-
Buddhist Sanskrit Lexicon - Mahāyāna
https://www.taracandra.org › BSL › BSL
om: ¦ bija seed syllable of head; vairocana white mudra enlightenment | ...... abhijña: ¦[a.mn] knowing, understanding; one who understands |; abhijñā ...... bīja: paṃ; a mantra: “oṃ padmadevi puṣpadevi paṃ svāhā”; (pāṇḍaravāsinī - firewind ...
https://www.taracandra.org/BSL/BSL.html
-
thánh mẫu Ma Ha Ma Da 聖母 arya (Mahamaya)
thánh mẫu Maha Maya
===
Ở đây có từ “bhagavatyai”, mà trong các bản dịch chữ Hán không có. ... Trí tuệ được hiểu là Mẹ Thánh, hay là Thánh Mẫu. Thánh Mẫu – bhagavatyai - ở đây khác với từ Thánh Mẫu – Mahamaya – trong kinh Địa ... Đó là cách chơi chữ rất sâu sắc, rất tiếc các bản dịch chữ Hán đã bỏ qua, không chứa đựng nội hàm này.
https://books.google.com.vn/books?id...20Maya&f=false
-
TỪ "MẸ" TRONG NGÔN NGỮ THẾ GIỚI
Lê Trung Hoa
---o0o---
Từ lâu, người ta đã thấy có sự trùng hợp kỳ lạ ở các phụ âm đầu của những từ chỉ người mẹ trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Dù tư liệu còn hạn chế, chúng tôi cũng đã tìm thấy 29 ngôn ngữ ở Việt Nam và trên thế giới có 49 từ chỉ người mẹ khởi đầu bằng "M".
Ở Việt Nam, ta có Mế (Mường), Mê, Manda (Thái), Mẻ (Tày), Mê (Nùng), Mi (Giarai), Mê (Koho), Mê (Bana), Mê (Raglai), Mé (Chàm), Mata, Mđai (Khơme)...
Trong một số ngôn ngữ ở châu Á٬ cũng thấy có hiện tượng này. Mê, Manda (Thái Lan), Mệ, Manda (Lào), Mẫu, Ma (Trung Quốc), Mata, Mati (Pali), Mata, Mati (Sanskrit)...
Ở các ngôn ngữ Ấn - Âu, hiện tượng này cũng xuất hiện : Mère, Marâtre, Maman (Pháp), Mat, Mama (Nga), Mutter (Đức), Mater (Tiếng Latinh), Madre (Tây Ban Nha), May (Bồ Đào Nha), Modir (Bắc Âu cổ), Mothir (Ailen), Mati (Slave cổ), Moté (Lítva), Mêter (Hy Lạp), Mayr (Acmêni)...
Đặc biệt, trong tiếng Việt và Anh, mỗi ngôn ngữ có đến sáu từ chỉ người mẹ khởi đầu bằng "M". Tiếng Việt : Mẹ, Má, Mạ, Mệ, Mẻ, Me (có lẽ Me mượn từ Mère của Pháp vì từ này chỉ dùng ở các thành phố). Tiếng Anh : Mother, Mum, Mummy, Mama, Mamma, Mammy.
Tại sao có hiện tượng đặc biệt này ?
Lý do cũng dễ hiểu. Phụ âm đầu "M" là phụ âm rất dễ phát âm. Trẻ con chỉ cần bật hai môi là thành tiếng, và những tiếng bập bẹ đầu tiên của đứa trẻ được người lớn coi là tiếng đứa trẻ gọi người mẹ, người thân nhất, có quan hệ nhiều nhất đến sự sống của nó. Do đó, chúng ta không lấy làm lạ vì hầu hết các từ mẹ trong các ngôn ngữ trên thế giới chỉ có một, hai âm tiết (vì hơi của trẻ con ngắn), chứ không dài như các từ khác.
http://www.tuvienquangduc.com.au/VuLan/107tume-lth.html
-
赤柱龍舟競渡大賽_赤柱風物誌 - Angelfire
www.angelfire.com › dragonboat › tinhau
Translate this page
( 天后,即澳、台、福建地區所稱之「 祖」。 *Tin Hau, otherwise know as Maju /Mazu in Macau, Taiwan and Fujian Province ) ...
-
天上聖母媽祖
DIVIPRA Arya Bhagavati MAJU
-
Queen Mother of the West - Wikipedia
https://en.wikipedia.org › wiki › Queen_Mother_of_the_West
The Queen Mother of the West, known by various local names, is a goddess in Chinese religion ... Traditional Chinese, 瑤池金母 .... depicting King Mu of Zhou visiting the Queen Mother at the Yaochi (Yoji) in the mythical Kunlun Mountain.
https://en.wikipedia.org/wiki/Queen_Mother_of_the_West
-
Huyệt Khí Hải (chữ Hán: 氣海穴, biển của khí) là một trong 36 đại huyệt trên cơ thể con người. Khí Hải nằm trên mạch Nhâm. Đôi khi người ta thường lấy tên là Đan Điền vì nó là một phần của vùng hạ Đan điền.
Tên gọi:
Khí: nguyên khí bẩm sinh, năng lượng cần thiết cho sự sống
Hải: nghĩa là biển, nơi mọi nguồn nước đổ về
Vậy huyệt khí hải là biển của nguyên khí bẩm sinh, khí ở đây luôn trong tình trạng phong phú và phát triển nhất, nó là huyệt căn bản để bổ toàn thân trong cơ thể
Vị trí
Đo từ rốn xuồng phía dưới 1,5 thốn đồng thân, điểm đó chính là huyệt Khí Hải.
Công dụng
Trong y học, nó là huyệt vị tốt chữa các chứng về đường tiểu, bệnh về thần kinh suy nhược, bệnh về đường sinh dục.
Trong khí công, nó là vùng tụ khí quan trọng bên dưới cơ thể, là cái bể chứa nguyên khí của cơ thể.
Trong võ thuật phương Đông, đây là một trong ba mươi sáu tử huyệt.
Phương pháp châm cứu:[1]
Châm: xiên, hướng xuống dưới 2-3 thốn, có cảm giác căng tức, có khi lan xuống bộ phận sinh dục.
Cứu: 3-5 lửa
Ôn cứu: 15-20p
*Chú ý:
- Có thai cấm châm cứu
- chứng hư thoát có thể cứu 3-50 lửa
-
Hơn nửa thế kỷ qua, hình ảnh này vẫn là một trong những ký ức hãi hùng về chiến tranh
Vũ khí hạt nhân (tiếng Anh: nuclear weapon), còn gọi là vũ khí nguyên tử, là loại vũ khí hủy diệt hàng loạt mà năng lượng của nó do các phản ứng phân hạch hạt nhân hoặc/và phản ứng hợp hạch gây ra. Một vũ khí hạt nhân nhỏ nhất cũng có sức công phá lớn hơn bất kỳ vũ khí quy ước nào. Vũ khí có sức công phá tương đương với 10 triệu tấn thuốc nổ có thể phá hủy hoàn toàn một thành phố. Nếu sức công phá là 100 triệu tấn (mặc dù hiện nay chưa thể thực hiện được) thì có thể phá hủy một vùng với bán kính 100 – 160 km. Cho đến nay, mới chỉ có hai quả bom hạt nhân được dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai: quả bom thứ nhất được ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) vào ngày 6 tháng 8 năm 1945 có tên là Little Boy và được làm từ uranium; quả sau có tên là Fat Man và được ném xuống Nagasaki, cũng ở Nhật Bản ba ngày sau đó, được làm từ plutonium và thêm quả bom thứ ba được thử nghiệm ở Nga có tên là T-Sar Bomba với sức công phá lớn khiến cho một hải đảo ở phía Bắc của Nga bị hủy diệt hoàn toàn.
Mục lục
1 Lịch sử vũ khí hạt nhân
2 Các loại vũ khí hạt nhân
3 Ảnh hưởng của vụ nổ hạt nhân
4 Phóng bom hạt nhân
4.1 Bom hấp dẫn
4.2 Tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân
4.3 Tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân
4.4 Các phương pháp khác
5 Sở hữu, kiểm soát và luật pháp về vũ khí hạt nhân
6 Xem thêm
7 Chú thích
8 Tham khảo
9 Liên kết ngoài
Lịch sử vũ khí hạt nhân
Hậu quả của vụ nổ bom ở Hiroshima, Nhật Bản.
Những vũ khí hạt nhân đầu tiên được Hoa Kỳ chế tạo cùng với sự giúp đỡ của Anh Quốc và Canada trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là một phần của dự án Manhattan tối mật. Lúc đầu, việc chế tạo vũ khí hạt nhân là sự lo sợ Đức Quốc xã có thể chế tạo và sử dụng trước quân đội đồng minh. Nhưng cuối cùng thì hai thành phố của Nhật Bản là Hiroshima và Nagasaki lại là nơi chịu đựng sức tàn phá của những quả bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1945. Liên Xô cũng đẩy mạnh Dự án vũ khí hạt nhân và chế tạo, thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên vào năm 1949. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phát triển vũ khí hạt nhân nhiệt hạch vào những năm giữa của thập niên 1950. Việc phát minh ra các tên lửa hoạt động ổn định vào những năm 1960 đã làm cho khả năng mang các vũ khí hạt nhân đến bất kỳ nơi nào trên thế giới trong một thời gian ngắn trở thành hiện thực. Hai siêu cường của chiến tranh Lạnh đã chấp nhận một chiến dịch nhằm hạn chế việc chạy đua vũ khí hạt nhân nhằm duy trì một nền hòa bình mong manh lúc đó.
Vũ khí hạt nhân từng là biểu tượng cho sức mạnh quân sự và sức mạnh quốc gia. Việc thử nghiệm hạt nhân thường để kiểm tra các thiết kế mới cũng như là gửi các thông điệp chính trị. Một số quốc gia khác cũng phát triển vũ khí hạt nhân trong thời gian này, đó là Anh Quốc, Pháp, Trung Quốc. Năm thành viên của "câu lạc bộ các nước có vũ khí hạt nhân" đồng ý một thỏa hiệp hạn chế việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở các quốc gia khác mặc dù có ít nhất hai nước (Ấn Độ, Nam Phi) [1] đã chế tạo thành công và một nước (Israel) có thể đã phát triển vũ khí hạt nhân vào thời điểm đó. Vào đầu những năm 1990, nước kế thừa Liên Xô trước đây là nước Nga cùng với Hoa Kỳ cam kết giảm số đầu đạn hạt nhân dự trữ để gia tăng sự ổn định quốc tế. Mặc dù vậy, việc phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn tiếp tục. Pakistan thử nghiệm vũ khí đầu tiên của họ vào năm 1998, CHDCND Triều Tiên công bố đã phát triển vũ khí hạt nhân vào năm 2004.[2] Vũ khí hạt nhân là một trong những vấn đề trọng tâm của các căng thẳng về chính trị quốc tế và vẫn đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề xã hội từ khi nó được khởi đầu từ những năm 1940. Vũ khí hạt nhân thường được coi là biểu tượng phi thường của con người trong việc sử dụng sức mạnh của tự nhiên để hủy diệt con người.[3]
Các loại vũ khí hạt nhân
Thiết kế cơ bản của hai loại bom nguyên tử.
