Nguyên văn bởi
hoasenngancanh
6- NHỮNG ƯỚC NGUYỆN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ: NÊN HAY KHÔNG NÊN CÓ?
Bất cứ công việc nào cũng cần phải có một mục đích đặt ra và chương trình hành động cụ thể để hiện thực hoá vấn đề đó, đối với việc tu học Phật Pháp cũng y như vậy. HS thấy có sự khác biệt giữa suy nghĩ của người tại gia theo Nam truyền và Bắc truyền ở điểm này, bên Nam truyền rất rạch ròi giữa ước nguyện và không ước nguyện, không có chuyện người tại gia sợ có ước nguyện rồi sẽ bị mê hoặc vào kết quả của những nguyện ước đó, bởi lẽ nếu bạn không có ước nguyện thì cũng như bạn đi đường không có định hướng, vậy bạn sẽ đi tới đâu, thậm chí đi vòng vèo rồi thì cũng sẽ rơi vào bế tắc hoặc không thể đi xa hơn đoạn đường đã qua của mình. Nếu ai có đọc bộ Phật sử (Buddhavamsa của HT.Bửu Chơn) thì sẽ rõ thời gian một vị Bồ tát thực hiện Ước nguyện ba la mật trong tâm và phát ra lời là rất lâu hàng tỷ tỷ kiếp trái đất mà vẫn chưa được một vị Phật nào thọ ký (xác nhận) cho ước nguyện đó sẽ thành sự thật, phải mất thêm một quãng thời gian thật dài nữa cho tới khi ba la mật của vị Bồ tát ấy đầy đủ để có thể được 1 vị Phật đương kim tại tiền thọ ký cho sẽ thành Phật Tương Lai (chứ không phải một vị Phật huyền bí nào đó trong chốn vô hình đến thọ ký), tới giai đoạn này vị Bồ tát ấy mới được gọi là Xác định Bồ tát, hay là Bất thối chuyển Bồ tát, còn các giai đoạn tu tập và có hạnh nguyện trong tâm và nói ra lời vẫn được xem là Bất định Bồ tát bởi vì ngày nào chưa được thọ ký ngày đó vẫn có thể thoái bộ ngã lòng, tương tự với quả vị Phật Độc Giác và các quả vị Tối thượng Thinh Văn, Đại Thinh Văn cũng phải có sự thọ ký của một vị Phật trong thời kỳ luân hồi của các vị Bồ tát ấy. Trong trường hợp của Đức Phật Thích Ca, thì tại sao người ta tôn thờ Đức Phật Quá Khứ Nhiên Đăng, bởi vì chính vị Phật ấy đã thọ ký cho tiền thân của Đức Phật Thích Ca sẽ thành Phật trong thời kỳ Giáo pháp hiện tại này. Từ thời điểm thành Phật của Đức Phật Nhiên Đăng trải dài tới lúc Đức Phật Thích Ca thành Phật có khoảng thời gian là 4 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất (tính theo thời gian của Nam truyền còn Bắc truyền thì có con số khác), tại sao lại là 4 trong khi Đức Phật Tương Lai Di Lạc lại là 16 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất, bởi vì căn cứ theo bản tính sở trường (căn tính) của vị Xác định Bồ tát là Tuệ hạnh, Tín hạnh, hay là Tấn hạnh mà có sự khác biệt về thời gian sau khi được thọ ký tới khi tròn vẹn 30 ba la mật (10 ba la mật x 3 cấp độ hạ, trung, thượng). Đức Phật Thích Ca là vị Phật thuộc về Tuệ hạnh nên thời gian tu tập của Ngài ngắn nhất so với hai cấp độ của căn tính kia, do đó so với bình diện Phật trí, Phật lực, Phật hạnh thì chư Phật ba đời ngang bằng nhau (Bình đẳng Giác Trí) nhưng về các phước báu hữu lậu thì chư Phật Tín hạnh và Tấn hạnh hơn hẳn Đức Phật Thích Ca như: tuổi thọ của ngài chỉ có 80 tuổi, trong khi tuổi của Đức Phật Tương Lai Di Lạc là 80.000 tuổi; so với Đức Phật Quá Khứ tiền nhiệm của ngài là Phật Ca Diếp có tuổi thọ 20.000 tuổi. Hai vị Phật này sống trọn tuổi thọ của chúng sanh thời kỳ đó, trong khi tuổi thọ chúng sanh thời kỳ của Đức Phật Thích Ca là 100 tuổi. Dưới độ tuổi 100, không có vị Phật nào ra đời giảng đạo nữa vì chúng sanh sẽ kém trí tuệ trong khi tình dục và sân hận lại mạnh mẽ nên khó hấp thu những giáo lý cao thượng về Giải thoát sinh tử luân hồi, còn nếu sống trên 80.000 tuổi thì lại thượng thọ nên khó thấy Tam tướng của thế gian (Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã) nên khó tu tập Giải thoát sinh tử được. Tới thời kỳ Xá Lợi Niết Bàn vào lúc Giáo pháp này tròn vẹn 5000 năm thì chỉ có Chư Thiên, Phạm Thiên ở các thế giới đến nghe Xá Lợi Đức Phật Thích Ca gom tụ từ mọi ngóc ngách trong tam giới về thành một Kim Thân Phật thuyết pháp suốt 7 ngày đêm tại Bồ Đề Đạo Tràng và đắc thánh quả, rồi sau đó Xá Lợi Phật hoàn toàn tan rã và biến mất vào hư không, chấm dứt thời kỳ Giáo pháp 5000 năm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc ấy trong tam giới này không còn dấu vết của Tam Tạng Kinh Điển và Xá Lợi Phật (cũng như của chư Thánh tăng) nữa.
Do đó sự ước nguyện là rất cần thiết và quan trọng. Ở bên Bắc truyền HS cũng thấy trong lich sử chư Phật, Bồ tát cũng có rất nhiều ước nguyện như Đức Phật A Di Đà phát ra 48 nguyện trước mặt Đức Phật Bảo Tạng, Đức Phật Chánh Pháp Minh phát ra 12 nguyện để trở thành Bồ tát Quan Thế Âm thực hành độ sanh trong tam giới; Đức Phật Dược Sư cũng có 12 lời nguyện tế độ chúng sanh bệnh tật đau khổ trong tam giới; Bồ tát Địa Tạng với duy nhất 1 đại nguyện chấn động mười phương chư Phật... Thế thì tại sao người tại gia lại cứ ngại không dám ước nguyện trong quá trình tu tập? có nhiều vị cứ than thở tại vì phước mỏng nghiệp dày, tu không tới đâu sao dám học đòi phát nguyện. Ủa vậy chứ tu tới đâu mà biết là bản thân mình phước mỏng nghiệp dày? phải có đủ thần thông mới biết được căn tính, trình độ, phước báo của mình ở ngưỡng nào chứ đâu phải cứ khơi khơi nói là đúng đâu? Làm như vậy vô tình gieo hạt mầm bất thiện cho mình và cho người khác mà không hiểu là sẽ tạo ra quả bất thiện cản trở đường tu tập của mình. HS được dạy là sự tha thiết trong tu tập có thể dẫn tới 3 quả báo thiện là quả người, quả trời, quả Niết bàn. Quả người tròn vẹn khi tái sanh với đầy đủ giác quan, không bị tứ chứng nan y, không bị tật nguyền, không bị những khiếm khuyết trên thân thể, tinh thần sáng suốt minh mẩn, đầy đủ vật thực, tiện nghi cần thiết, có trí tuệ phân biệt thiện ác đúng sai, nhân quả, nghiệp báo, biết tu tập các pháp môn của chư Phật và có cơ hội đắc quả Niết Bàn. Quả trời tròn vẹn cho tái sanh ở các cõi an vui, thanh tịnh, thanh nhàn, có đủ thiên quang, thiên sắc, thiên danh, thiên uy, thiên lộc, thiên hương, thiên thọ và những tiện nghi tốt đẹp khác, lại có trí tuệ và thần thông nhìn thấy và có hạnh cung kính với bậc cao thượng, biết tu tập để hưởng quả thù diệu là Niết Bàn cao siêu. Quả Niết bàn là các quả vị ứng nghiệm cho sự tu tập lâu ngày dài tháng của những hạng người có tâm hướng thượng, đưa những người ấy ra khỏi chốn nhà lửa tam giới này.
Riêng cá nhân HS thì thấy rằng HS ắt hẳn đã tu tập nhiều kiếp quá khứ rồi nên từ nhỏ đã có tâm kính Phật, rất thích đến chùa lạy Phật, rất thích hình ảnh của hoa sen, toà sen, thích ngắm nhìn hình tượng của chư Phật, Bồ tát, từ nhỏ đã say mê đọc sách kinh truyện Phật giáo, tụng kinh trì chú, 12 năm đi học chưa bao giờ phạm lỗi gì to tát trong trường để bị hạnh kiểm thấp cả thường ở mức hạnh kiểm tốt thầy cô đều thương mến, trong Ngũ giới thì thành tựu tròn vẹn giới Không uống rượu vì cơ thể HS dị ứng bia rượu và HS cũng không bao giờ ưa thích hương của bia rượu. HS có thể gặp khó khăn trong việc kiếm sống nhưng trong tu tập thì chưa bao giờ HS bị chướng ngại lớn ảnh hưởng tới sự tu tập, khi ước muốn đi tu thiền thì liền có những thiện tri thức xuất hiện ủng hộ cho đi miễn phí, đến nơi thì được gặp các bậc thầy đáng kính hết lòng chỉ dạy cho tiến bộ, khi muốn giúp ai về kinh sách hay phương tiện tu tập thì liền sau đó sẽ có ngay không bị lâm vào tình cảnh thất hứa với ai bao giờ. HS học hành nhiều phương pháp luyện tâm khác nhau nhưng khi bước vào tu thiền định của Phật thì không bị loạn tâm bao giờ dù nhiều người đã bị lẫn lộn các phương pháp đã học trước đó. HS thấy rằng tới thời điểm này những ước nguyện liên quan tới tu tập đã được ứng nghiệm mau chóng cho mình. HS thấy rằng nên ước nguyện khi tu tập thiện pháp, vì nương theo thiện pháp sẽ cho quả báo tốt lành và như vậy mình sẽ gặt được những quả báo phù hợp ước nguyện chính đáng của mình. Trong tu tập thiền định HS thấy rõ tầm quan trọng của ước nguyện, thứ nhất ước nguyện làm cho thiện pháp mình tu tập mau tiến bộ nhanh hơn là không ước nguyện: ví dụ trong những ngày tu tập trong trường thiền HS thường hái hoa Sala (= hoa Long Thọ, hoa Hàm Rồng) cúng dường Kim Thân Phật và Cây Bồ Đề và ước nguyện tiến bộ trong thực hành thiền và quả như vậy, HS thấy rõ sự tiến bộ nhanh chóng của mình khiến thiền sư cũng hoan hỷ khi chứng minh mức tiến bộ của HS. Nếu biết rõ ước nguyện nào dẫn tới quả Hữu lậu và Vô lậu thì hãy tìm cho mình những ước nguyện phù hợp với hoàn cảnh của mình, bởi lẽ các pháp là vô ngã mà tâm hướng theo lối đi nào thì sẽ có hậu quả xứng đáng với sự hướng tâm ấy.
7- VẤN ĐỀ CUỐI CÙNG CỦA BÀI CHIA SẺ NÀY: HS xin tóm gọn những ý cần quan tâm như sau:
- Hãy chịu khó tìm đọc, tìm học những bài giảng về kinh điển có từ các nguồn trên các trang thư viện có uy tín của Giáo hội để tự trang bị cho mình một nền tảng kiến thức Phật học căn bản, hãy tham dự các lớp học Giáo lý căn bản ở các chùa Nam truyền & Bắc truyền.
- Hãy chịu khó hỏi với một cái tâm mong muốn học tập chứ không phải đi vấn nạn thiên hạ, vì khi dùng cái tâm nào thì bạn sẽ được đối xử lại với cái quả tương thích.
- Hãy chịu khó thực hành những gì bạn được chỉ dạy một cách cặn kẽ có cả hai phương diện lý thuyết và thực hành, với những thiện tri thức tốt bụng hữu duyên với bạn. Đó là những vị thầy tốt của bạn.
- Hãy chịu khó đối diện với những thất bại của bạn trong tu hành để từ đó bạn rút tỉa cho bạn những kinh nghiệm quý báu, có thể giúp ích cho bạn và những người đi sau bạn. Hãy trao đổi một cách thẳng thắn nhưng chân thành với những người đã hướng dẫn bạn, và những vị thầy trong chốn thiền môn để một lần nữa bạn có thêm cơ hội được hiểu sâu hơn vấn đề bạn đã học.
- Hãy chịu khó lắng nghe và phân tích, đối chiếu, suy luận với nhiều nguồn tham khảo để bạn có một kiến thức tổng quát, thay vì bạn rơi vào bảo thủ, cố chấp với những cái mà bạn cho rằng bạn biết tất cả rồi, có suy nghĩ như vậy chỉ đưa bạn vào bế tắc mà thôi, đó không phải là cách hay cho người tu Phật.
- Hãy can đảm dám hỏi những câu hỏi mà thoạt nghe qua có vẻ phạm thượng tới những vị thầy hữu hình và nhất là những vị thầy vô hình, và hãy kiểm tra lại bằng trực giác thanh tĩnh của bạn để biết được câu trả lời đó đúng hay không đúng, đáng tin theo hay chỉ để tham khảo.
- Sau cùng hãy chia sẻ, bố thí với vòng tay rộng mở cho những ai hữu duyên với bạn những gì bạn học được trong Giáo pháp này bởi vì suy cho cùng những điều bạn học được, hành được và đạt được cũng từ những bậc truyền giáo đi trước, và theo hướng ấy thì tất cả những thứ này thuộc về Đức Phật, thuộc về Tam Bảo chứ không thuộc về một cá nhân nào cả. Một bàn tay mở luôn có được nhiều thứ hơn một bàn tay nắm chặt, nắm được cái gì, được bao lâu chẳng bằng không nắm giữ cái gì cả nhưng có được tất cả. Nói cách khác không có gì thuộc quyền sở hữu của HS hay của bạn, vì như trong kinh đã dạy: "Vạn pháp là Vô Ngã!"
Xin kết thúc!
Chân thành cám ơn quý vị Huynh tỷ đệ, đạo hữu đã dành thời gian xem và góp ý cho Hoa Sen hoàn thành bài chia sẻ của mình.