http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-...N%7ctxME------
Printable View
Lakshmi
Lakshmi, vị nữ thần Hindu về của cải, vận mệnh và thịnh vượng (vật chất lẫn tinh thần), là người vợ và là shati/năng lực âm tính của thần Vishnu. Nữ thần cũng được gọi là Sri hay Thirumagal bởi nữ thần là nguồn cội tám điểm cát tường của thần Vishnu. Khi thần Vishnu hiện thân trên trái đất như các hóa thân Rama và Krishna, hóa thân của nữ thần Lakshmi như những người phối ngẫu tương ứng của thần: nàng Sita (người vợ của Rama) và Rukmini (người vợ của Krishna). Lakshmi và Padmavati là những người vợ của thần Vishnu ở Tirupati. Trong Hindu giáo, thần Vishnu đã hóa thân là Venkatachalapathi tại Tirupati, mặc dù hình thái uy nghi của thần không được coi như là một trong những hóa thân dasavatar.
https://www.youtube.com/watch?v=HGhOLTT-_lU
Dorayaki Recipe - Cách làm Bánh Rán Nhân Đậu Đỏ
净法界真言
嗡。南摩。梭哈。 om namo soha
http://truebuddha-vajra999.blogspot....blog-post.html
煙供咒嗡。阿不拉底。普巴耶。梭哈 Om, ah-bu-la-di, pu-ba-yeh, soha
NGUỒN GỐC HAI BÀI NIỆM HƯƠNG VÀ KHAI KINH CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Người tín đồ Cao Đài hàng ngày bắt đầu thời cúng của mình bằng bài kinh Niệm Hương với hai câu đầu: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra…”, sau đó tụng đến bài Khai Kinh: “Biển trần khổ vơi vơi trời nước…”.
Có thể nói, tất cả tín đồ Cao Đài đều thuộc nằm lòng hai bài kinh này, nhưng cũng có thể nói, ít người biết rằng hai bài kinh trên có gốc từ chi đạo Minh Lý (Tam Tông Miếu)11.; bài Niệm Hương do Đức Nam Cực Chưởng Giáo, dựa theo bài Phần Hương Chú (kinh Minh Sư, chữ Hán), giáng tả bằng quốc ngữ năm 1925, bài Khai Kinh do Đức Lữ Tổ giáng tả cũng trong năm đó.2. 2
NG UỒN GỐC BÀI KINH NI ỆM HƯƠNG
1. Trong quyển Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh, nhị vị Đầu Sư Tiền khai Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt đã cho in đầy đủ bài Phần Hương Chú (chữ Hán và chữ quốc ngữ), trang 1, và bài Chú Đốt nhang quốc âm (Niệm Hương), chữ Hán Nôm và chữ quốc ngữ, trang 2. Dưới đây là ảnh chụp hai bài kinh trên (ảnh 1 và 2).
ẢNH 1
ẢNH 2
2. Trở lại bài Phần Hương Chú in trong Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh (ảnh 1), nguyên văn bài kinh này như sau:
“Đạo do tâm hiệp
Tâm giả hương truyền
Hương phần ngọc lư
Tâm chú Tiên nguyện
Chơn linh hạ giáng
Tiên bội lâm hiên
Kim thần quan cáo
Kính đạt Cửu Thiên
Sở khải sở nguyện
Hàm tứ như ngôn.”
Tạm dịch:
Đạo do tâm thành hiệp chú vào
Tâm ấy nhờ hương thơm của nhang truyền đi
Hương khói nhang đốt từ lư ngọc
Tâm người theo đó hướng lòng cầu nguyện lên các vị Tiên
Chơn linh các đấng giáng hạ
Xe Tiên giáng lâm đến nơi
Hôm nay kẻ bề tôi xin tấu trình Hướng lên chín tầng Trời Những điều bề tôi trình dâng lên, nguyện xin Tất cả đều được ban cho như lời cầu.
