-
Trong Phật giáo sơ kỳ, danh từ Độc giác nhằm chỉ cho những bậc ẩn sĩ có nội chứng như các vị Mâu-ni (Muni), Đạo sĩ (Isi) hay Sa-môn (Śramaṇa)[156], và không khu biệt rạch ròi về phẩm vị giác ngộ. Chính vì vậy đã có những trường hợp, tuy được tôn xưng là Độc giác trong Phật giáo, nhưng cũng được xưng tụng là Thánh giả (Tīrthaṅkara. Sanskrit: तीर्थंकर) trong tôn giáo Kỳ-na[157]. Ở giai đoạn phát triển về sau, quả vị Độc giác được kinh, luật Phật giáo xác tín là một vị thánh giả A-la-hán.
https://thuvienhoasen.org/a27527/ngh...inh-dang-quang
-
Úm thủy bà thủy bà dạ thủy bà sa bà ha
-
-
Những thứ hoàn bảo
66 (organic), vệ sinh ở Mỹ chưa chắc đã làm cho
người ta như ý, nói chung phải luôn luôn cẩn thận
66 Hoàn bảo nghĩa là “bảo vệ môi trường”. Ở Mỹ, những thứ trái cây không dùng
phân bón hóa học được gọi là organic cũng nhằm mục đích giảm bớt ô nhiễm môi
trường, bảo vệ người dùng tránh ô nhiễm vì phân bón, các chất kích thích sinh
trưởng hoặc thuốc sát trùng.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI170.pdf
-
Thích là thiên vương Đế Thích, chúng ta thường gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế, các tôn giáo ngoại quốc gọi là Thượng Đế, Thiên Chủ,
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI170.pdf
-
TÁM ĐIỀU CẤM KỴ TRONG NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TRUNG QUỐC
THÁNG HAI 15, 2010 QIAOSUYUAN ĐỂ LẠI PHẢN HỒI
Người dânTrung Quốc không chỉ tự hào về lịch sử văn hóa lâu đời mấy nghìn năm của nước nhà mà họ còn tự hào về cách nói chuyện luôn chứa đựng những ngụ ý sâu sắc của mình .Thời xưa con người đã rất coi trọng “敬天,敬地“ tức “Kính Thiên ,Kính Địa ” do đó trong dân gian đã lưu truyền không ít những điều kiêng kỵ, đặc biệt trong những ngày lễ tết không ít người trong chúng ta đã từng được nghe ông bà, cha mẹ nhắc nhở phải kiêng cái này kiêng cái kia để năm mới sẽ gặp nhiều vận may.
Người Trung Quốc đón năm mới theo lịch âm từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 5 âm lịch ,nhưng thông thường không khí tết chỉ lắng xuống sau ngày 15 âm lịch (tức tết Nguyên Tiêu).
Sau đây là 8 điều cấm kỵ trong ngày tết cổ truyền của người dân Trung Quốc :
1) Không được quát mắng trẻ con: Vì người xưa cho rằng trẻ con nếu bị mắng trong ngày mùng 1 tết thì cả năm đó đứa trẻ sẽ luôn phải chịu nghe người khác chê trách, chửi mắng. Do đó người lớn không nên nói thô tục, nặng lời với trẻ nhỏ trong những ngày này. Ở một vài vùng khi trẻ con nhỡ mồm văng tục thì người lớn phải lập tức nói 孩童之言,百无禁忌 (lời nói con nít, bỏ qua đi), hoặc khi không cẩn thận làm vỡ đồ trong ngày mùng 1 tết thì phải lập tức nói 打发打发 (nghĩa đen là: xua đi xua đi ),vì 打发 trong tiếng trung được phát âm là ” da fa ” khi đọc ngược lại hai từ này sẽ thành “fa da” mà “发达“ (tức phát đạt) trong tiếng trung cũng có cách phát âm là “fa da “, do đó nói “打发打发” nhằm ngụ ý cầu cho năm mới sẽ phát tài phát lộc.
2) Cấm quét nhà, cấm đổ rác trong mấy ngày lễ tết: Trước năm mới người dân thường làm một mâm cơm để cúng “灶王爷” tức “Ông Táo Quân”. Sau khi đã tiễn Ông Táo về chầu trời thì người phụ nữ trong gia đình phải quyet dọn bàn thờ, thay chân hương, hóa vàng, quét dọn nhà cửa …gọi là ” 扫扬尖“ tức loại bỏ cái cũ đón cái mới. Sau đó từ sáng mùng 1 đến mùng 5 tết thì kiêng quét nhà, hốt rác và đặc biệt cấm đổ rác ra khỏi cửa, nhằm ngụ ý giữ tài lộc lại trong nhà.
3) Ngày mùng 1, 2 tết cấm giặt quần áo: Vì ngày sinh của thần Thủy là ngày 1,2 tết do đó lên tránh giặt quần áo trong hai ngày này.
4) Ngày mùng 1 tết kiêng đánh thức người khác thức dậy: Vì người xưa cho rằng nếu ai đó bị giục thức dậy vào sáng mùng 1 tết thì cả năm đó luôn phải chịu sự thúc giục của người khác trong công việc.
5) Phụ nữ đã có chồng kiêng về nhà ngoại vào ngày mùng 1, 4, 5 tết: Trong những ngày lễ tết con gái và con rể chỉ nên về nhà ngoại vào mùng 2,3 tết vì như vậy mới tránh cho nhà ngoại thoát khỏi cảnh đói nghèo.
6) Tránh chúc tết với người đang ngủ: Ngày mùng 1 tết nên tránh chúc tết với người đang ngủ,phải đợi đến khi đối phương ngủ dậy mới được chúc, không sẽ trù ếm đối phương cả năm phải nằm trên giường bệnh.
7) Cấm ăn đầu cá, đuôi cá: Trong mấy ngày tết cá là thức ăn bắt buộc phải có ,vì trong tiếng Hán “cá” đọc là “yu”, mà “余”(tức:Dư, chỉ sự dư thừa) cũng có cách phát âm la “yu”. Khi ăn cá, tránh ăn đuôi cá, ngụ ý năm mới không chỉ đủ ăn đủ mặc mà còn có của cải dư thừa.
8 ) Tránh đòi nợ: Người xưa cho rằng, trong những ngày đầu năm mới không chỉ người bị đòi nợ mà ngay cả người đòi nợ sẽ đều gặp đen đủi vào năm tới, do đó thường kiêng kỵ đòi nợ trong những ngày này.
Các vùng khác nhau thường mang những tập tục và những điều kiêng kỵ khác nhau, đây là một trong những sự khác biệt rất ý nghĩa và cũng là một trong những nét đẹp riêng của nền văn hóa lâu đời Trung Quốc, đáng được lưu truyền .
Kiều Tố Uyên
SHARE THIS:
https://dotchuoinon.com/2010/02/15/t...-qu%E1%BB%91c/
-
-
PHÚC ĐỨC CHÂN TIÊN
福德真仙
Tác giả: Vân Phong
Tình trạng: Hoàn
Thể loại: Hồng hoang phong thần
https://truyencv.com/phuc-duc-chan-tien/chuong-1/
-
Bài thơ "Quan thư" trong Kinh Thi
4/3/2012 0 Comments
BÀI THƠ “QUAN THƯ TRONG KINH THI
* HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
• Nguyên tác: * Dịch âm
關雎 QUAN THƯ
關 關 雎 鳩, Quan quan thư cưu
在 河 之 洲。 Tại hà chi châu.
窈 窕 淑 女, Yểu điệu thục nữ,
君 子 好 逑。 Quân tử hảo cầu
參 差 荇 菜, Sâm si hạnh thái,
左 右 流 之。 Tả hữu lưu chi
窈 窕 淑 女, Yểu điệu thục nữ,
寤 寐 求 之。 Ngụ mị cầu chi.
求 之 不 得, Cầu chi bất đắc,
寤 寐 思 服。 Ngụ mị tư phục
悠 哉 悠 哉。 Du tai! du tai!
輾 轉 反 側。 Triển chuyển phản trắc.
參 差 荇 菜, Sâm si hạnh thái,
左 右 採 之。 Tả hữu thái chi
窈 窕 淑 女, Yểu điệu thục nữ,
琴 瑟 友 之。 Cầm sắt hữu chi
參 差 荇 菜, Sâm si hạnh thái
左 右 芼 之。 Tả hữu mạo chi
窈 窕 淑 女。 Yểu điệu thục nữ.
鐘 鼓 樂 之。 Chung cổ lạc chi
*Khuyết danh
*Dịch nghĩa:
. QUAN THƯ (1)
(CHIM THƯ KÊU)
I) Chim Thư cưu cất tiếng kêu quan quan (2)
Ở trên cồn bãi sông.
Như người con gái hiền thục dịu dàng
Sánh đẹp đôi cùng người quân tử.
II) Rau hạnh mọc so le um tùm
Cả bờ trái bờ phải theo dòng nước chảy
Người con gái hiền thục dịu dàng
Ta thức ngủ đều mơ tưởng đến nàng
Mơ tưởng đến nàng mà không được gặp
Thức ngủ đều mong nhớ
Ôi ! Triền miên! Triền miên!
Để ta luôn trằn trọc trăn trở.
III) Rau hạnh mọc so le um tùm
Hái bên trái rồi hái bên phải
Người con gái hiền thục dịu dàng
Ta ước mong được cùng nàng kết duyên cầm sắt (3)
Rau hạnh mọc so le um tùm
Chọn hái cả bên trái rồi bên phải
Người con gái hiền thục dịu dàng
Ta muốn giúp cho nàng vui bằng tiếng chuông trống
*Dịch thơ:
QUAN THƯ...
(Chim thư kêu...)
I) Chim thư cưu họa tiếng
Hót trên cồn bãi sông
Như cô gái dịu hiền
Sánh đẹp đôi quân tử
II) Rau hạnh mọc lô nhô
Ven theo dòng phải trái
Người con gái dịu hiền
Thức ngủ ta mơ mãi
Mơ nàng chưa được gặp
Thức ngủ đều nhớ mong
Ôi! Nỗi nhớ triền miên
Cứ bâng khuâng trằn trọc.
III) Rau hạnh mọc lô nhô
Trái phải trông nàng hái
Người con gái dịu hiền
Ta ước duyên cầm sắt.
Rau hạnh mọc lô nhô
Trái phải gom từng cọng
Người con gái dịu hiền
Xin chào vui chuông trống.
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Chú thích:
(1)Quan thư: Tên đề bài thơ. Những bài thơ trong Kinh Thi hầu hết đều không có đầu đề nên người biên soạn thường lấy một hai từ đầu của bài thơ để đặt tên đề cho dễ nhớ. Riêng ở đây từ “quan thư” có thể hiểu là tiếng “chim thư kêu”.
Bài “quan thư” là bài tình ca mở đầu ở phần Quốc phong (thiên Châu Nam) và cũng là mở đầu cho toàn bộ quyển Kinh Thi. (Kinh Thi là một tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc được sáng tác khoảng từ đầu thời Tây Chu đến cuối thời Xuân Thu.Hiện nay nó còn 311 bài thơ, chia làm 3 bộ phận lớn là Phong, Nhã, Tụng.). Như vậy, bài thơ “quan thư” này đã xuất hiện hơn 2600 năm, nó đã đi vào lòng người và còn tồn tại đến hôm nay mặc dù Kinh Thi đã từng bị Tần Thủy hoàng cho đốt sạch. Thế mới biết sự tồn tại của bài thơ hay còn bền bỉ hơn cả những tòa lâu đài cung điện đã từng có ở trên mặt đất.
http://thohoangnguyenchuong.weebly.c...63926_orig.jpg
Đọan đầu Kinh Thi trên trúc (ảnh Internet)
(2) Quan quan: Theo chú giải của Chu Hy (đời Tống): Quan quan là tiếng chim trống và chim mái ứng họa nhau.Như vậy đây là từ tượng thanh nếu đọc theo âm bạch thoại là “Kwuan kwuan” vì “quan quan” chỉ là âm Hán Việt.
(3)Thư cưu: Cũng theo Chu Hy : thư cưu là loài chim nước, loài chim này còn có một tên khác nữa là “vương thư”, hình dạng giống như chim phù y, chúng thường xuất hiện ở khoảng sôngTrường giang và sông Hoài. Chim này sống có đôi nhất định, người ta chưa hề thấy chúng sống lẻ loi hay sống dư cặp. Chúng thường lội chung, tình ý đậm đà nhưng không hề lả lơi.(Lược trích chú giải của Chu Hy)
(3) Thục nữ, quân tử: Theo ý của Khuông Hành (đời Hán) và sách của Mao công ( đời Hán) thì cho thục nữ (người con gái hiền lành) là bà Thái Tự (Hậu phi của Chu Văn vương), lúc bà còn thôn nữ. Còn quân tử (người có tài đức nhân cách hơn người) là vua Văn vương. Quan niệm này đã bị giới phê bình ngày nay bác bỏ. Bỡi vì đây là bài dân ca mang tình điệu chất phác thật thà đã xuất phát từ giới bình dân, nói lên tình cảm đơn phương của chàng trai với cô gái hái rau. Nó không hề dính dáng gì đến chuyện của phi tần vương đế.
(4) Hạnh thái: Rau hạnh. Theo Chu Hy nó còn có tên là rau tiếp dư, rễ mọc ở đáy nước, lá màu đỏ tía hình tròn, đường kính hơn một tấc, nổi trên mặt nước. Rau này mọc ven theo hai bên bờ trái phải dưới dòng sông .
(4) Cầm sắt: Đàn cầm (Có 5 dây) vả đàn sắt (có 25 dây).Là hai loại đàn cổ thường dùng hòa âm với nhau. Cầm sắt mang biểu tượng chỉ tình vợ chồng hòa hợp .
Bỡi vậy, câu "cầm sắt hữu chi” nếu hiểu là đem đàn cầm, đàn sắt ra để đánh cho người thiếu nữ nghe thì không hợp lý mà nó chỉ có nghĩa là chàng trai mơ ước muốn được cùng thiếu nữ hái rau sánh duyên cầm sắt (duyên chồng vợ) mà thôi.
Cũng do cách lý giải của Chu Hy và các người thời trước mà ta lại thấy có những ý như "u nhàn thục nữ, hoăc cảnh vua cho người hái rau về nấu chín rau rồi bày hai bên..." chứ thực ra trong nguyên tác không hề có những ý này.
http://thohoangnguyenchuong.weebly.c...914629.jpg?556
Ngự bút bài thơ Quan thư (Chu Nam) của vua Thanh Càn Long
và bức tranh minh họa
*Giới thiệu một số bản dịch khác:
1)Bản dịch của Tản Đà
Thư cưu kêu quan quan
Quan quan cái con thư cưu,
Con sống con mái cùng nhau bãi ngoài.
Dịu dàng thục nữ như ai,
Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng.
Muốn ăn rau hạnh theo dòng,
Muốn cô thục nữ mơ mòng được đâu.
Nhớ cô dằng dặc cơn sầu,
Cho ta dằn dọc dễ hầu ngủ yên.
Muốn ăn rau hạnh hái về,
Muốn cô thục nữ nay về cùng ta.
Tiếng chuông tiếng trống vui hòa,
Tiếng cầm tiếng sắt mặn mà yêu đương.
2) Bản dịch của Tạ Quang Phát: (Tác giả đã dịch Kinh Thi thời nay)
+ Quan thư 1:
Quan quan kìa tiếng thư cưu
Bên cồn hót họa cùng nhau vang dầy
U nhàn thục nữ thế này
Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.
*Người dịch: Tạ Quang Phát
+Quan thư 2:
So le rau hạnh lơ thơ
Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên
U nhàn thục nữ chính chuyên
Nhớ khi thức ngủ triền miên chẳng rời
Nếu cầu mà chẳng được người
Khi mơ khi tỉnh bồi hồi nhớ thương
Xa xôi trông nhớ đêm trường
Chiếc thân trằn trọc trên giường nào yên.
*Người dịch: Tạ Quang Phát
+Quan thư 3:
Vắn dài rau hạnh bên sông,
Kiếm tìm mà hái theo dòng đôi bên.
Được người thục nữ chính chuyên,
Mến nàng, cầm sắt đánh lên vang dầy.
Bên sông rau hạnh vắn dài,
Đem về nấu chín mà bầy hai bên.
Được người thục nữ chính chuyên,
Để nàng vui thích, vang rền trống chuông.
