền định về Lạt ma bất khả phân với Đức Amitayus (Đức Phật Vô lương Thọ). Để chiến thắng bệnh tật, ta thiền định Lạt ma là Đức Phật Dược Sư. Để tăng trưởng tài bảo và sự thịnh vượng của ta, ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Đức Vaishravana, Jambhala, hay bất kỳ Bổn tôn tài bảo nào. Để tịnh hóa hậu quả của những ác hạnh và những che chướng của thân, ngữ và tâm ta, ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Đức Phật Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Để tăng trưởng sự vinh quang, của cải, và cơ hội của ta, ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh), Đức Phật của Bảo Sanh bộ. Để phát triển năng lực của ta – khả năng để sử dụng ảnh hưởng mạnh mẽ và lợi lạc trên thế giới – ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Đức Amitabha (Đức Phật A Di Đà) hay một Bổn tôn như Kurukulla. Nếu ta ước muốn thực hiện hoạt động phẫn nộ, ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Đức Vajrabhairava (2) hay những Bổn Tôn phẫn nộ hơn nữa. Nếu ta muốn theo cách tiếp cận kết hợp tất cả những phẩm tính này trong một thân tướng duy nhất, ta thiền định Lạt ma như bất khả phân với Guru Rinpoche. Trong mỗi một trường hợp này, quan điểm của ta là: Lạt ma gốc của ta là hiện thân đích thực của một hay những phương diện khác của đấng Giác ngộ.
Đạo sư Vĩ đại Liên Hoa Sanh
Cách tiếp cận phổ quát bao gồm tất cả những phương diện này là thiền định Lạt ma của ta như hiện thân đích thực của Guru Rinpoche. Trong trường hợp này không nên nghĩ tưởng Guru Rinpoche chỉ đơn giản là một nhân vật lịch sử, tức là như một cá nhân xuất hiện sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời đại và không gian đặc biệt của chúng ta. Tinh túy (bản chất) thực sự của Guru Rinpoche xảy ra trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một quãng thời gian vô tận. Dòng tâm giác ngộ - dòng tâm giác ngộ của Guru Rinpoche - là biểu lộ duy nhất của lòng bi mẫn, những sự ban phước và trí tuệ bẩm sinh của vô số chư Phật từ vô lượng kiếp trong quá khứ, tất cả tập trung trong dòng tâm duy nhất này là dòng tâm của Đạo sư vĩ đại Guru Rinpoche.
Nếu chúng ta nghĩ tưởng Phật Pháp như được phân chia thành các giáo lý Kinh điển và Tantra (Mật điển), thì những giáo lý mà ngày nay chúng ta biết là Phật Giáo chính là các giáo lý được Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni giảng dạy. Tuy nhiên, trong ý nghĩa to lớn hơn, những giáo lý của Phật Pháp và đặc biệt là các giáo lý của con đường Mật thừa thì không bị giới hạn vào sự biểu lộ của Đức Phật duy nhất đó. Đây là nơi hoạt động của Guru Rinpoche được coi là rất phổ quát và hết sức rộng lớn. Bất kỳ nơi nào giáo lý Kim Cương thừa được mọi vị Phật giảng dạy trong quá khứ, đang được giảng dạy hay sẽ được giảng dạy, bất kỳ nơi nào một vị Thầy tâm linh đang trao truyền những giáo lý đó, thì tinh túy của Guru Rinpoche được hiện thân ở đó – trong vị Phật đó, trong vị Thầy, trong Lạt ma đó. Vô số hiển lộ của Guru Rinpoche đã xuất hiện và tiếp tục xuất hiện trong những cõi giới khác nhau, những vũ trụ khác nhau, dưới những danh hiệu khác nhau, trong những thân tướng khác nhau. Có nhiều miêu tả trong Kinh văn truyền thống chứng minh cho sự phô diễn đa dạng của hoạt động của Guru Rinpoche.
Trong thời đại và không gian đặc biệt của chúng ta – khi chúng ta kinh nghiệm di sản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong một ngàn vị Phật sẽ xuấât hiện trong thời đại này trong đó chúng ta sống – tất cả một ngàn vị Phật này và mọi hoạt động của các ngài kể cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là những hiển lộ từ một nguồn mạch duy nhất. Tất cả đều là những phương diện hoạt động khác nhau bắt nguồn từ một nguồn mạch ân phước và trao truyền duy nhất. Khắp trong vũ trụ to lớn và phạm vi thời gian rộng lớn này, hàng trăm triệu hiển lộ của chư Phật và các vị Thầy xuất hiện đều là những hiển lộ của năng lực của Guru Rinpoche. Vì thế, biểu lộ của những sự ban phước của Guru Rinpoche không thể bị giới hạn vào một cấu trúc thời gian duy nhất và một tôn giáo duy nhất như Ấn Độ hay Tây Tạng.
Những miêu tả về việc đản sinh kỳ diệu của Guru Rinpoche ở Ấn Độ và chuyến du hành đem giáo lý tới Tây Tạng của Ngài chỉ là một khía cạnh nhỏ bé của toàn bộ sự ban phước và hoạt động của Guru Rinpoche. Ngay cả những miêu tả về cuộc đời của Guru Rinpoche mà chúng ta có cũng không nói tới một nhân vật duy nhất, mà nói tới tám hiển lộ của Guru Rinpoche như sự biểu lộ phạm vi rộng lớn của sự ban phước và hoạt động của Guru Rinpoche. Sự ban phước và hoạt động này tiếp tục hiển lộ trong tất cả những vị Thầy và Đạo sư vĩ đại là những hiện thân của Guru Rinpoche. Guru Rinpoche không chết. Guru Rinpoche không tịch diệt. Guru Rinpoche tiếp tục biểu lộ hoạt động kỳ diệu này để mang lại lợi lạc cho chúng sinh hiện nay và trong tương lai.
Không điều nào trong giáo lý này mâu thuẫn với bất kỳ giáo lý nào được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trao truyền. Cuộc chuyển Pháp luân lần thứ ba của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là cuộc chuyển Pháp luân liên quan tới bản tánh rốt ráo của thực tại và chính trong lần chuyển Pháp luân này mà nền tảng của giáo lý Kim Cương thừa được tìm thấy. Tuy nhiên, trong thời gian và không gian đặc biệt của chúng ta, chính Guru Rinpoche là người hữu hiệu nhất trong việc phát triển và giới thiệu những giáo lý Kim Cương thừa này.
Trong những nhận thức thông thường của chúng ta những gì chúng ta tri giác là hiện tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là bậc sinh ra như một thái tử ở một nơi vào thời đó thuộc miền bắc Ấn Độ, là nam tử của Vua Shudodena (Tịnh Phạn) và Hoàng hậu Mayadevi (Tịnh Diệu). Ngài lớn lên và đạt được Giác ngộ, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, di hài được hỏa thiêu và để lại xá lợi vẫn còn tồn tại cho chúng ta tới ngày nay.
Tinh túy của Guru Rinpoche thì bất sinh và bất diệt. Nó không phải là cái gì chúng ta có thể giới hạn vào một thực thể ra đời vào một lúc nào đó và chấm dứt hiện hữu vào một thời điểm khác. Thân của Guru Rinpoche không phải là một thân thể gồm máu và thịt. Sự hiện diện của Guru Rinpoche không được đặt nền trên bất kỳ nền tảng vật lý nào. Tinh túy đó luôn luôn hiện diện. Nó đã luôn luôn tồn tại và lúc nào cũng sẽ tồn tại, bởi nó không lệ thuộc vào những giới hạn của bất kỳ thân tướng hữu hình nào. Có nhiều dịp các vị vua và thượng thư ở Ấn Độ cố gắng ám sát Guru Rinpoche. Có một lần Ngài bị thiêu sống. Một người bình thường sẽ chết ngay lập tức, nhưng thân thể Ngài không bao giờ bị tổn hại về mặt vật lý trong mọi cách thế bởi hiện thân của Ngài không có tính chất bình thường.
Khi Guru Rinpoche tới xứ Tuyết và vua Tây Tạng lễ lạy Ngài, nhà vua cúi mình và chạm đầu vào nơi mà ông nghĩ là đầu gối của Guru Rinpoche an tọa phía trước nhà vua. Tuy nhiên, đầu vua lướt qua thân Guru Rinpoche và chạm vào bên dưới tấm thảm. Khi Guru Rinpoche rời Tây Tạng tới cõi của quỷ ăn thịt người, Ngài không chết theo một cách bình thường và lìa bỏ thân xác. Ngài thực sự rời Xứ Tây Tạng theo một cách thế kỳ diệu – là điều mà mọi người hiện diện nhân dịp đó đã chứng kiến.