Lời tạm dịch trên rất thô, so với từng câu từng câu bài Niệm Hương do Đức Nam Cực Chưởng Giáo giáng ban tại Minh Lý Thánh Hội:
“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra Mùi hương lư ngọc bay xa Kỉnh thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng Xin Thần Thánh ruổi giong cỡi hạc Xuống phàm trần vội gác xe Tiên Ngày nay đệ tử khẩn nguyền Chín tầng Trời Đất thông truyền chứng tri L.ng sở vọng gắn ghi đảo cáo Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.”
ảnh 3 3
Bài kinh đạo Cao Đài sử dụng kết thúc bằng câu chú của Đức Chí Tôn: “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”, tạo ảnh hưởng mạnh trong cõi huyền linh.
3. Câu hỏi tiếp theo được đặt ra là:
• Bài Phần Hương Chú (Đạo do tâm hiệp…) có gốc tích từ đâu?3 Vài tác giả (Đức Nguyên, Thiên Vân …) viết: “Bài Phần Hương Chú bằng chữ Hán được trích trong kinh Cảm Ứng của Đạo Giáo”. Chúng tôi đã tìm qua một số bản kinh Cảm Ứng, trong đó có quyển Cảm Ứng Thiên Tập Chú, in năm Thiệu Trị thứ bảy (1847)… nhưng vẫn chưa thấy bài Phần Hương Chú trong đó.4. 4
Chuyển qua tìm trong kinh Minh Sư, chúng tôi đã gặp được một số bài kinh có nội dung tương tự bài Phần Hương Chú, thí dụ:
• Bài Chúc Hương Chú, trong Ngọc Hoàng Thượng Đế Hồng Từ Cứu Thế Bảo Kinh, trang 84, in năm 1912, Ngọc Sơn từ tàng bản (ảnh 3).
ẢNH 3
• Bài Phát Lư, trong Ngọc Hoàng Kinh Sám, trang 26, in năm Đinh Tỵ (1917) (ảnh 4).
ẢNH 4 VÀ 5
• Bài Phần Hương Tưởng, trong Thái Thượng Diệu Lục quyển 2, trang 2, không ghi năm in,
Các bài kinh này, gọi là có nội dung tương tự bài Phần Hương Chú do có một vài chỗ khác biệt, thí dụ như bài Chúc Hương Chú (ảnh 3) như sau:
“Đạo do tâm học
Tâm giả hương truyền
Hương nhiệt ngọc lư
Tâm tồn Đế tiền
Chơn linh hạ giáng
Tiên bội lâm hiên
Linh thần quan cáo
Kính đạt Cửu Thiên.”
Hay như bài Phần Hương Tưởng (ảnh 5) có nội dung:
“Đạo do tâm hiệp
Tâm giả hương truyền
Hương phần lư trung
Tâm chú Đế tiền
Tiên linh giáng hạ
Tiên phối lâm hiên
Kim thần khải tấu
Thấu đạt Cửu Thiên
Phạm hữu sở nguyện
Hàm tứ như ngôn.”
4. Một số ý kiến ban đầu:
Quyển Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh đã giúp làm ra bài Niệm Hương (và sau đó là bài Khai Kinh) được Ơn Trên tả qua quốc ngữ từ kinh chữ Hán, xác định tên và nội dung bài kinh, giúp chúng ta không phải thắc mắc, nhầm lẫn, do có nhiều bài tương tự nhau.
Như vậy, mặc dù còn phải tiếp tục tìm bài Phần Hương Chú đúng nguyên văn theo Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh (ảnh 1), tuy nhiên, qua những bài kinh đã tìm thấy kể trên, có thể xác định được rằng bài Phần Hương Chú là kinh Minh Sư, đó cũng là định hướng sưu tầm trong thời gian tới.
Trong tất cả bản kinh chúng tôi đã tìm được, chỉ có bài Phần Hương Tưởng (ảnh 5) có câu đầu là “Đạo do tâm hiệp” giống bài Phần Hương Chú; còn lại, tất cả đều có câu đầu là “Đạo do tâm học”. Chữ Học này dù hiểu theo nghĩa:
Hiểu ra, giác ngộ… vẫn còn một khoảng cách khác biệt, nhứt là về mặt tâm linh, so vớí chữ Hiệp trong “thành tín hiệp”, đã ăn sâu vào tâm thức người đạo Cao
Đài.