Vũ khí hạt nhân đơn giản là lấy năng lượng từ quá trình phân hạch (còn gọi là phân rã hạt nhân). Một vật liệu có khả năng phân rã được lắp ráp vào một khối lượng tới hạn, trong đó khởi phát một phản ứng dây chuyền và phản ứng đó gia tăng theo tốc độ của hàm mũ, giải thoát một năng lượng khổng lồ. Quá trình này được thực hiện bằng cách bắn một mẫu vật liệu chưa tới hạn này vào một mẫu vật liệu chưa tới hạn khác để tạo ra một trạng thái gọi là siêu tới hạn. Khó khăn chủ yếu trong việc thiết kế tất cả các vũ khí hạt nhân là đảm bảo một phần chủ yếu các nhiên liệu được dùng trước khi vũ khí tự phá hủy bản thân nó. Thông thường vũ khí như vậy được gọi là bom nguyên tử, còn gọi là bom A.[4]
Các loại vũ khí cao cấp hơn thì lấy năng lượng nhiều hơn từ quá trình nhiệt hạch (còn gọi là tổng hợp hạt nhân). Trong loại vũ khí này, bức xạ nhiệt từ vụ nổ phân rã hạt nhân được dùng để nung nóng và nén đầu mang tritium, deuterium, hoặc liti, từ đó xảy ra phản ứng nhiệt hạch với năng lượng được giải thoát lớn hơn rất nhiều. Thông thường vũ khí như vậy được gọi là bom khinh khí, còn gọi là bom hydro, bom H hay bom nhiệt hạch. Nó có thể giải thoát một năng lượng lớn hơn hàng ngàn lần so với bom nguyên tử.
Người ta còn tạo ra các vũ khí tinh vi hơn cho một số mục đích đặc biệt. Vụ nổ hạt nhân được thực hiện nhờ một luồng bức xạ neutron xung quanh vũ khí hạt nhân, sự có mặt của các vật liệu phù hợp (như Coban hoặc vàng) có thể gia tăng độ ô nhiễm phóng xạ. Người ta có thể thiết kế vũ khí hạt nhân có thể cho phép neutron thoát ra nhiều nhất; những quả bom như vậy được gọi là bom neutron. Về lý thuyết, các vũ khí phản vật chất, trong đó sử dụng các phản ứng giữa vật chất và phản vật chất, không phải là vũ khí hạt nhân nhưng nó có thể là một vũ khí với sức công phá cao hơn cả vũ khí hạt nhân.
Ảnh hưởng của vụ nổ hạt nhân
Một hình cầu lửa phóng xạ ở đỉnh của cột khói phát ra từ một vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân.
Năng lượng từ vụ nổ vũ khí hạt nhân thoát ra ở bốn loại sau đây:
Áp lực — 40-60% tổng năng lượng
Bức xạ nhiệt — 30-50% tổng năng lượng
Bức xạ ion — 5% tổng năng lượng
Bức xạ dư (bụi phóng xạ) — 5-10% tổng năng lượng
Lượng năng lượng giải thoát của từng loại phụ thuộc vào thiết kế của vũ khí và môi trường mà vụ nổ hạt nhân xảy ra. Bức xạ dư là năng lượng được giải thoát sau vụ nổ, trong khi các loại khác thì được giải thoát ngay lập tức.
Năng lượng được giải thoát bởi vụ nổ bom hạt nhân (bom nguyên tử) được đo bằng kiloton hoặc megaton - tương đương với hàng ngàn và hàng triệu tấn thuốc nổ TNT (tri-nitro-toluen).[5] Vũ khí phân hạch đầu tiên có sức công phá đo được là vài ngàn kiloton, trong khi vụ nổ bom khinh khí lớn nhất đo được là 10 megaton. Trên thực tế vũ khí hạt nhân có thể tạo ra các sức công phá khác nhau, từ nhỏ hơn một kiloton ở các vũ khí hạt nhân cầm tay như Davy Crockett của Hoa Kỳ cho đến 54 megaton như Bom Sa hoàng (Tsar-Bomba) của Liên Xô (vào ngày 30/10/1961).
Hiệu ứng quan trọng nhất của vũ khí hạt nhân là áp lực và bức xạ nhiệt có cơ chế phá hủy giống như các vũ khí quy ước. Sự khác biệt cơ bản là vũ khí hạt nhân có thể giải thoát một lượng lớn năng lượng tại một thời điểm. Tàn phá chủ yếu của bom hạt nhân không liên quan trực tiếp đến quá trình hạt nhân giải thoát năng lượng mà liên quan đến sức mạnh của vụ nổ
Mức độ tàn phá của ba loại năng lượng đầu tiên khác nhau tùy theo kích thước của bom. Bức xạ nhiệt suy giảm theo khoảng cách chậm nhất, do đó, bom càng lớn thì hiệu ứng phá hủy do nhiệt càng mạnh. Bức xạ ion bị suy giảm nhanh chóng trong không khí, nên nó chỉ nguy hiểm đối với các vũ khí hạt nhân hạng nhẹ. Áp lực suy giảm nhanh hơn bức xạ nhiệt nhưng chậm hơn bức xạ ion.
Phóng bom hạt nhân
Thuật ngữ vũ khí hạt nhân chiến lược được dùng để chỉ các vũ khí lớn với các mục tiêu phá hủy lớn như các thành phố. Vũ khí hạt nhân chiến thuật là các vũ khí hạt nhân nhỏ hơn được dùng để phá hủy các mục tiêu quân sự, viễn thông hoặc hạ tầng cơ sở. Theo tiêu chuẩn hiện đại thì các quả bom ném xuống Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 có thể được coi là các vũ khí hạt nhân chiến thuật (sức công phá là 13 và 22 kiloton), mặc dù, các vũ khí hạt nhân chiến thuật nhẹ hơn và nhỏ hơn đáng kể.
Các phương pháp phóng vũ khí hạt nhân là:
Bom hấp dẫn
Những quả bom hạt nhân đầu tiên, giống như Fat Man, lớn hơn và phức tạp hơn bom hấp dẫn.
Không một vũ khí hạt nhân nào đủ tiêu chuẩn là bom gỗ - đó là từ lóng mà quân đội Hoa Kỳ dùng để chỉ một loại bom hoàn thiện, không phải bảo hành sửa chữa, không nguy hiểm dưới mọi điều kiện trước khi cho nổ. Bom hấp dẫn là loại bom được thiết kế để được thả xuống từ các máy bay. Yêu cầu của loại bom này là phải chịu được các dao động và thay đổi về nhiệt độ và áp suất của không khí. Lúc đầu, các vũ khí thường có một cái chốt an toàn ở trạng thái đóng trong quá trình bay. Chúng phải thỏa mãn các yêu cầu về độ ổn định để tránh các vụ nổ hoặc rơi bất ngờ có thể xảy ra. Rất nhiều loại vũ khí có một thiết bị đóng ngắt để khởi động quá trình nổ. Các vũ khí hạt nhân của Mỹ thỏa mãn các tiêu chuẩn an toàn nói trên sẽ được ký hiệu bởi chữ cái "B", và tiếp theo (không có dấu nối) là các ký hiệu vật lý cần thiết. Ví dụ bom B61 là một loại bom như vậy, được Mỹ chế tạo rất nhiều và lưu trữ trong các kho chứa đạn dược trong nhiều thập kỷ.
Có nhiều kỹ thuật ném bom như thả bom tự do trong không khí, thả bom bằng dù với cơ chế cho nổ chậm để máy bay ném bom có thời gian thoát khỏi vùng nguy hiểm khi bom nổ.
Những quả bom hấp dẫn đầu tiên chỉ có thể được mang bằng B-29 Superfortress. Thế hệ bom tiếp theo vẫn rất lớn và nặng, chỉ có các pháo đài bay B-52, máy bay ném bom lớn V mới có thể mang được. Nhưng vào giữa những năm 1950, người ta có thể chế tạo được các vũ khí nhỏ, nhẹ hơn và có thể được mang bằng các máy bay chiến đấu kiêm ném bom bình thường.
Tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân
Tên lửa đạn đạo có thể mang nhiều đầu đạn hạt nhân trong một lần phóng.
Các tên lửa đạn đạo là các tên lửa có chất nổ, được máy tính hoặc người điều khiển, sau khi phóng thì chúng chỉ chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn và lực cản của không khí gây ra. Tên lửa đạn đạo dùng để mang các đầu đạn với tầm xa từ mười cho đến vài trăm km. Các tên lửa đạn đạo liên lục địa hoặc các tên lửa đạn đạo vượt đại châu được phóng từ các tàu ngầm có thể theo các lộ trình dưới quỹ đạo hoặc quỹ đạo với tầm xa xuyên lục địa. Các tên lửa đầu tiên chỉ có thể mang một đầu đạn, thường với sức công phá khoảng megaton. Các tên lửa như vậy yêu cầu phải có khả năng hoạt động với tính chính xác rất cao để đảm bảo phá hủy mục tiêu.
Từ những năm 1970, các tên lửa đạn đạo hiện đại được phát triển với khả năng nhắm tới mục tiêu với độ chính xác cao hơn nhiều. Điều này làm cho một tên lửa, trong một lần phóng, có thể mang đến hơn một chục đầu đạn và nhắm tới các mục tiêu độc lập với nhau. Mỗi đầu đạn có thể có sức công phá vài kiloton. Đây là một điểm mạnh quan trọng của tên lửa đạn đạo có nhiều đầu đạn. Nó không chỉ cho phép phá hủy các mục tiêu khác nhau, độc lập với nhau mà còn có thể cùng công phá một mục tiêu theo kiểu bủa vây hoặc có thể tác chiến với các vũ khí chiến thuật khác để vô hiệu hóa tất cả các hệ thống phòng thủ của đối phương. Vào những năm 1970, Liên Xô công bố kế hoạch nhằm chế tạo ra các tên lửa đạn đạo nhiều đầu đạn. Số tên lửa như vậy đủ lớn để cứ mỗi 19 giây đến 3 phút thì phóng một tên lửa tới các thành phố lớn của nước Mỹ, và việc đó có thể được thực hiện liên tục trong một giờ đồng hồ.