Tuy nhiên, tôi từng nghe rằng ở Tây phương có những người tham gia vào việc buôn bán xá lợi của Guru Rinpoche! Chẳng hạn như người ta nói rằng đó là những sợi tóc lấy từ đầu của Guru Rinpoche. Có một hộp terma do Jatson Nyingpo khám phá được nhắc tới như một sợi tóc của Guru Rinpoche, nhưng nó giống một sợi (tia) ánh sáng cầu vồng hơn – không thực sự có sợi tóc nào ở đó.
Thiền định về Lạt ma gốc của ta như hiện thân đích thực của tinh túy và những sự ban phước của Guru Rinpoche có nghĩa là mọi thực hành Bổn tôn mà bạn thực hiện, hay mọi hoạt động mà bạn có ý định làm trong thực hành của bạn – dù là hoạt động làm an bình (tức tai), làm giàu có (tăng ích), lôi cuốn (kính ái), hay phẫn nộ (hàng phục) – trong tất cả những cách thế này sự thực hành của bạn sẽ thành công và có kết quả mỹ mãn. Nếu bạn cầu nguyện Lạt ma của bạn như bất khả phân với Guru Rinpoche với một tâm thức tràn đầy niềm tin và sùng mộ thì Guru Rinpoche không bao giờ xa rời bạn.
Khi tới thực hành Bổn tôn, chúng ta có thể nhận thấy những phán đoán phát khởi trong tâm ta, chẳng hạn như nói rằng Bổn tôn này tốt hơn Bổn tôn kia, hay Bổn tôn này mạnh mẽ hơn Bổn tôn kia, hay với Bổn tôn này thì sự ban phước đến nhanh hơn. Những loại tư tưởng thông thường này không thực sự thích hợp khi ta đang đối xử với sự việc thuộc loại này. Yếu tố quan trọng duy nhất là sự quan tâm đầy sùng mộ và niềm tin trong tâm đệ tử. Có thể là trong một vài tình huống, niềm tin của bạn mạnh mẽ hơn nơi một Bổn tôn nhất định và vì thế thực hành Bổn tôn đó hữu hiệu hơn đối với bạn. Nhưng điều đó không có nghĩa là ở một bình diện rốt ráo hơn có sự khác biệt được lập ra giữa những phương diện khác nhau của bậc giác ngộ. Tất cả các ngài đều xuất hiện từ phạm vi bao la duy nhất của giác tánh phi thời gian như những hiển lộ đích thực như nhau của sự ban phước và năng lực. Có thể nói là không có đẳng cấp trong các Bổn tôn. Không phải là một vài vị mạnh mẽ hơn những vị khác, hay một vài vị linh thiêng hơn những vị khác, hay một vài vị mang lại nhiều lợi lạc hơn những vị khác. Đúng hơn, vấn đề nằm ở chỗ bạn được thúc đẩy tới mức độ nào theo một hướng nhất định với tư cách là một hành giả.
Nếu bạn bị bận tâm về mức độ bạn nhận lãnh những sự ban phước từ Bổn tôn hay từ việc thực hành của bạn, thì sẽ còn lợi ích hơn nữa khi bạn khảo sát xem ở mức độ nào bản thân bạn đang phát triển niềm tin và lòng sùng mộ đối với Bổn tôn đó và đối với việc thực hành của bạn. Tâm ta càng ấp ủ sự hoài nghi và bất kỳ điều gì khác ngoài một niềm tin vững chắc trong sáng chân thành nơi việc thực hành của ta, thì bản thân ta càng thêm lầm lạc. Ta ngăn che tâm thức của chính mình bằng sự hoài nghi, chao đảo và thiếu sự xác quyết và tin cậy đó. Chính ở trên bình diện đó chúng ta có thể nói rằng không có sự ban phước trong thực hành. Không phải vì Bổn tôn không có sự ban phước. Không phải vì Lạt ma không có sự ban phước. Nhưng chính là bởi đệ tử đóng kín đối với sự ban phước đó bằng sự hoài nghi hay mê lầm của họ.
Thực hành pháp Guru Yoga
Phương cách thực sự trong đó bạn thực hiện thiền định guru yoga là quán tưởng bản thân bạn trong thân tướng của một Bổn tôn, trong trường hợp này là nữ Bổn tôn Vajrayogini. Hãy thiền định trong không gian trên đầu bạn, bằng độ dài khoảng một cubit trên đỉnh đầu (bằng bề dài khoảng một cẳng tay của bạn), là một ngai tòa làm bằng ba hoa sen, cái này trên cái kia – một hoa sen trắng, đỏ và xanh dương đậm. Bạn quán tưởng chiếc đĩa dẹt hình mặt trăng viên mãn trên ngai tòa ba hoa sen này. Trên đĩa này bạn thiền định thân tướng của Guru Rinpoche, coi Ngài là tinh túy của tất cả những sự ban phước của tất cả chư Phật và Bồ Tát được hợp nhất trong thân tướng duy nhất này. Mặc dù sự hiển lộ của thân tướng Guru Rinpoche mang một hình tướng nào đó với tư thế, những điệu bộ, vật trang sức và y phục đặc biệt, tinh túy (bản chất) của ngài thì bất khả phân với bản chất của Lạt ma gốc của bạn. Việc cầu nguyện với sự xác tín này là nền tảng cho thực hành guru yoga.
Thân tướng đặc biệt của Guru Rinpoche có sắc trắng hơi pha đỏ. Ngài có một mặt, hai bàn tay và vẻ biểu lộ của ngài được mô tả là có phần phẫn nộ trong ý nghĩa về mặt cơ bản thì đó là một biểu lộ an bình thoáng chút phẫn nộ – chứ không phải là một biểu lộ phẫn nộ rõ ràng. Thân Guru Rinpoche được tô điểm ba mươi hai hảo tướng chính và tám mươi hảo tướng phụ khiến sắc thân của Ngài không có điều gì làm người nhìn thấy phải khó chịu, phiền lòng, hay cảm thấy thiếu cân xứng. Mái tóc Ngài chảy xuống vai và lưng. Trên đầu Ngài là vương miện hoa sen mang lại sự giải thoát cho tất cả những ai nhìn thấy nó.
Thân tướng của Guru Rinpoche mặc một áo khoác lộng lẫy được nói tới là Áo Khoác của Vua Sawok. Nguồn gốc của chiếc áo này được truy nguyên từ một sự kiện đặc biệt khi Guru Rinpoche đang ở một miền ngày nay người Tây Tạng gọi là Tso Pema hay Rewalsar ở Ấn Độ. Vua xứ này dâng chiếc áo choàng của mình cho Guru Rinpoche. Để công nhận việc vị vua thế tục này dâng cúng biểu tượng tráng lệ của Guru Rinpoche, thân tướng Guru Rinpoche khoác chiếc áo choàng ngoài này. Ngoài ra, Guru Rinpoche mặc một y tu sĩ theo nghi thức tượng trưng cho giới luật Tiểu thừa. Ngài được tô điểm bằng những vật trang sức quý báu như các bông tai, chuỗi hạt, vòng xuyến và vòng chân. Bàn tay phải ngài cầm một chày kim cương năm chấu nơi trung tâm tim. Bàn tay trái đặt trong lòng trong một cử chỉ quân bình thiền định, cầm một tách sọ người đầy cam lồ trong đó có một bình đầy chất cam lồ bất tử.
Trong chỗ gập của khuỷu tay trái của Guru Rinpoche có một chĩa ba là một ám chỉ kín đáo nguyên lý nữ, phương diện của Vajra Yogini. Những phối ngẫu khác nhau như Yeshe Tsogyal và Mandarava được kết hợp với Guru Rinpoche. Căn cứ vào việc về bản chất các phối ngẫu này hoàn toàn cùng một bản tánh với Vajra Yogini, như thế đây là ý nghĩa của chĩa ba trong chỗ gập của khuỷu tay trái.
Khi ta nhận ra sự quan hệ của yab và yum (phối ngẫu nam/nữ hay phối ngẫu cha/mẹ) được áp dụng cho các Bổn tôn, chúng ta không nên tạo ra một sai lầm hiển nhiên khi cho rằng điều này phải thực hiện với người nam/nữ trong ý nghĩa vật lý. Các Bổn tôn không phải là những chúng sinh nam và nữ, nhưng là những năng lực nam và nữ. Hình tượng lưỡng cực của người nam và nữ minh họa sự hợp nhất nguyên thủy của sắc tướng (hay thân tướng) và tánh Không. Một trong những miêu tả của hình tượng này là miêu tả phương diện nam, phương diện yab, ám chỉ sắc tướng hiện tượng trong khi yum, phương diện nữ, là biểu lộ của tánh Không. Vì thế cách thức trong đó các Bổn tôn hiển lộ chỉ là một biểu lộ trực tiếp của bản tánh nền tảng của thực tại như nó là.