NGUỒN GỐC BÀI KHAI KINH
1. Trong quyển Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh của đạo Cao Đài nêu trên, nơi trang 7, có in bài Khai Kinh Kệ (Trần hải mang mang…) chữ Hán và chữ quốc ngữ. Tiếp dưới là bài Kệ Khai Kinh Quốc Âm, nay gọi là bài Khai Kinh: “Biển trần khổ vơi vơi trời nước…” chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Dưới đây là bản chụp hai trang 7 và 8 quyển Thời Nhựt Tụng Kinh (ảnh 6 và 7).
Nội dung bài Khai Kinh Kệ chữ Hán như sau:
“Trần hải mang mang thủy nhựt đông
Vãng hồi toàn trượng chủ nhơn công
Yếu tri tam giáo tâm nguyên hiệp
Trung thứ từ bi cảm ứng đồng.”
ẢNH 6- 7
2. Các bản kinh Minh Sư đã nêu trong phần 1 (Nguồn gốc bài kinh Niệm Hương) đều có bài Khai Kinh nhưng nội dung khác với bài “Trần hải mang mang…” này.
Chúng tôi đã rất mừng khi tìm thấy trong quyển Thiện Môn Nhựt Dụng tại Quang Nam Phật Đường (quận 1– TP . HCM ) có bài Khai Kinh Kệ giống nguyên văn bài “Trần hải …” kể trên. Dưới đây là bản chụp bìa quyển Thiện Môn Nhựt Dụng và bài Khai Kinh Kệ (trang 17).
Qua những bài kinh gốc từ chi đạo Minh Sư chuyển qua Cao Đài, đặc biệt là bài Ngọc Hoàng Bửu Cáo (Đại La Thiên Đế …), ba bài xưng tụng Tam Giáo Đạo Tổ và hai bài Niệm Hương– Khai Kinh vừa kể trên, một lần nữa, chúng ta
cảm nhận rằng Ơn Trên đã chuẩn bị trước một số nền tảng từ đạo Minh Sư, và nhiều tôn giáo khác, tổng lực các phần cốt yếu lại, để lập thành Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ghi chú thêm
Trong quyển Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh của đạo Cao Đài (in năm 1928), từ trang 3 đến trang 6 có in bốn bài: Tịnh Khẩu Chú, Tịnh Tâm Chú, Tịnh Thân Chú và An Thổ Địa Chú. Về sau, từ khi T.a Thánh Tây Ninh ban hành quyển Nghi tiết Đại đàn và Tiểu đàn (17.6.Canh Ngọ–1930), bốn bài chú trên không c.n sử dụng nữa. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thông tin rằng bốn bài chú đó có trong quyển Cứu Kiếp Hoàng Kinh (mã số R.3947 Thư viện Quốc gia Việt Nam).
Bìa quyển kinh ghi: “Tự Đức nhị thập cửu niên tân thuyên” và “Bản tồn Ngọc Sơn Văn Vũ Nhị Đế điện”; năm Tự Đức thứ 29 tức là năm 1875, và đền Ngọc Sơn (hồ Gươm, Hà Nội) xưa kia, khoảng từ 1845 đến 1945, là một trong hững Thiện Đàn quan trọng vùng Bắc bộ có tổ chức cơ bút, cũng là cơ sở in ấn và tàng bản kinh sách Hán Nôm lớn (lên đến 246 tên sách) trong giai đoạn trên.
http://www.nhipcaugiaoly.com/images/...DAG%20HUOG.jpg
http://www.nhipcaugiaoly.com/post?id=693
Kinh Tứ Thời và Nhựt Tụng - Bản đầu tiên - Tác Giả Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch
BẠCH Y QUAN THẾ ÂM HIỂN LINH CỨU KIẾP NẠN
--------------------------------------------------------------
Thương Đình là máy trưởng của một tàu viễn dương. Một lần tình cờ đến HongKong, có người dẫn anh đến gặp một thầy bói nổi tiếng có tên Tad-Ban-Shen-Suan. Chỉ cần cho biết ngày tháng năm và giờ sinh, thông tin càng chính xác bao nhiêu thì việc dự báo càng chính xác bấy nhiêu. Thương Đình cũng biết thuật xem bói này rất chính xác, do ông Shao Kang Jie soạn ra từ thời cổ đại.