*Người dịch: Tạ Quang Phát
3) Bản dịch chưa rõ tên tác giả:
Quan quan kìa tiếng thư cưu
Đôi chim hót họa bãi sau sông Hà
Nết na cô gái mặn mà
Cùng chàng quân tử thật là xứng đôi
So le rau hạnh ngắn dài
Cô em ngắt hái ngọn ngòai ngọn trong
Yêu nàng anh những ước mong
Cầu mà chẳng được anh trông đêm ngày
Chao ôi là cái đêm dài
Băn khoăn trằn trọc thức hòai nhớ em
So le rau hạnh mọc xen,
Cô em ngắt hái đôi bên nhịp nhàng,
Nết na cô gái dịu dàng
Ước ao cầm sắt cùng nàng hợp duyên
So le rau hạnh mọc xen,
Cô em ngắt hái đôi bên nhịp nhàng
Nết na cô gái dịu dàng
Ước ao chuông trống cùng nàng hòa vui
(Chưa tìm ra tên tấc giả đã dịch)
http://thohoangnguyenchuong.weebly.c...-th-1_orig.jpg
http://thohoangnguyenchuong.weebly.c...trong-kinh-thi
-
[tắt]
Xin hãy giúp xây dựng dự án này!
Câu đối liên quan đến Phật giáo
Bộ sưu tập danh ngôn mở Wikiquote
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Mục lục
1 Câu đối về Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát
2 Những câu đối Phật Pháp sử dụng trong mùa Vu Lan rằm tháng 7
3 Câu đối sử dụng chung ở các chùa chiền chưa rõ xuất xứ
4 Những câu đối của Sơn Tăng Như Tùng (1900 - 1945)
5 Những câu đối liên quan đến THIỀN SƯ THÍCH MẬT KHẾ (1904 - 1935)
6 Những câu đối của Hoà Thượng Thích Thiện Siêu (1921 - 2001)
6.1 Những câu đối chữ Nho
6.2 Những câu đối chữ Nôm
7 Những câu đối của Sư Ông Làng Mai
8 Những câu đối đề tại Tu Viện Quảng Đức - Melbourne - Australia
Câu đối về Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát[sửa]
Nam Hải Cổ Phật, người đời đều gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài tay cầm tịnh bình cắm cành dương liễu; Quán Thế Âm Truyền ghi chép rằng: Trường Mi trưởng lão tặng chiếc bạch ngọc tịnh bình cho Diệu Thiện Đại Sư và nói rằng: “ khi nhìn thấy trong tịnh bình sinh ra nước, trong nước mọc ra cành dương liễu, đấy chính là ngày mà ngài đắc đạo đấy ”. Từ đấy con người ta có thể hội ra rằng muốn khiến cho tịnh bình sinh ra nước thì nhất định cần phải mở nút tịnh bình ra, ý này tức là một chỉ điểm của Minh Sư mở ra huyền quan khiếu. Ở hai bên của tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát thông thường có viết một bức câu đối như sau :
紫竹林中觀自在 Tử trúc lâm trung Quán Tự Tại
白蓮座上現如來 Bạch liên tòa thượng hiện Như Lai
Tạm dịch :
Trong rừng trúc tía có vị Bồ Tát Quán Tự Tại
Trên tòa sen trắng hiện vị Phật Như Lai
Ý nghĩa của câu đối này : Tử trúc lâm là hình dung lông mày của con người. “ Tử trúc ” là một loại trúc rất mỏng mảnh, rất đẹp. “ Lâm 「林」” : không nhiều cũng không ít gọi là lâm, nếu như rất ít chỉ có một cây thì gọi là mộc 「木」, rất nhiều thì gọi là sâm 「森」. Bởi vì lông mày của chúng ta rất chỉnh tề, rất đẹp, vả lại chẳng nhiều cũng chẳng ít, từ nhỏ cho đến lúc già thay đổi cũng chẳng lớn, chẳng nhiều và sẽ mọc dài như là tóc, do đó tử trúc lâm là dùng để hình dung lông mày. Quán tự tại : Quán là quán xem; Tự (自) là một điểm chơn nhân trong mắt (目); Tại (在) là một người ở chỗ của Trung Ương Mậu Kỉ Thổ ( 一人土) , Quán Tự Tại cũng chính là đi hồi quang phản chiếu chỗ mà Minh Sư đã chỉ điểm cho. “ Quán Tự Tại ” là Vị Quán Thế Âm Bồ Tát ở chính giữa mà Thiện Tài Long Nữ triều bái. Điều mà Thiện Tài Long Nữ chỉ chính là hai con mắt của chúng ta – một âm, một dương, quy y Quán Thế Âm Bồ Tát; hai con mắt của chúng ta cũng giống như là một trong lục tặc ( 6 tên trộm ), cần phải thông qua việc cầu đạo tu tâm mới có thể nghe lệnh của tự tánh lương tâm, mới có thể lúc nào cũng dựa vào lương tâm để làm việc, đấy chính là Phật rồi. Vị “ Phật ” này ở đâu vậy ? Đấy là ám thị cho người đời từ trong hình tướng này để đi lãnh ngộ chân lý. Tự tánh của con người chính là ở chỗ …Phải thường dùng hai con mắt đi quán sát triều bái, nhãn thần ngưng tụ ở Chí Thiện Địa nơi linh tánh vào ra, tức là tu tâm đấy. Bạch Liên tòa thượng hiện Như Lai, nghĩa là ở trên mặt nước (口 khẩu – miệng)nổi một đóa hoa sen trắng ( Nhân trung – đại biểu cho cuống hoa sen; đầu mũi giống như cánh hoa ấy chính là tòa sen màu trắng ); mặt nước đại biểu cho môi của con người; đôi môi hợp lại giống như sóng nước vậy, còn miệng thì giống như biển, như cái hố khổ điền ( đắp ) chẳng đầy. Trên tòa hoa sen hiện ra một vị Như Lai – Phật tánh, chính là chỗ Minh Sư đã chỉ điểm. Phật Như Lai 如來 ví như trên mặt của mỗi người đều có một vị Phật. Mặt của con người giống với chữ Lai 「來」( = 十 人人人). Một nhân 人lớn chính giữa của chữ Lai 「來」đại biểu cho phật tánh tự tánh, tức là linh tánh, do vậy tu tâm tu tánh, bản thân tức là Phật, sao có thể hướng ra bên ngoài cầu Phật?
Những câu đối Phật Pháp sử dụng trong mùa Vu Lan rằm tháng 7[sửa]
岂有此理说也不信
真正绝妙到者方知
Khởi hữu thử lý thuyết dã bất tín
Chân chính tuyệt diệu đáo giả phương tri
Nghĩa là:
Há có lẽ này nói không tín
Chân chính tuyệt diệu đến mới hay
一堂佛相闷的闷笑的笑观众生苦多乐
万岁君王忧民忧乐民乐愿四海雨顺风
Nhất đường Phật tương muộn đích muộn tiếu đích tiếu quan chúng sinh khổ đa lạc thiểu
Vạn tuế quân vương ưu dân ưu lạc dân lạc nguyện tứ hải vũ thuận phong điều
Nghĩa là:
Một nhà mặt Phật có vị buồn có vị vui, thấy chúng sinh vui đâu bằng khổ
Muôn tuế quân vương buồn cái buồn của dân, vui niềm vui của dân, cầu bốn biển gió thuận mưa hoà
僧是空道是空芸圃三界更是空是空尚 空世上无非空色相
穷亦活富亦活花甲百歲终亦活亦活怕 活人间哪有活神仙
Tăng thị không đạo thị không vân phố tam giới canh thị không thị không thượng mê không thế thượng vô phi không sắc tương
Cùng diệc hoạt phú diệc hoạt hoa giáp bách tuế chung diệc hoạt diệc hoạt phạ bất hoạt nhân gian ná hữu hoạt thần tiên
Nghĩa là:
Tăng là không, đạo là không bủa vây tam giới cũng là không, là mê cái không trong thế giới không, thế gian không gì là không sắc tướng
Nghèo cũng sống, giàu cũng sống, tuổi đến một trăm cũng phải sống, không có nhân gian sống sao có thần tiên sống
是僧皆佛印
无客不东坡
Thị tăng giai Phật ấn
Vô khách bất đông pha
Nghĩa là:
Tăng kia đều là Phật Ấn
Khách nọ há không phải Đông Pha
无半点良心何须拜佛
有一丝善意也可来朝
Vô bán điểm lương tâm hà tu bái Phật
Hữu nhất ty thiện ý dã khả lai triêu
Nghĩa là:
Không nửa chút lương tâm cần gì bái phật
Có một chút thiện ý cũng được đến chầu
心即佛佛即心须要认清脚跟
色是空空是色莫教妄起念头
Tâm tức Phật Phật tức tâm tu yếu nhận thanh cước cân
Sắc thị không không thị sắc mạc giáo vọng khởi niệm đầu
Nghĩa là:
Tâm là Phật Phật là tâm cần phải nhận rõ chân gót
Sắc là không không là sắc chớ cho vọng niệm khởi đầu
终日解其颐笑世事纷纭曾无了局
经年袒乃腹看胸怀洒落却是上乘
Chung nhật giải kỳ di tiếu thế sự phân vân tằng vô liễu cục
Kinh niên đản nãi phúc khan hung hoài sái lạc khước thị thượng thừa
Nghĩa là:
Ngày ngày má núng nụ cười, cười thế sự rối ren chưa từng kết thúc
Năm năm bụng hở to phềnh, từng câu chữ thế lại thượng thừa
布袋全空容甚物
跏趺半坐笑何人
Bố đại toàn không dung thậm vật
Già phu bán toạ tiếu hà nhân
Nghĩa là:
Túi vải trống không chứa gì vậy
Vắt chân chữ ngũ cười những ai
我何为托号丰干本愿普度众生指引迷 莫上名场夸得意
汝尚可及时忏悔从此皈依三宝波罗般 岂犹苦海叹无边
Ngã hà vi thác hiệu phong can bản nguyện phổ độ chúng sinh chỉ dẫn mê đồ mạc thượng danh trường khoa đắc ý
Nhữ thượng khả cập thời sám thiên hối tòng thử quy y tam bảo ba la ban nhược khởi do khổ hải thán vô biên
问菩萨缘何倒坐
笑世人不肯回头
Vấn bồ tát duyên hà đảo toạ
Tiếu thế nhân bất khẳng hồi đầu
Nghĩa là:
Hỏi bồ tát cớ gì ngồi ngược
Cười thế nhân chẳng chịu hồi đầu
Câu đối sử dụng chung ở các chùa chiền chưa rõ xuất xứ[sửa]
Đức đại yên dân thiên cổ thịnh (Đức lớn giúp dân lưu muôn thuở)
Công cao hộ quốc vạn niên trường (Công cao giữ nước rạng ngàn thu)
Bên hồ dựng chùa thiền, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội
Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa
Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già dựng xây pháp tràng khắp chốn
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi
Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Phật tức tâm, tâm tức Phât, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông
Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần
Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê
Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật linh linh như cảnh sắc
Đài sen vắng lặng, vần mây hiển hiện tường quang
Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê
Gặp cảnh thâm u cỏ nội hoa đồng quên năm tháng
Ở non khoán hoạt, chuông chiều mõ sớm rõ sắc không
Bỏ hết Tham , Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm là thánh tâm
Gặp cảnh u thâm, mõ sớm chuông chiều tiêu lũy kiếp
Ở nơi khoáng đạt, hoa đồng cỏ nội ngộ ba sinh
Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền
Tâm trí tuệ mở bày, vạn kiếp hôn mê liền dứt sạch
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong
Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác
Cửa Phật quảng đại, ra vào tùy duyên
Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mĩm miệng
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần
Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu
Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê
Cửa trai thiền nương tựa chửa bao lâu, dịp dàng như sư dạy, kinh kệ sư rèn, hương thắp đèn khêu khấn nguyện những mong sư mạnh khỏe
Đường xa tịnh độ xa khơi nên phút chốc, chuông trống vãi khua, chùa chiền vãi quét, hoa dâng quả cúng, sớm khuya nỡ để vãi chơ vơ
海到无边天是岸
山登绝顶雪为峰
Hải đáo vô biên thiên thị ngạn
Sơn đăng tuyệt đỉnh tuyết vi phong
(Biển đến không bờ trời thành bến
Núi lên tận đỉnh tuyết thành nóc)
龙藏钵虎参禅野性都从空里化
鹿含花猿献果天机总向偈中生
Long tàng bát hổ tham thiền dã tính đô tòng không lý hoá
Lộc hàm hoa viên hiến quả thiên ky tổng hướng kệ trung sinh
(Rồng ẩn bát, hổ tham thiền, dã tính đều từ không mà hoá
Nai ngậm hoa, vượn dâng quả, thiên cơ sinh tự kệ nhà thiền)
白水秋风此是峨眉胜景
弥勒楼阁俨如兜率道场
Bạch thuỷ thu phong thử thị nga my thắng cảnh
Di lặc lâu các nghiễm như đâu suất đạo trường
(Nước trắng, gió thu đây là Nga My thắng cảnh
Lầu gác Di Lặc, nghiễm nhiên chẳng khác Đâu Suất )
真知出实践
妙理贵躬行
Chân tri xuất thực tiễn
Diệu lý quý cung hành
(Hiểu biết chân thật từ thực tế
Lẽ nhiệm mầu quý tại thực hành)
天空朱霞云中白鹤
山间明月江上清风
Thiên không châu hà vân trung bạch hạc
Sơn gian minh nguyệt giang thượng thanh phong
(Trời rộng ráng hồng trong mây hạc trắng
Núi sâu trăng sáng, gió mát sông trong)
山现莲花峰自然自在
云藏舍利塔如见如来
Sơn hiện liên hoa phong tự nhiên tự tại
Vân tàng xá lợi tháp như kiến như lai
Núi hiện đỉnh hoa sen tự nhiên tự tại
Mây che tháp Xá Lợi như thấy Như Lai
灵山我数阿罗汉
佛海人参大肚僧
Linh sơn ngã sổ A la hán
Phật hải nhân tham Đại đỗ tăng
Linh sơn ta đếm A la hán
Biển Phật người thành đại đỗ tăng
弥勒真弥勒分身千百亿
时时示时人时人自不识
Di lặc chân di lặc phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân thời nhân tự bất thức
Di Lặc thật Di Lặc phân thân thành ức vạn
Thường thường tỏ người thường, người thường chẳng hay
乾坤容我静
名利任人忙
Càn khôn dung ngã tĩnh
Danh lợi nhậm nhân mang
Đất trời cho ta lặng
Danh lợi mặc người say
无住荫慈云葱岭祇竹明法果
真常扬慧日鹫峰鹿苑在当前
Vô trú âm từ vân thông lĩnh kì trúc minh pháp quả
Chân thường dương tuệ nhật thứu phong lộc uyển tại đương tiền
Vô trụ bủa mây từ, núi xanh trúc lạ rõ thêm pháp quả
Chân thường nêu trời tuệ, đỉnh Thứu, vườn Nai tại nhãn tiền
潮汐撼危崖澎渤涛声即是观音示现
海天开净土庄严世界居然正法如来
Triều tịch hám nguy nhai bành bột đào thanh tức thị quan âm thị hiện
Hải thiên khai tịnh thổ trang nghiêm thế giới cư nhiên chính pháp như lai
Thuỷ triều lay vách đá, tiếng sóng dạt dào tức là quan âm thị hiện
Biển trời thành tịnh độ, trang nghiêm thế giới khác nào chính pháp như lai
西方贝叶演真经总不出戒定慧三条法
南海莲华生妙相也自消闻思修一味圆
Tây phương bối diệp diễn chân kinh tổng bất xuất giới định tuệ tam điều pháp luật
Nam hải liên hoa sinh diệu tươngdã tự tiêu văn tư tu nhất vị viên thông
Diễn giải chân kinh lá bối tây phương luôn chẳng vượt ngoài giới đinh tuệ tam vô lậu học
Tướng tốt từ hoa sen nam hải nẩy thành cũng tự tiêu văn tư tu một mạch viên thông
一日两度潮可听其自来自去
千山万重石莫笑他无觉无知
Nhất nhật lưỡng độ triều khả thính kỳ tự lai tự khứ
Thiên sơn vạn trùng thạch mạc tiếu tha vô giác vô tri
Một ngày hai lần thuỷ triều lên xuống, nghe được nó tự đến tự đi
Nghìn núi muôn trùng đá, chớ cười nó vô giác vô tri
三业相应往生有份
六根都摄见佛无难
Tam nghiệp tương ưng vãng sinh hữu phần
Lục căn đô nhiếp kiến Phật vô nan
Ba nghiệp tương ưng vãng sinh có phận
Sáu căn đều giữ, thấy Phật khó đâu
鱼鼓响时打点钵孟问天谁识饭是米做
象龙集处咀嚼菜根有味方知舌在口中
Ngư cổ hưởng thời đả điểm bát mạnh vấn thiên thuỳ thức phạn thị mễ tố
Tượng long tập xứ thư tước thái căn hữu vị phương tri thiệt tại khẩu trung
Chuông mõ khua lên gõ bát hỏi trời cao, ai hay cơm từ gạo chín
Nơi rồng voi hội tụ, nghiền ngẫm cọng rau có vị mới hay lưỡi ở trong mồm
此处既非名山毕竟什么世界
其中如无活佛何用这样庄严
Thử xứ ký phi danh sơn tất cánh thập ma thế giới
Kỳ trung như vô hoạt Phật hà dụng giá dạng trang nghiêm
Nghĩa:
Chốn này vốn chẳng phải danh sơn, rốt cục là thế giới nào vậy
Trong kia nếu không có Phật sống, việc gì phải trang trọng thế kia
过此门不许你七颠八倒
到这里哪管他五眼六通
Quá thử môn bất hứa nhĩ thất điên bát đảo
Đáo giá lý ná quản tha ngũ nhãn lục thông
Nghĩa:
Qua cửa này đây, anh chẳng thể thất điên bát đảo
Đến trong chốn đó, chẳng sợ nó có ngũ nhãn lục thông
大叩大鸣小叩小鸣普觉梦中之梦
一声一佛千声千佛遥闻天外之天
Đại khấu đại minh tiểu khấu tiểu minh phổ giác mộng trung chi mộng
Nhất thanh nhất Phật thiên thanh thiên Phật diêu văn thiên ngoại chi thiên
Nghĩa:
Đánh lớn kêu vang, đánh khẽ không rền thức tỉnh khắp người mộng trong mộng
Một lời một phật, nghìn lời nghìn Phật nghe thông trời ở ngoài trời
手上只一金元你也求他也求未知给谁 好
心中无半点事朝来拜夕来拜究竟为何 由
Thủ thượng chỉ nhất kim nguyên nhĩ dã cầu tha dã cầu vị tri cấp thuỳ thị hảo
Tâm trung vô bán điểm sự triêu lai bái tịch lai bái cứu cánh vi hà lý do
Nghĩa:
Trên tay chỉ một mẫu vàng, nó cũng cầu, anh cũng câu, chẳng hay cho ai mới phải
Trong lòng chẳng bận chút phiền, sớm đến lạy chiều đến lạy, đâu biết rốt cục vì lí do gì
鹫岭拈来有何消息露在一枝引得破颜 叶笑
鸡山胜处岂非形势埒于三尺要将唤醒 人迷
Thứu lĩnh niêm lai hữu hà tiêu tức lộ tại nhất chi dẫn đắc phá nhan Ca Diệp tiếu
Kê sơn thắng xứ khởi phi hình thế liệt vu tam xích yếu tương hoán tỉnh thế nhân mê
Nghĩa:
Có tin gì từ đỉnh núi Thứu, sương điểm trên cành cũng khiến ca diếp mỉm cười
Thắng cảnh Kê sơn há không hình thế, cao ngang ba thước, rồi đây gọi tỉnh thế gian mê
存心能正大光明即不来许个愿磕个头 神自然保护
做事如奸滑阴险也还想消些灾降些福 尔亦太糊涂
Tồn tâm năng chính đại quang minh tức bất lai hứa cá nguyện hạp /khái /khải cá đầu giá thần tự nhiên bảo hộ
Tố sự như gian hoạt âm hiểm dã hoàn tưởng tiêu ta tai giáng /hàng ta phúc khủng nhĩ diệc thái hồ /hỗ đồ
Nghĩa:
Biết giữ lòng chính đại quang minh dù không đến phát nguyện cúi đầu nhưng thần kia tự nhiên che chở
Làm việc cứ gian manh âm hiểm lại muốn tiêu tai giáng phúc e rằng làm thế quá hồ đồ
要虚体面费尽心机何如此地清闲看滚 潮流把古今来治乱兴亡都付与大江东
登最上头放开眼界且向苍天呼吁问泱 祖国积千百载庄严灿烂岂竟随皎日西
Yếu hư thể diện phí tận tâm cơ hà như thử địa thanh nhàn khan cổn cổn triều lưu bả cổ kim lai trị loạn hưng vong đô phó dữ đại giang đông khứ
Đăng tối thượng đầu phóng khai nhãn giới thả hướng thương thiên hô hu vấn ương ương tổ quốc tích thiên bách tải trang nghiêm xán lạn khởi cánh tuỳ hạo nhật tây trầm
Nghĩa:
Cần thể diện hảo huyền mà uổng phí tâm cơ sao bằng chốn đó thanh nhàn xem cuồn cuộn trào lưu, lấy cổ kim trị loạn hưng vong phó mặc cho đại giang xuôi bể
Lên đỉnh tối thượng mở rộng tầm mắt, hướng tới trời xanh mà thở, hỏi mênh mông tổ quốc, chứa nghìn vạn năm trang nghiêm xán lạn há cùng trăng bạc lặng về tây
哼一声诸鬼卒心惊胆战难躲天王宝殿
哈两下众神仙笑逐颜开环瞻佛祖金容
Hanh nhất thanh chư quỷ tốt tâm kinh đảm chiến nan đoá thiên vương bảo điện
Cáp lưỡng hạ chúng thần tiên tiếu trục nhan khai hoàn chiêm Phật tổ kim dung
Nghĩa:
Ho một tiếng lính quỷ hồn xiêu phách tán, khó tránh thiên vương bảo điện
Ngáp hai hơi chúng thần tiền hớn hở vui cười, ngắm quanh Phật tổ kim dung
莫看我庙破神悲不烧香试试
休仗你官大势强作恶事瞧瞧
Mạc khan ngã miếu phá thần bi bất thiêu hương thí thí