Tên lửa mang đầu đạn ở trong các kho lưu trữ đạn được của Hoa Kỳ được ký hiệu bằng chữ "W" ở đầu, ví dụ W61 có các tính chất như B61 nói ở trên nhưng có các yêu cầu về môi trường khác hẳn.
Tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân
Tên lửa hành trình có tầm tác dụng ngắn hơn tên lửa đạn đạo xuyên lục địa nhưng rất khó bị đối phương phát hiện và ngăn chặn.
Tên lửa hành trình có thể mang đầu đạn hạt nhân, bay ở độ cao rất thấp, khoảng cách ngắn và được dẫn đường bởi các hệ thống điều khiển bên trong hoặc bên ngoài (như hệ thống định vị toàn cầu - GPS) làm cho chúng khó có thể bị đối phương phát hiện và ngăn chặn. Tên lửa hành trình mang được trọng lượng nhỏ hơn tên lửa đạn đạo rất nhiều nên sức công phá của đầu đạn mà nó mang thường là nhỏ. Tên lửa hành trình không thể mang nhiều đầu đạn nên không thể công phá nhiều mục tiêu. Mỗi tên lửa như vậy chỉ mang một đầu đạn mà thôi. Tuy nhiên, do gọn nhẹ nên tên lửa hành trình quy ước có thể được phóng đi từ các bệ phóng di động trên mặt đất, từ các chiến hạm hoặc từ các máy bay chiến đấu. Tên của các đầu đạn dành cho tên lửa hành trình của Mỹ không khác biệt với tên của các đầu đạn dành cho tên lửa đạn đạo.[6]
Các phương pháp khác
Súng cối Davy crockett là loại vũ khí hạt nhân nhỏ nhất của Mỹ.
Các phương pháp mang đầu đạn hạt nhân khác gồm súng cối, mìn, bom phá tàu ngầm, ngư lôi,... Vào những năm 1950, Hoa Kỳ còn phát triển một loại đầu đạt hạt nhân với mục đích phòng không có tên là Nike Hercules. Sau đó, nó được phát triển thành loại tên lửa chống tên lửa đạn đạo với đầu đạn lớn hơn. Phần lớn các vũ khí hạt nhân phòng không đều không được dùng vào cuối những năm 1960, các bom phá tàu ngầm không được dùng vào năm 1990. Tuy vậy, Liên Xô (và sau đó là Nga) vẫn tiếp tục duy trì tên lửa chống tên lửa đạn đạo với đầu đạn hạt nhân. Một loại vũ khí chiến thuật nhỏ, nhẹ, hai người mang (thường hay bị gọi nhầm là bom xách tay) cũng khá phổ biến mặc dù nó không chính xác và không tiện lợi lắm.[7]
Xem danh sách vũ khí hạt nhân để biết thiết kế các loại vũ khí hạt nhân.
Sở hữu, kiểm soát và luật pháp về vũ khí hạt nhân
Bản đồ cho thấy các nước có vũ khí hạt nhân và đã có các cuộc thử nghiệm hạt nhân
Hơn hai ngàn vụ nổ hạt nhân sau đó là do việc thử nghiệm hạt nhân, chủ yếu là do các quốc gia sau đây thực hiện: Hoa Kỳ, Liên Xô, Pháp, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan.
Hiện có một hiệp ước quốc tế để chống việc phổ biến vũ khí hạt nhân là Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, hay được biết đến với tên NPT (viết tắt của tên tiếng Anh: Nuclear Non-Proliferation Treaty).
Các nước hiện nay công bố đang sở hữu vũ khí hạt nhân là Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và CHDCND Triều Tiên. Thêm vào đó, Israel luôn được cộng đồng quốc tế cho là sở hữu bom hạt nhân mặc dù nước này chưa bao giờ chính thức khẳng định hay phủ định. Iran và Syria bị Hoa Kỳ cáo buộc là có sở hữu vũ khí hạt nhân.[8][9]
Có bốn quốc gia từng sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng đã từ bỏ. Kazakhstan, Belarus và Ukraina từng sở hữu một số lớn đầu đạn hạt nhân cũ từ thời Liên Xô, tuy nhiên cả ba quốc gia đã giao nộp lại cho Nga và ký vào NPT. Nam Phi cũng từng sản xuất ít nhất 6 quả bom hạt nhân vào những năm 1980 nhưng đã phá hủy chúng vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước và tham gia NPT.[10]
Có năm quốc gia không tự sở hữu và sản xuất vũ khí hạt nhân nhưng đang được chia sẻ bởi Hoa Kỳ, đó là Bỉ, Đức, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ và Hà Lan. Trước đây, Canada và Hy Lạp cũng tham gia chương trình này. Các quốc gia này được Hoa Kỳ chia sẻ vũ khí hạt nhân (quyền sở hữu vẫn thuộc Hoa Kỳ) để sử dụng cho huấn luyện và tác chiến trong các chiến dịch của NATO.
Cơ quan quốc tế của Liên Hiệp Quốc giám sát các vấn đề liên quan tới vũ khí hạt nhân là Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế.[11]
-
-
jiti jvalam (thâu nhiếp ánh sáng)
-
Một con người bằng xương bằng thịt, có cử động, nói năng được, nói tóm lại là một người sống, thì chia thành 02 phần rõ rệt:
Một phần là thân xác của mình
Và một phần là linh hồn của mình
Linh hồn đó ở trong một thân xác.
Nói Về Thân Xác
Nếu để linh hồn qua một bên (chỉ đề cập đến thân xác thôi) thì thân xác đó vẫn cử động được, vẫn di chuyển, vẫn hoạt động được, nhưng giống như một người máy. Tức là làm mà không biết mình làm, chỉ làm mà thôi. Cũng ăn, cũng uống, cũng ngủ, tất cả mọi thứ đều làm được với thân xác, chỉ thân xác mà thôi. Mắt, tai, mũi, lưỡi … thân xác đều có, nhưng:
Mắt nhìn thấy sự vật thì chỉ biết rằng Nhìn và Thấy, chấm dứt.
Tai nghe được tiếng động, biết được có tiếng động, chấm dứt.
Mũi ngửi được, biết rằng có mùi, chỉ ngửi và chấm dứt.
Lưỡi nếm được, biết rằng có một cái vị, nhưng chỉ biết được bao nhiêu đó mà thôi, chấm dứt.
Tay sờ vào một vật gì thì chỉ biết hành động sờ nhưng không phân định được.
Tóm lại là với ngũ căn thì đều nhận biết nhưng không rõ chi tiết.
Tuy nhiên, nếu thân xác đó có được một linh hồn ở bên trong của thân xác, thì chính linh hồn đó mới tạo ra những cái thức. Khi đó, ngũ căn không chỉ đơn thuần là thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó. Tất cả những hành động của ngũ căn đều có sự diễn tả rất là chi tiết. Những chi tiết có được là từ ở những cái THỨC do Linh Hồn tạo nên.
Thấy như thế nào, thấy cái gì, màu sắc như thế nào và những chi tiết của việc thấy ra làm sao?
Tất cả những gì có liên quan đến cái thấy thì sẽ giúp cho chữ thấy được mở rộng ra, càng chi tiết hơn.
Nhận biết rằng có một cái mùi bay ngang qua lỗ mũi của mình, nhờ có linh hồn cho cái Tỉ thức mà mình biết được rằng đó là mùi thơm hay mùi hôi, mùi của 1 loại hoa, 1 loại cỏ, hay là mùi của 1 con vật, và cái mùi đó đã tạo nên một cảm giác ra làm sao?
Lần lượt ngũ căn đều nhận được từ ở Linh Hồn những cái THỨC gọi chung là NGŨ THỨC, dự phần vào việc giúp cho ngũ căn cảm nhận mọi sự vật chung quanh mình một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn và tinh tế hơn.
Bên cạnh ngũ căn được sự tăng cường của NGŨ THỨC, còn có những THỨC khác mà tầm quan trọng cũng rất đáng kể, đó là MẠC NA THỨC và A LẠI DA THỨC.
Giữa Ngũ Thức, Mạc Na Thức và A Lại Da Thức có một thức trung gian, đó là Ý THỨC. Sự phân định và thẩm định một cách rõ ràng của những cái Thức của Ngũ Căn đều phải qua Ý Thức.
Đơn cử một thí dụ như sau: một người nhìn thấy một cảnh đẹp, nhờ có Nhãn Thức mà người đó sẽ hiểu được các chi tiết trong cái cảnh mà mình nhìn thấy. Nhưng bên cạnh đó, nhờ có Ý Thức, người đó sẽ thấy rằng khung cảnh này nó nên thơ như thế nào, nó làm cho lòng tôi bồi hồi ra sao, nó làm cho những kỷ niệm xa xưa sống lại với tôi như thế nào? Làm cho tôi nhớ lại những gì đã xảy ra, làm cho tôi liên tưởng đến một hình ảnh khác... Tất cả những gì tôi liên tưởng, tôi nghĩ đến, hay tôi bồi hồi trước một khung cảnh đẹp, đều là do ở tác động của Nhãn Thức tăng cường thêm sự trợ lực của Ý Thức. Và cái Ý Thức quan trọng vô cùng, nó lại liên quan đến cái Tâm và cái Tánh.
Nếu một người đó có một Tâm từ bi, Tâm hỷ xả thì khi đứng trước một cảnh vật hữu tình, tâm người đó rung động, chan chứa những hình ảnh tốt đẹp về những cái gì mà người đó muốn đem ra để ban phát cho chúng sanh. Tâm rung động đó là một tâm rung động tốt. Cái tâm rung động tốt đó sẽ giúp cho cái Ý Thức nảy sinh ra những tư tưởng tốt đẹp là làm sao xoa dịu được nỗi đau của kẻ khác.
Cho nên cái Ý Thức dính liền với cái Tâm rất nhiều và nó cũng dính chặt với cái Tánh. Nếu là một người có bản tánh thích chia sẻ, thích sự dịu dàng, thích ban phát, ban bố, thì trước một khung cảnh hữu tình, người đó sẽ tức cảnh sanh tình xướng lên những vần thơ biểu lộ hết tâm tư của mình, sự chắt chiu, lo lắng của mình đối với những người kém may mắn, kém phước lành hơn mình.
Nếu cũng trong một khung cảnh đó, cái Ý Thức được khởi lên từ ở một người có một cái Tâm không lành lại cộng thêm một cái Tánh không lành thì mọi chuyện sẽ quay ngược trở lại và sẽ không thể nào có được những bài thơ êm nhẹ, ca ngợi một tình thương yêu đối với chúng sanh.