Thầy bói nói bố của Thương Đình sinh vào năm Thìn và mẹ sinh vào năm Thân. Ông ta cũng khẳng định Thương Đình có 4 anh em, 3 người anh trai và một người em gái. Những thông tin trên là hoàn toàn chính xác. Ông ta lại tiếp tục biết mẹ của Thương Đình đã mất từ năm anh lên mười. Điều này khiến Thương Đình rất sửng sốt vì nó hoàn toàn là sự thật. Sau đó thầy bói nói thêm về số phận của Thương Đình là:
Cuộc đời Thương Đình luôn gắn liền với sông nước. Thực tế thì Thương Đình là thủy thủ tàu viễn dương. Năm 31 tuổi, anh gặp một người bạn tên Xie và mất tiền. Đúng vào năm 31 tuổi, một người bạn tên Xie đã vay 700 nghìn Đài Tệ rồi biến mất. Nhưng điều kinh ngạc nhất là ông thầy đoán được cả họ của bạn gái anh và mức lương của anh hàng tháng. Nhưng khi nói đến thọ mạng của Thương Đình, thầy bói bỗng dưng im bặt.
Thương Đình rất nóng lòng muốn biết thọ mạng của mình.
Thầy bói nói: Tốt nhất là anh không nên biết. “ Dài ngắn không quan trọng, tôi có thể chịu được”. Thương Đình nói. Thầy bói vẫn tiếp tục lặng im. Thương Đình cương quyết “Tôi không để tâm đâu, làm người ai cũng phải chết. Sống lâu chưa chắc đã là tốt. Nhưng tôi phải biết tôi sống được bao lâu. Nếu thầy không nói thì tôi ngồi lì ở đây.”
Thầy bói rất lấy làm khó xử trong khi Thương Đình cứ hối thúc. Cuối cùng, thầy lấy một cuốn sách số mệnh ra, lật một vài trang, sau đó đưa cho Thương Đình xem. Có một câu dự báo, người này sẽ chết ở tuổi 37.
37 tuổi sao? Ba mươi bảy? Thương Đình chết lặng. Năm nay mới có ba mươi lăm tuổi, Thương Đình tự nhủ, chỉ còn hai năm nữa là mãi mãi ra đi sao.. Theo như lời thầy phán có vẻ như chắc chắn cuộc đời mình sẽ chấm dứt vào tuổi đó. Nói là không để tâm, kỳ thực trống ngực đang đập thình thịch.
“ Có cách nào thay đổi số phận không?”
“Tất cả là ý trời rồi. Chỉ có thể thay đổi số phận bằng cách làm thật nhiều việc tốt. Tôi không thể giúp được”
“Làm việc tốt?”.. “Đúng”. “Như câu chuyện của Vương Liễu Phàm á?”
“Đúng vậy.”.
“ Nhưng hai năm thôi thì làm sao đủ thay đổi số phận đây”
Thầy bói mỉm cười và tỏ ý bó tay … bỗng sau đó lại nói: theo kinh nghiệm của tôi mà nói, dự báo rất chính xác. Nhưng có một người, có lẽ sẽ giúp được anh, dù là rất mong manh. Anh nên đi kiếm người này xem sao …
"Kiếm ai"?
“Liên Sanh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn”
“Ông ấy giúp tôi thay đổi số phận được không?”
“Cứ thử xem”
Khi gặp tôi, Thương Đình không nhắc gì đến chuyện đi xem bói ở HongKong. Anh ta chỉ quan tâm một điều duy nhất, sẽ sống được bao lâu..Tôi đáp: “Tôi không xem thọ mạng mỗi người.”