Hưu trượng nhĩ quan đại thế cường tác ác sự tiêu
Nghĩa:
Chớ xem miếu ta đổ nát thần sầu cứ không đốt hương xem thử
Đừng cậy quan to thế lớn, thử làm chuyện ác mà coi
亘古迄今谁打破名缰利锁
修行念佛终能脱俗子凡夫
Cắng cổ ngật kim thuỳ đả phá danh cương lợi toả
Tu hành niệm Phật chung năng thoát tục tử phàm phu
Nghĩa:
Tối cổ đến nay mấy ai phá được dây cương bằng danh khoá cùm bằng lợi
Tu hành niệm Phật cuối cùng sẽ thoát được tục tử phàm phu
极乐世界眼前就是须大家领会
菩萨道场心里本有要自己圆通
Cực lạc thế giới nhãn tiền tựu thị tu đại gia lĩnh hội
Bồ tát đạo trường tâm lý bản hữu yếu tự kỷ viên thông
Nghĩa:
Thế giới cực lạc ngay trước mắt mong mọi người lĩnh hội
Tâm đạo tràng bồ tát vốn sẵn nên hãy tự viên thông
深妙圆融笑纳天下事
慈悲大度乐助世间人
Thâm diệu viên dung tiếu nạp thiên hạ sự
Từ bi đại độ lạc trợ thế gian nhân
Nghĩa:
Sâu thẳm nhiệm mầu cười dung chuyện thiên hạ
Từ bi độ lượng vui giúp người thế gian
人类本一群骷髅只缘骷髅玩骷髅玩出 臣父子典章文物
世界乃众生色相太息色相吃色相吃成 诛杀伐因果轮回
Nhân loại bản nhất quần khô lâu chỉ duyên khô lâu ngoạn khô lâu ngoạn xuất quân thần phụ tửđiển chương văn vật
Thế giới nãi chúng sinh sắc tươngthái tức sắc tương ngật sắc tương ngật thành chinh tru sát phạt nhân quả luân hồi
Nghĩa:
Nhân loại vốn là bãi xương khô, chỉ vì xương khô chơi với xương khô làm nên phụ tử quân thần nhạc khúc điển chương văn vật
Thế gian chính là chúng sinh sắc tướng, chính vì sắc tướng ăn sắc tướng làm nên giết chóc chinh phạt nhân quả luân hồi
惟大英雄能觉悟
为诸菩萨振纲常
Duy đại anh hùng năng giác ngộ
Vi chư bồ tát chấn cương thường
Nghĩa:
Bậc đại anh hùng mới giác ngộ
Vì các bồ tát lập cương thường.
法 雨 洒 空 庭 ,恍 惚 螽 聲 皆 說 偈
宗 風 繞 靜 室 , 分 明 燈 影 自 昭 花
Pháp vũ sái không đình, hoảng hốt chung thinh giai thuyết kệ;
Tông phong nhiễu tĩnh thất, phân minh đăng ảnh tự chiêu hoa.
Nghĩa:
Mưa pháp rưới sân trống, mang máng giạt sành đều nói kệ
Gió thiền quanh thất vắng, rõ ràng bóng nến tự in hoa.
寶 山 遍 種 菩 提 壽 ;
覺 苑 常 開 智 慧 花
Bảo sơn biến chủng Bồ đề thọ;
Giác uyển thường khai trí huệ hoa
Nghĩa:
Bảo sơn cây Bồ-đề trồng khắp;
Giác uyển hoa trí huệ trỗ đầy.
兩手把山河大地揑他搓圓灑向空中,毫 無色 相 ;
一口 將 先 天 祖氣 吐 來 嚼 去 呑 在 肚 里, 放 大 光 明
Lưỡng thủ bả sơn hà đại địa, niết tha viên sái hướng không trung, hào vô sắc tướng
Nhất khẩu tương tiên thiên tổ khí, thổ lai tước khứ thôn tại đỗ lý, phóng đại quang minh.
Nghĩa:
Hai tay nắm lấy núi sông đất đai, bóp cho nát vụn, rải vào không trung, không còn mảy may sắc tướng.
Một miệng ngậm lấy Tổ khí tiên thiên, nhai tới nhai lui, nuốt vào trong bụng, phóng ra ánh sáng vô cùng.
Những câu đối của Sơn Tăng Như Tùng (1900 - 1945)[sửa]
Nhà sư có tên là Thông Thi (người Sài Sơn vẫn thường gọi là sư Mậu), hiệu là Như Tùng, người Cổ Nhuề. Năm 1930, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm "Sài Sơn thi lục". Năm 1940, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm "Sài Sơn Từ thần tăng thực lục". Đại đức Thích Minh Đạo cho biết đôi câu đối trước cổng chân nùi lên chùa Đính Sơn (Chùa Cao) Tàc giả chính là Như Tùng:
Đăng cao tự ti nhất bộ tiến nhất bộ.
Vô vãng bất phục cá quan hựu cá quan
Dịch theo "Non nước Chùa Thầy" của H T Thích Viên Thành:
Muốn lên trên cao thì phải đi từ dưới thấp, mỗi bước lại tiến thêm một bước.
Không có sự ra đi nào mà không trở lại, cổng này đến cổng kia.
Câu đối chữ Nôm ở cổng Trắng (đường từ Thụy Khuê vào chùa Bối Am) là của tác giả Như Tùng:
Xây trụ chia non xanh không ba đường ác.
Trồng hoa ngăn bụi đỏ có một cửa từ.
và:
Trời đất đứng riêng quyền khép mở
Nước non ngăn rộng lối tu hành
Cả hai câu đối trên đều được cụ Nguyễn Huy Vỹ, một cụ túc nho làng Thuỵ Khuê cùng Đại đức Hà trực ghi lại.
Theo Thượng tọa Thích Viên Thành và Đại Đức Hà, Nhà sư Như Tùng còn là tác giả của câu đối:
"Thiên địa do y thiên địa cựu
Thảo hoa kim dị thảo hoa tiền"
Như Tùng tự dịch:
"Trời đất vẫn nguyên trời đất cũ
Cỏ hoa nay khác cỏ hoa xưa"
Hiện trong tam bảo có bức đại tự "Thiên Phúc Đính Tự" hai bên có câu đối của cử nhân Hoàng Thúc Hội:
Dục tú chung linh thử hữu sùng sơn đường Thứu Lĩnh
Ly trần nhập giác khả ư nghiệt hải thiếp kình ba
(Núi hun sông đúc nên anh tú, nơi đây có núi cao sánh cùng non Thứu/ Lìa bụi trần vào cõi giác, làm lắng sóng kình trong bể khổ - Thượng Toạ Thích Trường Xuân dịch)
Những câu đối Tết tự vịnh:
Lá phướn phất ngang trời, bốn bể đều trông nêu Phật
Tiếng chuông kêu dậy đất, mười phương cũng tưởng pháo Sư
Mừng xuân hỉ xả thêm công đức
Đón tết từ bi bớt não phiền
Những câu đối liên quan đến THIỀN SƯ THÍCH MẬT KHẾ (1904 - 1935)[sửa]
Thiền Sư Thích Mật Khế họ Lê, quý danh là Chánh. Quê quán làng Thần Phù, xã Thủy Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm Quý Sửu (1913), lên chín tuổi, xuất gia đầu Phật với tổ Giác Tiên, chùa Trúc Lâm, cố đô Huế. Ngài tỏ ra thông minh xuất chúng trước tuổi. Năm Giáp Tý (1924), được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Từ Hiếu (Tổ Tâm Tịnh làm Đàn đầu Hòa thượng). Ngài đỗ thủ khoa vào năm 21 tuổi tròn. Pháp danh: Tâm Địa. Pháp tự: Mật Khế. Thuộc giòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 43. Ngài là vị sư trẻ duy nhất được Giáo hội xây tháp phụng thờ và lo liệu mọi nghi lễ trong lúc nhục thân của ngài chưa nhập tháp. Giáo hội đã tặng câu đối:
Khả hạnh giải, chánh đạo bất chung yên, nguyệt san đề xuất, Phật học liên trường cố đa cô vũ, phông trào vô tận đăng quang tường phúc lãng
Thử nhật tùng tâm, cang phùng khánh tiết, thiên tãi hạ trùng quang Phật nhựt, hồ nhi lạc quốc thốc tiên đăng
Câu đối Nôm của thầy Vân Đàm tặng như sau:
Rừng mai đạp tuyết, cay đắng trải bao phen, cơ hóa độ còn nhiều hy vọng chứa chan, tằm kéo tơ lòng thêu sử Phật
Sàng Trúc trổ hoa, tỉnh mê trong nửa kiếp, tình tương tri quá nặng, sầu trường man mác, quyện rơi giọt lụy gọi hồn thiêng
Những câu đối của Hoà Thượng Thích Thiện Siêu (1921 - 2001)[sửa]
Hoà thượng Thích Thiên Siêu vốn họ Võ, huý Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tự Trí Đức, hiệu Thiện Siêu. Hoà thượng sinh trong một gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài để lại cho hậu thế rất nhiều câu đối, cụ thể như sau:
Những câu đối chữ Nho[sửa]
1 - Câu đối tự vịnh và tự thuật về Phật pháp:
入門宜捨庸常性 Nhập môn nghi xả dung thường tánh (Vào chùa hãy sinh tâm hoan hỷ)
到寺應生歡喜心 Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm (Đến chùa nên bỏ tánh tầm thường)
金相放毫光遍照十方成淨土 Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ (Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh)
山色含歲月圓融三際即禪心 Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm (Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền)
後滄海前碧江水月波光相映月 Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt (Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ)
朝金經募玉偈鼓鐘聲響共遙興 Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng (Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần)
境值幽深野草閑花亡歲月 Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt (Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng)
山居曠闊晨鐘募鼓了色空 Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không (Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không)
慧日高懸普照眾生于覺道 Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo (Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác)
慈風普扇齊資萬類出迷津 Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân (Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê)
拜手炷壇香三千界結祥雲奉獻如來蓮 上 Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng (Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa)
信心持佛號百八聲成正念祈生淨土寶 中 Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung (Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen)
佛不離心動靜隨緣消舊業 Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp (Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ)
志存大道去來無礙悟禪機 Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ (Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền)
智慧心開累劫昏迷從截斷 Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn (Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch)
慈悲念起多生業障自標亡 Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong (Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong)
離四句絕百非自此忘言真有道 Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo (Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo)
旋六根淨三業只於息念證無生 Tồn lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh (Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh)
隨其善願接度為師悅眾心於大道 Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo (Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn)
施無緣慈作不請友破疑網於幽途 Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ (Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê)
法水長流處處潤消枯縱遇石盤不斷曹 甘露脈 Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch (Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ)
慈風普扇時時摧熱惱設遭嵐氣仍會蓮 解脫香 Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương (Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì)
幾度功勳長皓月 Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt (Mấy độ công huân dài trăng sáng)
一生奇氣縱高峰 Nhất sanh kỳ khí túng cao phong (Một đời kỳ khí ngút tận núi cao)
此地有緣藏淨骨 Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt (Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt)
這山得譽遇真人 Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân (Núi này vinh dự gặp chân nhân)
息煩惱而悟菩提翠柳黃花非外境 Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh (Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác)
了妄緣以成般若白雲明月豈他觀 Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan (Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa)
大慈大悲愍眾生應化隨緣身其身而地 地 Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa (Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất)
大喜大捨濟含識威德自在聖中聖而天 天 Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên (Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời)
永棄邪思歸向佛陀增福樂 Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc (Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc)
光含萬像仗憑慧日破瞋癡 Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si (Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si)
理絕兩邊即心即物 Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật (Lý dứt hai bên, là tâm là vật)
道無頓漸非實非權 Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền (Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền)
衛伽藍而清淨 Vệ già lam nhi thanh tịnh (Giúp già lam thành thanh tịnh)
護佛法以長存 Hộ Phật pháp dĩ trường tồn (Hộ Phật pháp được trường tồn)
真俗互融閱第一義 Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa (Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất)
自他兼利入不二門 Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn (Ta người cùng lợi, vào cửa không hai)
寶地莊嚴色香不異 Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị (Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác)
佛門廣大出入隨緣 Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên (Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên)
入此門無貪瞋癡慢 Nhập thử môn vô tham sân si mạn (Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn)
登是地有雄力慈悲 Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi (Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi)
福慧圓修真佛子 Phước tuệ viên tu chơn Phật tử (Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử)
智悲雙運大慈尊 Trí bi song vận đại từ tôn (Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ)
2 - Câu đối viêt tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế:
順覺性以勳修永斷貪瞋癡慢有漏業 Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp (Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn)
化迷投而解脫具足慈悲喜捨無量心 Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm (Diệt cõi mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi)
法本如如迷之者謂色謂聲悟去者非空 有 Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu (Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có)
心常寂寂即乎此為樂為善離乎此是苦 憂 Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu (Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo)
3 - Câu đối viết tại chùa Thiền Tôn và chùa Từ Đàm ở thành phố Huế:
昔日已曾為孝子為明君捨命施身救護 生出迷途苦趣 Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú (Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ)
今生又復棄國城棄珍寶降魔殺賊圓成 果開覺路禪門 Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn (Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền)
視眾生如赤子啟悟除迷悲極三輪廓五 而垂範 Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm (Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép)
睹法界若空花旋根絕相智圓十力陶萬 以嚴規 Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui (Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui)
飯熟已多時指圖見性言下知歸百尺竿 重進步 Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ (Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước)
早知燈是火撥草參懸聲前悟旨一輪明 夜傳衣 Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y (Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y)
般若本無言離四句絕百非應化隨緣說 量無邊妙法 Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp (Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên)
菩提先有願證三明具五眼俱圓福果成 雄大力慈尊 Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn (Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực)
4 - Câu đối viết tặng chùa Bát Nhã - Phú Yên:
梵宇遍莊嚴日放重新境色 Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc (Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc)
蓮臺常燦爛雲開顯現祥光 Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang (Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang)
橋樹陵空七寶莊嚴光佛剎 Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát (Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật)
叢林聳秀四山巒碧映禪關 Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan (Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền)
千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地 Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa (Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác)
三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途 Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ (Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê)
5 - Câu đối viết tặng các thiền tự khác trong cả nước:
金地築叢林孤月光含空即色 Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc (Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc)
山頭興寶剎群巒翠鎖古猶今 Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim (Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim)
Câu đối trên viết tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế - 1968
湖畔起禪關教演真乘一性圓明還本際 Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế (Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội)
山頭開勝會聽來說法深心信樂悟前根 Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn (Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa)
Câu đối trên viết tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984
含龍再午談經扶律出真詮應物曲陳雟 實地 Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa (Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật)
報國重光撥火磨磚傳祖道當機直指不 岐途 Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ (Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia)
Câu đối trên viết cho bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969
謙忍有餘發意圓成三聚戒 Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới (Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới)
智悲無礙終身不退四弘心 Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm (Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm)
Câu đối trên khắc ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế
指圖見性言下知歸誰是竿頭進步 Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ (Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?)