Dakini Yeshe Tsogyal nổi tiếng vì từng là phối ngẫu của Guru Rinpoche, nhưng chúng ta nên nhớ rằng với tư cách là phối ngẫu của Ngài, chức năng đầu tiên của bà là thâu thập và hệ thống hóa các giáo lý của Guru Rinpoche. Vai trò của bà rất giống vai trò của đệ tử của Đức Phật là Ananda đã thực hiện sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, đó là thâu thập những giáo lý của Đức Phật để chúng có thể được truyền lại cho những thế hệ tương lai. Đây đúng là chức năng của Yeshe Tsogyal – duy trì, hệ thống hóa, sưu tầm và thu thập những giáo lý của Guru Rinpoche. Trong khi Dakini Yeshe Tsogyal đã xuất hiện trong thân tướng một phụ nữ ở Tây Tạng, tinh túy (bản chất) rốt ráo của bà là tinh túy của một Dakini của giác tánh phi thời gian. Vì thế không có mâu thuẫn nào trong hiển lộ của bà mà cốt tủy là một phụ nữ hay là một chĩa ba được mang trong chỗ gập của khuỷu tay trái của Guru Rinpoche.
Thêm vào đó, bạn thiền định rằng thân tướng của Guru Rinpoche ở trên đầu bạn an tọa trong tư thế kim cương viên mãn (kiết già) với chân trái ở trên đùi phải và chân phải ở trên đùi trái. Hãy thiền định thân tướng của Ngài đang phóng ra muôn phương những tia sáng chói lọi.
Vật trang sức vô tận của thân tướng Guru Rinpoche là tinh túy của nguyên lý Tăng đoàn; vật trang sức vô tận của ngữ của Ngài là nguyên lý của Pháp; vật trang sức vô tận của tâm ngài là nguyên lý của Phật như một suối nguồn của sự quy y (nương tựa). Những phẩm tính của Guru Rinpoche hiện thân nguyên lý Bổn tôn được chọn lựa của Kim Cương thừa; hoạt động của Ngài hiện thân nguyên lý Bổn tôn được chọn lựa của các Dakini và Dharmapala (Hộ Pháp). Tóm lại, những gì xuất hiện lúc ban đầu chỉ là thân tướng của Guru Rinpoche, khi được thấu hiểu trên một bình diện rốt ráo hơn thì chính là tinh túy đích thực của tất cả chư Phật, Bổn tôn, Daka và Dakini, Hộ Pháp và toàn bộ tập hội rộng lớn của Tam Bảo và ba cội gốc (3), tất cả được bao gồm trong một hiển lộ duy nhất.
Bất luận Bổn tôn đặc biệt mà bạn đang thiền định trong thực hành cá nhân của riêng bạn và bất luận thân tướng đặc biệt mà bạn đang quán tưởng là ai, điều quan trọng là bạn quán tưởng thân tướng ấy là sắc tướng thuần tịnh không có bất kỳ tính chất thật có hay hữu hình nào. Bạn không quán tưởng Bổn tôn như một thân thể gồm thịt và máu, nhưng đúng hơn là một thân thể hoàn toàn không có thực chất – một thân tướng không là gì ngoài sự xuấât hiện thuần tịnh không có chút vững chắc hay thực chất nào. Ví dụ như khi bạn đang thực hành ka-gye (tám mệnh lệnh về thực hành sadhana), nếu bạn đang thiền định về Vajrakilaya (4) hay Chemchog hay bất kỳ heruka (5) chính yếu nào của giáo khóa này, việc quán tưởng trong những thực hành rộng lớn hơn bao hàm sự quán tưởng căn bản thân tướng bạn như thân tướng của Bổn tôn với toàn bộ các mạn đà la của các Bổn tôn xuất hiện ở các điểm trong thân bạn được kết hợp với việc tập hợp của năng lực vi tế. Vì thế bạn không quán tưởng một thân tướng có một khung xương, một hệ thống tuần hoàn, một hệ thống tiêu hóa hay cơ bắp. Không có yếu tố nào trong những yếu tố vật lý thông thường này đi vào việc hình dung của bạn.
Trong thời đại và không gian của chúng ta Guru Rinpoche là suối nguồn cho những dòng truyền thừa mà ta nhận lãnh. Mặc dù chúng ta không thể nhận thức trực tiếp sự hiện diện thực sự của Guru Rinpoche, ta vẫn nối kết với suối nguồn đó nhờ dòng truyền thừa không đứt đoạn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi chúng ta nương tựa Lạt ma như hiện thân đích thực của Guru Rinpoche và bất khả phân với Ngài, thì chúng ta trực tiếp nối kết với suối nguồn không đứt đoạn đó đã truyền xuống chúng ta về mặt lịch sử.
Trong cõi thuần tịnh tối thượng Akanishta, Guru Rinpoche đã nhận sự trao truyền từ Dakini tên là Leche Wangmo, thiên nữ đầy năng lực của sự hoạt động. Tiến trình trong đó Guru Rinpoche thọ nhận sự trao truyền là tiến trình vị Dakini này biến Ngài thành một chủng tự hung mà bà nuốt vào bụng. Khi chữ hung đi qua các luân xa trong thân bà, Ngài thọ nhận bốn cấp độ quán đảnh: quán đảnh bình chứa, quán đảnh bí mật, quán đảnh giác tánh trí tuệ và quán đảnh thứ tư. Bà trục xuất Ngài qua cơ quan bí mật của bà và Ngài lấy lại thân tướng của mình. Đây rõ ràng không phải là một tiến trình bình thường của việc nuốt một vật nào đó, tiêu hóa và bài tiết nó.
Tiến trình đặc biệt này cũng tìm thấy sự biểu lộ của nó trong nhiều abisheka hay các lễ quán đảnh được các Đạo sư kim cương thực hiện. Những buỗi lễ này bao gồm những quán tưởng tương tự trong đó đệ tử được chuyển hóa thành một chữ, được Đạo sư kim cương nuốt vào bụng, được chuyển hóa và lại được sinh vào thế giới như Bổn tôn. Đây là những tiến trình nhờ đó khi ban phước cho đệ tử, Đạo sư kim cương tịnh hóa dòng tâm của đệ tử về những hậu quả của các ác hạnh và những che chướng và trao truyền năng lực tâm linh của lễ quán đảnh.
Một khi nhờ Đạo sư kim cương mà đệ tử được phát triển như Bổn tôn, đệ tử duy trì sự đồng nhất với Bổn tôn được chọn lựa trong suốt thời gian lễ quán đảnh. Đệ tử nhận ra tinh túy của mình là tinh túy của Bổn tôn hiển lộ trong thân tướng đặc biệt đó. Việc đệ tử nhận thức mình là Bổn tôn là samayasattva (nguyện tát đỏa), phương diện hứa nguyện, là cái mà Đạo sư kim cương thấm đẫm với jnanasattva (trí tát đỏa), phương diện giác tánh phi thời gian. Sau đó Đạo sư kim cương tiến hành sử dụng những chất thể hay vật phẩm khác nhau như chiếc bình v.v.. như những biểu tượng trao truyền sự ban phước tối thượng của những cấp độ quán đảnh khác nhau. Chính trên nền tảng đó mà sự trao truyền thực sự năng lực và sức mạnh tâm linh có thể xảy ra.
Đây chỉ là một biểu lộ của một nguyên lý rộng lớn hơn nhiều. Dù chúng ta để hết tâm trí trong những hoạt động của Pháp hay trong công việc bình thường, chính tâm thức của ta là yếu tố quan trọng nhất – tâm ta nhìn tình huống ra sao, tâm ta có liên quan với những hoàn cảnh thế nào. Ở đây cả Lạt ma lẫn đệ tử đều có một trách nhiệm: để sự trao truyền thực sự xảy ra, tâm của Lạt ma và tâm của đệ tử quan niệm tình huống theo một cách thế thích hợp. Khi ấy và chỉ khi ấy mới thực sự có thể có sự ban phước đích thực trong một lễ quán đảnh.
Trở lại thiền định thực sự của guru yoga: sau khi quán tưởng thân tướng của Guru Rinpoche như sự hợp nhất của chư Phật và mọi suối nguồn quy y ở trên đỉnh đầu bạn, bạn thiền định rằng thân tướng được đánh dấu ở trán với một chữ om màu trắng, ở cổ họng với một chữ ah màu đỏ, ở trung tâm tim với một chữ hung màu xanh dương đậm và ở trung tâm rốn với một chữ hri xanh lá cây. Thêm nữa, bạn thiền định rằng trên lòng bàn tay và lòng bàn chân của thân tướng Guru Rinpoche là bốn chữ ha ri ni sa. Những tia sáng chiếu sáng khắp muôn phương từ những chữ này khẩn cầu những sự ban phước của mọi suối nguồn quy y quay trở lại và thấm nhập vào thân tướng của Ngài ở trên đỉnh đầu bạn. Với một sự nhất tâm bạn bắt đầu phần thực hành thực sự của pháp guru yoga, nó bao gồm sự khẩn cầu Lạt ma và trì tụng thần chú Đạo sư kim cương, thần chú của Guru Rinpoche.