Thành ra, tất cả những cái Thức mà mình có được chính là từ ở Linh Hồn.
Nên nhớ rằng: thân xác bị già nua, bị hủy hoại, nhưng Linh Hồn thì không.
Trước khi thân xác chấm dứt sự sống, Linh Hồn vì ở trong thân xác đó, nên đã nhận biết được sự lão hóa, sự hủy hoại từ từ của thân xác, nên đã có sự chuẩn bị, sắp xếp để rời thân xác.
Coi như cái áo này đã cũ rồi, cần phải đi tìm chiếc áo mới khác tốt đẹp hơn. Và khi linh hồn rời khỏi xác thân, tất cả các Thức đều bị hủy diệt.
Tại sao?
Vì những Thức đó là những thức giả tạm, không vĩnh viễn, xem như là phương tiện cho những bộ phận của thể xác mà thôi. Kể cả Mạc Na Thức cũng không được xem là một thức vĩnh viễn. Duy nhất được xem là vĩnh viễn, chính là A Lại Da Thức và thức này đảm nhận công việc của một ngăn chứa.
Chứa cái gì?
Chứa thuần những sự việc quan trọng, không quan trọng thì không chứa!
Không quan trọng thì tạm thời chứa trong Mạc Na Thức, khi linh hồn đã rời khỏi thân xác rồi thì Mạc Na Thức cũng bị hủy diệt.
Vì Sao?
Vì tất cả những thứ mà Mạc Na Thức chứa lại cũng là giả tạm, nếu so với cái giả tạm của Lục Thức thì cái giả tạm của Mạc Na Thức có tính cách kéo dài hơn. Để chi? Để chờ đợi, chờ đợi coi có sự chuyển hóa hay không?
Sự chuyển hóa đó từ ở đâu? Chính là ở cái Tâm.
Một người trước kia có một tâm không lành, nhưng sau một thời gian tu tập, nghe Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp và nhận xét rằng mình đã làm chuyện sai, cho nên hoán chuyển tâm mình để trở nên tốt đẹp hơn. Khi trở nên tốt đẹp hơn, điều đó là vĩnh viễn, được Mạc Na Thức ghi nhận. Và Mạc Na Thức sẽ giữ đó cho đến ngày người đó lìa đời, nếu tâm người đó vẫn trước sau như một, sau khi đã chuyển hóa rồi mà không có gì thay đổi cả, thì Mạc Na Thức trước khi bị hủy diệt, sẽ chuyển cái sự việc tốt đẹp đó vào trong A Lại Da Thức, xem như là một điểm son cho người đó.
Nếu một người luôn sân hận, có nhiều tánh xấu, thường làm những chuyện sai trái, Mạc Na Thức sẽ tích tụ không sót một điều nào cả. Cho nên cần ghi nhớ: mình có thể che dấu được kẻ khác, chớ không thể nào che dấu chính bản thân mình.
Chính bản thân mình là cái gì?
Chính là cái Mạc Na Thức đó! Một tư tưởng vừa khởi lên, chưa được chuyển đạt thành lời, Mạc Na Thức tức khắc ghi nhận liền. Và nếu không được sửa đổi cho tới ngày nhắm mắt, tất cả mọi thứ sẽ trở thành vĩnh viễn và sẽ được chuyển vào trong A Lại Da Thức có thứ tự lớp lang.
Trước khi linh hồn rời khỏi thân xác, những cái gì thuộc về vĩnh viễn thì Mạc Na Thức chuyển vào trong A Lại Da Thức. Những cái gì có tính cách tạm bợ thì bỏ ra ngoài, không kể tính. Tất cả các thức: Lục thức lẫn Mạc Na Thức đều bị hủy diệt. Linh hồn ra đi chỉ mang theo A Lại Da Thức mà thôi.
Chính cái linh hồn đó, khi còn trong một thân xác sống động thì gọi là Người. Nhưng khi người đó không còn hơi thở nữa thì gọi là Vong. Linh hồn vì không còn thân xác nữa để trụ vào, cho nên được gọi một cách đúng nghĩa là Thần Thức.
Danh từ Thần Thức nói lên sự linh hoạt, mầu nhiệm không thể bàn luận cho cùng của Linh Hồn, chớ không phải là vì linh hồn có thần thông quảng đại gì cả.
Cái linh hồn đó mang cái A Lại Da Thức đi theo mình. Nếu trong A Lại Da Thức chứa toàn là điều sân hận, chứa toàn là những điều quấy trá, chứa toàn những điều đau thương, điều đó nói lên cái gì?
Nói lên rằng: người đó khi còn sống đã gieo nhân không lành. Chứa sân hận cũng là gieo Nhân không lành, chứa đau khổ cũng gieo Nhân không lành, chứa những điều quấy trá cũng là gieo Nhân không lành.
Tất cả mọi thứ sẽ theo nghiệp lực mà người đó đã tạo ra và được hành sử theo luật Nhân Quả.
Người đó tạo nghiệp không lành với một kẻ khác, nhưng muốn tạo nghiệp với kẻ khác thì, chuyện trước tiên là người đó đã gieo nhân không lành với kẻ khác đó, khi vòng nghiệp lực đã đóng lại rồi, thì cốt tủy của vòng nghiệp lực là một sự tác động của Nhân và Quả.
Cho nên tất cả nghiệp lực đều dính chặt vào Nhân và Quả. Thần thức đó bị vướng mắc, chính là vướng mắc ở cái Nhân và Quả.
Giải quyết những vướng mắc của thần thức là giải thích cho thần thức hiểu rằng: tôi đã làm điều không hay, không phải, chẳng qua là vì tôi đã gieo Nhân không lành, bây giờ Quả không lành lại đến với tôi. Vì Quả tôi nhận được không lành cho nên tôi bị vướng mắc, chính vì vậy mà vong không thể siêu thoát được!
Cho nên siêu độ cho vong là vạch rõ cho vong hiểu rằng: cái A Lại Da Thức mà vong đã mang theo chứa toàn là Nhân xấu, ngày giờ này giúp cho vong có một trí huệ, trí huệ đó ví như một ngọn đèn giúp vong lựa lọc lại những cái Nhân mà mình đã mang theo. Điều thú vị là khi đã trở thành một cái vong rồi (mà phải nhớ rằng là vong trong vòng 49 ngày chớ không phải vong sau 49 ngày), thần thức mới nhận chân ra được rằng: từ bấy lâu nay cái túi A Lại Da Thức của tôi đã chứa quá nhiều những hạt lép, hạt không tốt, hạt hư thúi. Ngày giờ này nó làm cho tôi nặng nề, khó khăn cất bước.
Bây giờ tôi phải làm sao?
Chính người chủ lễ phải giúp cho vong có được chút trí huệ để phân định được: hột này không tốt để qua, hột này tốt giữ lại. Sau khi lựa lọc lại những cái nhân mà mình đã mang theo thì, với sự giúp đỡ của người chủ lễ, thần thức đó đã nhìn thấy được một sự không cân bằng của cán cân.
Thời gian 49 ngày là thời gian đặc ân để giúp cho vong làm sao chuyển hóa được những cái nhân không lành của mình thành ra những cái nhân lành. Và nếu biết tu tập trong 49 ngày thì sự chuyển hóa sẽ dễ dàng, chừng đó, vong sẽ nhẹ nhàng để cất bước.
Một người khi đã hiểu được điều đó, sẽ đem hết tấc dạ của mình để mà siêu độ cho thân nhân mình. Không thể nào nhờ người khác được, vì sợi dây tình cảm buộc ràng giữa thân nhân và linh hồn đó rất là chặt chẽ.
Trong thời gian 49 ngày, chính cái sợi dây tình cảm đó đã lôi kéo vong ngồi xuống để lựa lọc lại những cái nhân không lành mà mình đã mang theo. Cho nên việc giúp vong tu tập trong vòng 49 ngày là một việc rất cần … rất cần.
Đôi khi vong tỏ ra có chút ít trí huệ, đó là nhờ lúc còn sống, có duyên may gặp được Thiện Tri Thức chỉ dẫn và hiểu rõ được rằng mình bị vướng mắc. Nhưng cũng chỉ hiểu được bao nhiêu đó mà thôi, không hiểu hơn nữa!
Vì vậy ngày nay, nếu không có người dẫn dắt, không có người chỉ vẽ, không có người vạch vòi thì vong sẽ không thấy được những vướng mắc của mình, hay hiểu rõ những vướng mắc của mình ở nơi nào để mà tháo gỡ.
Do đó mà vong sẽ bị đọa đày một cách oan uổng.
Đó là lý do vì sao bắt buộc phải dùng nghi thức Sám Hối để giúp cho vong nhẹ nhàng hơn trong thời gian 49 ngày. Sám hối là một hành động để diễn tả, để nói lên rằng tôi ăn năn, tôi hối hận, tôi tiếc hối vì tôi đã tạo nên những cái nhân không lành.
Vong phải biết rõ vì sao mà mình lại có quá nhiều cái nhân không lành? Và nhờ có sám hối mà vong mới hoán chuyển được những cái nhân không lành thành những cái nhân lành. Mà một cái vong ra đi với nhiều cái nhân lành thì đâu có gì là cực nhọc, đâu có gì là nặng nề nữa đâu.
Muốn có được nhân lành, vong bắt buộc phải có được một chút trí huệ. Có trí huệ như đeo ngọn đèn ở trước trán, đi tới là có ngọn đèn soi sáng rồi, do đó mà biết được đường nào mình sẽ phải đi.
Có một điều rất là lý thú và rất là lợi lạc mà ít ai để ý đến. Siêu độ cho vong, chỉ có 3 con đường để lựa chọn: hoặc về Cõi Người, hoặc về Cõi Trời, hoặc về Cõi Phật.
Không có trường hợp "rơi" xuống Tam Đồ! Dù người đó khi hắt hơi có những dấu hiệu bị đọa vào Tam Đồ, nhưng trong vòng 49 ngày, nếu thân nhân ra sức giúp cho vong linh tu tập, thì việc hoán chuyển từ Tam Đồ lên Cõi Người sẽ rất là dễ dàng, không khó khăn; nhưng, quá 49 ngày rồi thì người có dấu hiệu bị đọa Tam Đồ phải theo đúng Tam Đồ mà đi, nếu không được siêu độ. Vì vậy, 49 ngày là thời gian đặc ân, thời gian để hoán chuyển cảnh giới nếu được siêu độ đúng cách.
Từ xưa đến nay, chúng sanh không bao giờ lợi dụng thời gian đặc ân này để làm bất kỳ điều gì cho vong linh hết, rất uổng, rất uổng!