撥草參玄聲前悟旨始能心內承當 Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương (Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương)
Câu đối khắc ở tháp chùa Báo Quốc - Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn - Nha Trang
廣大行發深心撥拓迷雲不倦誨人培佛 Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng (Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng)
究真空研妙旨沖開慧日逢場卓錫振宗 Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong (Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong)
Câu đối trên viết tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế
御嶺清風拂面問誰能作佛 Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật (Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?)
屏前枯木待人知遇為開花 Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa (Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa)
Câu đối trên viết tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình - Huế
即俗而真處處盡成花藏界 Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới (Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới)
背塵合覺心心圓攝大乘門 Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn (Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn)
Câu đối trên viết tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm - Huế
廣開方便門善闡頻伽普建法場于處處 Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ (Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn)
香遍莊嚴土滋陪道樹高標德本於重重 Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng (Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi)
Câu đối trên Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970
背覺合塵夢裡那知身是幻 Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn (Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn)
歸源得旨定中常照佛猶心 Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm (Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Hương Sơn – Huế
寶印宗風只物傳心一句話頭真了悟 Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ (Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ)
淨光高德隨緣化道懸崖散手盡觀通 Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông (Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông)
Câu đối trên viết tặng chùa Bảo Tịnh - Phú Yên
續斷起晨鐘識得殲塵不著眼 Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn (Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt)
榮枯成夢幻覺來世界總唯心 Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm (Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Tây Thiên - Huế
人依法法依人動靜隨緣消舊業 Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp (Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ)
佛即心心即佛古今不二合真宗 Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông (Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông)
Câu đối trên viết tặng cho một số chùa trong Miền Nam
找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客 Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách (Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái)
演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人 Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn (Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê)
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo An Dương - Huế
盡捨貪瞋癡當此土而為淨土 Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ (Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ)
圓修戒定慧即凡心化作聖心 Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm (Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Diên Bình - Quảng Trị
慶值幽深募鼓晨鐘亡累劫 Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp (Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ)
山居曠闊閑花野草了三生 Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh (Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh)
Câu đối trên viết tặng chùa Khánh Sơn - Huế
前錄水後青山梵宇輝煌佛光遍照 Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu (Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu)
募金經朝玉偈塵心滌盡正念分明 Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh (Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh)
Câu đối viết tặng chùa Hải Ấn - Nha Trang
執我執人見色聞聲成過患 Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn (Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi)
修悲修智舉心動念任容通 Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông (Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông)
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng - Huế
反妄歸真一念迴頭即彼岸 Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn (Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác)
尋牛訪跡三關參透入空門 Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn (Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không)
Câu đối trên viết tặng chùa Kim Quang - Huế
法本如如迷之者謂色謂聲悟之者非空 有 Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu (Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có)
心原寂寂即乎此為善為樂離乎此是苦 憂 Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu (Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo)
Câu đối trên viết tặng chùa Bảo Lộc - Lâm Đồng
竹聲松聲鐘磬聲聲聲無礙 Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại (Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại)
山色水色煙霞色色色皆空 Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không (Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không)
Câu đối trên viết tặng chùa sư nữ Diệu Đức – Huế
廣開智慧門聽法聞經名利心從流水去 Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ (Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước)
治平清良地修身行善是非言逐落花殘 Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn (Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn)
Câu đối trên viết tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị
弘施大願玉質降皇宮噴水九龍齊沐浴 Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung, phún thủy cửu long tề mộc dục (Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm)
為度群生金身修雪嶺含花百鳥兢朝參 Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh, hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham (Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu)
Câu đối trên viết tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh
萬法一如即俗即真歸覺道 Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo (Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác)
德同法界談空談有轉迷心 Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm (Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê)
Câu đối trên viết tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh
慈眼觀眾生於智於愚是同一子 Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử (Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả)
宗風成梵宇是空是色入不二門 Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn (Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai)
Câu đối trên viết tặng chùa Từ Tôn - Biên Hoà
道樹花開香滿徑 Đạo thọ hoa khai hương mãn kính (Cây đạo nở hoa đường hương ngập)
叢林月現鳥歸巢 Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào (Rừng thiền trăng sáng tổ chim về)
Câu đối trên viết tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi
參禪修透祖師關文字兮為重在拈花為 Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu (Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng)
妙悟要窮心路絕語言何用全憑扣指三 Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh (Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần)
Câu đối trên viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang - Khánh Hoà
至道不在言詮即俗即真頓悟肯乘當運 梆柴皆妙用 Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng (Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng)
疑情一番勘破非心非物本來真面目磨 豎指總禪機 Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ (Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ)
Câu đối trên viết tặng chùa Thiền Tôn - Huế
入解脫門設斷貪瞋癡慢有漏業 Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp (Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ)
證三寶地常行慈悲喜捨無量心 Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm (Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện)
Câu đối viết tặng chùa Vĩnh Quang
救苦尋聲觀自在 Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại (Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn)
慈悲願力焰然王 Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương (Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi)
Câu đối trên viết tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh
Những câu đối chữ Nôm[sửa]
Những câu đối tức cảnh và tự thuật:
Tánh lặng đất trời chung một cõi
Tâm không trăng gió trải muôn phương
Ngộ thấu nguồn chơn, tâm danh lợi trôi theo dòng nước
Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây
Trừ vọng tưởng, dứt mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác
Hết vô minh, sạch nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê
Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới tắt não phiền chín cõi
Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát-nhã, hiển bày tướng hảo ba thân
Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội
Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây
Tấc cỏ ngậm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo
Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền
Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ
Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi
Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi chạy kiếm
Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết rong tìm
Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo
Cõi Phật chuông đưa vài chập, niệm Nam mô xóa sạch não phiền
Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ
Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời
Mây núi chập chùng, trăng Bát-nhã lồng soi vũ trụ
Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh
Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác
Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ lòng mê
Phật đạo có gì đâu ! thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác
Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát-nhã đón người mê
Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục
Bát-nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn
Đạo Tổ sáng hoài cỏ cây đượm nhuần mưa pháp
Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền
Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác
Trừ không nghiệp chướng, giương cao đèn Tuệ vượt sông mê
Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mê muội
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chiều khua rã mộng ba sinh
Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh
Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã soi cùng vũ trụ
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi dội khắp non sông
Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời Giác ngộ
Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi
Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội
Một hồi chuông, mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân
Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn
Lòng mẹ tìm con xót xa, luân hồi đày đoạ, trần thế mây che, tấc dạ Kiền Liên đau đớn bấy
Ơn Phật nhờ thầy tế độ, pháp chứng vô sanh, Lăng già trăng hé, tấm lòng Bồ-tát nhẹ nhàng thay
Những câu đối viết tặng chùa chiền khác và phúng điếu:
Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân
Câu đối trên viết để phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân – Huế, 1972
Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui
Câu đối trên viết tặng Giảng đường Từ Đàm - Huế'
Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc
Sông mê tát cạn, Niết-bàn an trú vốn không xa
Câu đối trên viết tặng tháp Thượng tọa Thiện Lộc, chùa Thuyền Tôn-Huế
Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi
Câu đối trên viết tặng chùa Kim Quang - Nha Trang
Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã chiếu tan niềm tục
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo Lăng Cô và Tây Lộc – Huế
Mắt Trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục
Tay Từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần
Câu đối trên viết tặng chùa Giác Hải, Nha Trang
Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy, thấy không tùy mắt ngắm
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem
Câu đối viết tặng chùa Thanh Phước - Huế
Tiếng chuông Linh Mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ
Cội cả tòng lâm đà ngả xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ
Câu đối viết phúng điếu Hòa thượng Thích Đôn Hậu
Những câu đối của Sư Ông Làng Mai[sửa]
Tu viện Làng Mai Quốc Tế Thái Lan được Sư Ông thương, đặt nơi đây một Vườn Ươm có cốc tre Nhìn Xa và thiền đường mái lá Trời Phương Ngoại. Đây là nơi đang có hơn 160 quý thầy, quý sư cô chung sống tu học giữa hai xóm Trời Quang và Trăng Tỏ. Mỗi ngày ở đây, đại chúng đang được Sư Bá, quý sư cha, sư mẹ nuôi dưỡng, cùng quý sư anh, sư chị, sư em đang ươm mầm và nuôi lớn sự vững chãi. Nơi đây các sư em như những chồi non bồ đề nhỏ nhất, đông nhất và nhiều người trẻ nhất đang tiếp nhận nguồn năng lượng bình an từ Sư Ông để nuôi lớn hạt giống hiểu thương trong mình và hiến tặng hạnh phúc cho đời mỗi sớm mai. Cánh Đại Bàng đã cất cánh tung bay trên Bầu Trời Phương Ngoại. Làng Mai Quốc Tế Thái Lan là mạch chảy tiếp nối của tăng thân từ Việt Nam ra Châu Á và đi khắp nơi. Sư Ông Làng Mai đã viết rất nhiều câu đối, tiêu biểu sau:
Tinh chuyên soi tỏ sao trên biển
Hào hùng vươn tới sóng chân trời
Trúc tím hoa vàng mắt chánh niệm truyền trao càng ngắm càng nhìn càng hiểu rõ
Thông reo chim hót tai chân tâm tiếp thọ biết nghe biết lắng biết thương sâu
Một lá ngô đồng rơi người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ
Ngàn hoa thuỷ tiên hé đất cứ theo trời hát khúc vô sinh
Qua vườn trúc thôn trên xuống Pháp Thân Tạng hội Thuỷ tiên ngàn tiên hé cánh
Băng đồi Mai xóm dưới qua Tham Vấn Đường ngày thả cá đàn cá tung tăng
Nhìn trúc mộc lên xanh nghe hải triều lên mấy độ
Thấy mai lan nở rộ nguyện phát túc về siêu phương
Tai nạn xưa trút sạch chín xóm rong chơi nghe hải triều sớm tối
Cơ duyên nay dồi dào một nhà xum họp ngắm mây lồng trước sau
Trúc quân tử dù thẳng nhưng mềm mại
Mai thanh tao tuy gầy vẫn kiên cường
Nước bích lắng trong ngàn sông có nước ngàn sông trăng hiện
Non nham tú lệ mỗi lần nhìn lại mỗi lần mới tinh
Trên đài sen trắng Như Lai hiện
Giữa rừng trúc tím Quán Âm ngồi
Suối tuôn róc rách dòng Cam Lộ
Dương reo vi vút Hội Ngàn Sao
Tịnh độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa
Bản môn bây giờ phỉ lòng an trú ta há theo đuổi gì thêm
Hộ trì sáu căn đi đứng nằm ngồi tâm chánh niệm
Trau giồi ba học vào ra cười nói tướng đoan nghiêm
Đầu non trăng chiếu tâm vững chãi
Góc biển mây lòng ý thảnh thơi
Giọt nước thành dòng sông thanh thản người về chơi biển lớn
Bước chân nên cõi tịnh thảnh thơi ta lên dạo đồi cao
Hoa giác ngộ nở khắp trong thiền lâm
Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa
Những câu đối đề tại Tu Viện Quảng Đức - Melbourne - Australia[sửa]
Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, lấy Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner, đây là ngôi Tu Viện Phật Giáo duy nhất trong thành phố Moreland, thuộc vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria. Ngôi Tu Viện do Thượng Tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990, đối diện bàn thờ Tổ là Án thờ hình Bồ Tát Quảng Đức cao 1m20, hai bên có hai câu đối tiếng Việt nói lên ý nghĩa tri ân và báo ân:
Ơn Tam Bảo Sư Môn Phụ Mẫu Trọn Đời Luôn Ghi Nhớ
Nghĩa Chúng Sanh Dân Việt Tổ Quốc Suốt Kiếp Nguyện Đáp Đền
Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến trúc phương Tây, Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne, Úc Châu đã trở thành một trong những danh lam của Phật Giáo Việt Nam ở Hải Ngoại.
Câu đối của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ:
Quảng mạc thiên hoang cố lý, nhi phế hưng cạnh tẩu kinh đào, phiến diệp phù nang, quải nạp đằng la thử ngạn
Đức hành thế khoát tham phương, tỉ triêu lộ hàm huy diệu cảnh, không hoa thủy nguyệt, huyền hà bích lạc thần châu
Dịch nghĩa:
Chốn cũ dặm dài man mác, bởi phế hưng xô dậy sóng cồn, chiếc lá thuyền nan, vá áo chép kinh đất khách.
Đức tu mấy bước mù xa, tợ sương sớm nắng hồng đọng bóng, hoa trời trăng nước, ngân hà dằng dặc quê cha.