Tiếp theo phần chính của thực hành, trước tiên bạn thiền định rằng từ chữ om trắng ở trung tâm trán của Guru Rinpoche xuất hiện một tia sáng trắng, giống như một ngôi sao băng, đi vào trán bạn và hoàn toàn tràn ngập thân thể bạn. Ánh sáng trắng tịnh hóa bạn trên bình diện vật lý về những hậu quả của các che chướng và ác hạnh, thấm đẫm thân bạn với những sự ban phước của thân giác ngộ. Bằng một tiến trình tương tự bạn thiền định rằng từ trung tâm cổ họng của Guru Rinpoche, từ chữ ah màu đỏ, xuất hiện một tia sáng đỏ đi vào trung tâm cổ họng của bạn, tịnh hóa ngữ của bạn. Từ trung tâm tim của Guru Rinpoche, từ chữ hung màu xanh dương đậm, xuất hiện một sợi hay sợi tơ ánh sáng giống như một làn khói hương thoang thoảng thâm nhập trung tâm tim và tịnh hóa tâm bạn. Và cuối cùng bạn thiền định rằng từ tất cả những trung tâm của thân Guru Rinpoche xuất hiện những tia sáng cầu vồng năm màu, trắng, đỏ, vàng, xanh lá cây và xanh dương, tất cả những tia sáng này được thâu rút vào các luân xa của riêng bạn và tịnh hóa những dấu vết cuối cùng của sự che chướng và mang lại cấp độ thứ tư của sự quán đảnh. Theo cách này bạn nhận lãnh bốn cấp độ quán đảnh, là quán đảnh bình chứa, bí mật, giác tánh trí tuệ và quán đảnh thứ tư. Điều này thiết lập tiềm năng cho sự chứng ngộ của riêng bạn theo thứ tự, là những chứng ngộ thuộc Hóa thân, Báo thân, Pháp thân và Svabhavikakaya (Thân tự tánh), tổng thể của ba kaya (thân).
Khi tới lúc thực sự chấm dứt thời khóa, bạn thiền định rằng thân tướng của Guru Rinpoche ở trên đỉnh đầu bạn tan hòa thành ánh sáng. Ánh sáng này thấm nhập vào bạn và vào lúc đó bạn đi vào giai đoạn thành tựu vô tướng của thực hành. Bạn thiền định rằng thân, ngữ và tâm giác ngộ của Guru Rinpoche tuyệt nhiên không xa lìa thân, ngữ và tâm của riêng bạn. Đó là sự hợp nhất bất nhị viên mãn. Bạn thiền định trong một tâm thái vô tướng, không có bất kỳ cấu trúc quy chiếu nào, không có bất kỳ sự tạo tác khái niệm nào, chỉ đơn giản để tâm bạn nghỉ ngơi trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng tốt. Tiếp sau đó, bạn kết thúc với những lời nguyện hồi hướng và nguyện ước.
Có một số phương pháp đặc biệt khác trong đó sự quán tưởng của thực hành guru yoga được giới thiệu tùy theo các dòng truyền thừa đặc biệt, các truyền thống đặc biệt và ngay cả những hoàn cảnh đặc biệt. Nhưng các nguyên lý tổng quát được mô tả trong giới thiệu này có thể áp dụng trong mọi trường hợp: bạn quán tưởng Lạt ma ở trên đỉnh đầu bạn. Trong trường hợp đặc biệt này bạn hình dung thân tướng của Guru Rinpoche là thân tướng hiện thân mọi suối nguồn của sự quy y. Trong những hệ thống thực hành khác bạn có thể được chỉ dẫn để quán tưởng một đám đông thực sự của các suối nguồn quy y, giống như một tập hội rộng lớn, trên đỉnh đầu bạn. Hay bạn có thể được dạy để quán tưởng một dòng truyền thừa, với mỗi nhân vật của dòng truyền ở trên nhân vật kia, kéo thẳng lên ở trên đỉnh đầu bạn. Có những chi tiết khác nhau trong những cách quán tưởng đặc biệt tùy thuộc vào hệ thống bạn đang nghiên cứu, nhưng bạn nên hiểu rằng mặc dù có vẻ có những khác biệt trong các chi tiết, nhưng bản tánh cốt tủy của thực hành thì đồng nhất trong mỗi trường hợp.
Như tôi đã nói ở trên, những phẩm tính quan trọng nhất để bảo đảm sự thành công của việc thực hành trong tâm thức đệ tử là niềm tin, lòng sùng mộ, sự tin cậy và thị kiến thanh tịnh. Nếu một đệ tử thực sự nhất quyết nhận được lợi lạc từ việc thực hành hay kết hợp với Pháp thì những phẩm tính đó rất cần thiết./.
Chokyi Nyima (Richard Barron) dịch sang Anh ngữ.
Bill Speckart biên tập.
Nguyên tác: “Guru Yoga Teaching”
by H.H. Penor Rinpoche
http://palyul.org/eng_teachings-guruyoga.htm#pema
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Chú thích:
(1) H.H. Penor Rinpoche sinh năm 1932 tại miền Powo thuộc tỉnh Kham, Đông Tây Tạng. Ngài là vị Hộ trì Ngai tòa thứ 11 của Dòng Palyul của phái Nyingma. Ngài được coi là một trong những Đạo sư xuất sắc nhất của truyền thống Phật Giáo Tây Tạng.
(2) Vajrabhairava: Hiện thân phẫn nộ của Đức Manjushri (Văn Thù). Ngài là Bổn tôn chính của phái Gelupa. Là một Hộ Pháp, ngài giải trừ mọi chướng ngại của hành giả trên con đường.
(3) Ba cội gốc: Lạt ma, Bổn tôn, Dakini (hay những vị Bảo trợ).
(4) Vajrakilaya: Một trong những Bổn tôn chính của phái Nyingma thuộc về Các Giáo lý Tám Sadhana.
(5) Heruka: Nghĩa đen là ‘người uống máu.’ Một Bổn tôn phẫn nộ; người uống máu của sự chấp ngã.
Bài ca soi sáng tâm hồi nhớ
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...g-tam-hoi-nho/ )
http://s2.upanh123.com/2017/03/19/d1...f63a484905.jpg
Đức Jigten Sumgon
Thuở nọ, khi đức Jigten Sumgon [vị Tổ thứ Nhất của giòng phái Drikung Kagyu] đang an trú tại tu viện Drikung Thil [Tây-Tạng], ngài kêu gọi khoảng 30 đại đệ tử của ngài về vân tập tại một cánh đồng bát ngát ngay sau tu viện. Tại đây, đức Jigten Sumgon truyền lệnh cho các đệ tử thi triển pháp thần thông. Không ai trong số 30 đại đệ tử là không làm được theo lệnh truyền của sư phụ, ngoại trừ một người duy nhất. Người đó là Rinchen Drak. Quá xấu hổ, Rinchen Drak đột ngột lià đời. [Theo tục lệ Tây Tạng], thi hài của người chết được đem xẻ ra để phân phát cho loài chim kên-kên. Nhưng người ta không thể xẻ thi hài của Rinchen Drak ra được - không con dao nào chạm được vào tử thi này. Đại sư Jigten Sumgon liền đặt đầu mũi cây tích trượng của ngài lên ngay vùng tim của Rinchen Drak, và cất tiếng hát lên bài ca sau đây...
Chí tâm đảnh lễ đức Phagmo Drupa vinh hiển.
Rinchen Drak, con ta ơi, hãy lắng nghe cho rõ.
Ka!
Vào giây phút lià đời...
Mọi vọng động thế gian chỉ là điều dối trá --
Tám pháp thế gian chẳng khác chi sắc cầu vồng.
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào những điều đó được không?
Khi con nhìn thấy đám đông bằng hữu phải chia lìa,
Bao thương yêu trìu mến của quyến thuộc, bạn bè chỉ là điều dối trá,
Những lời âu yếm tự đáy tim chẳng khác nào tiếng vọng --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào những điều đó được không?
Khi con nhìn thấy sự tăng trưởng và lụn tàn của thân tứ đại,
Ảo tưởng về sức mạnh và tài năng chỉ là điều dối trá,
Đoá hoa xuân của tuổi trẻ --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào điều đó được không?
Của cải gom góp, được đem ra tiêu dùng, con thấy đó,
Những chắt chiu đầy tham đắm nhọc nhằn cũng là điều dối trá,
Thức ăn và tài sản chẳng khác chi giọt sương trên đầu ngọn cỏ --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào những đĩều đó được không?
Khi con nhìn thấy ra được khổ não của vòng sinh tử,
Thì hạnh phúc của chư thiên và con người chỉ là điều dối trá,
Niềm vui, nỗi khổ luân hồi -
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào những đĩều đó được không?