“Vì sao ạ? Biết trước về hôn nhân, gia đình, sự nghiệp, thì thọ mạng cũng vậy chứ”
“Đúng vậy nhưng nếu tôi nói trước là thọ mạng rất ngắn ngủi, nó sẽ khiến anh hoảng loạn. Để tránh những việc đáng tiếc, thì tốt nhất là không xem.
“ Có thể có ngoại lệ chứ” . “ Không có”, tôi từ chối.
“Thôi được, thế này vậy. Tuổi ai cũng có hai chữ số. Ông có thể cho tôi biết một số cuối được không?”
Tôi thấy như vậy cũng công bằng, con số cuối không cho biết toàn bộ thọ mạng của con người và cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng tôi chưa hiểu tại sao Thương Đình lại khăng khăng muốn biết con số cuối. Tôi dùng thần toán và viết số 7.
Thương Đình nhìn và lẩm bẩm: “ số 7, chính xác là con số 7.”
Lúc đó Thương Đình mới nói thật là đã đi xem bói ở HongKong và được phán là chỉ sống được đến 37 tuổi. Thương Đình muốn lật ngược tình thế, thay đổi số phận của mình.
"Được! Để tôi thử xem". Sau đó tôi nhập định. Trong thiền định, tôi thấy Bồ Tát Quán Thế Âm trong trang phục trắng, một tay cầm bình cam lồ, một tay cầm cành dương liễu. Bồ Tát hóa hiện với hình dung cực kỳ trang nghiêm và tự tại.Bồ Tát nói:” Chỉ cần bảo Thương Đình hàng ngày niệm chú Bạch Y Quan Thế Âm hai mươi lăm lần thì tất có kỳ tích. Ông cũng không cần phải dạy cách niệm, Thương Đình cũng đã biết rồi”
Tôi xuất định và nói với Thương Đình:” Anh có trì chú, tụng kinh bao giờ chưa”?
“Chưa từng” Thương Đình đáp.
“Nhưng Bồ Tát nói có”
“Bồ Tát thật là vui tính. Tôi chưa bao giờ biết trì chú trong đời”
“Không phải vậy chứ …” Tôi đáp.
“Bạch Y Quan Thế Âm nói anh biết niệm chú của ngài mà”
“À” Thương Đình đột nhiên giật mình. Sau đó bắt đầu kể:
Mười năm trước, cô ruột Thương Đình qua đời. Trước khi chết, bà đưa cho Thương Đình một tấm ảnh của Bạch Y Quán Thế Âm. Thần chú của Bạch Y Quan Thế Âm được viết ở bên cạnh tấm ảnh. Bà đã dạy Thương Đình niệm từng chữ từng chữ một rất cẩn thận. Bà nói bức ảnh với thần chú này đã được thờ phụng trong một thời gian dài. Câu chú này bà đã trì cả đời và theo bà nó rất màu nhiệm.Thương Đình giữ tấm ảnh và niệm Bạch Y Quan Thế Âm một thời gian ngắn. Sau đó thì Thương Đình không tụng chú và cũng cất bức ảnh đi.
Tôi bảo Thương Đình hãy treo tấm ảnh của Bồ Tát lên ngay lập tức và niệm chú Bạch Y Quan Thế Âm hai lăm lần mỗi ngày.
“Vâng”. Thương Đình đáp.
“Có cần tôi nhắc lại không?” “ Không sao đâu, tôi vẫn nhớ cách tụng chú này”.
Thật ngạc nhiên là sau đó, Thương Đình có thể chép lại thần chú
Bạch Y Quán Thế Âm Đại Sỹ Linh Cảm Chân Ngôn:
Nam mô đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn; quảng đại linh cảm Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng.
Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan thế âm Bồ Tát.
Tadyata Om Garavata Garavata Gahavata Ragavata Ragavata Svaha.
Thiên la thần. Địa la thần. Nhất thiết tai ương hóa vi trần.