Câu đối của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc:
Quảng nhiếp hàm linh chân thật ngữ, chân thật ý, chân thật hành nghi
Đức khai phương tiện như thị văn, như thị tư, như thị tu trì
Nghĩa là:
Quảng phương tiện, khai môn Vô lậu học, Văn – tư – tu chân thật pháp nhiệm mầu
Đức độ sanh, niệm đầu tịnh ba nghiệp, Thân – khẩu – ý ứng hiệp với hành nghi
Câu đối của Hòa Thượng Thích Huyền Tôn:
Quảng đại Tâm, pháp giới tùy duyên quy diệu dụng
Đức lưu Phương, Tăng già nhập thế hiển chơn như
Nghĩa là:
Tâm lớn bao la, cõi pháp giới theo duyên quay về nơi diệu dụng
Đức tỏa muôn phương, bậc Tăng già nhập thế bày tỏ lẽ Chơn Như
Những câu đối do Thượng Tọa Thích Hạnh Niệm gởi từ Chùa Pháp Bảo, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam:
Quảng Đức già lam, khách địa thượng nhị thập niên, khẩn hoang tạo tự, linh Phật đạo, Bồ đề hoằng dương ư Úc quốc
Tứ Ân bảo tháp, ức hoài trung sổ kỷ tải, hiệp lực đồng tâm, sử Lạc Hồng chủng loại, vĩnh ký hướng Nam cương
Nghĩa là:
Quảng Đức tu viện, hai mươi năm trên đất khách, vỡ đất xây chùa, gieo mầm Phật pháp, để hạt giống Bồ đề, khắp lan trời Úc quốc
Tứ Ân bảo tháp, hai bốn tháng với lòng thành, chung tay góp sức, trúc móng tâm linh, cho đồng hương người Việt, luôn nhớ đất Nam ta
Và:
Quảng hoằng đại đạo, tiếp dẫn quần sinh, linh liễu hộ tức tâm thị Phật
Linh liễu thiên nhai, nhuận triêm vạn loại, tỷ hoát khai thị Phật tức tâm
Nghĩa là:
Quảng truyền đại đạo, dẫn dắt chúng sinh, khiến biết rõ tức tâm là Phật
Đức trải khắp trời, thấm nhuần muôn loài, cho thấy liền là Phật tức tâm
Những câu đối của đạo hữu Trần Triệu Khang:
Quảng Ðức Tự, Dấu chân vàng, Phật Ðà ngời ánh đạo
Thuận Duyên Lành, Quy Chánh Pháp, Tăng Chúng Sáng hạnh tu
Và:
Quảng Ðức Tự, ngôi Chùa thiêng, Phật hiển anh linh nơi xứ lạ
Vững Ðạo Tâm, tu Chánh Pháp, Ðạo vàng giải thoát cõi tâm linh
Những câu đối của cố Thượng Tọa Thích Quảng Hiện (1955-2002) đề tặng Tu Viện Quảng Ðức trong dịp Ngài ghé thăm Úc châu vào tháng 06 năm 2000:
Quảng Bá năm châu đèn trí tuệ sáng ngời Chánh Pháp truyền đi khắp xứ
Ðức truyền bốn biển nước từ bi rưới mát đạo mầu trải rộng mười phương
Và:
Quảng độ chúng sanh giữ trái tim son ngời Phật Pháp
Ðức trùm muôn loại đốt thân trí tuệ cứu quần sanh
Hay:
Tâm Từ toả khắp, rời quê hương dốc cả tín tâm, xây nền Chánh Pháp
Phương thảo thơm xa, nơi Úc quốc, trút dâng chí nguyện phụng sự nhân sinh
Thể loại: Câu đối và thơ đối đáp Việt Nam
Trình đơn chuyển hướng
Chưa đăng nhậpThảo luận cho địa chỉ IP nàyĐóng gópMở tài khoảnĐăng nhậpNội dungThảo luậnĐọcSửa đổiXem lịch sử
Khác
Tìm kiếm
Tìm kiếm Wikiquote
Xem
Trang Chính
Trang ngẫu nhiên
Thay đổi gần đây
Quyên góp
Tương tác
Cộng đồng
Bàn giúp đỡ
Thảo luận chung
Trợ giúp
In/xuất ra
Tạo một quyển sách
Tải về dưới dạng PDF
Bản để in
Gõ tiếng Việt
Trợ giúp
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]
Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Tải tập tin lên
Các trang đặc biệt
Liên kết thường trực
Thông tin trang
Trích dẫn trang này
Ngôn ngữ
Thêm liên kết
Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 27 tháng 8 năm 2017 lúc 23:03.
Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản Sử dụng để biết thêm chi tiết.
Quy định về quyền riêng tưGiới thiệu WikiquoteLời phủ nhậnNhà phát triểnTuyên bố về cookiePhiên bản di độngWikimedia Foundation Powered by MediaWiki
https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A...%ADt_gi%C3%A1o
-
Những huyền thoại ly kỳ ở vùng Bảy Núi - Thất Sơn
Kỳ 4: Chuyện kỳ quặc về con nghiệt súc… Năm Chèo
Phóng sự | Thứ bẩy, 08/09/2018 09:41 (GMT+7)
Kỳ 4: Chuyện kỳ quặc về con nghiệt súc… Năm Chèo
Hình ảnh Ông Năm Chèo quấy phá người dân
TTTĐ - Gắn với mỗi vị đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An đều có một sự tích đầy huyễn hoặc. Có nhiều chuyện còn lưu lại vật chứng, di tích như chuyện về Ông Năm Chèo. Đó là con nghiệt súc có 5 chân khác thường, lỗ mũi đỏ ké và thường xuyên khuấy phá dân lành. Người ta đồn, nó vẫn đang nằm dưới sông Vàm Nao. Kẻ nào làm việc ác sẽ bị nó ăn thịt.
Lấy thân kê giường cho đàn bà đẻ được biếu cá sấu
Trong 12 đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An có ông Đình Tây (tức đạo sĩ Bùi Văn Tây, vị đệ tử thứ 3, được giao trông giữ ngôi đình), nuôi 1 con cá sấu có tới 5 chân. Người đời ví con sấu ấy như chiếc ghe lớn, di chuyển được nhờ 5 mái chèo nên đặt tên là Ông Năm Chèo.
Bà Hồ Thị Quyên (69 tuổi, cháu cố ngoại đời thứ tư của ông Đình Tây, được giao bổn trách trông giữ ngôi mộ và những bảo vật do ông cố để lại) cho biết, đạo sĩ Bùi Văn Tây sinh ra trong một gia đình trung nông ở Năng Gù (xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang). Sau khi kết hôn, ông và vợ có 2 người con. Rồi do vợ cùng 1 người con mất sớm nên ông buồn thương mà dắt người con còn lại lên vùng Thất Sơn, gặp Đức Phật Thầy xin quy y. Sau đó, bà Trần Thị Của thấy gia cảnh ấy thì động lòng thương nên kết duyên cùng ông Tây. Họ sinh được 3 người con.
Bà Quyên bảo, chuyện này được lưu giữ và truyền khẩu qua nhiều đời, hoàn toàn dựa trên sự thật của gia tộc và những hiện vật đang thờ cúng. Bà kể, ông Tây được thầy (Đức Phật Thầy Tây An) giao nhiệm vụ giữ trại rẫy (nay là Đình Thới Sơn). Một bữa nọ, ông Tây được thầy gọi sang chùa Thới Sơn dặn ngày mai ông Tây về hướng đông hành thiện. Dù không biết làm việc gì nhưng vâng lời thầy, nửa khuya ông Đình đã thức, lọ mọ gói cơm trong chiếc mo cau, rồi nhắn ông Tăng Chủ trông giúp trại rẫy. Tờ mờ sáng, ông đến miệt Láng Linh (nay là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) thì thấy một nhà nọ có nhiều người tụ tập liền dừng lại hỏi. Bà con cho biết, vợ ông Sinh đang lâm bồn trong hoàn cảnh chỉ một mình ở mái chòi giữa đồng ngập nước mênh mông. Ông Tây tức tốc máng tay nải lên cành cây, nhảy vào kê 3 chân bộ vạc (chiếc giường thời ấy). Tìm cây kê chân thứ 4 cho bộ vạc thì hết cây nên ông đã đưa vai mình làm trụ đỡ thứ tư. Lúc này, bà con đưa vợ ông Sinh lên nằm đẻ.
Mộ ông Đình Tây
Mộ ông Đình Tây
Bà mụ vườn vừa hoàn tất ca sinh, thì ông Sinh đi bắt cá ở đồng xa về tới. Ông Tây liền trách nhẹ ông Sinh sao vợ sắp sinh mà bỏ đi xa. Ông Sinh than: “Nhà nước ngập, vợ sắp sinh mà hũ gạo trong nhà thì đã vơi cạn nên phải ráng kiếm cua ốc sống qua ngày. Mãi ham bắt mà tối đến chưa hay nên về không kịp”. Trong giỏ cá mang có 1 chú cá sấu con màu sắc sặc sỡ, ông Sinh đã tặng ông Đình Tây để tỏ chút lòng tạ ơn. Thấy con cá sấu hình thù rất quái lạ, mình da bóng trơn, lỗ mũi đỏ ké, ngoài 4 chân còn có thêm cái móng đeo (móng dư ra), ông Đình Tây liền nhận.
Còn vật chứng
Ngày nay, tại Đình Thới Sơn vẫn còn ao sen lớn, nơi được cho là ông Đình Tây đã thả nuôi con cá sấu 5 chân. Gần đó còn có ngôi mộ ông Đình Tây và nhà thờ cúng 5 món bảo bối mà Đức Phật Thầy Tây An giao cho ông Đình Tây đi bắt nghiệt súc, xem như đó là vật chứng vậy. Hàng năm, nơi đây thú hút khá đông khách thập phương đến hành hương, chiêm bái.
Về trại ruộng, ông Đình Tây đưa con cá sấu và thuật lại câu chuyện cho thầy nghe. Đức Phật Thầy liền phán: “Đó là con thủy quái, sẽ hại bá tánh. Con hãy mau chóng giết nó đi”. Tuy nhiên, ông Đình Tây không giết cá sấu mà lén mang nó đến 1 bụi rậm gần hồ sen trước cửa đình thả xuống nuôi. Khi cá sấu lớn, sợ nó hại người nên ông Đình Tây dùng xích cột chân nó vào cây đại thụ cạnh đình làng.
Ông Năm Chèo nằm ở đáy sông Vàm Nao
Rồi 1 ngày trời dông, sấm chớp dữ dội, mưa như trút nước, con sấu dứt xích trốn mất. Thấy không ổn, ông Đình Tây liền vào báo sự việc với thầy. Thầy nói: “Đây là cơ duyên của ông với nó, sau này sẽ gặp lại. Thôi, thầy đưa ông 5 món bảo bối và 1 câu khẩu huyết biệt truyền để sau này thu phục sấu thần”. Bảo bối gồm: 2 cây lao, 1 cây mun cổ phụng, 1 lưỡi câu bắc và 1 đường dây băng.
Ít lâu sau, người dân vùng Láng Linh thấy cá sấu 5 chân khổng lồ xuất hiện. Nó trườn lên bờ bắt gà, vịt của dân. Ông Tây mang bảo bối xuống thu phục. Nhưng khi ông đến thì con cá sấu lặn xuống sông mất dạng. Hễ ông đi thì con sấu lại nổi lên, quấy phá dân lành. Nó làm nổi sóng to trên sông khiến ghe tàu ngang qua chìm và ăn thịt người. Thấy con sấu chỉ biết sợ một mình ông Đình Tây nên mỗi lần nó nổi lên mặt nước, dân làng lại la lớn: “Năm Chèo dậy, bớ ông Đình”. Nghe kêu vậy, con cá sấu liền lặn mất.
Sự phá phách của con cá sấu khiến ông Đình Tây rất tức giận, ông bèn xuống mé sông la lớn trong thinh không thông báo với con sấu về sứ mạng của mình mà Đức Phật Thầy đã giao phó. Có lẽ nó nghe biết nên từ ấy biệt tăm. Một ngày, Đức Phật Thầy bảo trong 3 ngày tới sấu phải nổi lên, nếu không thì nó đã biết tội ẩn tu, chờ đúng cơ trời nổi lên giúp đời. Chờ mãi cá sấu vẫn bặt tăm, ông Đình Tây liền mang bảo bối trả lại cho thầy. Đức Phật Thầy bảo ông Đình Tây cứ giữ, sau này có khi sẽ dùng đến. Từ ngày ấy, con cá sấu kỳ quái lặn bặt tăm. “Năm 1914, ông qua đời nhưng vẫn chưa sử dụng bảo bối lần nào. 5 món bảo bối của ông Tây vẫn được cất giữ qua nhiều thế hệ”, bà Quyên cho hay.
Đình Thới Sơn
Đình Thới Sơn
Dân gian truyền miệng rằng, con nghiệt súc (cá sấu 5 chân) đã ăn năn hối lỗi và đang nằm vắt ngang sông Tiền và sông Hậu, tạo thành sông Vàm Nao. Sông Vàm Nao dài 7km, chảy qua xã Kiến An, Mỹ Hội Đông (huyện Chợ Mới), xã Tân Trung (huyện Phú Tân), xã Bình Thủy (huyện Châu Phú) của tỉnh An Giang. Sông Vàm Nao còn gọi là dòng Thuận Giang Vàm Nao có độ sâu trung bình hơn 17m, là con sông ngắn nhất Việt Nam, nhưng lại có nhiều loài cá khổng lồ. Hầu như lúc nào cũng thấy dòng chảy của Vàm Nao một chiều, từ sông Tiền đổ sang sông Hậu và rất xiết. Nơi ấy nổi tiếng có sóng to gió lớn.
Sông Vàm Nao còn gắn với 1 sự kiện lịch sử đầy kinh hãi. Đó là vào năm 1819, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại cho đào kênh Vĩnh Tế dài hơn 100km ở vùng “Châu Đốc tân cương” xưa. Việc đào kênh giữa chốn biên ải, rừng rậm và nhiều thú dữ nên việc ăn uống, thuốc men đều thiếu thốn khiến gần 7.000 người chết. Trong số người chết, phần đông do bệnh tật và kiệt sức. Số khác chết do bỏ trốn về qua sông Vàm Nao bị cá dữ ăn thịt, sóng gió đắm chìm phương tiện đi lại và đuối nước. Trong sách “Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu (tỉnh An Giang) có viết: “Người ta đợi giữa đêm khuya, họp thành đàn cho đông, mỗi người ôm 1 cây chuối để làm ống nổi rồi nhảy ào xuống nước một lượt mà lội để cá không ăn kịp. Họ tính cao như vậy nhưng khi sang đến bờ bên kia, mười người chỉ còn sống sót được có năm ba người và có khi bị cụt mất tay chân…”.
Người ta đồn, hiện Ông Năm Chèo đã dài đến mấy chục cây số, đầu nằm giữa ngã ba sông này, chứ cái đuôi ở tận ở miệt dưới. Ông Năm Chèo nằm như thế lâu ngày phù sa bồi đắp thành cồn nổi giữa sông. Lâu lâu bị mỏi, Ông Năm Chèo trở mình, cựa quậy… gây đất lở, nhà sụp. Chuyện về Ông Năm Chèo đến nay vẫn được các cụ cao niên ở miền Tây kể cho con cháu nghe. Họ tin chắc những kẻ gian ác ngày sau sẽ nhận quả báo, chui vô họng Ông Năm Chèo chết mất xác.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp (tỉnh An Giang) cho biết, chuyện về Ông Năm Chèo là có thật. Sách xưa có ghi chép chuyện ông Đình Tây nuôi con cá sấu 5 chân. Tuy nhiên, con cá sấu 5 chân ấy đã đi đâu và về đâu thì sau này không ai biết. “Sau này có người cho là nó đã trầm mình xuống sông Vàm Nao, nhưng từ ấy đến nay chưa ai thấy nó nổi lên lần nào. Có lẽ nó đã quá lớn và bị đất cát bồi lắp thành cồn nên không còn nổi được lên mặt nước nữa chăng?”, ông Hiệp nói. Ông Hiệp còn chia sẻ: “Người ta nói rằng, đầu Ông Năm Chèo ở sông Vàm Nao chứ cái đuôi ở tận miệt Cà Mau. Bao nhiêu súng ống, tàu chiến đến đều bị ổng nuốt trọng hết. Hễ ai làm ác thì bị ổng ăn thịt. Còn ai làm hiền thì được ổng nổi lên cho đi trên lưng để sang bờ bên kia sông Vàm Nao, còn gọi là bờ giác ngạn, thành Tiên, Phật”.
https://tuoitrethudo.com.vn/ky-4-chu...-d2054846.html
-
https://thuvienhoasen.org/images/fil...ruc-lam-01.jpg
Lịch Sử Truyền Thừa - Thiền Phái Trúc Lâm - Phật Giáo Việt Nam - THƯ ...