Đối với cội cây, đấng từ phụ, tâm Bồ Đề cao quý,
Tánh thiên vị của đám học trò chỉ là điều dối trá,
Bạn bè, những kẻ bất thiện, lầm lạc trong ảo tưởng --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào họ được không?
Khi con hiểu ra được rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ,
Bám chấp nơi bản ngã tự tôn chỉ là điều dối trá,
Cỗ xe nhỏ, con đường độc giác --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào điều đó được không?
Khi con đã hoàn toàn tin tưởng vào định luật nhân quả,
Thì lời hướng dẫn ‘không cần tinh tấn’ chỉ là điều dối trá,
Sấm sét không mưa chỉ là một bầu trời trống rỗng --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào điều đó được không?
Đối với bậc đạo sư đã chứng đắc, tiềm tàng năng lực và ân điển,
Ma vương chướng ngại và mọi lỗi lầm chỉ là điều dối trá,
Miệng soen soét những câu kinh cầu như một con vẹt --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào điều đó được không?
Khi con đã chứng ngộ được bản tánh chân như của tâm,
Thì ba kỳ muôn ức vạn niên chỉ là điều dối trá,
Bánh xe ảo tưởng của chân lý nhuộm màu tương đối --
Nghĩ lại xem, con có đặt niềm tin vào điều đó được không?
Nơi bãi tha ma ‘Gom Tụ Ngọc Xá Lợi,’
Một mình quạnh quẽ, con ta ơi, con có buồn không?
Chẳng gì có thể tồn tại, tất cả đều phải hoại diệt,
Rinchen Drak ơi, đừng tham luyến nữa,
Nếu tâm con vẫn còn tham đắm,
Hãy chuyển hết tâm đó vào trái tim thầy !
Ngay sau đó,nguời ta xẻ được thi hài của Rinchen Drak ra, và bên trong thấy có vô vàn những viên ngọc xá lợi bé xíu đủ màu sắc. Nhiều đến nỗi phải dùng những chiếc chổi quét để có thể vun hết những viên ngọc đó lại...
Khenchen Konchog Gyalsten Rinpoche & Rick Finney chuyển từ Tạng-ngữ sang Anh-ngữ.
Tâm-Bảo-Đàn chuyển Việt-ngữ.
www.drikungmahayanacenter.org
17/5/2004
Lời khuyên dành cho bệnh nhân ung thư và xạ trị
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...thu-va-xa-tri/ )
http://kimcuongthua.org/wp-content/u.../DSCF08191.jpg
Đăng trong Lời khuyên từ Lama Zopa Rinpoche,
Phúc Cường chuyển ngữ
Một đệ tử đã thỉnh cầu Lama Zopa Rinpoche ban lời chỉ dạy sau khi bản thân phải phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú và thân thể đang rất đau đớn khi xạ trị.
Người đệ tử thân thương, trân quý, bi mẫn và ngọc như ý của thầy,
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
Con cũng hãy trì tụng chân ngôn bậc đạo sư, đức Phật Shakyamuni. Nếu con có thangka hay tôn tượng của ngài, hãy quán tưởng rằng đức Phật đang thực sự hiện diện tại đó. Ngài đang ban dòng cam lồ tràn đầy tình thương yêu và tịnh hóa hoàn toàn cho con. Tất thảy những tật bệnh và dòng tâm bất thiện, và tất cả những nhân gây nên những tật bệnh này, như ảo tưởng, si mê, ác nghiệp, đều được tịnh hóa hoàn toàn. Tất cả những tật bệnh đã tích lũy từ vô thủy đều được tịnh hóa hoàn toàn. Hãy trì tụng chân ngôn và duy trì dòng tâm như trên một cách mạnh mẽ.
Con cũng có thể suy tư về những lời dạy của các Geshes Kadampa, như tất cả những quả nghiệp xấu mà con đang trải nghiệm đều là những người bạn đức hạnh. Hãy tư duy và nhìn tật bệnh theo cách này. Tiếp đến hãy suy tư “sự khổ đau này là hóa hiện của tính không”. Hãy thiền định về tính không. Bản thân mình không tồn tại một cách chân thực. Rồi hãy thiền định về Duyên khởi, nhất là duyên khởi vi tế theo tri kiến của Prasangika – Madhyamaka. Có nghĩa hãy thiền quán về cái tôi không là gì khác mà chỉ là hợp uẩn với cái tên gọi thuần túy được dán mác nhãn bởi tâm hư ngụy.
Những thiền quán về tính không rất hữu hiệu cho con lúc này. Hãy dừng lại đôi chút về từng luận điểm. Hãy thiền về cái cách mà bản thân đang tồn tại chỉ là một danh xưng được dán mác nhãn bởi dòng tâm hư ngụy. Rồi hãy thiền định về căn bệnh ung thư mà mình đang trải qua cũng chỉ tồn tại là một tên gọi, thuần túy được định danh bởi dòng tâm mình.
Không có gì thực sự tồn tại một cách cố hữu. Tất cả các căn bệnh ung thư cũng vậy. Bản thân căn bệnh ung thu tồn tại chỉ là một tên gọi, thuần túy được định tên bởi dòng tâm hư ngụy. “Cái mà tôi đang tin tưởng là ung thư về bản chất thực sự không tồn tại; nó hoàn toàn là tính không.” Hãy duy trì sự thiền quán như vậy.
Một pháp thực hành khác là cho-nhận. Có lẽ con đã thụ nhân giáo pháp này và hiểu những chỉ dẫn cho sự thực hành, bởi vậy con có thể nương theo những câu kệ Lama Chopa hay những câu kệ của ngài Long Thọ hay những bài kệ khác.
Đây là cách thực hành hoàn hảo nhất để tịnh hóa tất cả những nhân của tật bệnh, như bệnh ung thư, mà mình đã tích tập từ vô thủy kiếp, và tích lũy công đức vô lượng như biển mây. Mỗi lần con nguyện nhận lấy khổ đau và nhân khổ đau của chúng sinh với từ bi tâm, và cúng dường thân mạng, tài sản, công đức ba đời cùng tất cả những kết quả mà con đã tích lũy được trên con đường đạo, chính là lúc con đã tích lũy được công đức rộng lớn như biển mây. Vô lượng công đức. Chà chà! Thật là vô cùng lợi lạc. Sự thực hành này sẽ giúp con thành tựu giác ngộ một cách nhanh chóng nhất; con sẽ có thể mang lại giải thoát cho vô lượng chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi một cách nhanh chóng nhất. Điều này cũng có nghĩa là con có thể đưa chúng sinh tới bờ giải thoát một cách nhanh chóng hơn, tới quả vị Phật, tận trừ tất thảy những che chướng thô và tế và viên mãn tất thảy những thành tựu.
Nếu con có thể tới được Ấn Độ, có Geshe Tobgye tại Dharamsala . Ngài rất cao tuổi và đã chữa lành cho rất nhiều người bị ung thư qua các chân ngôn. Còn ngay lúc này hãy thực hành những lời khuyên mà thầy vừa trao.
Cầu nguyện bình an.
Lama Zopa
Hãy trải nghiệm tật bệnh như một sự thực hành đầy lợi lạc
"Khi trong tâm không còn bị chi phối bởi những tư tưởng quá coi trọng, nuông chiều bản thân thì nếu chúng ta có bị bệnh AIDS, ung thư hay bất kỳ căn bệnh kinh khủng nào, chúng ta có thể tận dụng căn bệnh này trở thành sự tịnh hóa vô cùng uy lực, nhanh chóng và vĩ đại.” Lama Zopa đã khích lệ như vậy. Nếu chúng ta có thể trải nghiệm những căn bệnh với dòng tâm vì lợi lạc cho hết thảy hữu tình. Đó sẽ trở thành cách thức nhanh chóng, đầy uy lực để viên mãn sự tịnh hóa mọi ác nghiệp và thành tựu sự tích lũy vô lượng công đức. Khi chúng ta trải nghiệm căn bệnh này với sự lợ lạc cho vô số chúng sinh, thì thậm chí trong mỗi sát-na chúng ta cũng đã tích lũy được vô lượng công đức. Bởi vậy nếu trải nghiệm những căn bệnh này mà không bị chi phối bởi tâm quá coi trọng, nuông chiều bản thân thì sẽ là con đường nhanh chóng nhất tới giác ngộ, giống như thực hành tantra vậy. Cũng giống như đã hoàn thành hàng trăm ngàn khóa nhập thất tịnh hóa Vajrasattva, sánh ngang với hoàn thành hàng trăm ngàn lễ lạy cùng trì tụng hồng danh 35 vị Phật, sánh ngang thành tựu hàng trăm ngàn lần các pháp tu mở đầu. Khi chúng ta trải nghiệm tật bệnh này vì lợi lạc hết thảy chúng sinh mà không còn dòng tâm nuông chiều bản ngã, tâm từ bi vô lượng sẽ ban trải khắp cho tất thảy chúng sinh. Bởi vậy, sẽ là một trải nghiệm vô cùng lợi lạc và có ý nghĩa. Đây là phương tiện tịnh hóa nhanh chóng, đầy uy lực và con đường tích lũy vô lượng công đức trong mỗi phút giây. Và thực hành như vậy cũng là cách nhanh chóng chứng đạt giác ngộ, giải thoát cho muôn loài chúng sinh.