Gần như đa số những người thân của vong linh, có lẽ vì tánh lơ là, không để ý, xem việc chết, sống là lẽ thường, cho nên rất ít ai chịu quan tâm đến việc siêu thoát của vong linh. Vong linh có an ổn ra đi chăng? Hay còn lang thang, vất vưởng trong địa ngục đọa đày? Vong linh có đau khổ chăng? Có tìm được một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc chăng?
Tất cả chúng sanh nghĩ rằng chôn xuống một thi hài là xong chuyện! Không bao giờ nghĩ rằng trong cái thân xác được chôn xuống đó, còn có cái linh hồn. Và chính cái linh hồn đó mới điều khiển được thân xác, nếu không có linh hồn thì không thể điều khiển cái thân xác được. Dù cái thân xác đó có đẹp cách mấy, có tốt cách mấy thì cũng vẫn là một đống thịt mà thôi!
Cho nên, cái linh hồn đó không biến mất khi thân xác đã tan rã, mà linh hồn đó có phận sự đi tìm một thân xác mới. Cái linh hồn đó không bao giờ bị hủy hoại, chỉ có thể bị đọa đày, nhưng không tan biến. Vì vậy mà phải giúp cho cái linh hồn được tốt đẹp, vì cái linh hồn được tốt đẹp, thì một con người ở trên dương thế mới được tốt đẹp.
Còn nếu như một linh hồn có quá nhiều nặng nề, không tốt, thì cái thân xác ở trên dương thế chứa đựng cái linh hồn quá xấu xí, cũng sẽ trở thành xấu xí.
Phải hiểu rõ được điều đó để thấy rằng, càng làm cho linh hồn tốt đẹp nhiều chừng nào, thì người trên dương thế sẽ được hoán chuyển, sẽ được sửa đổi một cách tốt đẹp.
Cho nên giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho một số đông chúng sanh trong tương lai được tốt đẹp hơn. Một linh hồn biết tu tập, hiểu biết điều phải trái, có trí huệ thì dù tiến vào một thân xác nào, thì thân xác đó cũng khởi sắc, và ảnh hưởng tốt đẹp cho những người chung quanh.
Còn một điều rất thú vị: đó là một sự gạn lọc! Gạn lọc để tất cả những cái gì không tốt đẹp sẽ được để qua một bên và làm cho nó trở nên tốt đẹp. Còn những cái gì đã tốt đẹp rồi thì giúp cho nó càng ngày càng thăng hoa. Tới một lúc nào đó, Cõi Ta Bà sẽ có vô số người tốt đẹp.
-
Lời Tựa:
1, Huyệt mộ là việc Tâm Linh Phước Đức có thể coi là việc quan trọng nhất của đời người , có ảnh hưởng lớn đến sự Hưng Vượng Phúc ĐỨc của gia trạch hay gia tộc (nếu là khu mộ Tổ) cần tính rất kỹ lưỡng , không bộ sách nào viết hết được, trạch chủ cần tiến hành bài bản theo các bước có ghi trong website này: www.phongthuyhuyetmo.0966111338.com (sau này không thể làm lại được nữa);
2, Đây là việc đặc biệt, những Phong thủy Sư làm được cũng không nhiều, vì vậy Phong thủy gia khuyên các bạn hết sức thận trọng khi tiến hành, nên đến trụ sở Phong thủy gia Group số 440 đường Bưởi tham vấn trực tiếp thầy Quang Minh trước khi triển khai việc này; Rất nhiều huyệt mộ của các gia tộc lớn ở việt nam đều do thầy tầm long và làm trọn vẹn (bạn tham khảo website: www.QM.0966111338.com )
==============
Dưới đây là 1 số kiến thức cơ bản để các bạn tham khảo trước khi tiến hành
Ở giai đoạn đầu, con người chưa có hành vi mai táng. "Mạnh Tử, Đằng Văn Công thượng" viết "... không chôn người thân... chồn cáo ăn xác". Sau này dần dần mới có hành vi chôn cất, nhưng chưa chú ý đến thời gian, địa điểm, hình dáng mộ.
Đến xã hội nguyên thủy, hướng chôn người có xu hướng nhất trí: 114 ngôi mộ thời đồ đá mới. phát hiện được ở Hà Nam(Trung Quốc) đều hướng về nam hơi lệch về tây, 250 ngôi mộ Văn hóa Ngưỡng Thiều đều hơi lệch về tây...
Cùng với việc chôn cất được quy hoạch hóa, đã xuất hiện tình huống xây mộ cho người sống, chọn đất mà chôn với mong muốn tạo phúc cho đời sau. Mồ mả do vậy có nhiều tên gọi:
- Phần, vốn là đống đất, sau này được dùng để gọi mồ mả.
- Mộ, là tên gọi đất chôn bậc vương giả ngày xưa.
- Gò, vốn là đất núi. Thời Xuân Thu gọi mộ là Gò (khưu).
- Chủng (mộ). vốn nghĩa là đỉnh núi. Sau này gọi mộ cao là chủng.
- Lăng, vốn nghĩa là núi đất lớn. đời sau gọi mộ đế vương là Lăng.
Những người thống trị các đời trước, nói chung đều xây dụng lăng tẩm rất đồ sộ. Như Kim tự tháp ở Ai Cập, hoặc như Lăng mộ Tần Thủy Hoàng huy động tới 70 vạn dân phu, xây dựng trong 40 năm. Thứ nữa là dùng các loại hình thức trang trí mồ mả, như khắc động vật bằng đá, làm cột đá, bia đá, khắc tượng người bằng đá, khắc động vật bằng đá có các con sư tử, ngựa, lợn, rùa, voi, dê, hổ, hươu, bò, kỳ lân, lạc đà, tê giác...
Đến thời Đông Hán, khắc đá trước mộ đã rất phổ biến trở thành một loại mộ chế. Vật khắc đá được bày hai bên thần đạo, thể hiện rõ sự tôn nghiêm.
Tẩm vốn là nơi nhà vua và gia tộc ăn uống cư trú. Ðến đời Tần Hán đã đưa vào trong lăng mộ, vì người xưa cho rằng, linh hồn người chết vẫn ăn ở trong lăng tẩm.
Trong lăng tẩm có trồng cây, khắc bia đá.
Bia vốn dùng để quan sát bóng mặt trời. Sau dùng để khi hạ huyệt, kéo lôi quan tài xuống. Rồi có người khắc chữ trên hình, và thế là thành bia mộ. Trên bia quần thần, con cháu thường khắc chữ ca ngợi công đức của vua, cha nhằm để cho đời sau biết.
Trước mộ Thiên Tử trồng cây thông, mộ chư hầu trồng cây bách, mộ đạo phu trồng cây loan, mộ sĩ phu trống cây hòe, mộ dân thường trồng cây liễu.
Theo các nhà phong thủy thì dựa vào ngày sinh, ngày mất ta có thể tra cứu Trạch Quẻ để xác định 4 hướng tốt, 4 hướng xấu, chọn các ngày tốt giờ tốt để di quan, hạ huyệt, để mong người chết lưu phúc lại cho con cháu.
1. Những trường hợp chôn mộ nơi xấu:
- Không chôn mộ nơi có nước đọng lại, có nghĩa là long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, con cháu sẻ bị thận, hư răng, đau lưng, những bệnh không vận động sẽ phát sinh, chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
- Không chôn mộ gần các cây lớn để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị động, đau ốm có thể năm này thì rể cây chưa ăn vào nhưng các năm tiếp theo có thể bị.
- Không chôn gần các nơi công cộng, khu vui chơi, bến xe, bến tàu, khu công nghiệp nặng, phần âm trạch sẽ bị nhiễu, con cái hư hỏng, học hành không đến nơi đến chốn, tù tội.
- Không nên đóng đinh, sắc thép vào quan tài, hoặc nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết. Con cháu điên khùng, ung thư.
- Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. Khi nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.
- Bia mộ để dưới chân, Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn, nghèo đói.
- Long hổ giao nhau, núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường thì loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôi).
- Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao, con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
- Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc kỳ tử.
- Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm.
- Trong gia đình có người chết trôi, chết nước phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa.
Địa lý âm trạch (về mồ mả) những trường hợp đặt sai hướng mộ, đặt sai huyệt vị, đặt sai ngày giờ, hoặc phạm xung sát… đều phát tác rất nhanh, có trường hợp phạm nặng, phát tác ngay trong vòng 3 ngày sau khi đặt mộ, chậm nhất sau 3 năm cũng đã phát tác.
Trường hợp mộ bị động do thay đổi địa chất, rễ cây đâm vào, trâu bò dẫm phá hoặc do nhiều tác nhân khác, chỉ cần tu sửa lại, sắm bát cơm quả trứng, chai rượu, vàng mã, quần áo mã và con ngựa mã, trầu nước hương đăng (có điều kiện thì lễ lớn hơn) tạ lễ thổ thần là được.
Nếu muốn đổi vận phát tài phát lộc phát phúc cho gia đình, phải chọn được ngôi đất mới thích hợp, Chú ý nhận biết nơi khởi đầu và kết thúc, dừng tụ của sơn mạch, thủy lưu điểm trúng kết huyệt, tìm kiếm phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, lại phải biết tuổi người chết có hợp để phù hộ lưu phúc cho con cháu hay không.
Tuyệt đối lưu ý không nên động chạm nếu không gặp trường hợp phải di dời do dự án chẳng hạn, không nên “Ma ngủ lại rủ ma dậy”.
2. Lựa chọn những nơi đất chôn mộ tốt:
Dấu hiệu nhận biết huyệt cát:
- Nhập thủ đầy đặn: nhập thủ là nơi long mạch vào mộ. Nếu nơi đó hơi lồi như mu con rùa, đầy đặn, cỏ cây tươi tốt thì nên chọn để đặt mộ, gia chủ và con cháu sẽ phú quý.
- Màu sắc đất: sau khi đào thấy đất ở dưới mịn, có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có vân. Đất này gọi là " Thái cực biên huân".
- Đồi đất và dòng nước bao bọc: Huyệt mộ nằm trong thế này được xem là huyệt quý. Để đảm bảo huyệt cát, khi đào huyệt thường dùng đất ngũ sắc, hoặc đất hồng sắc để chôn mộ, chôn tiểu quách. Ngoài ra, đất ngũ sắc và đất hồng sắc có tác dụng kết dính thành một khối khi gặp nước, đảm bảo huyệt mộ yên vị và không ngấm nước vào trong quan, quách.
- Gia chủ và con cháu sẽ gặp đại cát, đại lợi.