Thư Viện Hoa Sen
thien_phai_truc_lam_01-content
-
https://phapphucnguyendung.com/wp-co...7.20190508.jpg
Bộ Dài Pháp Phục Nguyên Dung cho Nam, một túi trên – Bộ tay dài CVC BDTD 183 1437
379.000 ₫
Công Ty TNHH Dệt May Nguyên Dung
Số ĐKKD: 0304788689
SĐT: (08) 3592 5275 - Fax: (08)3592 5274
Nhà máy sản xuất:
4A Tân Thới Nhất 8, P.Tân Thới Nhất
Quận 12, TP. Hồ Chí Minh.
https://phapphucnguyendung.com/danh-...i/bo-cu-si-nam
-
http://phatgiaonamtongkhmer.org/phot...62582557_1.png
http://phatgiaonamtongkhmer.org/phot...62582557_7.png
Hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh
Người Việt ở Nam Bộ đã biết đến dòng Phật giáo Nam tông Khmer trong quá trình tụ cư sinh sống đan xen với người Khmer. Mối cơ duyên này đã hun đúc cho việc truyền bá chánh pháp của hệ phái Phật giáo Nam tông vào cộng đồng người Việt. Công việc hoằng pháp diễn ra vào năm 1939, khi phái đoàn truyền giáo của hòa thượng Hộ Tông cùng với các vị cao tăng người Việt khác như hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Huệ Nghiệm từ thủ đô Phnom Pênh (Nam Vang) của nước Campuchia về Sài Gòn thuyết pháp về đường lối tu tập của hệ phái Phật giáo Nam tông. Một năm sau đó (năm 1940), ngôi chùa đầu tiên của hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh được thành lập là chùa Bửu Quang (Ratanaramsyarama), ngày nay chùa đã trở thành một trong số những ngôi tổ đình quan trọng của hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh. Vào năm 1958, Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam được thành lập chính thức đánh dấu sự ra đời của hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh trên đất nước Việt Nam, tồn tại đồng hành cùng các hệ phái khác của Phật giáo. Ngày nay, Phật giáo Nam tông Kinh nằm trong chín hệ phái và tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Từ ngôi tổ đình ban đầu là chùa Bửu Quang tọa lạc tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, đến nay Phật giáo Nam tông Kinh đã có hơn 60 ngôi chùa trải rộng trên các tỉnh thành phía Nam và miền Trung Việt Nam[3]. Như vậy, Phật giáo Nam tông Kinh khởi truyền vào Việt Nam là từ Campuchia. Do hoàn cảnh lịch sử và xã hội của thời kỳ Pháp thuộc đã làm cho việc tiếp xúc giữa người dân ở miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ) và Campuchia (Cambot) không gặp nhiều trở ngại trong một xứ Đông Dương thuộc Pháp (Indochine française). Các vị hòa thượng khởi truyền của hệ phái đều xuất thân từ tầng lớp trí thức cao cấp của xã hội thời đó. Trước khi truyền giáo vào Việt Nam, họ đã trải qua một quá trình nghiên cứu và tu học nhiều năm tại Phnom Penh. Điều này còn lưu lại dấu ấn của Phật giáo Nam tông Campuchia tại chùa Bửu Quang và một số ngôi chùa Phật giáo Nam tông Kinh được xây dựng trong giai đoạn đầu. Cụ thể như về thể loại kiến trúc và hình tượng thần Maha Phra Phrum bốn mặt (Phạm Thiên), tượng Đức Phật Thích Ca toạ thiền trên mình rắn thần Mucalinda ở chùa Bửu Quang, thể hiện theo phong cách nghệ thuật điêu khắc Campuchia. Bài viết Lịch sử Phật giáo Nam tông đã cho biết vào dịp diễn ra đại lễ Xây Ma Kiết Giới ở chùa Bửu Quang đã có sự tham dự của Sải vương Chuôn Nath cùng 30 vị hoà thượng, thượng toạ người Campuchia[4].
http://phatgiaonamtongkhmer.org/phat...lan-a-375.aspx
-
Maha Lakshmi Mantra for Money, Wealth, Success, Beauty & Business
By heartmeetsoul - November 12, 201864453
Share
Laxmi Mantra Benefits
Lakshmi Mantra is a powerful beej mantra, which can help to attract money, wealth, love and Success. Laxmi Mantra is a collection of words which creates a powerful and special frequency vibration in your aura which helps to attract money, wealth & Power from the divine. Chanting of this mantra may take a few days to get the best results but sometimes it may take a long time to get amazing results. But yeah, It will show you the results for sure.
People usually chant Lakshmi Mantra for Money attraction. Once this mantra gets attuned with someone’s energy, it gives the continues flow of money. Once it happens, Lakshmi Mantra helps you to get Money Urgently or Instantly. To Get it Properly Attuned, You should chant the Laxmi Mantra 108 Times a Day for 40 days at least.
So, let’s discuss, Who is a Goddess Lakshmi according to Hinduism and What are the benefits of chanting Lakshmi Mantra in Detail.
Something About Goddess Lakshmi Maa
In Hindu culture, Maa Lakshmi is directly related to Money and Wealth. She is Lord Vishnu’s wife. So She is considered as protective as Lord Vishnu.
Goddess Laxmi - Wife of Lord Vishnu
You Know How Lakshmi Mata Looks Like ??
Wearing red saree, gold ornaments, seated on a lotus flower, the golden pot filled with gold coins are holds in the hand, ridden by a white elephant.
Maa Laxmi is the goddess of wealth, power, luxury and beauty. She holds the promise of material fulfilment and contentment in hand.
I hope you have understood about Goddess Laxmi and her Physical Appearance.
Now, I will tell you the meaning of word Lakshmi!
Goddess Lakshmi is a sign of good luck, good fortune, prosperity, success and happiness. She is one of the trinities of Hindu goddesses. In the Sanskrit language, the meaning of Lakshmi word is Lakshya (Aim) which helps to focus on your desire.
How to Chant Lakshmi Mantra for Success?
For Successful chanting of Lakshmi Mantra for money, Follow the Steps as mentioned below:
First, you need a lotus seed mala or a crystal mala also known as Lotus seed Rosary.
There are many types of Lakshmi Mantras in our religion, which creates its own frequency but every mantra gives money, power, Fortune, prosperity, and wealth.
You can start chanting Laxmi mantra from Friday or full moon, Diwali is also a lucky day to start chanting Laxmi mantra.
You can chant the mantra on the lotus mala 108 times to attract money & wealth, your chanting frequency is directly proportional to the amount of money desired to be attracted. It means you can chant the Lakshmi Mantra 2*108, 3*108 per day to increase its effect.
You can even chant it multiple times a day to get more blessings.
Powerful Lakshmi Mantra for Wealth & Money
Different Laxmi Mantra in Hindi/English
There are many Lakshmi mantras. We have made a list of the most powerful mantras below.
Maha Lakshmi Beej Mantra
“SHREEM”
Shreem is the powerful beej mantra used to please goddess Laxmi to grant a lot of money and wealth. It is also a powerful Switchword too. Switchwords are powerful words that can be used to shift your Mind energy from one place to another place.
Mahalaxmi Beej Mantra
“OM HREEM SHREEM LAKSHMIBHAYO NAMAH”
ॐ ह्रीं श्रीं लक्ष्मीभयो नमः॥
This mantra contains “SHREEM” which is a seed sound of Lakshmi. This mantra will bring her blessings for Prosperity and Harmony.
Laxmi Ji Mantra (Beej)
“OM SHRING SHRIYE NAMAH”
।।ॐ श्रीं श्रियें नमः ।।
Lakshmi Gayatri Mantra
“OM SHREE MAHALAKSHMYAI CHA VIDMAHE VISHNU PATNAYAI CHA DHEEMAHI TANNO LAKSHMI PRACHODAYAT OM”
ॐ श्री महालक्ष्म्यै च विद्महे विष्णु पत्न्यै च धीमहि तन्नो लक्ष्मी प्रचोदयात् ॐ ।।
Lakshmi Gayatri Mantra is one of the Powerful and common mantras to Attract Prosperity and Harmony in your life.
Lakshmi Mantra
“OM HRING SHRING KREENG SHRING KREENG KLING SHRING MAHAALAKSHMI” “MAM GRIHE DHANAM POORAY POORAY CHINTAAYAI DOORAY DOORAY SWAHA”
ॐ ह्री श्रीं क्रीं श्रीं क्रीं क्लीं श्रीं महालक्ष्मी मम गृहे धनं पूरय पूरय चिंतायै दूरय दूरय स्वाहा ।
This mantra gives encourages the destruction of worries and wealth for your home. You should consider chanting this mantra before leaving for your office daily.
Maha Lakshmi Mantra
“OM SARVABAADHAA VINIRMUKTO, DHAN DHAANYAH SUTAANVITAH” “MANUSHYO MATPRASAADEN BHAVISHYATI NA SANSHAYAH OM”
ॐ सर्वाबाधा विनिर्मुक्तो, धन धान्यः सुतान्वितः।
मनुष्यो मत्प्रसादेन भविष्यति न संशयः ॐ ।।
Maa Laxmi please protect us from negativity and please give us a bright and prosperous future. This mantra helps us to receive Blessings from Goddess Lakshmi for the gain of Wealth.
Tantric Maha Laxmi Mantra
“OM SHRING HRING KLING AING SAUNG OM HRING KA A EE LA HRING HA SA KA HA LA HRING SAKAL HRING SAUNG AING KLING HRING SHRING OM”
ॐ श्रीं ह्रीं क्लीं ऐं सौं ॐ ह्रीं क ए ई ल ह्रीं ह स क ह ल ह्रीं सकल ह्रीं सौं ऐं क्लीं ह्रीं श्री ॐ।
Tantric used this mantra to enhance their power.
Laxmi Nrisingh Mantra
“OM HRING KSHRAUNG SHRING LAKSHMI NRISINGHAY NAMAH”
“OM KLING KSHRAUNG SHRING LAKSHMI DEVYAI NAMAH”
।। ॐ ह्रीं क्ष्रौं श्रीं लक्ष्मी नृसिंहाय नमः ।।
।। ॐ क्लीन क्ष्रौं श्रीं लक्ष्मी देव्यै नमः ।।
Through this mantra, we worship Lord Narasimha with his spouse to please Maa Laxmi to fulfil all wishes and to grant us money and wealth.
Shri Dakshina Lakshmi Strotam
“TRILOKYA POOJITHE DHEVEE KAMALA VISHNU VALLABHE
YAYA THAWAM ACHALAA KRISHNE THATHAA-BHAVA MAYEE STHIRAA
KAMALA CHANCHALA LAKSHMI CHALAA BHOOTHIR HARI PRIYA
PADMA PADMALAYAA SAMYAK UCHAI SHRI PADMA-DHARINI
DWADA-SAITHANI NAAMANI LAKSHMI SAMPOOJYA YA PADETH
STHIRAA LAKSHMIR BHAVED THASYA PUTHRA-DHARA ABHI-SAHA
ITHI SHRI DAKSHINA LAKSHMI STOTRAM SAMPOORNAM”
त्रिलोक्य पूजिथे देवी कमल, विष्णु वल्लभे,
यया थवम् अचला कृष्णे थाथाभव मयी स्थिरा.
कमल चञ्चल लक्ष्मी चला भूथिर हरि प्रिय,
पद्म पद्मालया सम्यक उचै श्री पद्म धारिणी,
ड्वदसैथनि नामानि लक्ष्मी संप्पोज्य य पदेतः,
स्थिरा लक्ष्मीर भवेद थस्य पुत्र धर अभि सह,
इथि श्री दक्षिणा लक्ष्मी स्तोत्रं संपूर्णं.
Dakshina Lakshmi Stotram is a prayer to request Goddess Lakshmi to stay stable in our home as Laxmi is considered as the personification of movement. i.e She keeps shifting or moving from one place to another. So This prayer is just pleasing her to stay at our place for always.
Siddha Ekadashakshar Laxmi Mantra
“OM SHRING HRING KLING SHRING SIDHDA LAKSHMYAI NAMAH”
।। ॐ श्रीं ह्रीं क्लीं श्रीं सिध्द लक्ष्म्यै नमः ।।
This mantra is for Siddhi.
Why We Worship Mahalaxmi on Diwali?
On the day of Diwali, we all worship Maa Lakshmi with Lord Ganesha. We all know that Goddess Laxmi is the goddess of Wealth, Money, Prosperity, Luxury, beauty and fortune whereas Lord Ganesha is a God of success and he removes all the obstacles in our life, people worship Maa Laxmi and Lord Ganesha together to welcome prosperity and wealth with intelligence.
It is said that on the night of Diwali, Maa Lakshmi visits each house and bless everyone with wealth and prosperity.
Those who are worshipping Goddess Lakshmi will have to begin with Lord Ganesha to get Ganesha’s Blessings. As Lord Ganesha is prefered as the first God to be Worshipped to begin a new work or thing and even during the Honor of other Gods and Goddesses.
Now it must be clear that Goddess Lakshmi is always worshipped along with Lord Ganesha on Diwali for gaining wealth.
Goddess Laxmi is Worshipped on Diwali
Benefits of Lakshmi Mantra
You may chant any of the above Lakshmi Mantra with a Procedure given above to attract immense money and wealth. If you are in Huge money trouble, you may chant it 108 * 5 times a day and even multiple times a day at least for a month to attract more money and Prosperity.
Do Read: Chant Sai Baba for Overall Success
Lakshmi Mantra attracts money and richness in your life.
Goddess Laxmi always nourishes your life just like your own mother and fulfil your wealth desires.
Mahalakshmi Mantras also optimizes chanter’s beauty, health and younger. If you chant any of Mahalakshmi Mantra, You will find the good Improvements in your relationships.
You can chant Laxmi Mantra for a good job and career and see the results yourself.
If you are a Businessman, you will find an increasing attraction of customers towards your business which will lead to huge wealth and money.
Chanting this mantra can help you to become Debt Free If you are going through Money or Debt Problems.
Therefore, I will pray Goddess Lakshmi to fulfil everyone’s desire for wealth, Prosperity & money who will chant Lakshmi mantra from Heart.
On the other Hand, If you have any Query or Questions regarding This Mantra. Do Let me know in the Comments Section. Also if you are aware of any other Mahalaxmi Mantra, Do Let me know. I will love to include it in my Blog section to let other readers know about it.
https://heartmeetsoul.com/lakshmi-ma...ealth-success/
-
Thổ Địa Land Lord Earth Deity Prthivi
29 tháng 11, 2018 ·
Khi tôi hỏi guru của tôi về câu chú có thể cho bạn bè thân hữu của tôi được lợi ích.
Ngài cho tôi một câu chú quyền năng. Vi diệu
Chỉ ba chữ đơn giản nhưng lại có thể thực hành ở mọi nơi.
Với lòng từ bi mẫn và gia trì của dòng truyền thừa. Ngài cho tôi tặng các bạn. Câu chú đơn giản nhưng đầy uy lực này.
Với chỉ 3 chủng tự. Nó chính là hiện thân của thân khẩu và ý của chư phật mười phương. Là brahma shiva vishnu. Nó chính là tính hóa tam độc. Thăng tiền qua tam giới. Phá trừ mọi chướng ngại. Đi thẳng tới bồ đề giác ngộ. Dù thiên ma quỷ thần. Đều nương nhờ nơi câu chú này đều được lợi ích vô cùng to lớn.
Ai trì tụng thần chú này một cách không nghỉ ngơi sẽ được thành tựu mọi điều mong ước trong thế gian và xuất thế gian. Với gia trì của dòng truyền thừa của các đấng chiến thắng quang vinh. Câu chú này chính là từ bi và trí tuệ mà các ngài để lại thế gian.
Câu chú chỉ có 3 chữ chính là
Om ah ha
Bạn có thể đọc
Om ah ha na ma ha (thể hiện sự quy y kính ngưỡng với câu chú nơi bản tâm mười phương chư phật)
Om ah ha svaha (thể hiện sự mong cầu mọi sự đều được thành tựu)
Om ah ha hum hum pây (tiêu trừ ác nghiệp bảo vệ bản thân)
Om ah ha namo namaha (đảnh lễ quy y.(đọc khi đảnh lễ chư phật, lễ 1 lễ như lễ trăm ngàn kễ. Thu nhiếp thân khẩu ý)
Trong vũ trụ có 5 loại vật chất chính là
Kim mộc thủy hỏa thổ.
Cách cúng cho chư phật mười phương ba đời các đâng giác ngộ quyền uy
Kim (tiền bạc, vàng, kim loại,(cúng xong xài, đeo, tràng sức nên cúng mỗi tháng 1 lần đề tẩy các năng lượng xâu tăng trưởng năng lượng tốt khi đeo) để vật cúng trên bàn thờ. Bổn tôn mình tôn thờ. Đọc chú om ah ha namaha (3 lần)
Mộc (cỏ(tốt nhất cỏ tươi, không có lấy cỏ khô), trái cây, hoa, lá, thậm chí là củi) để trước bàn thờ đọc om ah ha namaha( ×3) sau đó có thể dục hoặc để chưng.
Thủy (sữa, bơ, ghee, nước, nước hoa hồng, nước hoa, trà, trà sữa, cà phê) nên để trong ly cúng xong thì uống hoặc đem đổ. Đọc chú om ah ha namaha( x3).