"Toàn bộ kinh nghiệm trở thành một phương tiện phi thường. Ngay cả khi nếu chúng ta phải trải qua căn bệnh này trong một trăm năm, một ngàn năm, thậm chí phải sống cả cuộc đời với nó, thì cũng sẽ trở thành một thời khóa thực hành một trăm năm, một ngàn năm – kéo dài chừng nào căn bệnh còn. Thật là một thời khóa thực hành vô cùng lợi lạc.”
Nguyên tác Anh ngữ:
Namo Kim cương Thượng sư!
vajracharya (Kim cương sư)
Vajracharya (Kim cương thủ)
Rinpoche (Bảo Quý).
http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...tham-trai-tim/
Chương 15: NHỮNG CUỘC THÁCH ĐỐ
Từ một người ẩn cư trong hang động cô liêu, Tenzin đã phóng mình ra khỏi qũy đạo của mình để đi vào thế giới trần tục đầy u ám, phiền muộn.
Từ một người sống yên tĩnh, Tenzin đã phải nói suốt hàng giờ không ngưng nghỉ.
Từ một cuộc sống giản dị đơn thuần, Tenzin đã nhẩy vào cuộc chơi của cuối thế kỷ thứ 20 này; và thế giới mà cô tham dự trở lại đó thật khác xa hoàn toàn cái thế giới mà cô đã bỏ ra đi để tới Ấn độ năm 1963.
Tenzin đã chứng kiến những khủng hoảng, bất an, căng thẳng của một nền văn minh xã hội vật chất dồn dập lên con người; đã thấy tình trạng thất nghiệp leo thang, và đời sống bấp bênh, không biết ngày mai của những kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Cô cũng đã đọc báo viết về mức độ tội ác bạo lực gia tăng và vấn đề sử dụng buôn bán ma túy càng ngày càng lan rộng trong xã hội. Cô cũng đã tận mắt trông thấy các bạn cô chạy đua tốc độ đến bở hơi tai theo nhịp sống vật chất cuồng loạn này.
Đi đến đâu, cô cũng nghe các cấp chính quyền rao gọi thay đổi chính sách phục vụ cộng đồng cho nền kinh tế duy lý, và bây giờ lại đến những nhu cầu xa hoa mới như sự yên tĩnh, không gian, thời gian, và sinh thái môi trường, và cô cũng nhận thức rõ sự cần thiết cấp bách cho những giá trị tâm linh trong một xã hội thăng tiến vật chất kinh khủng này. Tenzin nói:
- " Nơi đây, người ta nung nấu vì ham muốn. Khác với ở Lahoul, người dân sung mãn về tinh thần hơn dù đời sống tiện nghi văn minh vật chất quả thật thua kém; và ở đây, ngoài vật chất ra, người ta cũng khao khát tìm tòi một cái gì đó sâu xa và có ý nghĩa hơn trong đời sống của họ. Khi người ta dừng lại những đam mê bản năng, thì người ta lại theo đuổi những nhu cầu khác. Vì thế,con người luôn luôn thất vọng, chán nản, và bức rức. Họ cảm thấy đời sống và mọi thứ sao phi lý, vô nghĩa quá. Họ đã có những gì họ muốn, nhưng rồi sao? Xã hội cứ thôi thúc bắt ép con người ta chiếm hữu hết cái này đến cái khác, nhưng rồi cuối cùng con người sẽ về đâu?
Tôi đã thấy sự cô đơn đang ngự trị khắp nơi, và con người chán nản không muốn hoạt động gì nữa khi cô đơn. Đó là trạng thái tâm lý hững hờ, lãnh đạm, lệch lạc."
Nhưng đặc biệt hơn những câu chuyện của Tenzin là vào giữa những năm 90, nhánh cây Phật giáo và nền triết lý thâm sâu, mật hiển đã sanh sôi nẩy mầm trên mảnh đất màu mỡ Tây Phương và người dân Âu Mỹ đã bắt đầu tìm hiểu một tôn giáo phương Đông với cái nhìn đúng đắn hơn, trưởng thành hơn, và khách quan hơn - và rồi từ đó, dân chúng gồm đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi ở Âu Châu, Hoa Kỳ, Gia nã Đại, Úc Châu và Tân Tây Lan đều hết sức ngưỡng mộ thán phục nền triết học uyên bác vĩ đại của Phật giáo và hết lòng cung kính các vị Lạt Ma đức hạnh đã truyền bá đạo Phật sang Âu Mỹ.
Kết quả rỡ ràng của sự hoằng pháp thành công này là các trung tâm thiền đường Phật giáo, nhất là Phật giáo Tây tạng, đã mọc lên như nấm trên khắp thế giới.
Những thời kỳ thịnh vượng của Phật giáo tại Âu Mỹ nay đã suy rồi. Nhưng tín đồ buổi đầu tiên đó, sau 30 năm nghiên cứu thực hành giáo lý, đã bắt đầu tìm hiểu tính chất nhân bản và thực tiễn hơn của nền tôn giáo đang trồng rễ trên đất nước họ. Những nhược điểm và sự không nhất quán trong nội bộ đồng loạt bị phơi bày ra, và có thể nói, khi Đông Phương bị ràng buộc bởi hàng rào tập tục luân lý xã hội thì Tây Phương, được tự do ngôn luận hơn, không có những đắn đo, ngại ngùng, hay e dè nào cả, sẵn sàng nói huỵch tẹt ra mọi việc.
Tenzin Palmo đã trở về lại cái thê giới trần tục này ngay trong giai đoạn rộn ràng đó; và những cuộc tranh luận, bàn cãi, thách đố nhau công khai, hay những mâu thuẫn trường phái đố kỵ lẫn nhau đã vô tình giúp cho cô tự tìm ra con đường của chính mình.
Những lũng đoạn trong Tăng đoàn Phật giáo ở Âu Mỹ bắt nguồn từ những tật xấu lợi dưỡng cá nhân của các vị Tăng sĩ. Theo Phật giáo Tây Tạng, vai trò và cương vị của vị đạo sư rất quan trọng. Các tín đồ kính ngưỡng vị đạo sư của mình như một vị Phật. "Đạo sư (guru) là Phật, Đạo sư là Pháp, Đạo sư là Tăng."
Từ sự suy tôn đó, người ta thần thánh hóa vị đạo sư và cho tất cả những gì vị đạo sư đó nói đều đúng, đều thật, và họ đã vô tình tôn vinh bản ngã ông đạo sư để rồi đưa đến những hậu quả thảm hại, ê chề.
Ông đạo sư cũng vẫn còn bằng xương bằng thịt, đã chứng quả Thánh gì đâu, nên những sự cúng dường tôn sùng quá mức đã làm nảy sinh tâm tham đắm mê muội.
Ví dụ như trường hợp của Chogyam Trungpa, người thầy hướng dẫn tâm linh và cũng là người bạn đầu tiên của Tenzin Palmo, đã để lại bao nhiêu là tai tiếng bê bối sau khi ông ta qua đời năm 1987.
Trungpa không những đắm chìm trong men rượu mà còn liên hệ tình dục với các nữ tín đồ hay đệ tử của ông ta. Nhiều người đã than phiền và tố cáo hành vi sai trái xúc phạm danh tiết phụ nữ của Trungpa; họ còn cho biết là cuộc đời họ thực sự đã bị phá hủy bởi ông này.
Kinh khủng hơn nữa là người đệ tử kế thừa của Trungpa, Thomas Rich, pháp danh là Osel Tendzin, sanh tại Mỹ, không những đã nhiễm căn bệnh nguy hiểm AIDS mà ông ta đã hết sức dấu kín, mà còn lây luôn cho một nữ đệ tử trong số hàng loạt các nữ tín đồ dấu tên của ông ta.
Đó là một vài trường hợp điển hình trong số rất nhiều vụ tai tiếng bê bối của các vị đạo sư ở Âu Mỹ.
Các nữ tín đồ thật vô cùng ngây thơ khi bị các ông thầy lừa bịp nói là các cô đã được tuyển chọn để làm vợ các ông trong sự liên hệ "thần bí" theo phái Mật tông Tây Tạng; vì thế, các cô rất ư là hãnh diện và sung sướng là mình đã trúng tuyển đặc biệt.
Niềm tin mù quáng vào ông thầy đã khiến các cô bị lừa bịp thảm thương và đồng thời cũng gây tiếng xấu ảnh hưởng đến Tăng đoàn Phật giáo.