- Kỵ nhất là Huyệt nơi đất đá, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt nếu có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt thì màu sắc của nước phải trong xanh, sạch, tránh nước bị ô nhiễm vẩn đục, hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng, ruộng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt.
- Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách ( rất tốt). Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ.
Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì gia chủ bị bại không thể dùng. Nếu vẫn dùng thì phải Trấn Yểm bình yên. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ.
Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt (hai đồi núi ôm lấy nhau, mộ ở phần giữa), phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ…
Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một Thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông, hội tủ đủ Tâm – Tài – Tầm – Đức để tiến hành xem xét cẩn thận trước khi chôn cất hay cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.
Nếu đã có nghĩa trang của dòng họ được thiết kế sẵn từ trước thì việc này rất đơn giản vì khi lập nghĩa trang đã có các Phong thủy sư tính toán cho rồi. Nếu đã mua mà chưa nhờ tới các Phong Thủy Sư xem cho trước, thì vẫn có thể làm Vượng Mộ hay khu Mộ Phần được.
- Tầm Long tróc mạch - Xác định Huyệt Khí-Mua cuộc đất đã tìm được - Tính toán, phân kim sẵn, bao gồm các bước như xác định Loan đầu, Thiên Môn, Địa hộ, xác định vị trí kết Huyệt - Tính toán thời gian đặt mộ, độ sâu và phương đặt để đạt được Huyệt Khí Bảo Châu...
- Nhiều khu vực vì đã có đất hay nghĩa trang từ trước nhưng không tụ đủ Khí phải thực hiện việc dẫn Long về để tụ Khí tại cuộc đất đã chọn. Nói tóm lại những điều nói trên rất phức tạp và là chuyên môn của các Phong Thủy Sư. Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ của mình. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả. Không vì khu đất kết Huyệt quá to , quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ. Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa. Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị to lớn, những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi (như Đại Tướng Võ Nguyên Giáp chẳng hạn).
- Phù Địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)
- Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà ( là rất tốt ).
- Mộ kết: là mộ đã thụ được Linh Khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi, gia đình , dòng họ thuận hòa và mạnh khoẻ. Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí...Có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng. Trên các ngôi mộ kết thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Tại Hà Tĩnh, có ngôi mộ kết khi người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngay sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. Họ cắm những cành cây khô vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì gần như chắc chằn nơi đó có Huyệt kết. Một quan sát khác nữa là nhìn những viên đá , bia mộ tại Huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.Khi gặp trường hợp Mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của dòng họ.
- Kết mối: Là mối (termite) tập hợp, tạo thành một lớp tường bảo vệ hài cốt kiên cố khỏi bị xâm phạm của tà khí.(Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối)
- Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt được một lớp nước trong bảo vệ qua nhiều chục năm như một thứ nước ướp xác. Nếu bốc mộ thì nước sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngả nâu đen. ( Mộ ông Nội của tiến sĩ Lê-Qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh Thái-Bình, kết thủy)
3. Thời gian cải táng và quy tập mộ:
Theo tất cả các sách từ xưa để lại, thời gian tốt nhất trong năm là từ cuối Thu đến trước ngày Đông Chí của năm. Không ai cải táng , quy tập mộ đầu năm cũng như sau Đông Chí . "Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu từ 4 đến 5 năm hoặc có thể 7 năm để tránh hiện tượng trên. Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưởng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam.
- Phong Thủy Gia nhận Tầm Long, quy hoạch mộ, làm Vượng mộ .... cho nghĩa trang của Quốc Gia, Tỉnh, Thành phố, gia đình và dòng họ. Bạn liên hệ Hotline của Phong Thủy Gia: 0966.111.338 để được gặp gỡ Phong Thủy Sư QUANG MINH tư vấn và hướng dẫn đầy đủ, trực tiếp.
Lưu ý:
- Các Vật khí Phong thủy và các Pháp bảo phải được ưu tiên được chế tác từ Đá tự nhiên, đá Thạch Anh, đá Ngọc, đá quý.
- Trước khi đặt ( an vị), các Vật khí Phong thủy cần phải được tẩy uế, Khai quang điểm nhãn đầy đủ.... đúng cách và nghiêm ngặt.
- Cần xem ngày giờ tốt để thỉnh về và đặt các pháp bảo Phong thủy đúng Phương vị và Hướng tốt nhất đối với Trạch chủ...
Đặt các Pháp Bảo Phong Thủy đúng Phương Vị và Hướng sẽ đem lại hiệu quả cao. Muốn xác định vị trí đặt đúng bạn làm theo Link này: Cách xác định Vị và Hướng. Nếu cần có thể nhờ các Phong Thủy Gia đến An Vị.
Trân Trọng !
Phong Thủy Gia
583 Hoàng Hoa Thám - HN
Hotline/Viber/Zalo: 0966.111.338
www.phongthuygia.com
PHONG THỦY TOÀN CHÂN – ĐỊNH PHONG THỦY – GIẢI PHÁP PHONG THỦY TOÀN DIỆN
-
食气 编辑 讨论
本词条缺少信息栏,补充相关内容使 条更完整,还能快速升级,赶紧来编 吧!
食气指鬼神享用祭品的气味,食物的 味,服食空气或芝兰之气。出自《诗 大雅·生民》,《神仙传·沉建》,《 论语·乡党》。出自《孔子家语·执辔 :“食肉者勇敢而悍,食气者神明而 寿。” 汉 王充 《论衡·道虚》:“闻食气者不食物, 食物者不食气。若士者食物如不食气 则不能轻举矣。”
shí qì
1.指鬼神享用祭品的气味。 [1] 《诗·大雅·生民》“履帝武敏歆” 唐 孔颖达 疏:“鬼神食气谓之歆。”
2.食物的气味。 晋 葛洪 《神仙传·沉建》:“主人饮奴婢,奴 婢闻食气,皆逆吐不用。”
3.服食空气或芝兰之气。道家养生之一 法。《孔子家语·执辔》:“食肉者勇 敢而悍,食气者神明而寿。” 汉 王充 《论衡·道虚》:“闻食气者不食物, 食物者不食气。若士者食物如不食气 则不能轻举矣。”
饭料,主食。气,“ 饩 ”的古字。《论语·乡党》:“肉虽多 ,不使胜食气。”
-
-
Sóng âm và những kiến thức cơ bản
23/11/2019 08:39 | 48374 Lượt xem
Sóng âm một khái niệm không quá xa lạ với chúng ta từ thời học phổ thông trong môn vật lý. Sóng âm trong ứng dụng đời sống nó có gì khác?
1. Sóng âm là sóng cơ lan truyền trong môi trường vật chất (rắn, lỏng, khí). Sống âm không truyền được trong chân không.
2. Phân loại âm
a) Nhạc âm là những âm có tần số xác định. Âm thanh do các nhạc cụ phát ra, tiếng nói, tiếng hát của con người là các nhạc âm.
b) Tạp âm là những âm không có tần số xác định.
Xem Thêm: Tiêu Âm - Cách Âm Những Khái Niệm Cơ Bản
Xem thêm: Phương pháp tiêu âm và tán âm trong xử lý âm học
Xem thêm: Công thức & công cụ tính vận tốc âm thanh trong không khí
3. Âm nghe được, siêu âm, hạ âm
a) Âm nghe được có tần số từ 16 Hz đến 20000 Hz và gây ra cảm giác âm ở tai người.
Các âm mà ta nghe được trong các đoạn ghi âm này có cùng cường độ âm. Tuy nhiên, tai ta nghe to và rõ những âm có tần số trong phạm vi trên dưới 1000 Hz. Thấp hơn 500 Hz hoặc cao hơn 5000 Hz ta nghe nhỏ hơn do khả năng nghe của tai ta với những tần số này kém hơn, đồng thời khả năng đáp ứng của thiết bị (mạch khuếch đại, loa....) cũng kém hơn.
Tai ta không phải luôn luôn nghe được tất cả các âm từ 16 Hz đến 20000 Hz mà còn phụ thuộc vào đặc tính cấu tạo sinh lý của tai (như màng nhỉ, ...) nên khả năng nhận được cảm giác âm của những người khác nhau có thể khác nhau. Đoạn video sau đây phát ra âm có tần số tăng liên tục từ 20 Hz đến 20000 Hz. Bạn nghe được những âm có tần số trong phạm vi nào? Hãy thử nhé.
(Chú ý: Không mở âm lượng quá lớn và hạn chế nghe bằng headphone hoặc earphone vì âm thanh ở tần số 1000 Hz sẽ rất lớn).
b) Hạ âm là những âm có tần số nhỏ hơn 16 Hz, tai người không nghe được.
c) Siêu âm là những âm có tần số lớn hơn 20000 Hz, tai người không nghe được.
4. Sự truyền âm
Quá trình truyền âm cũng là quá trình làm lan truyền dao động âm. Quá trình truyền âm là một quá trình sóng nên:
Trong mỗi môi trường đồng tính thì âm truyền đi với tốc độ không đổi
Tốc độ truyền âm phụ thuộc vào tính chất của môi trường (bản chất, tính đàn hồi, mật độ, nhiệt độ, ..). Nói chung tốc độ âm trong chất rắn lớn hơn trong chất lỏng, trong chất lỏng lớn hơn trong chất khí: vrắn > vlỏng> vkhí. Các chất liệu không cho sóng âm truyền qua hay khả năng truyền qua là ít gọi là vật liệu cách âm. Các chất liệu mà sóng âm truyền qua được nhưng một phần sóng âm bị tiêu hao (chuyển sang dạng năng lượng khác) được gọi là vật liệu tiêu âm.
Khi sóng âm truyền từ môi trường này sang môi trường khác thì tần số (và do đó chu kỳ) của sóng không đổi.
5. Các đặc trưng vật lý của âm
a) Tần số âm là tần số dao động của nguồn âm. Âm trầm có tần số nhỏ, âm cao có tần số lớn.
Mời bạn click vào đây để nghe âm La (tần số 440 Hz)
b) Cường độ âm I tại một điểm là đại lượng đo bằng lượng năng lượng mà sóng âm tải qua một đơn vị diện tích đặt tại điểm đó, vuông góc với phương truyền âm trong một đơn vị thời gian.
Xét một âm truyền qua một diện tích S (có dạng hình học đối xứng) theo phương vuông góc với diện tích S. Gọi W là lượng năng lượng mà sóng âm này tải qua S trong t giây thì cường độ âm tại tâm đối xứng của S là
Cường độ âm I
Trong đó I là cường độ âm tại điểm đang xét, đơn vị là oát trên mét vuông (W/m2)
Nếu có một nguồn âm kích thước nhỏ (gọi là nguồn điểm) phát ra sóng âm đồng đều theo mọi hướng. Gọi P là công suất của nguồn âm và giả sử biên độ sóng âm không đổi khi truyền đi thì tại điểm M cách nguồn âm này đoạn d có cường độ âm là
Công thức cường độ âm
c) Mức cường độ âm L là đại lượng đo bằng lôgarit thập phân của tỉ số giữa cường độ âm đang xét và cường độ âm chuẩn Io.