Nếu cúng nước để tắm tượng lấy tường để trong chậu hoặc bàn thờ phù hợp để tắm tượng. Đầu tiên là dầu, bơ, ghee hoặc mật ong. Đọc 1 lần om ah hum om ah ha om om om. Rồi múc 1 muỗng đọc om ah ha namaha. Đổ lên tượng. Làm tiếp tục cho tới khi hết. Sau đó lấy nước nghệ đọc om ah hum om ah ha om om om. Rồi múc 1 muỗng đọc om ah ha namaha đổ lên tượng. Làm tới khi hết nước nghệ.
Sau đó là nước cánh hoa hồng (làm theo công thức trên.
Sau đó sữa tươi
Sau đó là sữa chua
Sau đó là nước dừa
Cuối xùng là nước âm dương (pha 1 phần nước nóng và 1 phần nước nguội laj với nhau, truyền thống là 1 phần nước mưa và một phần nước giếng, nếu không có xài pha 1 phần nước phơi nắng, và một phần không tiếp xúc ánh nắng trong 24h. )
Tắm xong đọc om ah ha namah con tên .... nguyện đêm công đức này hồi hướng cho... . Kết thúc đọc om ah ha namo namaha x1 lạy 1(làm 3 lần)
Đứng lên đọc om ah ha svaha 3 lần
Cúng hỏa. Gồm có nhang, đèn dầu, đèn bơ, lửa homa.
Cúng nhang thắp cây nhang đọc om ah ha 7 lần cắm
Cúng đèn. Thắp đèn. Đọc om ah ha namaha
Minh đăng phổ quang chiếu
Vô tịnh thành được tịnh
Đại nhật uy đức thành
Nhất trụ phá thiên ma
Om ah ha x7
Cúng homa (nghi thức đơn giản chỉ làm cho cá nhân)
Đọc om ah ha namo namaha 1 lần
Đốt lửa. (Lửa tốt nhất to bằng 1 m vuông làm ngoài trời)
Chuẩn bị lễ phẩm có nghệ và các thức ăn, rượu nồng độ cao.
Múc bột nghệ bỏ vào lửa. Đọc om ah ha namaha 1 lần (làm 3 lần)
Bắt đầu bỏ đồ ăn vô mỗi lần bỏ vô đọc om ah ha namaha 1 lần)
(Các bạn lâu lâu nhớ thêm củi, dầu, thang hoặc chất đốt không nên để lữa tắt nhé)
Say khi đốt hết lễ phẩm. Cúng 3 muỗng bột nghệ như ban đâu.
Om ah ha namaha con tên nguyện đem công đức hồi hướng cho...
Om ah ha svaha
Sau đó đọc
Om ah ha 7 lần
Ngồi thiền tới khi lửa tắt (lười thì hít thở 9 lần lấy nước tắt lửa nhé. Đừng bỏ đi khi lửa còn cháy mắc công có chuyện )
Cúng đất.
Giáu thì cúng thạch anh đá quý vừa cúng vừa chưng cho đẹp
Ngoài ra đi trên đường. Lượm cục đá về nhà cúng. Nếu đá ở nghĩa địa là tích âm đức(vì cô hồn sẽ được siêu thoát) Còn đá ở khu người nghèo là phước đức(vì bản thân cúng cục đá này người nghèo sẽ khá lên). Còn đá ở khu nhà giàu thì giúp mình chiêu tài.
Cách cúng. Để cục đá trước bổn tôn. Đọc om ah ha namaha 7 lần là xong.
Chúc các bạn bình an nhiều may mắn
Om ah ha namaha
Nếu bài chia sẽ này được bao nhiêu phước đức nguyện đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh
Om ah ha svaha
https://www.facebook.com/thonangsinh...8sy&__tn__=K-R
-
10 thói hư tật xấu của người Việt Nam
Dân tộc nào cũng có cái hay, cái đẹp nhưng cũng có những cái xấu, cái chưa hợp lý… Vấn đề quan trọng là biết hư thì sửa, biết xấu thì làm cho đỡ xấu và tiến tới làm cho đẹp hơn.
Người nước ngoài nhìn ta:
1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).
4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê)
6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.
7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.
10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (Cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
Ta tự nhìn ta:
1. “Giờ cao su”: Nhìn chung, ý thức giờ giấc của người Việt Nam rất kém. Nhiều bạn đi du học ở các nước phát triển lúc đầu rất hay bị bỡ ngỡ. Họ dễ bị trễ tàu, lỗi hẹn nhưng dần dần họ cũng khắc phục được. Ðến khi về nước họ lại khó chịu với “giờ cao su” của chúng ta.
2. Thiếu tự tin và óc phê phán: Ðây cũng là nhược điểm của văn hoá phương Ðông có lối sống khép kín. Nhiều bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư Ðại học mà vẫn ngại phát biểu ý kiến hoặc trình bày vấn đề trước đám đông vì thiếu tự tin, thiếu thói quen suy nghĩ, đi học chỉ biết “chép chính tả”. Kiểu giáo dục thụ động luôn tỉ lệ thuận với sức ì của tư duy và tỉ lệ nghịch với óc phê phán (critical thinking) của thanh niên.
3. Bệnh hình thức: Có bạn trong cơ quan hay công ty mình làm việc đang chẳng đâu vào đâu thì lại đi học master. Có bạn tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được việc làm cũng đi học master. Tư duy nặng về “điểm chác”, bằng cấp rất phổ biến. Không xác định tư tưởng học để làm việc mà học để lấy bằng. Người Mỹ có quan điểm: to learn is to change. Còn chúng ta ra sức theo học rất nhiều lớp học nhưng rốt cuộc cách làm việc không thay đổi gì cả, điều khác là chúng ta có thêm mấy cái bằng bổ sung vào hồ sơ cá nhân.
4. Không tiết kiệm: hay tâm lí thích tiêu xài phung phí. Ðây là virus đang rất phổ biến và rất dễ lây lan trong giới trẻ. Họ quan tâm đặc biệt đến quảng cáo, thích xem các loại tem nhãn quần áo, nhận xét, đánh giá người khác qua tài sản, thấy thèm muốn, thán phục nếu ai đó có nhiều quần áo, xe, điện thoại, nhà…”xịn” hoặc tiêu xài sang hơn mình. Chúng ta đang tiêu dùng nhiều hơn chúng ta kiếm được.
5. Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể: Nói chung trong những người bình thường, chúng ta thường hay đùn đẩy trách nhiệm, bất kỳ việc gì chuyển được sang cho người khác cũng đều thấy nhẹ cả người. Khi xảy ra sai phạm đó sẽ là lỗi chung của cả tập thể chứ không của riêng cá nhân nào. “Sẵn sàng” nhận cả “phần” không phải của mình…
6. Thể lực kém: xuất phát từ nhiều nguyên nhân như chế độ dinh dưỡng, chương trình học quá tải, học lệch, tâm lí lười vận động… Và hậu quả là khi làm việc với các đồng nghiệp nước ngoài, mặc dù rất cố gắng nhưng người Việt trẻ vẫn rất hay bị hụt hơi và cảm thấy khó có thể theo được cường độ làm việc của họ.
7. Thiếu thực tế: Ông Kim Woo Choong – Chủ tịch Công ty Deawoo viết: “tuổi trẻ không có ước mơ thì không phải là tuổi trẻ… lịch sử thuộc về những người biết ước mơ”. Nhưng đó là những ước mơ hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Chúng ta thường hay suy nghĩ viển vông, thiếu suy nghĩ thực tế và chưa có suy nghĩ học là để làm việc.
8. Tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế. Thế kỷ 21 là thế kỷ làm việc theo nhóm vì tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ngay cả văn học và nghệ thuật, một cá nhân cũng không thể đảm đương được. Mạnh ai nấy sống…
9. Tác phong công nghiệp: Ðây là điểm rất quan trọng, có thể bao hàm một vài điểm đã nêu trước. Một nhà xã hội học Mỹ nói về nguồn gốc của cách làm việc tiểu nông như sau: “Anh nông dân sau khi gieo lúa xong có thể nhậu lai rai, ngủ dài dài và chờ đến thời điểm nhổ cỏ, bón phân mới làm tiếp. Mà việc này có làm muộn vài ngày cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới. Nhưng một người công nhân đứng máy luôn luôn phải đúng giờ, có thao tác chính xác tuyệt đối và tinh thần kỷ luật cao. Một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tác hại đến cả dây chuyền.”
10. Thích đi trên lối đi có sẵn – Lối mòn, không thích tự mình mở ra một lối đi mới cho riêng mình.
Sưu tầm (Red.vn)
In bạt
http://www.oscvn.com/goc-thu-gian/10...t-nam/331/1643
-
https://www.upsieutoc.com/images/201...2570289093.jpg
https://www.upsieutoc.com/images/201...c40f28e243.jpg
https://www.upsieutoc.com/images/201...ebcaacab64.jpg
https://www.upsieutoc.com/images/201...c4beb75f0d.jpg
茅山血畫符血符.
聽過人用血畫符.稱血符.
血有3大類
1是兩腳系血
2是四腳系血
3是無腳系血
會使用血來畫符都是跟劫數有關,有 是鬥法,有的是放較邪的符法,
要看何時適當使用。
假設施術者本身道行深 他自己的元神元氣元精已經合一時
使用他自己的血可以強化符紙的效果
@{1兩腳血 等級分配100%力量靈力計算}@
人=90% 一般人60% 月血70 道士70% 法師 80%
沒有修持 有較特殊 修持者
高僧80% 報復者90%
修持者 凶惡者
動物=70% 黑公雞60%母雞20% 白公雞60% 母雞20%
鴨50%烏鴉60%烏秋70% 鵝40%
@{2四隻腳 等級分配100%力量靈力計算}@
動物=80% 狗黑公70%母40% 黃公60%母30% 白公70%母40%
其他色公40%母20%
貓黑公70%母60% 白60%母(不可用會反恜) 黃班50%(公母同功)
其他色30%(公母一樣功效)
蟾蜍60% 扁輻60% 鼠20% 牛50% 虎80% 兔50%
馬(只限回兵用) 猴80% 壁虎50%
青蛙60% 四腳蛇60% 烏龜20% 蜥蜴60%
{3無腳物 等級分配100%力量靈力計算}
鱔魚80% 蛇60% 胎盤60% 流嬰100% 流霞100% 處女經80%
反效果較大類型
道士。報復者。黑公狗。白母貓。牛 猴。蜥蜴。胎盤。流嬰。流霞。
道士=屬修持者的崇高地位所以很難使 故較會反效果。
報復者=屬怨恨心所累積但如心生慈悲 候將返回效用。
黑公狗=陰膽之化生故養者很難克制該 不忠心故返效較大。
白母貓=屬陰陽二氣之故不生不滅所以 者幾乎無效且造成冤唸。
牛=黃帝之祖故使用後較難以驅使且無 之輩用之定遭橫禍。
猴=次人靈之精學習度極高且容易反打 以靈力高但不使用為妙。
蜥蜴=如來佛祖惡障所化曾食人所以不 會反壓符。
胎盤=晦氣滯後所致可用度高但盡用定 反恜。
流嬰=需死外胎內胎的方可使用兇度高 可以養成故危險度高。
流霞=血中最陰的物品也是最凶惡的一 但使用不當將本身致死。
平穩性調配類型
一般人類 一般狗 一般貓 四腳蛇 烏龜 扁輻 蛇
以上如一般血子靈祭練用後可轉換其 用途,
但以血子靈來祭練的方式後使用效果 比原始調配難用許多
以一般鬥法來說,如都以血子靈點符 勒符,其實以血將可破血,血與邪同 故妙用之。
但鬥法者都知道,最高級的血不是常 ,而是高取下或當場取來的最為實用
如以一般祭旗來說,以雞來祭旗,如 將生物當場宰殺後祭練。
往後將難以克制一些兵馬,因為兵馬 受我所指揮,...............
而在調配方面以最後加上人血這是最 的。且以人乃萬物之驅。
故可以使每道符強競度高出很多,以 數計算事件相當可觀的數字,
所以在使用方面幾乎不建議學生或讀 使用,因為如放兵後不收會有危險, 要收又怕回來的兵馬靠不注。
以上筆者淺見 皇天府,玄門法師 敬啟
-
https://www.upsieutoc.com/images/2019/08/13/a4.jpg
寻龙点穴妙中求,阴阳交媾始化生。
龙砂向水备其妙,雌雄作法妙无穷。
虽言诸书对不同,妙於雌雄河洛中。
金龙两路顺逆求,到头一节是真龙。
穴星唯取木金土,明净圆丰与正求。
开挣展翅异别情,上分下合是真宗。
阴阳窟突夫妻路,孤阴独阳不育生。
阳必配阴阴合阳,阴阳得配方为良。
蟹眼虾须金魚水,晕心十道看毯唇。
三停以势缓中急,三阳朝案总关情。
动处是生静是死,弃死挨生生处求。
龙急脉急须避殺,避球凑檐五寸中。
龙急脉急气若急,葬急斗殺绝人丁。
气使临头不合脚,眠干就湿把穴求。
气急理合作虚粘,叠土为茔接脉源。
龙缓脉缓去凑球,进入七寸避檐扦。
龙缓脉缓气亦缓,葬缓脱脉退田产。
山水拱顶理气纯,脉直急斜缓当明。
藏风聚气阴阳合,局势周密四应真。
八国城门锁正气,窝钳乳突细堪作。
脉认来龙乘生气,迎官就禄坐土牛。
牵牛吐舌与露胎,龙虎斜飞不堪求。
不分不合向背去,急流直泻无关情。
地卑泄流脉破气,鹤膝蜂腰怕劫鬼。
土旺牛田木文士,水绕山缠理宗源。
水外须要四山会,平地谷堆堪称金。
犀角虎牙忌脫漏,斗讼之星无止休。
傍城借主取生气,脫龙就局观朝迎。
大中宜小小宜大,阴阳得配不乱杂。
移步換形观朝案,证穴理法须当明。
内直外钩尽剪裁,內钩外直妄劳神。
山本静阴求动处,水本动阳静畜灵。
众水聚处看明堂,群山止处方见真。
高则群凶宜降伏,缓则四势求和平。
势粗而急穴宜缓,外拱内逼穴高扦。
前案乱杂求畜池,后山嵯峨忌挂灯。
显露多是花假穴藏牙缩爪见水真。
峻峭之山更消详,登高作穴速败应。
后山壁立名拒尸,下则败绝实无情。
平洋开井休及泉,泊岸浮牌不忌风。
水怕冲心和射肋,风忌割耳与吹胸。
水要之玄弯弓抱,穴要聚气又藏风。
土山石穴温润佳,土穴石山怕嵯峨。
单山四面须关拦,独脉不葬死龙头。
穴枕龙鼻莫伤唇,龟肩扦穴恐伤壳。
恶形当面祸应速,水急不見应迟缓。
重重包裹红莲瓣,莲苔花芯好堪扦。
百官朝殿帝王势,纷纷拱卫紫微垣。
回龙顾祖焉惧欺,祖山作朝何许低。
逆水扦穴天门开,戏水魚龙直入乾。
荷叶坪中不堪载,破气损力岀祸胎。
舟泊滩头揖於水,平沙落雁喜高墩。
嘶马闻风扦下坪,惊蛇畏惧斜坡间。
瓜藤细小宜细裁,随势大小巧按排。
魚贯连珠曲中裁,倦阿怀中是香胎。
雁阵低伏寻旷野,水交脐囗好剪裁。
禽翼左右曲中寻,人扦脐阴好藏风。
盖粘倚撞察穴情,吞吐沉浮以法行。
唇目尾角不可扦,腰足肋处是凶顽。
唯有额腹耳鼻好,阴脐藏风是真元。
蜈蚣钳里怀眠犬,鼻额怀中把穴扦。
隔水来护似屏风,龙虎生案须回肘。
朝官特来方为贵,近案作穴文才真。
浅薄势小福亦薄,土厚水深人亦然。
扦穴慎於十六忌:粗恶峻急与单寒。
臃肿虚耗与凹缺,瘦削突露及破面。
疙头散漫幽冷寒,尖细荡软与硬顽。
严岩形总十六地,贱恶殺戮最凶惨。
扦穴务依阴阳理,阴来阳受斜正扦。
正来斜扦直兮曲,曲中求直急中缓。
缓时迎急低扦高,急来缓下高扦低。
软来硬下硬下软,平山低平宜高攀。
此乃阴阳玄妙理,阴阳得配是宗源。
夫妻合和斯为美,雌雄交媾方孕产。
阳龙切勿下阳穴,阴龙阴穴勿堪作。
阳龙阳穴生死别,阴阴相见阴私多。
界龙界水亦界穴,融融生气穴中作。
太极晕中乘生气,富贵荣华荫儿孙。
此法当以星为主,理气先后理当明。
大卦玄空两元论,乾坤河洛山水情。
-
https://www.youtube.com/watch?v=N4UdVAOHiRY
Tự thuật chấn động của vị hòa thượng đã mở thiên mục - Tinh Hoa TV
Cao tăng vén màn bí ẩn về nhân loại ngày nay: Con người càng hiện đại, càng huỷ hoại chính mình 20 / 06 / 2019 cao-tang-ven-man-bi-an-ve-nhan-loai-ngay-nay-con-nguoi-cang-hien-dai-cang-huy-ho
Từ xưa đến nay, trong giới tu luyện lưu truyền rất nhiều câu chuyện về các vị Đạo sĩ hay cao tăng đắc Đạo. Họ đã khai mở công năng, chứng đắc thần thông, và nhìn thấy được rất nhiều điều mà người thường không thể thấy. Dưới đây là lời kể của một vị cao tăng như thế.
