-
Nhân mùa Phật Đản năm nay 2020, tôi có dịp được tiếp xúc với Sư Cô về Chùa tham dự Pháp Hội. Tôi có hỏi Cô về CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN, qua cuộc nói chuyện; Sư Cô phân tích cho tôi thấy BẢN HOA NGỮ CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN bị Lệch CHỮ. Do đó, khi dịch sang HÁN VIỆT, chúng ta đều trì tụng theo BẢN này cả. Cô nói tiếng Hoa CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN " Địa-VỸ " chính xác phải là " Địa-VỊ ". Tôi công nhận điều Sư Cô nói này hoàn toàn chính xác; Vì theo 1 Nữ Đại Gia Người Hoa Giám Đốc Rừng Cao Su - Vị này nói với tôi rằng, Chính bản thân Vị Nữ Đại Gia Người Hoa Giám Đốc này trì CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN, và cùng khuyến khích Nhân Viên của mình đều trì tụng CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN khi đến chỗ làm bằng Âm HÁN VIỆT; nhưng tôi thấy bản thân Vị Nữ Đại Gia Người Hoa Giám Đốc Rừng Cao Su chẳng đi đến đâu cả.....Tôi cũng chẳng biết BẢN HOA NGỮ CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN bị Lệnh CHỮ CHỖ NÀO CẢ; Do tiếp xúc với Sư Cô mà tôi mới vỡ lẽ ra điều này....( Tôi nói như vậy không có nghĩa là BẢN HOA NGỮ CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN mà mọi người đang trì tụng bị sai đâu; dẫu có sai chạy chữ đôi chút ít cũng chẳng sao cả. Kinh dạy: “Linh tại ngã, bất linh tại ngã”, nghĩa là linh thiêng, hiệu nghiệm hay không là do ở mình. Do ở mình có tin, có chí thành, có nhất tâm niệm hay không. Linh ứng hay không là do ở bản thân mình. Nói cách khác, sự linh ứng chỉ hiển hiện với những ai có lòng tin thuần khiết, chân thành. Chuyện báo ứng, linh ứng hay nói đúng hơn là lòng tin vào cái thế giới đa chiều “Phàm Thánh đồng cư” đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào Giới Pháp, Nhân Quả; và nhiều yếu tố khác của người trì tụng cả.....)
Tôi cố gắng tìm và hoàn chỉnh sao cho BẢN HOA NGỮ CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN thật chính xác thôi! Chứ tôi không có ý bôi bác các Bậc Tiền Nhân nhất là Các Bậc Long Tượng trong Mật Giáo. Nếu có gì không phải phép, Con xin được kính lễ và sám hối trước Các Quý Ngài trong việc làm này của con; xin nhận nơi đây sự sám hối chân thành nhất của con đối với Các Quý Ngài.
*BẢN HOA NGỮ CHÚ AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN ( CHÍNH XÁC ):
. 安土地真言:南無三曼哆、莫哆南、嗡、度魯、 魯、在尾,唆哈
. An Thổ Địa chân ngôn: NAMÔ TAM-MÃN-ĐA MỘT-ĐÀ-NẪM, ÁN ĐỘ-RÔ ĐỘ-RÔ, TẠI-VỸ TOA-HA
https://ericage.pixnet.net/blog/post/29636065
https://tsaiyingjiun.pixnet.net/blog/post/11562230
https://agegurugure.pixnet.net/blog/post/28198107
Vài điều chia sẻ đến mọi người
Kính chúc mọi ngươi VẠN SỰ AN LẠC CÁT TƯỜNG NHƯ Ý
Phổ Quảng
thân
P/S: Cuối cùng, tôi cùng hoàn tất túc số tối thiểu của AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN là 10 Vạn lần ( tức 100Ngàn lần = 100.000 lần ) !
-
-
-
-
-
đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần.
1c.Đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần. Ở đây viết sai “đương cảnh = cõi đất đang được thờ” thành “đương canh = cõi đất đang có”. Thổ địa là vị thần thủ hộ về đất đai, nhà ở, có thần hiệu là Phúc đức chính thần, còn được gọi là Hậu thổ, Xã thần, Xã công, Thổ địa … Ngày xưa lấy nông nghiệp làm gốc, có đất mới có thể sản xuất ra lương thực để sinh sống, vì thế mà có sự sùng bái và biết ơn rất lớn, rồi dần dần con người sáng tạo nên một vị thần để thờ phụng, đó chính là Thổ địa phúc đức chính thần.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page57
-
Phước Đức Chánh Thần Chân Kinh
Tịnh Tam Nghiệp Thần Chú
Thân trung chư nội cảnh .
Tam vạn lục thiên thần .
Động tác lý hành tàng .
Tiền kiếp tịnh hậu nghiệp .
Nguyện ngã thân tự tại .
Thường trụ tam bảo trung .
Đương ư kiếp hoại thời .
Ngã thân đương bất diệt .
Tụng thử chân văn thời .
Thân tâm khẩu nghiệp giai thanh tịnh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Tâm Thần Chú
Thái Thượng đài tinh .
Ứng hoá vô đình .
Khu tà bác mị .
Bảo mệnh hộ thân .
Trí tuệ minh tịnh .
Tâm thần an ninh .
Tam hồn vĩnh cố .
Phách vô táng khuynh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Khẩu Thần Chú
Đan châu khẩu thần .
Thổ uế trừ phân .
Thiệt thần chánh luân .
Thông mệnh dưỡng thần .
La thiên xỉ thần .
Khước tà vệ chân .
Hầu thần hổ bí .
Khí thần dẫn tân .
Tâm thần đan nguyên .
Lệnh ngã thông chân .
Tư thần luyện dịch .
Đạo khí trường tồn .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Thân Thần Chú
Linh Bảo Thiên Tôn .
An ủy thân hình .
Đệ tử hồn phách .
Ngũ tàng huyền minh .
Thanh long bạch hổ .
Đội trượng phân vân .
Châu tước huyền vũ .
Thị vệ ngã thân .
Cấp cấp như luật lệnh .
An Thổ Địa Thần Chú
Nguyên Thủy an trấn .
Phổ cáo vạn linh .
Nhạc độc chân quan .
Thổ địa kỳ linh .
Tả xã hữu tắc .
Bất đắc vọng kinh .
Hồi hướng chánh đạo .
Nội ngoại túc thanh .
Các an phương vị .
Bị thủ gia đình .
Thái thượng hữu mệnh .
Sưu bộ tà tinh .
Hộ pháp thần vương .
Bảo vệ tụng kinh .
Qui y đại đạo .
Nguyên hanh lợi trinh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Thiên Địa Thần Chú
Thiên địa tự nhiên .
Uế khí phân tán .
Động trung huyền hư .
Hoảng nang thái nguyên .
Bát phương uy thần .
Sử ngã tự nhiên .
Linh Bảo phù lệnh .
Phổ cáo cửu thiên .
Càn la đáp na .
Động cương thái huyền .
Trảm yêu phược tà .
Độ nhân vạn thiên .
Trung sơn thần chú .
Nguyên Thủy ngọc văn .
Trì tụng nhất biến .
Khước bệnh diên niên .
Án hành ngũ nhạc .
Bát hải tri văn .
Ma vương thúc thủ .
Thị vệ ngã hiên .
Hung uế tiêu tán .
Đạo khí trường tồn .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Đàn Thần Chú
Thái Thượng thuyết pháp thời .
Kim chung hưởng ngọc âm .
Bá uế tàng cửu địa .
Quần ma hộ khiên lâm .
Thiên hoa tán pháp vũ .
Pháp cổ chấn mê trầm .
Chư thiên canh thiện tai .
Kim đồng vũ dao cầm .
Nguyện khuynh bát hà quang .
Chiếu y qui y tâm .
Tao pháp đại pháp cảo .
Dực thị ngũ vân thâm .
Cấp cấp như luật lệnh .
Chúc Hương Thần Chú
Đạo do tâm học .
Tâm giả tương truyền .
Hương nhiệt ngọc lô .
Tâm tồn đế tiền .
Chân linh hạ phán .
Tiên bái lâm hiên .
Lệnh thần quan cáo .
Kính đạt cửu thiên .
Sở kỳ sở nguyện .
Hàm tứ như ngôn .
Kim Quang Thần Chú
Thiên địa huyền tôn .
Vạn khí bổn căn .
Quảng tu vạn kiếp .
Chứng ngô thần thông .
Tam giới nội ngoại .
Duy đạo độc tôn .
Thể hữu kim quang .
Phúc ánh ngô thân .
Thị chi bất kiến .
Thính chi bất văn .
Bao la thiên địa .
Dưỡng dục quần sinh .
Thụ trì vạn biến .
Thân hữu quang minh .
Tam giới thị vệ .
Ngũ đế tư nghênh .
Vạn thần triều lễ .
Dịch sử lôi đình .
Quỷ yêu táng đảm .
Tinh quái vong hình .
Nội hữu tích lịch .
Lôi thần ẩn danh .
Động tuệ giao triệt .
Ngũ khí đằng đằng .
Kim quang tốc hiện .
Phúc hộ chân nhân .
Cấp cấp như luật lệnh .
Phụng Thỉnh
Thánh Thần Tiên Phật tại thiên đài
Đại phát từ bi giáng hạ lai
Chúng đẳng nhất tâm kiền bái thỉnh
Đặc cầu tứ phước dữ tiêu tai
Khai Kinh Kệ
Huyền áo thậm thâm chân diệu pháp
Đàn cao vạn kiếp vĩnh vô xâm
Ngã kim đỉnh lễ kiền trì tụng
Hách hách uy linh nghiêm hựu sâm
Nam mô Khai Bảo Kinh Bồ Tát Ma Ha Tát
Phước Đức Chánh Thần bảo cáo
Chí tâm qui mệnh lễ
Tam Hoàng Ngũ Đế bộ hạ .
Hậu Thổ Chân Quân .
Dĩ thân thuỳ phạm .
Hoang thác khai khẩn .
Giáo chức chủng thực .
Khuông vương hiệp vận .
Đức cao vọng trọng .
Ung hành càn khôn .
Quảng tể nhân luân .
Vạn tính mông hữu .
Thụ sắc phong vi
「Phước Đức Chánh Thần 」.
Bỉnh trung chánh liệt .
Trợ quốc vệ dân .
Ưng thừa giản mệnh .
Trấn nhất phương nhi
Lê thứ ngưỡng chiêm .
Bảo hữu tứ cảnh .
Tác vật phong doanh .
Chưởng truyền tấu nhi
Đan thầm thượng đạt .
Nghĩa quán cửu thiên .
Thiện ác chiêu chương nhi hưởng ứng .
Linh thông tam giới .
Công quá củ sát dĩ phân minh .
Tu nhân kiến tính .
Củng cố kim thang điện an tắc .
Bố thi quần lê .
Tỉnh thế tiết kiệm
Đại trung đại hiếu .
Chí hiển chí linh .
Phụ nhụ lão ấu .
Hưởng thụ thiên luân .
Đương cảnh Thổ Địa .
Hậu Thổ Tôn Thần
Phước Đức Thiên Tôn .