Cường độ âm chuẩn Io được lấy bằng 10 - 12 W/m2.
Công thức tính mức cường độ âm
Trong đó L là mức cường độ âm tại điểm đang xét, đơn vị là ben (B)
Người ta thường dùng ước đơn vị của B là đề xi ben (dB) : 1 B = 10 dB.
-
Điện từ học
Solenoid
Điện Từ học
Tĩnh điện học[hiện]
Từ tĩnh[hiện]
Điện động[hiện]
Mạch điện[hiện]
Công thức hiệp phương sai[hiện]
Các nhà khoa học[hiện]
xts
Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.
Trường điện của điện tích điểm dương và âm.
Điện tích là một tính chất cơ bản và không đổi của một số hạt hạ nguyên tử (hạt sơ cấp), đặc trưng cho tương tác điện từ giữa chúng. Điện tích tạo ra trường điện từ và cũng như chịu sự ảnh hưởng của trường điện từ. Sự tương tác giữa một điện tích với trường điện từ, khi nó chuyển động hoặc đứng yên so với trường điện từ này, là nguyên nhân gây ra lực điện từ, một trong những lực cơ bản của tự nhiên.
Điện tích tạo từ các hạt mang điện rất nhỏ, như một chất điểm, thì điện tích được gọi là điện tích điểm. Nếu điện tích điểm được sử dụng trong một thí nghiệm, có thể là thí nghiệm tưởng tượng trên lý thuyết, thì nó được gọi là điện tích thử.
Điện tích của một vật vĩ mô là tổng đại số của tất cả các điện tích tương ứng của các hạt phần tử cấu thành nên vật đó. Thông thường, các vật quanh ta đều trung hòa về điện, đó là do mỗi nguyên tử ở trạng thái tự nhiên đều có tổng số proton bằng tổng số electron.
Tuy nhiên, ngay cả khi điện tích tổng cộng của một vật bằng không, vật ấy vẫn có thể tham gia tương tác điện từ, đó là nhờ hiện tượng phân cực điện. Các điện tích chịu sự ảnh hưởng của hiện tượng phân cực gọi là điện tích liên kết, các điện tích có thể di chuyển linh động trong vật dẫn dưới tác dụng của từ trường ngoài gọi là điện tích tự do.
Chuyển động của các hạt mang điện theo một hướng xác định được gọi là dòng điện.
Phần lớn điện lượng trong tự nhiên là bội số nguyên của điện tích nguyên tố. Các hạt quark có điện tích phân số so với e. Phản hạt của một hạt cơ bản có điện tích bằng về độ lớn nhưng trái dấu so với điện tích của hạt đó.
Có thể đo điện tích bằng một dụng cụ gọi là tĩnh điện kế.
Mục lục
1 Điện tích
2 Tương tác điện tích
2.1 Tương tác giữa hai điện tích
2.2 Định luật Coulomb
2.3 Tương tác giữa điện tích và điện
2.4 Tương tác giữa điện tích và từ
2.5 Tương tác giữa điện tích cùng với điện và từ
3 Lực điện tích
4 Xem thêm
5 Tham khảo
6 Liên kết ngoài
Điện tích
Điện tích còn được hiểu là "vật tích điện". Mọi vật trung hòa về điện khi cho hay nhận điện tử âm sẽ trở thành điện tích.
Khi vật nhận điện tử âm vật sẽ tích điện âm:
Vật + e → Điện tích âm (-)
Khi vật cho điện tử âm vật sẻ trở thành điện tích dương
Vật − e → Điện tích dương (+
)
Điện tích âm có ký hiệu −Q. Điện tích dương có ký hiệu + Q
Mọi điện tích đo bằng đơn vị Coulomb, ký hiệu C. Đơn vị Coulomb được định nghĩa như sau:
{\displaystyle 1C=6,24\times 10^{18}} {\displaystyle 1C=6,24\times 10^{18}} electron
Tương tác điện tích
Tương tác giữa 2 điện tích điểm trong không gian
Tương tác giữa hai điện tích
Khi hai điện tích tương tác với nhau. Điện tích cùng loại đẩy nhau. Điện tích khác loại hút nhau.
Định luật Coulomb
Bài chi tiết: Lực tĩnh điện
Khi có 2 điện tích cách nhau một khoảng cách r thì lực tương tác của chúng tuân theo định luật Coulomb, gọi là lực Coulomb.
Định luật Coulomb phát biểu là:
Độ lớn lực tương tác giữa hai điện tích điểm tỷ lệ thuận với tích độ lớn của các điện tích và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng.
Công thức của định luật:
{\displaystyle F=k{\frac {\left|q_{1}\right|\left|q_{2}\right|}{r^{2}}}} {\displaystyle F=k{\frac {\left|q_{1}\right|\left|q_{2}\right|}{r^{2}}}}
Trong đó:
{\displaystyle {\begin{aligned}k_{\mathrm {e} }&={\frac {1}{4\pi \varepsilon _{0}}}={\frac {c^{2}\ \mu _{0}}{4\pi }}=c^{2}\cdot 10^{-7}\ \mathrm {H} \cdot \mathrm {m} ^{-1}\\&=8,987.551.787\times 10^{9}\ \mathrm {N\cdot m^{2}/C^{2}} \end{aligned}}} {\displaystyle {\begin{aligned}k_{\mathrm {e} }&={\frac {1}{4\pi \varepsilon _{0}}}={\frac {c^{2}\ \mu _{0}}{4\pi }}=c^{2}\cdot 10^{-7}\ \mathrm {H} \cdot \mathrm {m} ^{-1}\\&=8,987.551.787\times 10^{9}\ \mathrm {N\cdot m^{2}/C^{2}} \end{aligned}}}
{\displaystyle \epsilon _{0}\ } {\displaystyle \epsilon _{0}\ } là hằng số điện.
Tương tác giữa điện tích và điện
Tương tác giữa điện tích đứng yên và điện có điện lực {\displaystyle F_{E}} {\displaystyle F_{E}} tạo ra dòng điện tích di chuyển thẳng hàng có điện trường E tuân theo định luật Ampere:
{\displaystyle E={\frac {F_{E}}{Q}}} {\displaystyle E={\frac {F_{E}}{Q}}}
Vì vậy {\displaystyle F_{E}=QE} {\displaystyle F_{E}=QE}
Tương tác giữa điện tích và từ
Tương tác giữa điện tích di chuyển và nam châm từ có từ lực {\displaystyle F_{B}} {\displaystyle F_{B}} tạo ra từ trường B vuông góc với điện trường E tuân theo định luật Lorentz:
{\displaystyle F_{B}=QvB} {\displaystyle F_{B}=QvB}
Vậy:
{\displaystyle B={\frac {F_{B}}{Qv}}} {\displaystyle B={\frac {F_{B}}{Qv}}}
{\displaystyle v={\frac {F_{B}}{QB}}} {\displaystyle v={\frac {F_{B}}{QB}}}
Tương tác giữa điện tích cùng với điện và từ
{\displaystyle F_{EB}=F_{E}+F_{B}=QE\pm QvB=Q(E\pm vB)} {\displaystyle F_{EB}=F_{E}+F_{B}=QE\pm QvB=Q(E\pm vB)}
Lực điện tích
Lực tĩnh điện: {\displaystyle F_{Q}=K{\frac {|Q_{+}||Q_{-}|}{r^{2}}}} {\displaystyle F_{Q}=K{\frac {|Q_{+}||Q_{-}|}{r^{2}}}}
Lực động điện: {\displaystyle F_{E}=QE} {\displaystyle F_{E}=QE}
Lực động từ: {\displaystyle F_{B}=\pm QvB} {\displaystyle F_{B}=\pm QvB}
Lực điện từ: {\displaystyle F_{EB}=Q(E\pm vB)} {\displaystyle F_{EB}=Q(E\pm vB)}
-
12631
18/06/2017 - 08:00
Sau khi chết đi, thân thể vật chất tan rã. Tuy nhiên, tâm thức – dạng năng lượng vi tế - vẫn tiếp tục vận hành, theo nghiệp lực và tập khí thói quen dẫn dắt để đi tìm một đời sống mới. Tiến trình này gọi là Bardo tái sinh hay Bardo của sự trở thành. Tâm thức trong giai đoạn này được gọi là “thân trung ấm”, là “hương linh”, hay “vong”.
CÓ THỂ ĐI TỚI BẤT CỨ ĐÂU
Khi còn sống, không chỉ thân vật lý mà cả năng lượng khí, tất cả mọi thứ, đều ngăn ngại việc ta đọc được suy nghĩ của người khác. Thân thể là sự hỗ trợ lớn nhất mà chúng ta có được trong cuộc sống. Ý nghĩ của chúng ta có thể lang thang khắp nơi nhưng cơ thể thì sẽ không đi theo suy nghĩ đó vì nó đang ở thể vật chất. Các suy nghĩ ý niệm cứ lưu xuất đi rồi lại quay trở lại cơ thể, cơ thể giúp tâm trí hoạt động và suy nghĩ.
https://www.upsieutoc.com/images/201...965489_o31.jpg
BARDO - THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MẤT CÓ KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT GÌ?
12631 18/06/2017 - 08:00
Sau khi chết đi, thân thể vật chất tan rã. Tuy nhiên, tâm thức – dạng năng lượng vi tế - vẫn tiếp tục vận hành, theo nghiệp lực và tập khí thói quen dẫn dắt để đi tìm một đời sống mới. Tiến trình này gọi là Bardo tái sinh hay Bardo của sự trở thành. Tâm thức trong giai đoạn này được gọi là “thân trung ấm”, là “hương linh”, hay “vong”.
CÓ THỂ ĐI TỚI BẤT CỨ ĐÂU
Khi còn sống, không chỉ thân vật lý mà cả năng lượng khí, tất cả mọi thứ, đều ngăn ngại việc ta đọc được suy nghĩ của người khác. Thân thể là sự hỗ trợ lớn nhất mà chúng ta có được trong cuộc sống. Ý nghĩ của chúng ta có thể lang thang khắp nơi nhưng cơ thể thì sẽ không đi theo suy nghĩ đó vì nó đang ở thể vật chất. Các suy nghĩ ý niệm cứ lưu xuất đi rồi lại quay trở lại cơ thể, cơ thể giúp tâm trí hoạt động và suy nghĩ.