***
Zalo
Tôi là người ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, xuất gia làm hoà thượng đã hơn 20 năm rồi. Quê nhà chúng tôi rất kính ngưỡng Phật giáo, gần như từng làng từng thôn, từng nhà từng hộ đều có người tín Phật; và hễ có người xuống tóc đi tu thì cả gia tộc đều vô cùng tự hào.
Theo mẹ tôi kể lại, tôi được thọ giới khi vừa mới đầy tháng, trở thành tiểu đệ tử của Phật môn. Năm 1990, tôi tròn 25 tuổi và chính thức xuất gia, lúc ấy đứa con trai lớn của tôi đã lên 8 tuổi. Ngày tôi xuống tóc, tất cả dân làng đều đến chúc mừng tôi, ngay cả vợ tôi cũng tỏ ra vui mừng. Bởi theo phong tục ở quê tôi, những gia đình có người xuống tóc quy y thì vợ hoặc chồng và con cái của họ đều được cả làng chăm sóc.
Ngôi chùa tôi tu hành vốn rất nhỏ, nếu tính thêm cả tôi thì chưa đến 10 người. Sư phụ của tôi là một hòa thượng đã cao niên, những lúc bình thường ông rất ít nói chuyện, nhưng mọi người dân sống gần đó lại vô cùng tôn kính ông. Nhờ có sư phụ coi sóc, tôi chính thức bắt đầu cuộc sống tu hành. Ngôi chùa của chúng tôi thuộc về Phật giáo Tiểu thừa, chỉ cung phụng duy nhất Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Cuộc sống tu hành của các tăng nhân chúng tôi chỉ có trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền và tụng kinh, ngoài ra không còn gì khác nữa. Nhưng với tôi, tụng kinh là việc khó khăn nhất, bởi vì tôi không biết chữ nên không thể đọc hiểu kinh Phật. Tuy nhiên, sư phụ không yêu cầu tôi phải biết chữ, ông nói không biết chữ có khi còn là việc tốt, không đọc được kinh Phật cũng chưa chắc là chuyện xấu. Vì vậy ông đã miễn việc tụng kinh mà chỉ yêu cầu tôi phải nghiêm thủ giới luật, đả tọa tham thiền. Tuy nhiên, về sau này tôi lại biết chữ, từ từ tôi sẽ giải thích điều này.
Phật giáo Tiểu thừa chúng tôi thông qua nghiêm trì giới luật để nhiếp tâm, từ nhiếp tâm mà nhập định, từ nhập định mà khai mở trí huệ. Các sư huynh và sư đệ, thậm chí cả sư phụ của tôi, đều rất khó nhập định; trong cả một năm họ rất khó đạt được vài lần thật sự nhập định. Nhưng tôi thì khác, sau khi tu hành khoảng 3 tháng, tôi đã có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.
Tôi biết rất nhiều cư sĩ tại gia cũng từng ngồi thiền, nhưng họ không nhất định thể nghiệm được cảm giác nhập định. Thật ra nhập định là khi các vị ngồi xếp bằng ở đó, khi tạp niệm dần dần diệt tận thì cơ thể sẽ tiến nhập vào một loại trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng, một niệm cũng không còn.
Zalo
Sau khi tu hành khoảng 3 tháng, tôi đã có thể nhập định trong lúc ngồi thiền. (Ảnh dẫn theo pixabay.com)
Ở trong trạng thái tĩnh lặng này, toàn bộ công năng cảm quan của thân thể người đều mất hết, bản thân cảm thấy thời gian mới trôi qua vài phút, thậm chí vài giây, nhưng khi xuất định lại thấy là vài tiếng đồng hồ rồi. Sư phụ tôi nói, sở dĩ con có thể nhập định mau chóng như vậy, thật ra là nhờ không biết chữ.
Tính đến mùa hè năm 1991 là tôi đã xuất gia được hơn 1 năm. Một buổi tối nọ, toàn bộ hòa thượng trong chùa chúng tôi ngồi đả toạ thành vòng tròn ngay trước Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca, lúc ấy tôi lại nhập định. Tuy nhiên, lần nhập định này không giống những lần trước, tôi cảm tưởng đã ngồi được một giờ đồng hồ, nhưng khi xuất định, các sư huynh nói rằng tôi đã ngồi trước tượng Phật ròng rã suốt 7 ngày rồi. Hơn nữa trong 7 ngày này, trên đỉnh đầu của tôi có một vầng sáng bảy màu, ngày đêm lưu chuyển không ngừng, ngay cả những người bình thường dùng mắt thịt cũng có thể nhìn thấy được. Nhưng vầng sáng ấy đến từ nơi nào? Không ai có thể nói rõ được.
Sau đó vài ngày, tôi phát hiện mình có công năng. Dù nhắm mắt lại tôi cũng có thể nhìn được đồ vật, hơn nữa còn nhìn thấy rõ ràng hơn cả khi mở mắt. Tôi hỏi sư phụ rằng rốt cuộc đó là chuyện gì, ông nói tôi đã khai mở thiên nhãn thần thông, đó dĩ nhiên là chuyện tốt. Từ đó, tôi càng dụng tâm tu hành hơn nữa.
Thời kỳ mạt kiếp Phật giáo không thể độ nhân – Tôi vân du tìm cầu chính Pháp
Đầu năm 1992, một buổi sáng sớm khi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên thấy Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang sáng chói, đồng thời từ đỉnh đầu tôi có một luồng nhiệt ấm nóng tràn vào trong thân thể, dần dần sung mãn khắp toàn thân, cả cơ thể tôi cũng tiến nhập vào một loại trạng thái mơ hồ, tựa như thời gian đã ngừng lại.
Cảm giác đó mỹ diệu phi thường, giống như đang tắm nước nóng trong mơ vậy. Tôi cảm tưởng như mình đột nhiên đại ngộ, đồng thời thiên nhãn thần thông của tôi đã tăng tiến thêm một bước nữa. Ngay tại lúc đó tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Đức Phật Thích Ca ngự trên tượng Phật. Đồng thời, tôi còn nhớ lại rất nhiều sự tình trong các kiếp trước của mình.
Zalo
Ảnh minh họa. (Dẫn theo tinhhoa.net)
Trong 2 kiếp trước đây, tôi đều xuất gia tu hành. Nhưng vì nghiệp tội đời đời kiếp kiếp tích lũy quá nhiều, chướng ngại trùng trùng, tôi đã không tu thành Chánh Quả. Trước khi viên tịch tôi lại phát thệ nguyện rằng đời sau vẫn tiếp tục tu hành, vậy nên đời này lại bước vào cửa Phật tiếp nối duyên xưa. Vì đã tu hành trong hai đời trước, nghiệp tội của tôi đã tiêu đi rất nhiều, lại tích được vô lượng công đức, vậy nên lần tu hành này đã trở nên dễ dàng vô cùng, là điều mà những người tu bình thường không cách nào so sánh được.
Dựa vào căn cơ cùng với hồng nguyện từ tiền kiếp, tôi chỉ cần tinh tấn kiên định thì nhất định đời này sẽ tu thành Chánh Quả. Nhưng đáng buồn là, khi tôi vừa mới nhớ lại những chuyện đời trước thì Pháp thân của Đức Phật đã khai thị rằng, Pháp của Ngài không còn độ nhân được, càng không thể khiến người ta tu thành Chánh Quả. Hơn nữa, người đời không còn tín Phật nên Phật Tổ cũng sắp buông bỏ thế gian, không còn quản chuyện của nhân gian nữa.
Nghe vậy lòng tôi không khỏi đau nhói, hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng. Ngay cả Phật Tổ cũng buông tay thì ai sẽ độ hóa cho những Phật tử như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật nói rằng, người này đi rồi ắt sẽ có người khác đến thay, trong tám vạn bốn nghìn pháp môn của Phật gia, tự nhiên sẽ có con đường độ hóa các con đến bờ bên kia của Niết Bàn.
Nói xong, Pháp thân liền biến mất. Khi tôi kể lại cho sư phụ và các sư huynh, sư đệ về chuyện này, sư phụ hỏi tôi dự tính thế nào, tôi đã đắn đo suy nghĩ rất lâu, cuối cùng nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du, đi tìm cầu chính Pháp.
Khai mở thiên nhãn, tôi thấy những điều người thường không thể thấy
Phần trên nhắc đến thiên nhãn thần thông, tôi biết rất nhiều người đều hứng thú với điều này.
Sau khi khai mở thiên nhãn, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc quá khứ trước đây, tôi đã có thể biết chữ, nhưng đều là chữ chính thể, còn chữ giản thể thì tôi không đọc được. Những quyển sách khác, tôi không cần lật mà chỉ đảo mắt một cái là toàn bộ đều biết hết. Bây giờ những cái gọi là khoa học kỹ thuật tiên tiến, trong mắt tôi đều rất đơn giản, nhìn một cái là hiểu rõ liền.
Con người có con mắt thứ ba, có thể nhìn thấy nhiều điều mà người thường không thấy
Thiên nhãn khai mở rồi, ngoài việc nhìn thấy những gì mà người bình thường không thể thấy ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái, và những linh thể khác, hơn nữa còn có thể giao tiếp với họ. Nhưng thông thường tôi không hiểu được họ, bởi tôi là người tu Phật, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này.
Bạn chắc chắn sẽ hiếu kỳ: Thần Tiên và quỷ quái tồn tại như thế nào? Hình thức đó quá nhiều rồi, phương thức tồn tại các dạng các loại đều có, muôn màu muôn vẻ. Nhưng nếu so với các Đấng Giác Giả thì chúng hoàn toàn kém xa, ngay cả so sánh cũng đều không thể nào so sánh được.
Con người là anh linh của vạn vật, nhưng nhân loại đang huỷ hoại chính mình
Có người biết rằng, động vật không được phép nghe giảng Phật Pháp, cũng không được phép tu luyện. Tại sao vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu để tu luyện Phật Pháp, đó chính là thân thể người.
Nói đến đây, tôi nghĩ đến thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin nói con người là vượn tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các khoa học gia và y học gia hiện đại đều cho rằng Thể Tùng Quả là con mắt thứ ba đã thoái hóa của con người. Vậy tại sao khỉ, tinh tinh, vượn, cho đến hết thảy các loài linh trưởng đều chỉ có hai con mắt? Vì sao chúng không có con mắt thứ ba? Hơn nữa khi giải phẫu, những con vật này đều không có Thể Tùng Quả — điều này giải thích thế nào đây?
Xin nói rõ rằng, thông qua thiên nhãn tôi đã nhìn thấy được tình huống chân thật: Darwin thật ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người, mục đích là làm loạn nhân gian. Thuyết tiến hóa mà ông đưa ra là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, khiến người ta tin rằng nhân loại là vượn tiến hóa thành.
Con người cao quý nhường ấy, vậy mà lại hồ đồ tin vào cái tà thuyết đó thì chính là điều sỉ nhục nhất của loài người.
Sự thật về Thuyết tiến hóa: Giới khoa học đang từ bỏ học thuyết Darwin
Thần Phật dẫu đại trí đại huệ, đại từ đại bi, thần thông vô thượng, thì cũng không thể can thiệp vào nhân tâm. Nhân tâm không hướng thiện, không quy chính, thì Thần Phật cũng chẳng còn cách nào.
Người hiện đại không tin vào Thần Phật, cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì lại không như vậy. Động vật điều gì cũng minh bạch, vậy nên chúng trăm phương nghìn kế muốn có được thân thể người để được phép nghe Pháp, được phép tu luyện. Đây chính là tình huống chân thật của nhân loại ngày nay. Rất nhiều người trên thế gian này, các vị đừng nhìn thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, bề ngoài là con người, nhưng họ đã không còn là người nữa, mà đã bị linh hồn của động vật bám lên và thao túng thân thể người.
Những cô gái chủ động đi làm kỹ nữ, có đến 99% mang phụ thể là cáo. Chúng dùng phương thức này để lấy cắp tinh huyết của con người. Một đoạn thời gian trước, chẳng phải Bắc Kinh đã truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường ở nhân gian” hay sao? Những phụ nữ bán dâm trong đó đều là hồ yêu phụ thể, quả thật yêu khí ngất trời.
Tại sao nói rằng đến chốn ăn chơi kỹ viện sẽ hao tổn phúc thọ? Chính là vì bên trong cơ thể những kỹ nữ này có quá nhiều yêu quái, chúng dựa vào phương thức này để ăn cắp tinh khí con người.
Zalo
Câu chuyện về động vật phụ thể nổi tiếng nhất là nàng Tô Đát Kỷ thời nhà Thương. “Phong thần diễn nghĩa” kể rằng, Đát Kỷ bị hồ ly tinh nhập vào thân xác và lợi dụng sắc đẹp để mê hoặc Trụ vương.
Mọi người đều biết người sống thực vật, nhục thể đó không bị tổn thương, các cơ quan chức năng đều bình thường, tại sao họ lại không còn ý thức tư tưởng nữa? Bởi vì linh hồn của họ đã tiến nhập vào luân hồi rồi, đã không còn ở đó nữa. Có những người thực vật sau rất nhiều năm lại tỉnh dậy, tuy nhiên ký ức bị mất đi quá nhiều, trí lực cũng giảm đi rất nhiều.
Phàm là những tình huống này, phần lớn đều là động vật phụ thể. Có một số động vật thời gian tu luyện ngắn ngủi, đạo hạnh còn kém, cũng rất vô tri, nó không biết rằng bám lên thân thể người rồi thì không xuống được nữa, hơn nữa trí huệ của nó cũng sẽ bị phong bế. Vì vậy nó hễ bám lên thì người thực vật đó liền tỉnh dậy, nhưng trí lực lại rớt xuống trầm trọng.
Đương nhiên có những con động vật đã tu luyện hơn cả trăm nghìn năm, có thần thông rất lớn, lúc này dẫu nó bám lên thân thể người đi nữa thì cũng không xuất hiện vấn đề này. Xem ra thì tất cả đều rất bình thường, nên con người không thể phát hiện được..
Ở một số vùng có nhiều hộ gia đình thờ cúng bài vị của động vật, cáo chồn quỷ rắn, nói là để được Thần linh bảo hộ. Còn có người cầu động vật nhập vào thân thể, cảm thấy có linh thể bám lên thân như là xuất sắc lắm vậy.
Theo tôi thấy, loại người này ngu xuẩn đến cực điểm. Sau khi động vật bám lên thân, có thể chúng sẽ không chi phối thân thể của họ, cũng không ảnh hưởng đến tư tưởng ý thức của họ, nhưng chúng sẽ lấy đi phần nguyên khí của họ. Khi không còn phần nguyên khí này, họ sẽ lập tức chết đi, ngay đến làm người thực vật cũng không còn được nữa.
Trong tình huống thông thường, loại phụ thể này có thể tạm thời mang đến một số vận may hoặc là tài lộc phú quý gì đó cho con người. Nhưng thật ra nó chỉ dùng những thứ đó làm mồi nhử, còn thứ lấy đi lại là những thứ trân quý nhất của các vị.
Nói tóm lại, chỉ vì một chút lợi ích nhỏ nhoi, con người lại đi sùng bái những thứ yêu ma quỷ quái này, quả thật là thiên lý không dung. Tuy nhiên đó là do con người tự mình cầu lấy, ngay cả thần tiên cũng không thể can thiệp. Lòng người không thay đổi, Thần Phật cũng bó tay không biết làm thế nào!
Tôi kể ra những chuyện trên đây, mục đích cũng là để khuyến thiện, khuyên mọi người tu tâm dưỡng tính, đừng để cái ác dẫn dụ thành mê mờ, tâm sáng tỏ thì mới có thể nhìn ra chân tướng mọi việc thế gian.
Cũng mong các vị có thể tu cái miệng, đừng phỉ báng Thần Phật để rồi tự rước họa vào thân, thứ chờ đợi sẽ là cửa địa ngục. Tin hay không tin là do các vị quyết định, phúc họa cũng theo đó mà thành…
(Còn tiếp)
(Theo lời kể của Vị cao tăng vân du)
Hồng Liên biên tập
https://thichthiendinh.vn/cao-tang-v...ai-cang-huy-ho