Tenzin Palmo nhận xét rằng người phụ nữ Tây Phương còn kém kinh nghiệm và không hiểu biết phải làm thế nào để tìm cho được một vị minh sư, và ngay cả đến ý nghĩa thế nào là một vị đạo sư chân chính, đúng đắn, họ cũng không rõ nữa.
Sự khao khát học hỏi giáo lý và nương tựa vào một vị lãnh đạo tinh thần đã khiến các phụ nữ Tây Phương dễ bị mắc lừa và trở thành con mồi ngon cho sự lợi dụng thỏa mãn tình dục.
- "Nhiều người Tây Phương đã hiểu sai về thiên chức vị đạo sư. Họ cho rằng vị đạo sư là người dìu dắt họ từng bước một trên con đường tìm cầu chân lý, như đứa con cần sự dắt dìu của người mẹ. Nhưng thực ra không phải vậy.
Vị đạo sư là người có bổn phận giúp đỡ mọi người nhận thức rõ ràng hơn, trưởng thành hơn, tỉnh thức hơn.
Chức năng của vị đạo sư là giới thiệu cho chúng ta con đường trở về với bản nguyên, và sợi dây liên kết giữa thầy trò là một sự cam kết tôn trọng lẫn nhau.
Về phần người học trò thì phải có trí tuệ suy xét những gì thầy mình làm có đúng chánh pháp hay không, nghe lời Thầy dạy, và thực hành theo những gì Thầy hướng dẫn.
Về phần người thầy cũng phải dạy dỗ hướng dẫn học trò mình đạt được chân lý, dù phải trải qua vô lượng kiếp.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có lời khuyên chân thực rằng "Qúy vị phải tìm hiểu dò xét về người thầy mình ít nhất là 10 năm. Quý vị phải nghe, phải quan sát, phải nhìn cho thật kỹ, cho đến khi qúy vị nhận xét ông thầy đó chắc chắn là trong sạch. Ngay trong lúc tìm hiểu đó, qúy vị cư xử với vị thầy đó như một người bình thường và nhận những lời dạy của ông ta như là "một thông báo, một lời giới thiệu."
Một người thầy chân chính, đúng đắn không bao giờ đi tìm cầu học trò hay tín đồ gì cả. Chính đức hạnh và đời sống thanh cao của vị thầy sẽ hướng dẫn các tín đồ tìm đến vị thầy xin nương tựa."
Đối với tất cả những phán xét, phê bình hay chê trách những vị đạo sư, Tenzin vẫn luôn luôn kính trọng Sư Phụ của cô là ngài Khamtrul Rinpoche :
- "Tôi có thể nói Khamtrul Rinpoche là người tôi tuyệt đối tin tưởng. Tôi không bao giờ nghi ngờ Thầy tôi dù là một phút giây. Ngài đã chỉ dạy tôi thật chính xác, tuyệt hảo. Tôi không hề thấy có điều gì tôi cần thắc mắc. Sư Phụ tôi lúc nào cũng sắc sảo, trí tuệ, và vô ngã."
Đối với nhiều tín đồ Phật giáo Âu Mỹ, hình tượng "Đạo Sư" đã bị tổn thương nặng nề. Đó không phải chỉ vì những vụ bê bối tai tiếng mà chính vì thời điểm của họ đã tận.
Theo sự nhận xét của người Âu Mỹ cuối thế kỷ 20 nầy, hình tượng vị đạo sư chẳng qua chỉ là sản phẩm của một hệ thống giai cấp trưởng lão trên cơ bản cấu trúc và tôn ti cấp bực; và với sự phát triển của giới lãnh đạo nữ, ngày tàn của hệ thống quyền hành trưởng lão đó sắp sửa kết thúc.
Andrew Harvey, cựu học giả đại học Oxford và cũng là một thi sĩ, đã mất nhiều năm đi tìm chân lý với sự hướng dẫn của nhiều đạo sư khác tôn giáo trên khắp thế giới, kể cả vài vị Lạt Ma nổi tiếng đương thời, Linh Mục Bede Griffiths (người xây một đền thờ ở Ấn), và một nữ đạo sư Ấn Độ Mẹ Meera, đã nói lên kinh nghiệm học hỏi của ông ta trong một cuộc phỏng vấn ở đài phát thanh :
- "Tôi rất sung sướng được học hỏi với các vị thầy của tôi, nhưng đồng thời tôi cũng nhận thức rằng, nếu sự liên hệ giữa thầy trò xảy ra trong tình trạng lệch lạc, kém tinh thần thì chúng ta dễ mất đi niềm tin và phương hướng. Nếu chúng ta không được hướng dẫn đúng đắn thì chúng ta khó có thể tiếp cận đối phó với thế giới bên ngoài được, và sự lệch lạc đó cũng làm băng hoại ông thầy đi. Chúng ta đang đi tìm một kiến thức mới, một mô hình mới của sự liên kết giữa thầy trò phải như thế nào.
Tôi nghĩ rằng trong vòng 10 hay 15 năm tới, sẽ có nhiều thay đổi. Chúng ta sẽ không còn giữ đường lối xưa cũ của các vị thầy phương Đông nữa. Nó không còn phù hợp với thực tế hiện trạng bây giờ. Chúng ta cần một sức một sức mạnh tinh thần thực sự giúp chúng ta phấn chấn lên và đẩy chúng ta đi tới phía trước
Những gì mà giới trí thức tân tiến ngày nay cần để thay thế cương vị "người thầy" là người bạn tâm linh. Hình tượng người "bạn tâm linh" đó không cần phải rêu rao là đã chứng đắc, cũng chẳng cần phải được tôn sùng tuyệt đối và phải được vâng lời dạy bảo hoàn toàn; mà người bạn đó chỉ cần đồng hành, cùng đi chung một con đường với người đang đi tìm chân lý. Đó là một giải pháp dân chủ phù hợp với văn hóa phương Tây.
Tenzin Palmo đồng ý với quan điểm đó. Cô đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm vô giá qua sự liên hệ giữa cô và vị đạo sư của cô; nhưng đã nói, Tenzin quả là một người may mắn và phi thường nhất trên đoạn đường tìm chân lý. Tenzin nói :
- "Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ người Tây Phưong nên thực tập giáo lý Phật giáo và nương tựa nơi những vị thầy đạo hạnh hơn là những vị đạo sư.
Hai danh từ "Thầy" và "Đạo Sư" không cùng một ý nghĩa như nhau đâu. Một vị Đạo sư có sợi dây liên hệ rất mật thiết và đặc biệt quan trọng với người đệ tử, và chúng ta chỉ có một đạo sư mà thôi - nhưng chúng ta có thể có nhiều thầy; như ngài Atisha (vị sáng lập Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ 10), ngài có tới 50 vị thầy.
Hầu hết các vị thầy đều có đầy đủ khả năng để hướng dẫn chúng ta và ngay tự chúng ta, chúng ta cũng có thể tự mình đi tới đích một cách hoàn hảo.
Chúng ta có trí tuệ, có sức mạnh tâm linh. Nếu chúng ta gặp một thiện hữu trí thức giúp đỡ chúng ta, quá tốt; nếu không, chúng ta vẫn có thể tự chứng qua sự thực hành giáo pháp. Điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải hiểu biết rõ ràng sâu sắc về Phật, Pháp, và Tăng."
http://4phuong.net/ebook/13547372/23...-thach-do.html
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病 此博文包含图片 (2013-04-08 11:41:53)转载▼( http://blog.sina.com.cn/s/blog_63b17b9c0101jyq9.html / http://blog.xuite.net/benleehk168/bl...B8%AB%E4%BD%9B / http://blog.sina.com.cn/s/blog_8fdd36380102vhnq.html )
标签: 莲师 佛教 莲师药师佛 开示 禽流感 情感 分类: 佛教知识
莲师药师佛祈请文
坏有情幻躯之病起时
为痛苦难忍之病所害
心无疑虑专一而祈请
邬金与药师佛无二别
若非寿尽障碍必消除
邬金莲花生前我祈请
加持愿望自然获成就
加持愿望自然获成就
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病
http://s2.upanh123.com/2017/03/19/BV4039b.png
http://s3.sinaimg.cn/middle/0d0276a8t76ac33fb0e02&690
http://s1.sinaimg.cn/mw690/63b17b9cgd9d176284650&690
(苏兰:昌列寺日常课诵本《微妙心 》之意乐成就祈请颂中也有这样的经 颂词:
“有情如幻身躯病危际
于大疾苦极难堪忍受
心无疑虑专一而祈祷
莲师药师如来无二别
若非命尽障难必消除
祈请钨金莲花生大士
加倍愿望自然获成就”
之前有师兄姐问过我,是不是自己修 师佛就和修莲师是一样的意思,哈, 得我当时回复“莲师与药师如来无二 别,此刻言讲赞颂的是莲师即药师如 ,两者无二无别,却并非药师佛是莲 啊。那么在看这篇开示的时候,我们 可以知道了,莲师药师佛是莲师化现 。)
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病-贝玛堪仁波切开示
现在要讲的是有关莲华生大士
我将使用英语不是很好 像是破破的英语
不知我将解释多少你能听懂多少
不确定
但我非常诚恳而仁慈地为你解说
对我而言很好也很乐意
莲华生大士是西藏人尊称的 咕噜仁波切
我们称他为莲华生大士是最伟大的上 已证悟的上师
是一位非常伟大的金刚乘上师
是这世界上第二位证悟的佛陀
他是从阿弥陀佛的心间所化现的莲华 干中出生
具有不可思议的加持力 殊胜的智慧和无量的慈悲心
他对印度佛教的贡献很大
当他还没有出生时印度佛教的发展非 困难
在释迦牟尼佛涅盘之后莲华生大士对 法的弘扬有很大的贡献
也帮助藏传佛教是金刚乘的创立者 把金刚乘传入西藏
利生弘法非常广大直到现在
因此当我们遇到问题 困难 有障碍时
你可以依止莲华生大士在心中生起莲 生大士 祈请咕噜仁波切
对你很有帮助他能帮助你 保护你
因为他有如此大的智慧和力量
释迦牟尼佛说在我涅盘后12年
莲华生大士咕噜仁波切将在这个世间 生
他将继续弘传我的佛法帮助佛法的弘 鞤助佛弟子
他具有如此不可思议的力量智慧 和慈悲心
释迦牟尼佛说如果你遇到麻烦
遭遇心灵上的困难(ghost?邪灵?) 遭遇魔扰任何阻挠
你可以祈请莲华生大士他便会不由自 的降临在你面前
他能够解决这些问题他的心咒力量不 思议:
嗡阿吽班杂咕噜 贝玛悉地吽
莲师心咒具有非常大的加持力很有力
当你唱颂它便能够净除你的障碍 净化你的恶业
带来更多智慧光明 而达到证悟
让你更能融入佛法修行也将更趋圆满
这句
嗡阿吽 班杂咕噜 贝玛悉地吽
莲师心咒的力量非常强大威猛
现在我来唱颂莲师心咒:
嗡阿吽班杂咕噜 贝玛悉地吽
嗡阿吽班杂咕噜 贝玛悉地吽
嗡阿吽班杂咕噜 贝玛悉地吽
这就是莲华生大士的心咒
加持力很大的心咒
尤其是当你在藏历每个月的第10天来唱 颂它
每月10日都是特别的日子 是莲师吉祥日 莲师将再次降临的日子
所有的天神佛陀 菩萨也都会在这一天来到这个世界
还有许多有智慧的空行母会进行盛大 莲师荟供
在这一天也有特别盛大的修法 做特别的祈祷
莲华生大士会在这一天再次降临说法
能在这个特别的吉祥日唱颂心咒功德 益更不可思议
身语 意内外等都得到特殊的加持
你可以唱颂心咒而生起更多力量来帮 自己
有些人晚上失眠有睡眠方面的障碍
唱颂莲师心咒:嗡阿吽班杂咕噜 贝玛悉地吽 也能帮助你
睡前将心咒安放在心间将莲华生大士 坐在心轮上
能鞤助你保护你 为你加持
也有些人遇到很多其它的障碍与问题
也可以来祈请莲华生大士唱颂这段心 是非常有鞤助的
莲师心咒有很大的能量使人成就的心
你希望每件事情都能够进行得更顺利
也希望生活、家庭能远离苦难 更圆满
因此要经常唱颂能够经常唱颂莲师心 是很重要的
不要忘记
接下来是莲师药师佛
莲师药师佛是莲华生大士所化现的
莲华生大士预言:
未来也就是我们现在的这个五浊恶世 将会出现很多疾病
人们遇到很多问题
越来越多的人生病病得很严重
疾病的种类也越来越多
有108种疾病出现而且越难治愈
没有方法可以根除这些疾病
没有人知道这些疾病的原因
未来的这些疾病将非常难医
莲华生大士非常慈悲地说出了这段预
更为这世间的有情众生提出了解决的 法
慈悲的莲华生大士很清楚地预知未来 些都将发生
因悲悯众生而化现成为药师佛来鞤助 们
教导如何解除病苦净除种种病因
现在我们有SARS、癌症、AIDS,很多很多 不同的疾病来临
我们无法找到病因无法辩识疾病 无法医治
因此莲华生大士说:
我将化现成莲师药师佛
好让人们能够有所依止向我祈祷 每个人都能知道 能唱颂心咒来祈请
如果你想要净除这些病因、恶缘
你可以观想莲师药师佛真实地化现到 面前 净除疾病
然后对莲师药师佛祈请
当你有问题诚恳的祈请
你可以说:
莲师药师佛请你帮助我 我的内心有许多问题
我生病了我有麻烦 请您帮助我
请赐给我慈悲心给我力量 请融入到我的心中 鞤助我净除障碍
使我更健康也帮助其它的人
你可以做这样的观想然后唱颂莲师药 佛的心咒祈请文
这很重要的可使你免除疾病:
森坚酒律 记贝 内炯切 坏有情幻躯之病起时
咪虽杜雅 内记 年巴那 为痛苦难忍之病所害
依腻贴冲 美巴 梭瓦爹 心无疑虑专一而祈请
邬金棉记 拉当 耶美贝 邬金与药师佛无二别
切些玛寅 巴切 耶巴些 若非寿尽障碍必消除
邬金贝玛 炯内拉 梭瓦爹 邬金莲花生前我祈请
桑巴伦记 助巴 金记罗 加持愿望自然获成就
桑巴伦记 助巴 金记罗 加持愿望自然获成就
那些疾病都来自于你的心是由你内心 生
众生心中所有的疾病主要是来自于三 根
执着、嫉妒、无明等 就是我们常常起贪心 喜欢生气 嫉妒 愚痴
这三毒无时无刻不跟你在一起
这三毒让你时时生病
你不净除它们就会一直生病下去 而不得自在
这三毒就是病根
如果你想痊愈想解决这些问题
你必须在心中生起佛法
生起邬金莲花就是莲师药师佛
你可以观想莲师药师佛有三种子字: 阿 吽 分别有三种不同的颜色
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病
【莲师药师佛修法】祈请莲师药师佛 病治病
放光融入你的身体和心间
而净除疾病的根源净化三毒根 净化它
反复地这样做
而只做一遍是不够的
你可以一次又一次的观想
渐渐地渐渐地 你就能净化三毒 净除三毒根
接着来唱颂心咒很有加持力的心咒
它将使得你更有力量
当你更有力量这股力量深入你心中
将可以使这些三毒连根净除
三毒根净除就不会再生病了
所有的疾病都是来自于你的内心
因此我们必须了解这些疾病是这样来
而且净除它唱颂心咒 心咒的力量非常强大威猛
当你唱颂心咒不要只是嘴巴上唱着 那没有用
必须用心地唱虔诚依止莲华生大士、 师药师佛
真正的使内心生起慈悲精神集中而专 地唱颂着
然后一切将变得更有意义 更有用
你更有力量能够净化三毒
因此唱颂莲师药师佛的心咒是很重要 :
嗡阿吽 班杂咕噜贝玛 透听扎 贝堪则 拉(RA)杂萨尔哇 悉地 怕拉吽阿
嗡阿吽 班杂咕噜贝玛 透听扎 贝堪则 拉(RA)杂萨尔哇 悉地 怕拉吽阿
嗡阿吽 班杂咕噜贝玛 透听扎 贝堪则 拉(RA)杂萨尔哇 悉地 怕拉吽阿
是的这些是我对莲师药师佛的讲解 简短并不多
我的英语不够所以只有简单的解说
祝福所有台湾人更加的健康
而佛法的修行者也能更健康修持佛法
因此我也要特别依止莲师药师佛
而我们在欧洲有一个白玉闭关中心里 将特别来供奉莲师药师佛
中心更修持莲师药师法
由于莲华生大士的预言莲师药师法门 未来的人们是非常重要的
许多的疾病来到这世上他特别化成莲 药师佛
并且祈愿这些力量加赐使得每个人都 解除问题
因此我也特地向莲师药师佛祈请
这些方法 非常重要
每个人了解到如何会有这些病况
好了现在来回向
谢谢每一位的聆听
回向文:
所南笛宜 汤皆 西巴尼 以此功德愿证佛自性
托内涅倍 扎南 旁介金 果位得已降伏诸过敌
皆嘎拿企 巴龙 处巴宜 生老病死汹涌之波涛
西贝措雷 卓棍 卓哇秀 愿度众生解脱轮回海
莲师药师佛口传修法念诵
http://www.nbtv.tw/data2/4/42/nbtv-4-42-358.WMV