CÓ THỂ ĐỌC ĐƯỢC Ý NGHĨ CỦA NGƯỜI KHÁC
Nhưng các vong linh lại làm được những điều mà chúng ta không thể. Vong linh có thể đọc ý nghĩ của mọi người, có thể nghe thấy những gì mọi người nói, có thể đi khắp nơi, làm mọi việc mà không hay biết là mình đã chết. Vong có thể nhìn, có cảm giác, có thể hiểu được mọi thứ như khi còn sống nhưng mọi thứ đã thay đổi. Do không còn cơ thể cho nên ngay lúc vừa nghĩ đến các nước Mỹ, vong linh sẽ lập tức có mặt ở đó mà không có sự lựa chọn nào khác. Vong linh có thể nói với người thân: “Tôi đã về, có chuyện gì xảy ra thế? Xin hãy giúp tôi!” Nhưng họ sẽ không trả lời vì không nghe thấy. Vong có thể tự nhủ: “Bây giờ tôi đang ở cùng với gia đình, tôi muốn ở bên họ dù họ có nhìn thấy tôi hay không, dù họ có đáp lại tôi hay không”. Hay: “Không sao, cho dù việc họ không trả lời là điều thật sự đáng thất vọng nhưng mình vẫn muốn ở bên họ. Đây là nhà của mình, đây là vợ mình/đây là chồng mình, là các con mình, là tài sản của mình” thế nên vong ở lại đó. Thần thức người chết rất muốn ở lại nhà nhưng ngay khi vừa khởi nghĩ đến một nơi nào khác, lập tức nó sẽ đến đó. Ở trạng thái này, vong linh trở nên hoàn toàn mất kiểm soát! Chỉ cần tưởng tượng cũng có thể thấy được điều đó sẽ khủng khiếp như thế nào. Thời khắc này thật vô cùng khó khăn đau khổ.
https://www.upsieutoc.com/images/201...ong-theo_0.jpg
Cùng với những khả năng toàn diện,
Và vô vàn năng lực thần thông,
Thần thức có thể đến mọi nơi mặc lòng
Chẳng ngại ngăn, trừ núi Tu Di
Bồ đề Đạo tràng và Thai tạng.
CÓ THỂ XUYÊN QUA KHOẢNG CÁCH KHÔNG GIAN XA HÀNG VẠN DẶM VÀ BAY LƯỢN TRONG KHÔNG TRUNG
Như lời kệ, các chúng sinh trong giai đoạn thân trung ấm đều có những khả năng đặc biệt, là những hình thức, khía cạnh của sự hoàn thiện. Bởi không còn sự ngăn ngại của sắc thân, khi trải qua trạng thái Bardo này, thần thức người chết có thể có được phần nào trí tuệ toàn tri và khả năng đọc được tư tưởng người khác và nhìn xuyên qua khoảng cách không gian xa hàng vạn dặm. Thần thức người chết có thể bay lượn trong không gian, hoặc đi đến bất cứ nơi nào mình muốn chỉ trong chốc lát. Những năng lực phi phàm đó không phải thành tựu đạt được từ tu tập, mà là do chúng ta không còn thân thể, thứ mà chúng ta luôn luôn bám chấp và mắc kẹt vào đó lúc sinh thời.
Trong giai đoạn Bardo tái sinh, thần thức của người chết đã bỏ lại thân tứ đại nên nó có thể tự do hoạt động hay đi lại khắp nơi không bị chướng ngại, trừ hai nơi mà thần thức không thể vượt qua đó là Kim Cương tòa và mẫu thai.
Nếu người chết chưa từng tu tập, thực hành công phu thiền định khi còn sống, thì rất khó để đạt được sự tỉnh thức, để thần thức có thể hiểu rằng mọi thứ đều chỉ là giả ảo, hư huyễn, dù điều này là rất quan trọng bởi nó sẽ quyết định cánh cửa giải thoát hay một tái sinh đọa lạc chỉ trong tấc gang.
https://www.upsieutoc.com/images/201...experience.jpg
Một thực tế nữa là chúng sinh trong giai đoạn này, vì không còn thân vật lý nên cũng không hề có bóng ảnh của chính mình. Do không còn phàm thân nặng nề chướng ngại nên họ có khả năng du hành thậm chí vài vòng quanh thế giới chỉ trong tích tắc. Họ có thể có những năng lực đặc biệt, giống như thần thông, nhưng những năng lực này có được không phải từ sự thành tựu tu chứng mà chỉ đơn giản là do không còn sự ngăn ngại của thân vật lý. Vì lý do đó, bỗng nhiên họ có được những năng lực mạnh mẽ, phi thường. Bài kệ Bardo dạy rất rõ về nỗi khổ này:
Khi không còn hai vầng nhật nguyệt,
Sẽ không còn hình bóng của thân;
Vừa khởi niệm lập tức xuất thần
Đưa ta tới triệu ngàn thế giới.
Khi thần thức chịu luồng quét thổi
Như sợi lông trước gió phất phơ
Lòng kiền thành con tha thiết nguyện cầu
Xin Thượng sư rủ lòng thương bi mẫn
Giúp chúng con làm chủ thạo tâm mình.
https://www.upsieutoc.com/images/201...5/nsu7fitz.jpg
CÓ THỂ CẢM NHẬN MÙI HƯƠNG ĐỂ ĐƯỢC NO ĐỦ
Vong linh ở giai đoạn này không thể thụ nhận trực tiếp đồ ăn, thức uống như thông thường khi còn sống. Thay vào đấy, họ chỉ có thể thụ nhận bằng cách cảm nhận mùi hương, nhờ duyên theo đó mà được no đủ. Cho nên khi chúng ta cúng dàng hương thơm bằng cách đốt các loại thực phẩm, mùi hương tỏa ra sẽ giúp thỏa mãn cơn đói khát và khiến họ mãn nguyện. Vì lẽ đó, họ được gọi là “hương linh”.
Khả năng thị giác của thần thức cũng không giống như khi còn sống mà rất khác thường, thay đổi luôn luôn, không rõ rệt và xác thực như khi còn sống. Do người chết không còn thân, không còn nhãn căn, các căn để thụ nhận trực tiếp các xúc trần nên rất khó duy trì những hình ảnh mà họ nhìn thấy. Mọi thứ lúc này đều mong manh, vô định và không có thực thể. Vì lẽ đó, tâm thức của người chết càng trở nên loạn động, bất an khiến họ vô cùng khổ sở buồn rầu.
https://www.upsieutoc.com/images/201...nh_hon_0_0.jpg
Thần thức cũng không thể tự quyết định hay trì hoãn việc mình đi đâu, về đâu. Lúc sống, nếu muốn sang Pháp bạn không thể đi ngay mà sẽ phải hoàn thành nhiều thủ tục rất phức tạp liên quan đến bản thân, đến thân vật lý của bạn, chẳng hạn bạn sẽ phải xin visa, mua vé máy bay, sẽ phải qua cục xuất nhập cảnh và hải quan để kiểm tra… Nhưng một khi ở trong trạng thái trung ấm, bạn sẽ không phải trải qua những thủ tục này. Chỉ cần khởi nghĩ về nước Pháp, bạn lập tức sẽ đến đó dù bạn muốn hay không. Điều này khiến bạn sợ hãi và buồn rầu vì bạn không hề có sự lựa chọn.Cảm giác sợ hãi, đau khổ sẽ ngày càng gia tăng.
Đôi khi tâm thức trở nên thật sáng;
Nhưng sát na không nhớ ký ức nào;
Khi tự hỏi mình còn sống hay đã chết,
Lòng kiền thành con tha thiết nguyện xin
Thượng sư xót thương phù hộ chúng con
Nhận ra rằng mình thực sự đã chết.
CÓ NHẬN THỨC SÁNG SUỐT, NHẬN BIẾT VÀ NHỚ RÕ VỀ MỌI THỨ
Ở giai đoạn này, đôi khi thần thức cảm thấy vô cùng sáng suốt, có thể nhận biết và nhớ rõ về mọi thứ. Nhưng rồi bỗng nhiên, thần thức lại thấy mọi thứ trở nên mờ nhạt, hắc ám, không thể thấy gì, không nhận thức được bất cứ điều gì. Mọi thứ đều mông lung, những khái niệm, suy nghĩ đều mơ hồ, mịt mở như ảo tưởng.. Đối với họ, điều này thật vô cùng mệt mỏi. Không chỉ như vậy, sau khi trải qua những kinh nghiệm này trong một khoảng thời gian nhất định, người chết sẽ bắt đầu đặt câu hỏi với chính mình rằng liệu mình còn sống hay đã chết. Họ bắt đầu nghi hoặc, tự nhủ rằng, mình đang trải qua rất nhiều điều bất thường, như vậy phải chăng mình đã chết? Khi thần thức chuyển sang trạng thái minh bạch, sáng tỏ, nó bắt đầu đặt cho mình hàng loạt những câu hỏi như thế.
https://www.upsieutoc.com/images/201...tinhte.vn_.jpg
Khi ở trong thân trung ấm, chúng ta sẽ không thấy được mặt trăng và mặt trời. Hiện tại, trong đời sống, do cộng nghiệp nên chúng ta có thể nhìn thấy mặt trăng và mặt trời.
Mặt trời là hình thức thị hiện biểu trưng cho giọt tinh chất minh điểm đỏ, là căn bản cho sự sống của ta do người mẹ đem lại. Tất cả chúng ta đều có yếu tố căn bản này. Bởi vậy tất cả chúng ta đều có khả năng nhìn thấy mặt trời. Mặt trăng là hình thức thị hiện của giọt tinh chất minh điểm trắng, năng lượng phụ tính nhận được từ người cha. Vì trong thân trung ấm, yếu tố căn bản của người cha và người mẹ này không còn tồn tại, chúng đã hoàn toàn bị tan rã, bởi vậy, chúng sinh trong giai đoạn này không có khả năng nhìn thấy mặt trăng và mặt trời.
~ Trích ấn phẩm "Bardo - Bí mật Nghệ thuật sinh tử" - Drukpa Việt Nam biên dịch và phát hành, 2014.
-
-
-
Một thời gian sau, nhân dịp anh chị tôi tham dự pháp hội, tôi cũng tham gia trọn thời gian pháp hội diễn ra. Tuy pháp hội ấy chẳng phải chính tông của Phật giáo, tín ngưỡng trọng tâm là “ 聖宗古佛/ Thánh Tông Cổ Phật ”, nhưng kỳ thật cũng chính là nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
https://blog.xuite.net/posntung/twbl...96%8B%E5%85%89