Namo Maha-prajana-paramita. (Dịch không chính xác)
Thương Đình về nhà và treo ngay ảnh Bồ Tát lên để thờ rất thành kính. Mỗi khi tụng niệm, Thương Đình đều lau rửa tay chân, thay quần áo sạch. Sau khi tụng niệm, Thương Đình hồi hướng:
Nguyện cho tất nghiệp chướng tiêu trừ
Nguyện cho trí huệ tăng trưởng
Nguyện cho tất cả lỗi lầm đều được tha thứ
Nguyện đi theo Bồ Tát đạo đời đời (Dịch không chính xác)
Xin Quan Thế Âm Bồ Tát che chở con khỏi nạn sát thân, cho con được trường thọ.
Khi ở nhà, khóa lễ được thực hiện rất dễ dàng. Nhưng thực tế, Thương Đình là máy trưởng của tàu viễn dương. Do đó, Thương Đình dán tấm ảnh của Bạch Y Quan Thế Âm lên cabin tàu và hàng ngày đều tụng niệm thần chú. Bạn bè thường chế nhạo Thương Đình là mê tín dị đoan, hay có vấn đề về đầu óc.
Ngoài việc trì tụng thần chú thì mỗi khi có dịp Thương Đình đều cố gắng đóng góp cho việc từ thiện.
Năm 37 tuổi, tàu cá của Thương Đình hạ neo ở Hawai vài ngày trước khi dời đến đảo Guam. Đêm hôm đó, Thương Đình bị đau bụng dữ dội. Thương Đình được đưa đi cấp cứu ngay lập tức. Các bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm đại tràng cấp và cần mổ gấp. Vì vậy Thương Đình phải nằm lại bệnh viện vài ngày. Tất nhiên, theo lịch trình đã định, tàu nhổ neo đến Guam mà không có Thương Đình.
Nào ngờ, con tàu bị đắm vì gặp bão trên đường đến Guam, không một ai sống sót. Con tàu mất tích không còn một dấu vết. Đội cứu nạn đã nỗ lực tìm kiếm với nhiều trực thăng và tàu thuyền nhưng họ cũng không tìm thấy một ai, như thế toàn bộ thủy thủ đoàn đã biến mất vào trong không khí.
Nhờ ở lại Hawai vì viêm đại tràng, Thương Đình trở thành người sống sót duy nhất của tấn bi kịch.
Thương Đình sau đó về Hong Kong và gặp lại ông thầy bói. “ Thầy phán trật lất rồi”. Ông thầy bói sửng sốt và thốt lên “Làm sao mà??” Tôi niệm chú Bạch Y Quan Thế Âm .. vậy thôi”. Thương Đình đáp. “Thần chú quả là nhiệm màu, tôi cũng phải trì chú này mới được”. Ông thầy bói nói. Từ đó Thương Đình có đức tin sâu sắc với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát và hiểu rằng Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát sẵn sàng đáp lại khẩn cầu của tất cả chúng sinh. Thương Đình hiểu, chỉ khi có niềm tin sâu sắc và chân thành vào Bồ Tát thì phép màu mới xuất hiện. Không lâu sau đó Thương Đình quy y Chân Phật Tông.
Thương Đình cũng rất xót thương cho thủy thủ đoàn tử nạn trên biển. Anh quyết tâm trì thần chú Bạch Y Quan Thế Âm một trăm hai mươi nghìn lần rồi hồi hướng cho vong linh của họ. Sau khi hoàn thành, Thương Đình đã mơ thấy 50 con chim trắng tạo thành một vòng tròn, bay quanh con tàu đắm. Đàn chim như muốn nói lời cảm tạ và lần lượt từng con một bay đi. Khi tỉnh dậy, Thương Đình biết rằng linh hồn của thủy thủ đoàn đã được siêu thoát nhờ Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát.
Khen thay cho người biết tụng niệm siêng năng
Bạch Y Quan Thế Âm đã hiển linh báo mộng
Những vong linh oan khuất không nơi nương tựa
Đã được cứu rỗi nhờ tình bạn chân thành (Dịch không chính xác)
Lư Thắng Ngạn Văn Tập - Sự Linh Ứng Của Thần Chú.