Phước Đức Chánh Thần kinh
Ngô thị Tam Hoàng Ngũ Đế Hậu Thổ Chi Thần . Bổn Cảnh Chân Quân . Thuận thiên chi chí . Khai thương tích địa chi bỉnh . Dẫn nhân thác thực . Tất phối càn khôn . Hoán tỉnh ngu dân . Khẩn hoang giáo đạo thuần thuần . Nhân nhân kính ngã . Ngã ái nhân quần . Hữu nhân vấn ngã danh hà tính . Phàm thị Cộng Công Thị chi tử Viêm Đế tử tôn câu long . Lập chí tinh trung uy linh thuần thuần . Hậu thế nhân đức cao vọng trọng . Sắc phong 「Phước Đức Chánh Thần 」. Trấn thủ kim vực . Quản hộ xã tắc . Bảo hữu tứ cảnh sanh linh . Lưu truyền đào ngu . Khuông phù diễn chánh . Giám sát nhân gian thiện ác . Trực hạt các xứ thổ trị . Khu tà phược mệnh . Trấn áp hương lý chi yêu quái . Tảo trang trung chi ma tinh . Bảo chướng thuỷ khẩu ác sát . Linh ứng bất tương tranh . Nhược nhân tụng ngô kinh . Hợp cảnh bảo bình an . Đạo lộ bảo an ninh . Sĩ nhân bộ thanh vân . Vong nhân tảo siêu thăng . Phụ nhụ lão ấu . Trạch xá đắc thông hanh . Lục súc tịnh tê trù . Thiên thiên vạn vạn tận vượng sanh . Thương nhân niệm thử kinh . Tích hoá bội bá niên . Doanh nghiệp hưng long do xương thịnh . Mỗi nguyệt sơ nhị tịnh thập lục . Kiền thành lai phụng kính . Tí hữu sự nghiệp phát triển . Tài đa phước bất khinh . Công xưởng trường địa hữu cung phụng . Doanh vận công vụ định hưng thịnh . Bát nguyệt thập ngũ thần thọ đản . Nông gia ngư dân đô hoan nghênh . Thuỷ thượng thuyền chích đắc phong thuận . Lãng tĩnh hậu lợi chân quang vinh . Nông thôn tác vật đa như ý . Ngũ cốc đại phong đăng . Nhữ đẳng chúng sanh thính văn . Nhị nguyệt sơ nhị nhật thị gia thăng . Phong vi Phước Đức Chánh Thần . Kim kinh bảo huấn nhất quyển . Cú cú tường minh . Phụng khuyến phàm dân lập thiện tâm . Thiết mạc sính cường thi nguỵ khuynh . Bộ bộ giai hành bình đẳng sự . Thị thị phi phi yếu hoà bình . Nhược thị bất kính ngô phước đức . Yêu mị giao triền hoạ bất khinh . Cần phụng ngô kinh huấn . Phước lộc tắc lai lâm . Tứ nhữ tử tôn tịnh hậu đại . Đại đại kim bảng tảo đề danh .
Tán Viết
Phú quí hữu môn nhân mạc nghi
Phước thần hỉ báo nhữ tiên tri
Đa đa tác thiện đa đa hảo
Hảo trạch hảo điền hảo tử tôn
Thế đại quang xương thuỳ bất ái
Hoàng thiên mệnh ngã giám thời thời
Gia gia hữu đức gia gia chấn
Bát hoạ tiêu tai mặc chuyển di
Thọ toán khả thiêm phân số lý
Công danh khả tạo học vi kỳ
Tổ tông tí ấm lưu dư khánh
Khổ lạc tiền sanh báo ứng nghi
Thổ địa nhân dân qui chưởng sát
Phân hào thưởng phạt bất sai ty
Khứ lai bổn thị ngô tiên đạo
Tốc tác âm công miễn thụ bi
Đệ nhất nhân gian hiếu vi tiên
Thanh thao lệ tiết cảm thương thiên
Viêm lương thế thái hà tu vấn
Mật lý linh đài yếu bảo toàn
Thế thế đầu thai ân oán thành
Tố hoàn ân oán tự phân hành
Phước thần phổ xuất thâm tình khúc
Giải tận sầu hoài thính nhất thanh
Sầu hoài thoát li thượng thanh vân
Lạc viên kỳ hoa phức phức phân
Tuý vịnh ngọc lâu viên nguyệt kiểu
Hà y vũ thể xướng tiên quần
HẾT
https://www.facebook.com/16532566482...6774724601047/
-
Tá thổ
Đã vào tiết lập xuân rồi, nhiều nơi trên xứ Quảng thấy bày biện mâm lễ cúng đất. Xóm cúng xóm, làng cúng làng, còn khối phố mới hình thành trên các khu đô thị mới cũng làm lễ cúng. Chung quanh lệ tục này gợi lên nhiều khía cạnh đáng nghĩ suy về văn hóa.
Ai cũng biết lễ cúng đất ở vùng phía nam Hoành Sơn (Đèo Ngang), thường mang tên gọi cúng tá thổ. Tá thổ là gì? Tá nghĩa là vay mượn, thổ là đất. Lễ tá thổ là lễ vay mượn đất đai của vong hồn người tiền trú, có công khai khẩn đất này. Lịch sử minh chứng câu chuyện khi người Việt vượt dải Hoành Sơn, rồi dần tiến vào phương Nam, thì đất này vốn đã có chủ. Các phả chí tộc họ người Việt thường ghi lịch sử đất đến khai phá vốn hoang vu, đầy “sơn lam chướng khí”; nhưng thực ra, trước đó dân bản địa đã định cư lâu đời và mặc nhiên là chủ đất. Chủ đất ở đây không chỉ có nghĩa là “sở hữu chủ” về đất đai, mà còn là người nắm giữ các tri thức dân gian về sự thích nghi của con người trong điều kiện sinh thổ của vùng đất mới để sản xuất, sinh sống. Do đó, bài văn cúng thỉnh chư vị bổn xứ thành hoàng thổ địa, ngài đương cảnh thổ địa phước đức chánh thần tôn thần, đương niên thái tuế chí đức tôn thần, hành khiến hành binh tôn thần… Ngoài ra cũng thỉnh mời chư vị ma Chăm, ma chợ, ma mọi, ma rợ và vị thần mang tên Chủ Ngung man nương.
Tục truyền, Chủ Ngung man nương hay “Chủ Ngung đào lương bang” tên là Nguyễn Thị Thúc. Bà là người được vua cha gả cho người Thượng. Khi bà chết, nhà vua sắc phong thần, ban ân tứ được hưởng lộc ở đất phương Nam, lại truyền cho dân chúng hằng năm lo khói hương, cúng tế. Một số tư liệu nghiên cứu cho rằng, Chủ Ngung đào lương (với các tên gọi khác là Chúa Ngung man nương, Ngung man nương, Thiên Y A Na Diễn ngọc phi, bà Chúa Tiên, Chúa Xứ...) chính là hợp thân của nữ thần Mẹ xứ sở (Pônưga) trong tín ngưỡng mang sắc thái Chăm bản địa và tục thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người Việt từ phương bắc vào. Thực hư của huyền sử là câu chuyện khó bàn rốt ráo, chỉ biết rằng, vùng đất được tạo lập khi cha ông người Việt tiến về phương nam, đã có chủ đất. Và, các bậc tiền nhân người Việt rất khôn khéo khi thể hiện cách ứng xử là xin “mượn đất’, “thuê đất” để định cư, lễ cúng đất hằng năm từ đó mà thành hình.
Lễ cúng đất, “tá thổ” của người Việt trên vùng đất xác lập từ thế kỷ 15 là phong tục đẹp, thể hiện lòng thành kính, hàm ơn của người đến sau với người chủ cũ tạo dựng đất đai để mình thừa hưởng. Lễ cúng tá thổ, vì thế phản ánh mối quan hệ giữa tự nhiên với con người, giữa người hiện tại và người tiền trú, với các bậc tiền nhân có công khai khẩn. Tâm linh người Việt vốn trọng ân đức, nghĩa tình, biểu hiện trong lễ tục này. Ngày nay qua bao biến thiên lịch sử, đất đai giờ đã có… “sổ đỏ” của con dân nước Việt nói chung, tuy nhiên lệ cúng đất vẫn còn được bà con xem trọng. Ở một số khu phố mới, lễ cúng này cũng được xem là dịp tất niên, trước kính cáo chư thần thổ địa, sau gặp mặt bà con khối phố để thắt chặt tình đoàn kết xóm giềng sau một năm bận bịu. Ý nghĩa đó rất đẹp, chỉ tiếc là một số nơi hơi lạm dụng bia bọt, rượu chè nên lễ “tá thổ” thành tá lả, tá hỏa tam tinh (!).
Một giá trị văn hóa tâm linh cần gìn giữ như nét phong tục đẹp với lối ứng xử đẹp. Xuân về từ trong tâm tưởng, với mong ước đất đai ngày một sinh chồi nẩy lộc, người người được sống yên vui, mạng vận thái đa, âm dương hài hòa, thân cung tráng kiện…
NGUYỄN ĐIỆN NAM
http://baoquangnam.vn/chuyen-dau-tuan/ta-tho-26639.html
-
-
Tín ngưỡng trong phạm vi gia đình và dòng họ
Thứ năm - 12/09/2013 14:57
Cũng như mọi gia đình người Việt Nam, ở Hội An, ý thức kính trọng ông bà tổ tiên luôn được đề cao, thờ phụng bên cạnh tín ngưỡng thờ thần, phật.. và bàn thờ trong nhà cũng được xem là một trong những chuẩn mực đánh giá gia phong, nền nếp của một gia đình, tộc họ.
Chính vì thế mà trong ngôi nhà của mỗi gia đình đều có bàn thờ, khám thờ, trang thờ, am thờ. Dù do quá nghèo khó cũng phải cố kiếm một tấm ván gác trên phên/vách/tường nhà để thờ và chủ nhà luôn dành một vị trí trang trọng nhất để thờ gia tiên, thần, phật,... Thường bàn thờ được đặt ở gian chính giữa (đối với nhà tre - dừa, nhà rường, nhà - vườn, gọi chung là nhà thôn quê) hoặc ở nếp nhà trước/nếp nhà chính (đối với nhà buôn bán ở phố hay còn gọi là nhà phố). Về cơ bản, tín ngưỡng thờ phụng trong gia đình và dòng họ ở Hội An bao gồm:
● Bàn thờ gia tiên
Tức là bàn thờ ông bà, tổ tiên, người thân trong gia đình. Hình thức đơn giản nhất cũng phải là cái bàn có một tấm ván làm mặt với 4 cái chân. Còn tùy vào điều kiện của mỗi gia đình, bàn có thể to nhỏ khác nhau, được đục, chạm, kẻ chỉ cầu kỳ hoặc đóng tủ thờ bằng gỗ tốt (gõ, hương, mít,...), cẩn xà cừ, gỗ để lâu ngày lên nước màu tự nhiên. Theo đúng quy cách bày biện, bàn thờ phải có 3 lớp: lớp trong cùng là nơi đặt di ảnh hoặc bài vị, bát hương của những người đã mất; lớp giữa là nơi bình thường thì đặt khay trà, ve rượu, đĩa trà, bình hoa / bông... Khi cúng tế cũng là nơi đặt lễ vật; lớp ngoài là nơi đặt bát hương chung (hội đồng), lư, đèn, nồi giác, ly/chén để đựng nước, rượu khi cúng... trước bàn thờ có bức màn, hai bên thường có câu đối, bên trên là bức hoành phi/đại tự hoặc bức nghi vải thêu chữ hay mành tre. Các câu chữ đều mang nội dung ca tụng công đức của ông bà tổ tiên. Hướng của bàn thờ ở nhà phố (không kể là người Việt hay người Hoa) đều quay vào trong nhà, không nhìn ra đường, trừ trường hợp chủ nhà đặt bàn thờ ở trên tầng gác thì phần lớn hướng bàn thờ vẫn theo hướng của nhà. Còn ở vùng thôn quê hay loại nhà rường, nhà - vườn ở phố thì hướng bàn thờ theo hướng nhà, nhìn ra sân. Tuy nhiên, phía trước sân thường có bình phong, hoặc trồng cây mai hay đặt chậu cảnh, cây cảnh... để chắn lối đi thẳng vào nhà, cũng có nghĩa là không cho đi thẳng/nhìn thẳng vào bàn thờ. Ngày giỗ/kỵ hay còn gọi là quẩy/quả cơm, người Hoa gọi là ngày Vía (ông/bà) của từng người thân trong gia đình được tính vào trước ngày người đó chết một ngày (tức là ngày người đó còn sống tính theo ngày tháng âm lịch). Ngoài ra, hàng năm vào các ngày Tết/tiết Đoan Ngọ (5/5 âm lịch), tết Nguyên Đán hay vào các ngày rằm (15 âm lịch), mùng 1 âm lịch hàng tháng đều có lễ hương, hoa, quả/trái cây dâng lên ông bà, tổ tiên. Đặc biệt đến ngày giỗ/kỵ của từng người thân trong gia đình, thì vào bữa cơm chiều ngày hôm trước gia đình cũng phải sửa soạn bàn thờ, trưng hoa, quả và sắm một mâm cơm đơn giản (lưu ý những món bình thường nhưng hợp khẩu vị của người quá cố) dâng lên cúng, gọi là cúng Tiên/Thiên thường để báo/mời ông/bà về giỗ/kỵ. Ngày giỗ chính, ngoài lễ vật, cơm cúng đặt trên bàn thờ, phải đặt một bàn ở ngoài hiên, đối diện với bàn thờ ông, bà, tư thế người cúng xoay lưng vào trong nhà, hướng mặt ra ngoài sân. Đây là bàn thờ dâng lên cúng các cô hồn: vong linh những người chết đường, người không có con cháu thờ tự, kể cả những người thân của gia đình chết không bình thường (bất đắc kỳ tử), đó là những người hồn siêu phách lạc bởi theo tín ngưỡng dân gian, linh hồn này khó trở về nhà nên phải dâng lễ cúng ở ngoài. Lễ cúng, ngoài những phẩm vật: cháo gạo trắng nấu loãng múc vào bát để nhiều muổng xung quanh, đĩa muối (muối hột/muối sống), gạo trắng, bột nổ (đỏ, xanh), giấy áo, tiền... Vì theo tín ngưỡng (ảnh hưởng của Phật giáo), các cô hồn phiêu bạt nhiều, với những vật phẩm này, nhờ uy lực của pháp sư sẽ biến hóa thành vô hạn để cấp phát cho cô hồn. Và phải cúng ở ngoài trước, xong rồi mới cúng ở bàn thờ trong nhà. Vì theo quan niệm cho rằng nếu không cúng ở ngoài trước thì cô hồn sẽ bu bám, níu kéo ông bà không thể vào được trong nhà để hưởng lễ vật của con cháu.
Ngoài hình thức thờ gia tiên theo từng gia đình còn có hình thức thờ gia tiên theo dòng họ. Bởi theo quan niệm dân gian, tổ tiên là những tiền bối cùng huyết thống đã mất hoặc trực hệ sinh ra cháu, chắt, hoặc là bàng hệ, thuộc hàng tổ bác, chú, cô, dì... Tổ tiên lại có bên nội, bên ngoại (nội thân và ngoại thích)... mà trách nhiệm thờ trực tiếp là bên nội. Người chịu trách nhiệm thờ phụng chính là tự tôn (cháu nối dõi) thường là dòng đích (đích tôn). Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh cụ thể cũng có thể là dòng thứ hay út. Việc thiết lập nhà thờ theo dòng họ nếu đầy đủ thì được phân thành các cấp như sau:
▪ Cấp thứ nhất là thờ phụng ông bà thủy tổ họ và anh em đồng hàng - gọi là nhà thờ tộc hay họ.
▪ Cấp thứ hai là thờ phụng ông bà thủy tổ phái và tổ tiên trong phạm vi phái - gọi là nhà thờ phái.
▪ Cấp thứ ba là thờ phụng ông bà thủy tổ chi và tổ tiên trong phạm vi chi - gọi là nhà thờ chi.
▪ Cấp thứ tư là nhà thờ tổ tiên của nhà mình, từ hàng ông bà cố đến ông bà nội và đồng hàng - gọi là gia từ.
Hàng năm, đối với người Việt, tộc họ nào cũng tổ chức chạp mả/hội tộc, tập trung chủ yếu vào tháng 11, 12 âm lịch. Ngày này, tất cả con cháu nội, ngoại, dâu rể ở khắp nơi xa gần đều phải tập trung về nhà thờ để tham dự. Trước đó một ngày, con cháu (nhất là con cháu nội) phải đi dãy mả (làm sạch mộ, đồ bia, thắp hương) từng ngôi mộ trong thân tộc của mình. Vào dịp này, thường có những vị cao niên trong tộc hướng dẫn con cháu, chỉ rõ từng ngôi mộ, hành trạng tốt đẹp của từng người để con cháu biết noi theo. Ngày hôm sau (ngày chạp chính), làm cơm trước là cúng ông bà, tổ tiên sau là dọn cho con cháu tất cả cùng hưởng (ngày xưa các tộc họ phải giết trâu, bò hoặc heo để cúng). Ngày chạp mả là ngày con cháu trong tộc/họ gặp mặt tập trung đông đủ nhất, ngoài tưởng niệm ông bà, còn nhận biết lẫn nhau, giải quyết những công việc hệ trọng trong tộc/họ... Nhất là để con cháu - lớp trẻ sau này ra đường biết nhau, không gây lộn và tránh được những cuộc hôn nhân bất đắc dĩ.
Riêng đối với người Hoa kể cả người Minh Hương ở trong phố buôn bán không có hình thức chạp mả/hội mả như trên, mà họ lấy ngày tiết Thanh Minh (vào tháng 3 âm lịch) hằng năm, con cháu chỉ tổ chức đi thăm mộ (tảo mộ), đồ bia, dọn cỏ, thắp hương rồi về nhà dâng hương bàn thờ ông bà là xong.
● Khám thờ thần thánh
Các vị thần mà dân gian Việt Nam cũng như dân gian ở Hội An tín ngưỡng thờ phụng trong phạm vi gia đình, nhìn chung đều chịu ảnh hưởng từ điển lễ của Nho giáo Trung Hoa cổ đại. Do đó, khắp nơi từ nhà phố đến nhà ở vùng thôn quê, từ người Việt đến người Hoa hầu hết nhà nào cũng có khám thờ thần, cơ bản gồm hệ thống 5 vị thần cai quản nhà cửa, đất đai, gọi chung là Ngũ tự gia đường. Đối với gia đình người Hoa ở nhà phố, 5 vị thần này đều thống nhất chung theo sách Gia lễ đó là: Định phước Táo quân, thần Cửa, thần Ngõ, thần Giếng, thần Trung lưu (tức là: Môn, Hộ, Táo, Tỉnh, Trung lưu thi vị Ngũ tự). Còn đối với gia đình người Việt ở thôn quê, mặc dù đều có khái niệm chung là thờ Ngũ tự (5 vị thần cai quản về nhà cửa, đất đai) nhưng về 5 vị thần cụ thể thì có sự khác nhau, tùy thuộc vào gia chủ, đại thể có các vị thần sau: Tiên sư (hoặc Tiên sư thần vị - Lịch đại tiên sư tôn thần), Táo quân (gồm Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch địa chủ tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phước đức chánh thần), thần cổng và thần cửa (Nhị vị môn thần), thần Giếng (Long mạch Tỉnh thần), Trung lưu (Đương cảnh thổ địa tôn thần, người Hoa gọi là Thần Thiên quan Tứ phước), Cửu thiên Huyền nữ, Bổn mệnh Chúa tiên, Bổn mạng tiên nương,... đối với nhà phố có thêm thần Không khí. Tuy nhiên, chủ thần Ngũ tự (5 vị thần) chính và phổ biến trong các gia đình vẫn là: Táo quân (thần quan trọng nhất trong ngũ tự), thần Cổng/Ngõ, thần Cửa, thần Giếng, thần Trung lưu, còn tùy theo quan niệm của từng chủ nhà có thể phối thờ các vị thần khác cho đủ 5 vị (gọi là thờ Ngũ tự). Ở vùng thôn quê, những người làm nghề thì Tiên sư thần vị đóng vai trò rất quan trọng đối với gia chủ. Vì theo tín ngưỡng đây là vị thần bảo hộ ngôi nhà và nghề nghiệp của người đàn ông chủ nhà.
Đối với Táo quân, tuy đã có khám thờ chung nhưng nhà nào cũng lập thêm khám thờ ông Táo ở dưới nhà bếp. Đối với người Việt, khám đặt lơ lửng ở phía trên, cùng hướng với bếp nấu. Còn đối với người Hoa, tuy vẫn có khám thờ Táo quân (Định phước Táo quân) nhưng không phải ngay trên bếp mà chỉ ở trong nhà bếp, chỗ sạch sẽ, trang trọng cách xa bếp nấu. Vì họ cho rằng đặt ngay ở bếp thì khói, bụi tro sẽ làm dơ bẩn khám thờ vị thần quan trọng này. Ngoài ra, tuy không phổ biến ở Hội An, nhưng nhiều nhà trong phố, nhất là người Hoa còn đặt thêm khám thờ cho Thần Giếng (ở gần giếng nước trong khoảng sân trời của nhà); thần Không khí (cũng ở khoảng sân trời nhưng đặt cao hơn). Vị thần Cổng/Ngõ, thần Cửa tuy được thờ chung trong “Ngũ tự”, nhưng khi nhà nào cúng cũng phải thắp hương ở hai bên cánh cửa hay 2 bên cổng/ngõ.
Ngoài 2 hình thức cơ bản về thờ tự vừa nêu trên (thờ ông bà, tổ tiên và thờ thần Ngũ tự), tùy thuộc vào tín ngưỡng, nghề nghiệp, tâm nguyện, điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nhà mà có thêm các hình thức thờ tự cũng khá phổ biến ở Hội An đó là:
▪ Thờ Thần Tài
Theo ảnh hưởng của người Hoa, mọi gia đình làm nghề kinh doanh, buôn bán ở Hội An đều lập khám thờ thần Tài. Đó là vị thần có nhiệm vụ bảo hộ, phò trì cho người kinh doanh buôn bán được phát tài giàu có. Khám thờ được đặt tại cửa hàng hay tại gian/nếp nhà dành để giao dịch buôn bán và được đặt ở dưới đất, hướng quay theo hướng nhà. Bên trong khám thờ có đặt bài vị ghi danh hiệu các vị thần Tài, Thổ địa: Ngũ phương Ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ Tài thần với hai câu đối: Kim chi sơ phát diệp; Ngân thọ chính khai hoa (Cành vàng vừa hé nụ; Cây bạc đã khai hoa). Trong khám thờ thần Tài và ông Địa, sở dĩ thờ thần Tài mà thờ thêm thổ địa vì theo quan niệm dân gian: Đất đai có yên ổn thì tài lộc mới nảy sinh; đất vượng tài mới vượng. Ngoài hàng ngày, sáng tối đều phải thắp hương khấn cầu cho buôn may bán đắt thì đến ngày sóc, vọng hàng tháng, lễ tiết hàng năm, các gia đình thờ thần Tài đều có lễ vật dâng cúng.
▪ Thờ các vị vô danh
Đó là những vị khi chết còn quá nhỏ hoặc những thai nhi bị sa sảy, những người chết đường chết sá (hay gọi là chết bất đắc kỳ tử)... đều được thờ riêng trong khám. Ở phố người ta đặt khám thờ treo cao trước hiên nhà, còn ở vùng thôn quê phổ biến làm khám thờ hay còn gọi là cái am nhỏ ở ngoài sân. Theo tín ngưỡng dân gian, sở dĩ các vị này phải thờ riêng (không thờ chung trong bàn thờ gia tiên) vì những người này vong hồn vất vưởng vô định, không thuộc phạm vi quản lý của Ngũ tự gia đường nhưng lại rất linh thiêng. Những vị này cũng không có ngày cúng kỵ nhất định nên đến ngày giỗ/kỵ ông bà hay ngày sóc, vọng... thì cũng có lễ vật cúng theo.
▪ Thờ Phật
Vốn Phật giáo ảnh hưởng vào Hội An nói riêng, Đàng Trong - Việt Nam nói chung không phải bằng giáo lý thâm sâu, kinh luận của các tông phái Thiền tông, Hoa Nghiêm tông... mà chỉ bằng con đường an ủi, phủ dụ, nguyện cầu của Tịnh Độ tông với những nghi thức biến hóa cho phù hợp với tâm thức, tâm nguyện bản nguyên của cư dân ở đây, không theo con đường tu tập triệt để của Phật giáo Thiền tông. Chính vì thế, tín ngưỡng thờ Phật ở Hội An chủ yếu hưóng về Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm. Hiếm có điện thờ Phật trong gia đình mà là hình thức bàn thờ Phật được đặt cách một khoảng về phía trước của bàn thờ gia tiên/ông bà. Tuy nhiên, phổ biến vẫn là hình thức khám thờ Phật đặt/treo ở trên cao (phía trên bàn thờ gia tiên), có nhà tượng Phật được thờ chung với Quan Thánh Đế Quân, ở vùng thôn quê nhiều nhà đặt tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát cùng trong khám thờ Ngũ tự, hoặc Bà Chúa Tiên, Tài Bạch Tinh Quân... Trong những ngày lễ, vía của Phật giáo họ chú ý đến ngày rằm tháng bảy - ngày xá tội vong nhân và ngày Phật đản.
▪ Thờ Quan Thánh Đế Quân
Có thể nói đây là vị thánh đứng hàng đầu trong tín ngưỡng dân gian ở Hội An, nhất là đối với cư dân trong khu phố buôn bán, làm nghề. Khám thờ Quan Thánh Đế Quân, cũng được gọi là “Trang Ông”, hầu hết được sơn son thiếp vàng, được đặt ở trên cao, gian giữa của nếp nhà chính. Bên trong khám, có một bức tranh hay tượng Quan Công, hai bên có bộ tướng Châu Thương và Quan thái tử Quan Bình, nếu không thì phải có bài vị “Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân”. Theo quan niệm dân gian cho rằng: Ngài có tài trừ ma diệt quái nên khám thờ ngài phải quay ra hướng cửa để ngài giám sát không cho tà ma vào quấy phá gia đình.
Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An
https://hoianheritage.net/vi/di-san-...ng-ho-172.html
-
Đôi nét về tục thờ ông địa và thần tài của người Việt
Hình tượng vị thần dân dã này rất đa dạng và phong phú, song chúng ta có thể tìm thấy ở ba dạng: Ông Địa dâng liễn trong lễ cúng đình, Ông Địa múa cùng Lân và Ông Địa trong tranh thờ, tượng thờ… Nói chung, trong danh mục các thần có lẽ chẳng có vị thần nào có khuôn mặt cười vui vẻ, rất… hề và gần gũi như Ông Địa.
http://redsvn.net/wp-content/uploads...6/Than-tai.jpg
Là cư dân nông nghiệp, trải qua suốt chiều dài lịch sử, thần Đất là một đối tượng tín ngưỡng quan trọng. Giờ đây, khi công thương nghiệp, dịch vụ phát triển thì Thổ Thần, Thổ Địa – nôm na gọi là Ông Địa – vẫn còn hiện diện ở khắp mọi nơi: hoặc trên nóc chiếc tủ con bán thuốc lá lẻ bên lề đường, hoặc một góc của cửa tiệm buôn, hay sát tường một tiểu sảnh, một phòng khách sang trọng, hoặc được thờ tự riêng trong các ngôi miếu, trong khuôn viên chùa chiền, đình làng…
NGUỒN GỐC ĐỊA
Tín ngưỡng thờ thần Đất được định danh chính thức qua ghi chép bằng văn tự vào đầu thế kỷ thứ 14 trong sách “Việt điện u linh”: Ông Địa xuất hiện ở xứ Giao Châu thế kỷ thứ 7 qua câu chuyện tranh tài của thần Đá – Thạch Khanh với Thổ Lệnh trưởng – một phúc thần của quan Đô Đốc nhà Đường vào những năm 650 – 655. Tài liệu thư tịch cổ cũng cho biết việc Lư Ngư lập đền thờ Thổ Địa ở quán Già La (713-739), Cao Biền lập một đền thờ Thổ Địa ở tả cung đô hộ Giao Châu (860-873)… Và Thổ Địa đã thâm nhập vào hệ thống thần linh nước Việt trước thời Lê Long Đĩnh làm vua (1005-1009). Khi chưa lên ngôi, ông vua Ngọa triều này đã cầu xin thần Thổ Địa sông Đằng Châu phù hộ cho mình… giành được ngai vàng!
ĐỊA CẦU MƯA
Thổ Địa ở Đằng Châu (Hưng Yên) là vị thần có chức năng “cầu mưa, tạnh rất linh ứng”. Lê Long Đĩnh đã thử tài của thần làm mưa bên kia sông, bên này sông lại tạnh ráo. Tức thì “quả nhiên nửa bên kia sông mưa rất to, còn nửa bên này chỉ có gió mát”. Điều này chỉ ra rằng Thổ Địa coi ra đã bước từ tín lý phồn thực (khả năng sinh sản của đất) nguyên ủy ra tín lý “phong điều vũ thuận”, đậm tín chất tín ngưỡng cầu mùa trong nông nghiệp. Đó là chuyện của thế kỷ thứ 11, song ở lễ cầu mưa, đảo vũ tại Nam Bộ thì Thổ Địa chỉ có trách nhiệm thay mặt cho dân đi xin Rồng làm mưa. Ở đây, Thổ Địa không là thần, theo đúng nghĩa là bậc tôn kính, mà chỉ là Ông Địa – một “linh quan” rất dễ nhờ vả.
Theo đó, khi gặp hạn hán, dân làng làm một hình Rồng bằng rơm rước từ ruộng ra sông, đi đầu có Ông Địa và Rồng, kế đó độ chừng 15 – 20 trai tráng diễn trò bơi cạn theo nhịp canh, trống và hát: “Cộc! Cộc! Hồ bơi/ Trời cho mưa xuống/ Cho dân làm ruộng/ Lúa đổ đầy kho/ Dân ăn cho no/ Dân chèo cho mạnh.” (Cuối mỗi câu toàn thể hô lớn: Hồ bơi! Hồ bơi!) Ra đến sông, họ chở Rồng và Địa ra giữa sông và đẩy cả hai xuống nước. Địa hì hụp trồi đầu lên, liền bị hỏi: “Bao giờ mưa?” Địa bông lơn: “Tháng sau mưa!”, tức thì bị đè đầu xuống nước. Hết bận này đến bận khác, cho đến khi Địa bảo: “Mai… mai mưa!” thì mới được vớt lên ghe mà hể hả ra về. Địa cầu mưa hóa trang hệt Địa múa Lân.
LÂN VÀ ĐỊA
Hình tượng Ông Địa phổ biến trong dân gian là Địa trong múa Lân. Vai Địa trong múa Lân xuất hiện như một người dẫn đường. Địa ở đây được hiểu là một vị thần có trách nhiệm quản lý một cộng đồng dân sự trong một khu vực, rất mẫn cán và thông thạo mọi việc, nắm rõ địa bàn mà mình quản lý. Và Địa cũng với tư cách là người tiếp dẫn điều lành đến với người dân và thay mặt dân bày tỏ sự hoan hỉ của mình đối với những điều tốt lành ấy bằng sự vui vẻ, hài hước.
Địa có mặt trong múa Lân được giải thích qua câu chuyện: “Địa lừa Lân hái trộm cỏ Linh Chi đem về trị bệnh cứu người và dụ Lân xuống núi giúp đời” và cũng theo truyền thống: “Lân xuất hiện là báo hiệu thái bình, giúp dân có cuộc sống thịnh trị”. Hễ ở đâu có Lân là ở đó có Địa với cái bụng bự, gương mặt tròn trĩnh cùng với cái miệng cười hề hề, tay phe phẩy quạt, đi tới đi lui… Địa là một vai hề phụ diễn cho Lân. Về mặt nghệ thuật, Lân và Địa là hai mặt đối lập trong một thể thống nhất “trang nghiêm và hài hước, đĩnh đạc và phóng túng, bài bản và tự phát”… Hai mặt đối lập này chế ngự lẫn nhau tạo nên hiệu quả tổng thể của nghệ thuật múa Lân trong hội hè.
ĐỊA VÀ NÀNG
Ngoài múa Lân, hình tượng Thổ Địa trong chặp bóng tuồng Địa – Nàng cũng xuất hiện phổ biến trong các lễ hội Vía Bà, cúng miếu Thổ Thần ở hầu hết thôn ấp, phố phường Nam Bộ. Trong hình thức diễn xướng tổng hợp đậm phong cách hát bội này, Địa là vai diễn chính cùng với vai Nàng – một tiên nữ vốn là thuộc hạ của Tây Vương Mẫu từ trên Trời xuống trần gian với sứ mệnh đi tìm Cây huê Giếng nước cho dân làng (tượng trưng cho tài lộc trong 12 tháng và mưa thuận gió hòa).
Địa có trách nhiệm dẫn đường cho Nàng, song Địa lại thể hiện cái bản chất phàm ăn, tục uống, đòi hỏi lắm điều kiện rất hài ở suốt chuyến đi. Do đó, tính chất vui nhộn có cả hỉ, nộ, ái ố, rất gần gũi với đời và tính châm biếm là đặc trưng chủ yếu trong vở Địa – Nàng. Các trò Địa đẻ, Địa ăn vụng chè, Địa kể các bài vè bông lơn… biểu hiện rõ rệt tính chất phóng túng của diễn xướng nghi lễ dân gian, khác với tính chất nghiêm trang của nghi thức thực hành nghi lễ chính thống ở miếu mạo. Chính vì vậy, trong dân gian, vai Địa – vai Nàng tài danh đã trở thành “diễn viên ngôi sao” suốt mấy thế kỷ qua.
TƯỢNG ĐỊA CƯỜI
Dù là Địa trong múa Lân hay Địa trong chặp bóng tuồng Địa – Nàng, tất thảy đều vui vẻ, đặc trưng là nụ cười.
Ngày xưa, tượng Địa không sản xuất hàng loạt theo kiểu đúc khuôn mà là được nặn tay bằng đất sét, hoặc đục đẽo bằng gỗ, hay tô đắp bằng vữa hồ. Mỗi tượng một vẻ và cái đẹp là nụ cười với miệng rộng hoác đến mang tai. Dù tượng làm bằng nhiều chất liệu khác nhau từ đất sét, gốm đất nung sơn màu đến gốm sứ men màu thì việc trau chuốt cái miệng cười của Địa sao cho “có duyên” luôn là yêu cầu quan trọng đối với nghề làm tượng Địa. Nụ cười Ông Địa bắt đầu từ tín lý đất thuộc hành Thổ – một hành luôn có chức năng điều hòa các hành khác. Theo đó, Thổ Địa là vị thần chỉ có chức năng ban phước, đem tài lộc cho gia chủ mà hầu như không bao giờ và cũng không có khả năng giáng họa cho một ai. Thậm chí, sau một vài hôm cúng kiếng tử tế mà buôn bán cứ ế ẩm thì “tín đồ của Địa” múc một thau nước và lấy tượng Địa “trấn nước” một hồi để cho Địa… biết điều mà tích cực siêng năng hơn trong việc phù hộ cho gia chủ!
ĐỊA BỤNG BỰ
Cùng với nụ cười của Địa là cái bụng bự chang bang. Từ cái bụng bự của Địa mà trong dân gian có nhiều sự tích, có lắm giai thoại để giải thích. Thật ra, việc thờ Thần Đất bắt nguồn từ tín lý phồn thực của tín ngưỡng nông nghiệp: Đất cũng có khả năng sinh đẻ và trong xa xưa Đất được coi là Mẹ Đất – một thần nữ có khả năng sản sinh ra nông sản, ngũ cốc, lương thực… Về sau, khi quan niệm trọng nam khinh nữ của chế độ phụ quyền thống trị, thần Đất được gọi tôn kính là “Ông Địa”. Song dấu vết cổ xưa vẫn còn bảo lưu trước hết là cái bụng… bầu, và cặp vú lớn – hai biểu tượng của sự sinh sản.
Trong trò diễn khôi hài gọi là “Địa đẻ” của cặp Địa – Nàng cũng bộc lộ cái cốt lõi của việc thực hành nghi lễ cầu mưa đậm tính phồn thực, tức cầu xin Đất đẻ ra hoa trái, nông sản cho con người:
Địa: Nói chơi với chị chớ
Địa sanh sanh hóa hóa để đức lại thế gian
Chứ Địa đực đẻ củi đòn với đá trái chớ đẻ gì!
Nói chung, tín lý “sanh sanh hóa hóa” là cách nói về sự thành tạo của tạo hóa mà xa xưa đều gắn bó với nữ thần. Ở tập hợp tượng Ông Địa nay còn sưu tập được, chúng ta thấy có không ít tượng có niên đại cổ (bằng đất sét) vẫn còn dáng dấp nữ không chỉ ở yếu tố “phong nhũ phì đồn” mà ở cả nhân diện của tượng. Loại tượng này tôi định danh là loại tượng “Ông Địa Bà Bóng”. Tất nhiên, các thế hệ tượng Địa sau này có thay đổi nhiều, song tất cả các mẫu mã đều không gạt bỏ được dấu ấn của tín lý phồn thực của Nữ Thần Đất ở đặc điểm vú và bụng. Không biết tín lý đó có quan hệ gì với Thần Đất Ấn Độ Roshashi (La Sát nữ) luôn được thể hiện theo xu hướng được gọi là nghệ thuật nhục hay không?
ĐỊA VÀ THẦN TÀI
Đến cuối thế kỷ thứ 19, Thổ Địa với tín lý phồn thực vẫn còn được quan niệm là vị thần Tài Lộc. “Đại Nam Quốc âm tự vị”, xuất bản năm 1896, định nghĩa: Thổ Thần là “Thần Đất, thần giữ tiền bạc” (T. II, tr.366). Rồi mãi đến khi kinh tế hàng hóa phát triển, công thương nghiệp trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường thì yêu cầu từ thực tiễn hồi đầu thế kỷ thứ 20, đòi hỏi phải có một vị thần chuyên trách việc tiền bạc – đó là Thần Tài. Tuy vậy Thần Tài vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của Thần Đất, cụ thể là Thần Tài luôn được thờ bên cạnh thần Thổ Địa như một cặp đôi không thể tách rời nhau.
Thoạt đầu, Thần Tài tay cầm túi đựng tiền, tay ôm bó lúa… dần dần túi tiền và bó lúa được thay bằng thỏi vàng sáng rực. Đó là dấu ấn của thời kim tiền vào những thập niên cuối thế kỷ trước. Và rồi thời đại mới với sự bùng nổ thông tin và xã hội tiêu dùng, chúng ta lại thấy xuất hiện loại tượng Thần Tài rất hiện đại: lưng đeo cassette và tai nghe headphone, có lẽ Thần Tài đang theo dõi tin tức thị trường hay đang nghe nhạc pop, rock… Đó là thứ Thần Tài hiện đại, nhưng dù hiện đại thì thứ Thần Tài ấy vẫn ngồi bên cạnh Ông Địa như cũ.
Quan niệm coi Thần Đất, Thổ Địa là Thần Tài là nếp nghĩ của nhiều dân tộc có lịch sử lâu dài “dĩ nông vi bản”. Cộng đồng người Hoa ở xứ ta cũng coi Thần Đất Thổ Địa Phước Đức chánh thần là Tài Thần mặc dù trong truyền thống tín ngưỡng đã có một hệ thống Tài thần qui củ: Thần Tài Triệu Công Minh, Văn Tài Thần, Võ Tài Thần, Lưu Hải, Hòa hợp nhị tiên… Đề cập việc này ở đây, chúng tôi muốn lưu ý rằng vị Thần Tài người Việt thờ tự phổ biến hiện nay có hình tướng y hệt “Thổ Địa Phước Đức chánh thần” thấy trong các chùa Hoa (hiểu là Quan Đế miếu, Thiên Hậu cung… ), nếu không nói là hình tướng Thần Tài xứ ta bắt nguồn trực tiếp từ Thổ Địa Phước Đức chánh thần của người Hoa.
TƯỢNG ĐỊA VÀ DI LẶC
Hình tượng Địa ngày càng đa dạng và thay đổi về mặt tạo hình, nhưng Địa và Phật Di Lặc lại càng lúc càng “giống nhau hơn” ở kiểu ngồi đế vương thanh nhàn (Mahàraga-lilàrana) cho nên trong dân gian đã có sự nhầm lẫn hoặc đồng nhất giữa tượng Ông Địa và tượng Phật Di Lặc.
Một số gia đình đã mua tượng Phật Di Lặc về thờ ở nơi thờ Thổ Địa và Thần Tài. Ở Trung Quốc, tượng Phật Di Lặc được thờ phổ biến như Thần Tài, mà người ngoại quốc gọi là “Ông lão Trung Hoa vui vẻ”. Tượng Di Lặc du nhập vào nước ta, phổ biến là tượng Di Lặc cầm hay nâng hoặc ngồi trên thỏi vàng với câu chúc chữ Hán “Kim ngọc mãn đường”. Ngoài thỏi vàng, tượng Phật Di Lặc luôn cầm xâu chuỗi hoặc cái túi vải – được gọi chung là “Bố Đại hòa thượng”. Theo truyền thuyết, vị Hòa thượng này là hóa thân của Phật Di Lặc. Còn ở Ông Địa thì đa phần đầu chít khăn đầu rìu dắt mối hai bên, tay cầm quạt, cỡi cọp, trường hợp này thì cái khăn bịt trên đầu và tay cầm quạt là đặc điểm để phân biệt tượng Ông Địa và tượng Phật Di Lặc.
ĐỊA CỠI CỌP
Đa số tượng Ông Địa đều cỡi hay ngồi tựa lưng vào cọp vàng. Trong tín ngưỡng dân gian, cọp vàng được chạm khắc hay vẽ ở bình phong các đình làng với ý nghĩa Hoàng hổ biểu thị cho Hoàng Đế – vị thần ở vị trí trung tâm thuộc hành Thổ trong hệ thống thần Ngũ phương Ngũ Thổ. Các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc do các thần hổ xanh, hổ trắng, hổ đỏ, hổ đen cai quản. Do đó Ông Địa cỡi cọp vàng là một biểu hiện được căn cứ vào thuyết Ngũ hành, cụ thể là tín ngưỡng Ngũ đế.
Cũng có cách giải thích trên cơ sở lịch sử văn hóa: Ông Địa cỡi cọp là hình tượng hào hùng bắt nguồn từ lịch sử khẩn hoang vùng đất mới phương Nam. Cỡi cọp có ý nghĩa rằng lưu đan đã diệt được cọp – vị chúa tể sơn lâm, để lập nên thôn ấp, ruộng rẫy, xóm làng. Ở khía cạnh lịch sử – tín ngưỡng, tượng Địa cỡi cọp vàng đơn giản là sự tích hợp tập tục thờ Thần Đất và tập tục thờ Hoàng Hổ trấn trạch, ở phương trung ương của Đạo giáo. Cũng có cách giải thích theo cách so sánh: cọp ở tượng Địa là mô phỏng tượng của thần Trị viên Thái Tuế hay Thần Tài Triệu Công Minh của người Hoa hoặc kiểu tượng kỳ thú của Phật giáo. Các giả thuyết này chưa có căn cứ để xác định.
ĐIẾU THUỐC CỦA ÔNG ĐỊA
Dù chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng khác thì Ông Địa là sáng tạo độc đáo, ít nhiều mang tính hiện thực được biểu hiện rõ rệt là ở điếu thuốc – một thứ lễ vật dâng cúng không thể thiếu. Nếu nói rằng con người sáng tạo ra thần thánh theo hình ảnh của mình thì có lẽ đây là một ví dụ điển hình. Ông Địa quấn khăn theo kiểu chít khăn đầu rìu, tay cầm điếu thuốc lá đang cháy dở quả là hình ảnh một lão nông Nam Bộ.
QUẠT CỦA ÔNG ĐỊA
Khi gặp việc vui vẻ, thuận lợi, người thời nay thường nói rằng: “mát trời Ông Địa”. Câu nói dường như bắt nguồn từ làn gió vô hình của chiếc quạt trên tay Ông Địa. Cái quạt dùng để biểu thị sự mát mẻ, tự nó có ý nghĩa đem đến điều lành, vì vậy chúng ta thường bắt gặp những chiếc quạt thuộc loại “đồ mỹ nghệ” treo lủng lẳng đâu đó trong nhà hay trên xe hơi với những câu chúc “Phong điều võ thuận”, “Nhất buồm phong thuận”, “Phong đăng hòa cốc”…
Khó mà truy nguyên nguồn gốc cụ thể từ đâu khiến cái quạt tích hợp vào hình tượng Ông Địa ngoài cái tín lý phổ biến nói trên. Ở đây, căn cứ vào lôgic Ông Địa là hình tượng người nông dân thời khai hoang thì cái quạt của Ông Địa đầu tiên là “cái quạt mo” – cái quạt của thằng Bờm, quạt của nông dân thường dùng và rồi đến cái quạt xếp, các loại quạt khác có hình dáng mô phỏng các loại lá, nó còn chứa đựng những ý nghĩa biểu trưng. Quạt ba tiêu là loại quạt giống “cái tàu lá chuối”. Truyện Tây Du Ký đã đem đến nước ta cái quạt ba tiêu có công năng làm tắt lửa Hỏa Diệm Sơn, chống được hạn hán. Còn quạt lá đề là loại quạt có hình dáng giống lá bồ đề, một biểu tượng thiêng liêng của nhà Phật, có người gọi đó là quạt lá vả, đượm phong thái tiêu dao, nhàn lạc của đạo tiên.
Hình tượng và các đồ vật cầm tay của Ông Địa luôn thay đổi hình dáng, nhưng nội dung vẫn giữ nguyên cái cốt lõi. Chẳng hạn, cái quạt mo, đến nay Ông Địa trong múa Lân vẫn còn dùng là vật không thể thiếu trong khi múa cùng Lân. Cứ thấy Ông Địa quạt, chúng ta như luôn cảm nhận được làn gió mát mẻ và như nghe lời chúc… rất đã: “mát trời Ông Địa!”.
Theo DU LỊCH TÂM LINH
http://redsvn.net/doi-net-ve-tuc-tho...a-nguoi-viet2/
-
Trên trời có thiên chủ, cõi người có nhân chủ, cõi đất có địa chủ, trời đất người đều có chủ. Ở tỉnh Quảng Ðông Trung Hoa có phong tục mỗi nhà đều cúng thờ địa chủ, tức thần đất ở ngoài cửa. Ở Trung Hoa có thần Xã tắc, thổ địa thành hoàng, thổ địa là dương trong âm, quản lý thổ địa tức là quản việc ở âm gian, âm gian là thế giới quỷ, dương gian là thế giới người, thế giới quỷ thì thuộc âm, nhưng thần thổ địa quản quỷ tức là dương trong âm. Cho nên nói : mười người nói anh ta tốt, sau khi chết bèn làm thần thổ địa, khi còn sanh tiền mọi người cảm thấy người ấy rất tốt, nhân phẩm rất tốt, không hại người lợi mình, cũng không làm việc ngang ngược, rất lương thiện, vì thế mọi người đều nói người đó tốt, sau khi chết bèn làm dương trong âm, không thọ tội, làm thần thổ địa. Thần thổ địa giống như quận trưởng, thành hoàng giống như tỉnh trưởng. Ðất có địa chủ, người cũng có nhân chủ, tức là làm quan, người thì nửa âm nửa dương, cho nên làm quan cũng là nửa âm nửa dương, hoặc là có thể nói âm trong dương
https://www.dharmasite.net/LangNghie...ng_cau1-29.htm
-
Tục thờ thần bản gia
12/02/2011
TÍN NGƯỠNG TRONG GIA ĐÌNH
Tục thờ thần bản gia
Người dân Vĩnh Long có tục thờ các vị gia thần. Đó là những vị thần phù hộ chung cho tất cả các thành viên trong gia đình. Những tập tục xuất phát từ Nho giáo hoặc Đạo giáo.
+ Theo lễ Ký (Nho giáo), mỗi nhà có 5 vị thần phải thờ, gọi là thần Ngũ tự :
– Táo thần : thần Bếp
– Hộ thần : thần Nhà
– Môn thần : thần Cửa
– Tĩnh thần : thần Giếng
– Trung lưu thần : thần gian nhà giữa
Thần Bếp (Táo thần hay Táo quân) là “nhất gia chi chủ”, đứng đầu thần Ngũ tự nên thờ thần Bếp là thờ tất cả tập thể các vị thần còn lại. Hơn nữa, Vĩnh Long là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nên các vị thần tiêu biểu cho Nước nơi khắc nghiệt như Thủy long Thần nữ, Thủy mẫu Nương nương (hai dạng thần Giếng) không được tôn thờ. Người Hoa ở Vĩnh Long cũng thờ Táo quân như người Việt nhưng bên cạnh, họ còn thờ Môn thần.
Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân trở về trời tấu trình
Do kết quả của giao lưu văn hóa, ở Vĩnh Long có hai quan niệm Táo quân. Một dạng thần Bếp gọi là Phật Táo hay thần Táo, là vị thần thay mặt Thượng đế coi việc lành dữ của thế gian. Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp thì trở về trời tấu trình. Theo tranh thờ của dân gian tưởng tượng thì Phật Táo là một vị quan cấp thấp, mình mặc áo bào, mặt đen, đầu đội mão cánh chuồn. Hai bên Táo quân có Dã Xoa và Thư Lại đứng hầu. Dân gian địa phương còn xem Táo quân là vị thần phù hộ trẻ con, đe dọa ma quỷ. Người Hoa xem Táo quân là vị thần nhưng sinh tiền là người thọc mách đáng ghét. Do đó, có người không thiện cảm việc ông ta về trời tấu trình báo cáo. Trong khi người Việt xem Táo quân là vị thần “vô tư” như câu đối thờ ông :
Hữu đức năng ty hỏa
Vô tư khả đat thiên.
(Hữu đức nên coi lửa
Vô tư khá về trời).
Táo quân là vị thần đại diện Thượng đế nên được thờ trên trang cao, ở nhà trước. Các nhà cổ ở Vĩnh Long có ba gian : bàn thờ tổ tiên đặt hai gian bên, còn gian giữa có trang cao thờ Quan thánh Đế quân (Quan Công), Phước Đức Chánh thần (ông Địa) và Định Phước Táo quân (ông Táo).
Song song với quan niệm trên còn có quan niệm Táo quân là thần Bếp, thần Lửa, có một bà hai ông. Theo Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí, một bà ngồi giữa hai ông, tức là một vạch âm nằm giữa hai vạch dương, hay quẻ Ly, biểu tượng của lửa, bếp núc. Theo quan niệm này thì Táo quân suốt năm ở với thế gian lo việc củi lửa, ăn uống, không về trời. Ông Táo này được thờ ngay trên cửa lò. Có khi chỉ cần cắm nhang vào mỗi chiều tối, không cần bài vị thờ tự trang trọng.
Hăm ba Táo Phật về trời
Táo Bếp ở lại đội nồi cả năm.
(Câu hát trẻ con)
Nhiều gia đình ở Vĩnh Long thờ đủ hai dạng Táo quân, ở hai nơi. Cũng có gia đình thờ Táo quân ở nhà trên, cũng có gia đình thờ Táo quân ở lò nhà bếp nhưng vẫn theo tục đưa rước ông Táo.
+ Bên cạnh tục thờ bếp, người Vĩnh Long còn thờ 5 vị thần Đất, tức Ngũ thổ Long thần, hoặc 5 vị thần Long mạch theo quan niệm phong thủy của Đạo giáo. Ngũ thổ Long thần thường được thờ chung với thần Tài, gọi là Tụ bửu đường.
Bài vị viết :
Ngũ phương Ngũ thổ Long thần
Tiền hậu địa chủ Tài thần.
Hai bên có câu đối :
Kim chi sơ phát diệp
Ngân thọ chánh khai hoa.
(Cành vàng vừa gẫy lá
Cây bạc đã đơm hoa).
Năm vị thần Đất là :
1/ Thổ công
Thần Đất khu vực nền nhà, vị thần đứng đầu 5 vị Long thần. Ở Vĩnh Long chỉ thấy thờ Thổ công ở đình. Còn tại tư gia, vì 5 vị Long thần thờ chung với thần Tài nên người ta cứ tưởng đó là thần Tài. Không ai biết mình đã thờ Thổ công. Cũng chẳng ai quan niệm Thổ công là Táo quân như miền Bắc.
2/ Thổ địa
Thần Đất khu vực cửa cái, làm chức năng tiếp dẫn viên cho chủ nhà. Người Hoa thường thờ Thổ địa tại cửa cái. Bài vị viết : “Môn khẩu Thổ địa tiếp dẫn Tài thần”. Riêng đối với người Việt, Thổ địa thường được tưởng tượng là một anh nông dân mập mạp, vui vẻ, tính tình dễ dãi, lúc nào cũng ngậm một điếu thuốc vấn và phe phẩy chiếc quạt mo.
Trước kia, Thổ địa được xem là gia thần của các nữ thần như Thất thánh Nương nương, Ngũ hành Nương nương… nên gọi là Linh quan Thổ địa. Ở tư gia không mấy người thờ vị thần này. Nhưng từ khi kinh tế thị trường phát triển, người dân Vĩnh Long thờ Thổ địa chung với thần Tài với ý niệm đất đai sinh sản vật tài lộc. Còn hình tượng thần Tài chính là hình tượng Phước Đức Chánh thần, tức Thổ địa của người Hoa. Tượng Thổ địa và thần Tài được thờ chung với bài vị cổ truyền như đã biết.
Tục thờ Thổ địa và thần Tài phổ biến từ thị xã đến nông thôn. Bà con người Hoa vẫn thờ Thổ địa theo tục lệ của họ nhưng cũng bắt chước tục thờ phượng của ta. Đặc biệt có một vài gia đình Thiên chúa làm nghề mua bán cũng thờ Thổ địavàthần Tài như bên lương.
3/ Thổ thần
Thổ thần hay Thổ chủ là thần Đất khu gia cư, vườn tược. Từ xưa, tục thờ Thổ thần đã phát triển ở Vĩnh Long. Bất cứ góc vườn, góc phố nào cũng có những ngôi miếu con thờ Thổ thần mà người địa phương gọi là Thủ chủ (gọi trại từ Thổ chủ).
4/ Thổ kỳ
Thổ kỳ hay Địa kỳ là thần toàn cõi trái đất. Trược sân nhà, người dân Vĩnh Long thường có bàn thờ “thông thiên”. Đây là cây trụ, giống như đàn Nam giao, có hai tầng : tầng trên thờ Thiên hoàng, tầng dưới thờ Địa kỳ (hay Thổ kỳ).
Người Hoa cũng có tục thờ Trời Đất như người Việt. Họ gọi là Hoàng thiên – Hậu phổ hay Thiên phụ – Địa mẫu.
5/ Thổ phủ
Thổ phủ là thần Đất khu vực chợ búa. Ở vùng thị tứ, thấy danh hiệu Thổ phủ được phối hưởng trong lễ Kỳ yên, hoặc được phối hưởng trong lễ Khai thị, lễ Chạp chợ.
5 vị thần vừa kể thuộc thần Đất đai nên được thờ trên mặt đất. Trường hợp Thổ thần được thờ trong miếu làm theo kiểu nhà sàn nhưng bàn thờ cũng đặt trên nền sàn. Theo tục lệ, thần Tài được thờ chung với Ngũ long Thổ thần nên cũng bị ảnh hưởng theo tục lệ. Từ đó trong dân gian có huyền thoại thần Tài bị một vị ma-sơ Ý bắt đày xuống đất nên không bao giờ lên bàn cao được.
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường – Sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
https://thvl.vn/vinh-long-xua-va-nay...-than-ban-gia/
-
-
Dùng tiền kết giao, tiền hao thì quên. Dùng lợi kết giao, lợi hết thì tan. Dùng thế kết giao, thế qua thì đổ. Dùng quyền kết giao, quyền mất thì bỏ. Dùng tình kết giao, tình cạn người tổn thương. Duy chỉ có dùng tâm kết giao , tĩnh lặng mà lâu dài.
[Tinh Vân Đại Sư]
https://huidaobian.tumblr.com/archive
-
PHƯỚC ĐỨC CHÁNH THẦN CHÂN KINH *** 福德正神真經
PHƯỚC ĐỨC CHÁNH THẦN CHÂN KINH *** 福德正神真經
PHƯỚC ĐỨC CHÁNH THẦN CHÂN KINH
(Kinh Ông Địa)
***
福德正神真經
淨三業神咒
身中諸內境。三萬六千神。
動作履行藏。前劫並後業。
願我身自在。常住三寶中。
當於劫壞時。我身當不滅。
誦此真文時。身心口業皆清淨。
急急如律令。
淨心神咒
太上台星。應化無停。驅邪搏魅。保 護身。智慧明淨。心神安寧。三魂永 。魄無喪傾。急急如律令。
淨口神咒
丹朱口神。吐穢除氛。舌神正倫。通 養神。羅千齒神。卻邪衛真。喉神虎 。氣神引津。心神丹元。令我通真。 思神鍊液。道氣長存。急急如律令。
淨身神咒
靈寶天尊。安慰身形。弟子魂魄。五 玄明。青龍白虎。隊仗紛紜。朱雀玄 。侍衛我身。急急如律令。
安土地神咒
元始安鎮。普告萬靈。嶽瀆真官。土 祇靈。左社右稷。不得妄驚。回向正 。內外肅清。各安方位。備守家庭。 太上有命。搜捕邪精。護法神王。保 誦經。皈依大道。元亨利貞。急急如 令。
淨天地神咒
天地自然。穢氣分散。洞中玄虛。晃 太元。八方威神。使我自然。靈寶符 。普告九天。乾羅答那。洞罡太玄。 斬妖縛邪。渡人萬千。中山神咒。元 玉文。持誦一遍。卻病延年。按行五 。八海知聞。魔王束手。侍衛我軒。 凶穢消散。道氣長存。急急如律令。
淨壇神咒
太上說法時。金鐘響玉音。
百穢藏九地。群魔護騫林。
天花散法雨。法鼓振迷沉。
諸天賡善哉。金童舞瑤琴。
願傾八霞光。照依皈依心。
蚤法大法稿。翼侍五雲深。
急急如律令。
祝香神咒
道由心學。心假相傳。
香爇玉爐。心存帝前。
真靈下盼。仙旆臨軒。
令臣關告。逕達九天。
所祈所願。咸賜如言。
金光神咒
天地玄宗。萬氣本根。
廣修萬劫。證吾神通。
三界內外。惟道獨尊。
體有金光。覆映吾身。
視之不見。聽之不聞。
包羅天地。養育群生。
受持萬遍。身有光明。
三界侍衛。五帝司迎。
萬神朝禮。役使雷霆。
鬼妖喪膽。精怪亡形。
內有霹靂。雷神隱名。
洞慧交徹。五氣騰騰。
金光速現。覆護真人。
急急如律令。
奉請
聖神仙佛在天台 大發慈悲降下來
眾等一心虔拜請 特求賜福與消災
開經偈
玄奧甚深真妙法 壇高萬劫永無侵
我今頂禮虔持誦 赫赫威靈嚴又森
南無開寶經菩薩摩訶薩
福德正神寶誥
志心皈命禮
三皇五帝部下。后土真君。以身垂範 荒拓開墾。教織種植。匡王協運。德 望重。雍行乾坤。廣濟人倫。萬姓蒙 佑。受敕封為「福德正神」。秉忠正 。助國衛民。膺承簡命。鎮一方而黎 仰瞻。保佑四境。作物豐盈。掌傳奏 而丹忱上達。義貫九天。善惡昭彰而 應。靈通三界。功過糾察以分明。修 見性。鞏固金湯奠安稷。佈施群黎。 醒世節儉大忠大孝。至顯至靈。婦孺 幼。享受天倫。當境土地。后土尊神 德天尊。
福德正神經
吾是三皇五帝后土之臣。本境真君。 天之志。開蒼辟地之炳。引人拓植。 配乾坤。喚醒愚民。墾荒教導純純。 人人敬我。我愛人群。有人問我名何 。凡是共工氏之子炎帝子孫句龍。立 精忠威靈淳淳。後世人德高望重。敕 封「福德正神」。鎮守金域。管護社 。保佑四境生靈。流傳陶虞。匡扶演 。鑒察人間善惡。直轄各處土治。驅 邪縛命。鎮壓鄉里之妖怪。掃庄中之 精。保障水口惡煞。靈應不相爭。若 誦吾經。合境保平安。道路保安寧。 士人步青雲。亡人早超昇。婦孺老幼 宅舍得通亨。六畜並棲稠。千千萬萬 旺生。商人念此經。積貨倍百年。營 業興隆猶昌盛。每月初二並十六。虔 來奉敬。庇佑事業發展。財多福不輕 工廠場地有恭奉。營運工務定興盛。 八月十五神壽誕。農家魚民都歡迎。 上船隻得風順。浪靜厚利真光榮。農 作物多如意。五穀大豐登。汝等眾生 聽聞。二月初二日是加昇。封為福德 神。金經寶訓一卷。句句詳明。奉勸 民立善心。切莫逞強施偽傾。步步皆 行平等事。是是非非要和平。若是不 吾福德。妖魅交纏禍不輕。勤奉吾經 。福祿則來臨。賜汝子孫並後代。代 代金榜早題名。
讚曰
富貴有門人莫疑 福神喜報汝先知
多多作善多多好 好宅好田好子孫
世代光昌誰不愛 皇天命我鑒時時
家家有德家家振 撥禍消災默轉移
壽算可添分數理 功名可造學為期
祖宗庇蔭留餘慶 苦樂前生報應宜
土地人民歸掌察 分毫賞罰不差絲
去來本是吾先導 速作陰功免受悲
第一人間孝為先 清操勵節感蒼天
炎涼世態何須問 密裡靈臺要保全
世世投胎恩怨成 做完恩怨自分行
福神譜出深情曲 解盡愁懷聽一聲
愁懷脫離上青雲 樂園奇花馥馥芬
醉詠玉樓圓月皎 霞衣舞彩唱仙群
(xem tiếp phần âm Hán Việt)
Phước Đức Chánh Thần Chân Kinh
Tịnh Tam Nghiệp Thần Chú
Thân trung chư nội cảnh .
Tam vạn lục thiên thần .
Động tác lý hành tàng .
Tiền kiếp tịnh hậu nghiệp .
Nguyện ngã thân tự tại .
Thường trụ tam bảo trung .
Đương ư kiếp hoại thời .
Ngã thân đương bất diệt .
Tụng thử chân văn thời .
Thân tâm khẩu nghiệp giai thanh tịnh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Tâm Thần Chú
Thái Thượng đài tinh .
Ứng hoá vô đình .
Khu tà bác mị .
Bảo mệnh hộ thân .
Trí tuệ minh tịnh .
Tâm thần an ninh .
Tam hồn vĩnh cố .
Phách vô táng khuynh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Khẩu Thần Chú
Đan châu khẩu thần .
Thổ uế trừ phân .
Thiệt thần chánh luân .
Thông mệnh dưỡng thần .
La thiên xỉ thần .
Khước tà vệ chân .
Hầu thần hổ bí .
Khí thần dẫn tân .
Tâm thần đan nguyên .
Lệnh ngã thông chân .
Tư thần luyện dịch .
Đạo khí trường tồn .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Thân Thần Chú
Linh Bảo Thiên Tôn .
An ủy thân hình .
Đệ tử hồn phách .
Ngũ tàng huyền minh .
Thanh long bạch hổ .
Đội trượng phân vân .
Châu tước huyền vũ .
Thị vệ ngã thân .
Cấp cấp như luật lệnh .
An Thổ Địa Thần Chú
Nguyên Thủy an trấn .
Phổ cáo vạn linh .
Nhạc độc chân quan .
Thổ địa kỳ linh .
Tả xã hữu tắc .
Bất đắc vọng kinh .
Hồi hướng chánh đạo .
Nội ngoại túc thanh .
Các an phương vị .
Bị thủ gia đình .
Thái thượng hữu mệnh .
Sưu bộ tà tinh .
Hộ pháp thần vương .
Bảo vệ tụng kinh .
Qui y đại đạo .
Nguyên hanh lợi trinh .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Thiên Địa Thần Chú
Thiên địa tự nhiên .
Uế khí phân tán .
Động trung huyền hư .
Hoảng nang thái nguyên .
Bát phương uy thần .
Sử ngã tự nhiên .
Linh Bảo phù lệnh .
Phổ cáo cửu thiên .
Càn la đáp na .
Động cương thái huyền .
Trảm yêu phược tà .
Độ nhân vạn thiên .
Trung sơn thần chú .
Nguyên Thủy ngọc văn .
Trì tụng nhất biến .
Khước bệnh diên niên .
Án hành ngũ nhạc .
Bát hải tri văn .
Ma vương thúc thủ .
Thị vệ ngã hiên .
Hung uế tiêu tán .
Đạo khí trường tồn .
Cấp cấp như luật lệnh .
Tịnh Đàn Thần Chú
Thái Thượng thuyết pháp thời .
Kim chung hưởng ngọc âm .
Bá uế tàng cửu địa .
Quần ma hộ khiên lâm .
Thiên hoa tán pháp vũ .
Pháp cổ chấn mê trầm .
Chư thiên canh thiện tai .
Kim đồng vũ dao cầm .
Nguyện khuynh bát hà quang .
Chiếu y qui y tâm .
Tao pháp đại pháp cảo .
Dực thị ngũ vân thâm .
Cấp cấp như luật lệnh .
Chúc Hương Thần Chú
Đạo do tâm học .
Tâm giả tương truyền .
Hương nhiệt ngọc lô .
Tâm tồn đế tiền .
Chân linh hạ phán .
Tiên bái lâm hiên .
Lệnh thần quan cáo .
Kính đạt cửu thiên .
Sở kỳ sở nguyện .
Hàm tứ như ngôn .
Kim Quang Thần Chú
Thiên địa huyền tôn .
Vạn khí bổn căn .
Quảng tu vạn kiếp .
Chứng ngô thần thông .
Tam giới nội ngoại .
Duy đạo độc tôn .
Thể hữu kim quang .
Phúc ánh ngô thân .
Thị chi bất kiến .
Thính chi bất văn .
Bao la thiên địa .
Dưỡng dục quần sinh .
Thụ trì vạn biến .
Thân hữu quang minh .
Tam giới thị vệ .
Ngũ đế tư nghênh .
Vạn thần triều lễ .
Dịch sử lôi đình .
Quỷ yêu táng đảm .
Tinh quái vong hình .
Nội hữu tích lịch .
Lôi thần ẩn danh .
Động tuệ giao triệt .
Ngũ khí đằng đằng .
Kim quang tốc hiện .
Phúc hộ chân nhân .
Cấp cấp như luật lệnh .
Phụng Thỉnh
Thánh Thần Tiên Phật tại thiên đài
Đại phát từ bi giáng hạ lai
Chúng đẳng nhất tâm kiền bái thỉnh
Đặc cầu tứ phước dữ tiêu tai
Khai Kinh Kệ
Huyền áo thậm thâm chân diệu pháp
Đàn cao vạn kiếp vĩnh vô xâm
Ngã kim đỉnh lễ kiền trì tụng
Hách hách uy linh nghiêm hựu sâm
Nam mô Khai Bảo Kinh Bồ Tát Ma Ha Tát
Phước Đức Chánh Thần bảo cáo
Chí tâm qui mệnh lễ
Tam Hoàng Ngũ Đế bộ hạ .
Hậu Thổ Chân Quân .
Dĩ thân thuỳ phạm .
Hoang thác khai khẩn .
Giáo chức chủng thực .
Khuông vương hiệp vận .
Đức cao vọng trọng .
Ung hành càn khôn .
Quảng tể nhân luân .
Vạn tính mông hữu .
Thụ sắc phong vi
「Phước Đức Chánh Thần 」.
Bỉnh trung chánh liệt .
Trợ quốc vệ dân .
Ưng thừa giản mệnh .
Trấn nhất phương nhi
Lê thứ ngưỡng chiêm .
Bảo hữu tứ cảnh .
Tác vật phong doanh .
Chưởng truyền tấu nhi
Đan thầm thượng đạt .
Nghĩa quán cửu thiên .
Thiện ác chiêu chương nhi hưởng ứng .
Linh thông tam giới .
Công quá củ sát dĩ phân minh .
Tu nhân kiến tính .
Củng cố kim thang điện an tắc .
Bố thi quần lê .
Tỉnh thế tiết kiệm
Đại trung đại hiếu .
Chí hiển chí linh .
Phụ nhụ lão ấu .
Hưởng thụ thiên luân .
Đương cảnh Thổ Địa .
Hậu Thổ Tôn Thần
Phước Đức Thiên Tôn .
Phước Đức Chánh Thần kinh
Ngô thị Tam Hoàng Ngũ Đế Hậu Thổ Chi Thần . Bổn Cảnh Chân Quân . Thuận thiên chi chí . Khai thương tích địa chi bỉnh . Dẫn nhân thác thực . Tất phối càn khôn . Hoán tỉnh ngu dân . Khẩn hoang giáo đạo thuần thuần . Nhân nhân kính ngã . Ngã ái nhân quần . Hữu nhân vấn ngã danh hà tính . Phàm thị Cộng Công Thị chi tử Viêm Đế tử tôn câu long . Lập chí tinh trung uy linh thuần thuần . Hậu thế nhân đức cao vọng trọng . Sắc phong 「Phước Đức Chánh Thần 」. Trấn thủ kim vực . Quản hộ xã tắc . Bảo hữu tứ cảnh sanh linh . Lưu truyền đào ngu . Khuông phù diễn chánh . Giám sát nhân gian thiện ác . Trực hạt các xứ thổ trị . Khu tà phược mệnh . Trấn áp hương lý chi yêu quái . Tảo trang trung chi ma tinh . Bảo chướng thuỷ khẩu ác sát . Linh ứng bất tương tranh . Nhược nhân tụng ngô kinh . Hợp cảnh bảo bình an . Đạo lộ bảo an ninh . Sĩ nhân bộ thanh vân . Vong nhân tảo siêu thăng . Phụ nhụ lão ấu . Trạch xá đắc thông hanh . Lục súc tịnh tê trù . Thiên thiên vạn vạn tận vượng sanh . Thương nhân niệm thử kinh . Tích hoá bội bá niên . Doanh nghiệp hưng long do xương thịnh . Mỗi nguyệt sơ nhị tịnh thập lục . Kiền thành lai phụng kính . Tí hữu sự nghiệp phát triển . Tài đa phước bất khinh . Công xưởng trường địa hữu cung phụng . Doanh vận công vụ định hưng thịnh . Bát nguyệt thập ngũ thần thọ đản . Nông gia ngư dân đô hoan nghênh . Thuỷ thượng thuyền chích đắc phong thuận . Lãng tĩnh hậu lợi chân quang vinh . Nông thôn tác vật đa như ý . Ngũ cốc đại phong đăng . Nhữ đẳng chúng sanh thính văn . Nhị nguyệt sơ nhị nhật thị gia thăng . Phong vi Phước Đức Chánh Thần . Kim kinh bảo huấn nhất quyển . Cú cú tường minh . Phụng khuyến phàm dân lập thiện tâm . Thiết mạc sính cường thi nguỵ khuynh . Bộ bộ giai hành bình đẳng sự . Thị thị phi phi yếu hoà bình . Nhược thị bất kính ngô phước đức . Yêu mị giao triền hoạ bất khinh . Cần phụng ngô kinh huấn . Phước lộc tắc lai lâm . Tứ nhữ tử tôn tịnh hậu đại . Đại đại kim bảng tảo đề danh .
Tán Viết
Phú quí hữu môn nhân mạc nghi
Phước thần hỉ báo nhữ tiên tri
Đa đa tác thiện đa đa hảo
Hảo trạch hảo điền hảo tử tôn
Thế đại quang xương thuỳ bất ái
Hoàng thiên mệnh ngã giám thời thời
Gia gia hữu đức gia gia chấn
Bát hoạ tiêu tai mặc chuyển di
Thọ toán khả thiêm phân số lý
Công danh khả tạo học vi kỳ
Tổ tông tí ấm lưu dư khánh
Khổ lạc tiền sanh báo ứng nghi
Thổ địa nhân dân qui chưởng sát
Phân hào thưởng phạt bất sai ty
Khứ lai bổn thị ngô tiên đạo
Tốc tác âm công miễn thụ bi
Đệ nhất nhân gian hiếu vi tiên
Thanh thao lệ tiết cảm thương thiên
Viêm lương thế thái hà tu vấn
Mật lý linh đài yếu bảo toàn
Thế thế đầu thai ân oán thành
Tố hoàn ân oán tự phân hành
Phước thần phổ xuất thâm tình khúc
Giải tận sầu hoài thính nhất thanh
Sầu hoài thoát li thượng thanh vân
Lạc viên kỳ hoa phức phức phân
Tuý vịnh ngọc lâu viên nguyệt kiểu
Hà y vũ thể xướng tiên quần
HẾT
https://kinhsach.wordpress.com/2019/...C%9F%E7%B6%93/
-
如是世尊. 委老人所说真言曰. 合掌谛听. 若有善男信女 ( 人 ). 依此读诵. 一心忏悔,灾障消除. 人民康泰. 香火兴隆. 神镇神位. 龙镇龙方. 故传此经. 真实不虚. 大众闻佛所说皆大欢喜. 信受奉行作礼而退.
赞:佛说土地真经
Như thị, Thế Tôn ủy Lão Nhân sở thuyết Chân Ngôn viết: Hợp chưởng đế thính. Nhược hữu, Thiện nam Tín nữ ( Nhân), Y thử đọc tụng, Nhất tâm Sám Hối, Tai Chướng tiêu trừ, Nhân dân khương thái, Hương Hỏa hưng long, Thần trấn Thần vị, Long trấn Long phương. Cố truyền thử Kinh, Chân thật bất hư. Đại Chúng văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỉ, tín thụ phụng hành, tác lễ nhi thoái.
Tán: PHẬT THUYẾT THỔ ĐỊA CHÂN KINH
https://wenku.baidu.com/view/73f215d...=1569886265639
http://www.wendangku.net/doc/63edf2d...1f33016-3.html
=======
https://wenku.baidu.com/view/63edf2d...=1569885067531
https://wenku.baidu.com/view/73f215d...=1569886265639
-
-
举香咒
黄 庭 一 信
香 爐 鼎 噴
蓮 芳 回 向
龍 法 會 清
凉 灌 十 方
南無香雲蓋菩薩摩訶薩
南無清涼地菩薩摩訶薩
南無雲來集菩薩摩訶薩
南無三滿多没馱喃唵度嚕度嚕地尾薩 訶。
CỬ HƯƠNG CHÚ
Hoàng đình nhất tín
Hương lô đỉnh phún
Liên phương hồi hướng
Long pháp hội thanh
Lương quán thập phương
NA MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ THANH LƯƠNG ĐỊA BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ VÂN LAI TẬP BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ TAM MÃN ĐA MỘT ĐÀ NẪM: ÁN ĐỘ RÔ ĐỘ RÔ ĐỊA VĨ TÁT BÀ HA
TRANG 5-6: https://repository.vnu.edu.vn/flowpa...f45e4af78&uid=
-
举香咒
黄 庭 一 信
香 爐 鼎 噴
蓮 芳 回 向
龍 法 會 清
凉 灌 十 方
南無香雲蓋菩薩摩訶薩
南無清涼地菩薩摩訶薩
南無雲來集菩薩摩訶薩
南無三滿多没馱喃唵度嚕度嚕地尾薩 �訶。
CỬ HƯƠNG CHÚ
Huỳnh Đình nhất tín
Hương lô đỉnh phún
Liên phương hồi hướng
Long pháp hội thanh
Lương quán thập phương
NA MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ THANH LƯƠNG ĐỊA BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ VÂN LAI TẬP BỒ TÁT MA HA TÁT
NA MÔ TAM MÃN ĐA MỘT ĐÀ NẪM: ÁN ĐỘ RÔ ĐỘ RÔ ĐỊA VĨ TÁT BÀ HA
TRANG 5-6: https://repository.vnu.edu.vn/flowpa...f45e4af78&uid=