(Liên Hoa Thái Dương dịch.)
Om Guru Lian Sheng Siddhi Hum _()_
The Mantra of the White Robed Kuan Yin Bodhisattva
Homage to the All Compassionate and All Merciful Kuan Yin Bodhisattva (3 times).
Homage to the Buddhas.
Homage to the Dharma.
Homage to the Sangha.
Homage to Kuan Yin Bodhisattva, the Great Compassionate One.
Tadyata Om Garavata Garavata Gahavata Ragavata Ragavata Svaha.
Summon the Gods in Heaven,
Summon the Gods on Earth,
Deliver us from all disasters.
Remove us from all evils.
Reduce all disasters to nothingness.
Namo Maha-prajna-paramita
https://www.facebook.com/chanphatmat...1500268071450/
Giêsu (chữ Nôm: 羝蘇; có thể viết khác là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô, Da-tô[5]), cũng được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc, là một nhà thuyết giáo đã sáng lập và lãnh đạo Kitô giáo vào thế kỉ thứ 1.
gia tô
V
Tra Hán ViệtTra NômTra Pinyin
Có 2 kết quả:
耶稣 gia tô • 耶穌 gia tô
1/2
耶稣
gia tô
giản thể
Từ điển phổ thông
Jésus, đạo Thiên Chúa
Việc tôi tu tập ―Đạo pháp‖ là chuyện bí mật, không có
ai biết cả, tất nhiên là cả đồng nghiệp và người nhà đều không biết, đây chính là lời dặn của Tam
Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, chỉ đặt một cái Pháp hiệu cho tôi là ―Liên Sinh‖.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf
Trước đây khi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh truyền thụ pháp bốc quẻ cho tác giả, trước tiên rửa
tay sạch sẽ thắp nhang, sau đó niệm ―bái thỉnh Bát quái tổ sư gia, Phục Hy, Văn Vương, Chu
công, Khổng tử, Ngũ đại thánh hiền, Quỷ cốc tiên sư, Bài quẻ đồng tử, Thành quẻ lang quân,
đệ tử Tam Thanh giáo là Liên sinh, hôm nay phụng Tiên Thiên Vô Cực Chánh Pháp cung thỉnh,
bẩm truyền Trực Nhật công tào cùng tất cả các thần tiên trong không trung, do gặp chuyện
chưa thể quyết được, nay kính cẩn lòng thành xin bốc một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ,
cầu xin linh đoán cát hung họa phước.‖ Dùng ba đồng tiền đặt trong hộp quẻ, lần lượt tung lên
không trung, mặt chính là dương, mặt trái thì là âm, trước tiên cầu hạ quẻ, tiếp đó cầu thượng
quẻ, thượng hạ hợp lại thì sẽ được một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf
Trước đây khi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh truyền thụ pháp bốc quẻ cho tác giả, trước tiên rửa
tay sạch sẽ thắp nhang, sau đó niệm ―bái thỉnh Bát quái tổ sư gia, Phục Hy, Văn Vương, Chu
công, Khổng tử, Ngũ đại thánh hiền, Quỷ cốc tiên sư, Bài quẻ đồng tử, Thành quẻ lang quân,
đệ tử Tam Thanh giáo là Liên sinh, hôm nay phụng Tiên Thiên Vô Cực Chánh Pháp cung thỉnh,
bẩm truyền Trực Nhật công tào cùng tất cả các thần tiên trong không trung, do gặp chuyện
chưa thể quyết được, nay kính cẩn lòng thành xin bốc một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ,
cầu xin linh đoán cát hung họa phước.‖ Dùng ba đồng tiền đặt trong hộp quẻ, lần lượt tung lên
không trung, mặt chính là dương, mặt trái thì là âm, trước tiên cầu hạ quẻ, tiếp đó cầu thượng
quẻ, thượng hạ hợp lại thì sẽ được một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ.
Cách bói bằng quẻ gạo thì càng đơn giản hơn, đặt một mâm gạo trước mặt Phật, đốt nhang cầu
nguyện, dùng hai đầu ngón tay gắp lấy gạo nếu như lấy được một hạt thì tức là quẻ Càn, bốc
được 3 hạt tức là quẻ Li, nếu vượt qua 8 hạt, chẳng hạn như là 10 hạt thì lấy trừ cho 8 còn 2,
tức là Đoài. Bốc xong lần thứ nhất thì bốc tiếp lần thứ hai, nếu vượt quá 8 hạt thì lại trừ cho 8,
lần thứ hai nếu như bốc được 5 hạt tức là quẻ Tốn, rồi sau đó thượng hạ đảo lại, giả định như là
lần thứ nhất bốc được 3 hạt, lần thứ hai bốc được 5 hạt thì sẽ trở thành ―quẻ Phong Hỏa gia
nhân‖.
Ngoài ra còn có quẻ cờ, có thể sử dụng cờ tướng hay cờ vây đều được, cách bốc quẻ so với bốc
quẻ gạo cũng không có khác biệt nhiều, điểm bất đồng lớn nhất của quẻ cờ là ở cờ tướng, khi
lấy cờ tướng ra thì phải căn cứ theo tướng sĩ tượng, xe pháo mã tốt để từ đó suy đoán sự nghiệp,
thành bại cát hung. Hiện nay tác giả còn học biết được bốc quẻ đá, quẻ hoa, quẻ sao, bói mộng,
đoán chữ v.v…. Tất cả những quẻ bói bên trên và cách bốc quẻ đều là một phần của linh học,
gọi là ―chiêm‖, tức là mời những thần linh ẩn thân trong thế giới hư không đến thi triển pháp
lực vô hình, mượn linh cơ nhất điểm để suy đoán tiền đồ trong tương lai, diễn thuật của Bát
quái chính là diệu thuật thượng thừa trong Kinh Dịch, thực sự có khả năng suy đoán được
những chuyện trong tương lai, không thể nào xem thường được!
Bất luận là bốc quẻ, bói gạo, bói cờ ... đều cần phải lưu ý một vài điều như sau:
Thứ nhất, chọn lựa thời gian. Tác giả biết rất rõ thời khắc lúc cả trời đất đều thanh tịnh, không
phải vào lúc giữa trưa, cũng chẳng phải vào giờ Tý nửa đêm mà chính là vào lúc sáng sớm
khoảng 4h sáng, lúc này tất cả đều đang chìm trong giấc ngủ say. Những khí ô trọc suốt cả
ngày náo động kia vào lúc này đây cũng đã lắng hạ xuống, đến 6h sáng thì phụ nữ trong nhà đã
thức dậy nhuốm lửa nấu cháo rồi, khí tanh tưởi kia lại tràn ngập lại trong bầu không khí! Vì thế
nhà Phật tụng niệm Lăng Nghiêm kinh đều là vào lúc 4h sáng, 4h sáng sớm này chính là thời
khắc tốt nhất để bốc quẻ, là thời khắc cả trời đất đều thanh tịnh, vạn động đều ngừng lại, chỉ
còn có ánh sao le lói. Lúc này người bốc quẻ thượng thể thiên tâm, trút hết tất cả các nghi sự
trong lòng ra, linh cơ nhất động, vạn pháp quy tâm, cát hung suy đoán, muốn biết được chuyện
trên trời dưới đất thì há có khó khăn gì chứ.
Thứ ba, phải lựa chọn địa điểm. Địa điểm bốc quẻ, tốt nhất là ở ngoài trời, nếu trong nhà thì ở
phía trước bàn thờ là tốt nhất, nếu như không có bàn thờ thì ở trong thư phòng đối diện với cửa
sổ bên ngoài cũng được, tuyệt đối không được ở trong phòng ngủ, nhà ăn, nhà vệ sinh.
Thứ tư, về phương diện trình bày. Có một cặp nến, gió lớn cũng không bị tắt; trà thơm chuẩn bị
3 chung, lư hương, tam quả hay ngũ quả đều được, hộp quẻ …
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf
Vô Cực Dao Trì Thánh Mẫu Thiên Tôn
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf