-
5000+ Vietnamese - Chinese Chinese - Vietnamese Vocabulary
https://books.google.com.vn/books?id=5o2kBQAAQBAJ
Gilad Soffer - Foreign Language Study
dũng cảm 勇敢 dư chấn 余震 dư vị 回味 dương vật 阴茎 dược sư 药剂师 dứt sưa 切除 dưới 底部 dưới下 dưới đây下面 dường như 似乎 dạ múi khế 皱胃 dạy 教 ...
-
-
-
Tốc giáng oai linh thú cẩm tiên bồng lai cánh tý, kiểng tự nhiên trực để ...
http://tuanhieunghia.blogspot.com/20...uong-kinh.html
-
Tiêu Nhiên Đại Sĩ – Ông Tiêu
Tiêu Nhiên Ấn
* Nguồn gốc
- Tiêu Nhiên Đại Sĩ là thị hiện Chiến Thần Dạng, Dạ Xoa Quỷ Vương của Tự Tại Thiên Tử.
- Được xếp vào Dạ Xoa Bộ, một trong Bát Bộ có thành viên đông đảo hộ trì Chánh Pháp.
- Các tôn danh: Tiêu Nhiên Thiên Tử, Ông Tiêu, Tiêu Diện Đại Sĩ, Tiêu Nhiên Hộ Pháp, Ông Ác
- Thuở xa xưa, trong lúc Tự Tại Thiên Tử đi du hành nơi các cõi âm quang u tối của Trung Giới. Lúc bấy giờ, Ngài hữu duyên gặp chúng quỷ Dạ Xoa chìm đắm trong khổ não bởi những dục vọng về thần thông để tranh giành vị trí độc tôn. Lúc bấy giờ, Ngài khởi tâm từ bi muốn cứu độ chúng dạ xoa ấy nên liền thị hiện hình tướng Dạ Xoa Vương hung tợn, to lớn vô cùng. Chúng quỷ nhìn thấy có một Quỷ Vương xuất hiện to lớn vĩ đại quá liền thuần phục Ngài, không còn tranh đấu thị hiện thần thông với nhau nữa. Nhờ vậy mà ngài thuyết giảng cho họ thấu hiểu được việc chấp niệm vào thần thông khiến cho tâm thức khổ não, thị hiện hình tướng bất thiện chẳng đẹp đẽ gì bởi tham sân si ở nơi u tối thiếu sáng. Chúng quỷ nghe lời, buông xả chấp niệm ấy, hồi hướng tu tâm dưỡng tánh để chuyển sinh vào các cõi lành, thoát khỏi nơi u ám.
- Sau khi hóa độ chúng Dạ Xoa ấy, Tự Tại Thiên tử từ biệt rời đi. Chúng quỷ xin được biết tôn danh quý tánh của ngài, thì ngài nói họ cứ gọi ngài là Tiêu Nhiên Thiên Tử là được.
- Sau này, ngài thị hiện hình tướng ấy để bảo hộ cho pháp đàn các buổi thuyết pháp của chư Thánh không bị xâm hại bởi tà ma ngoại lực.
- Chúng quỷ nhìn thấy thân ảnh hình tướng thị hiện của ngài thì chẳng dám manh động quấy phá làm càng, mà còn cùng nhau hồi hướng, hộ trì cho Chánh Pháp.
- Trong quá trình lưu truyền đức tin, từ Tiêu Nhiên được đọc trại thành Tiêu Diện.
- Tiêu Nhiên có nghĩa là tiêu sái, vắng lặng, nhàn dật, cũng gần giống nghĩa với Tự Tại. Vì Tự Tại Thiên Tử muốn giấu thân phận thật của mình trước chúng quỷ nên dùng tên tự như thế.
* Hình dáng thị hiện và tính chất đặc trưng
- Tiêu Nhiên Đại Sĩ có hình tướng thị hiện là Dạ Xoa Vương, với thân hình màu xám đen, trên đầu có sừng, mắt to lồi, răng nanh dài lởm chởm, có chiếc lưỡi đỏ thè dài ra, tóc lưa thưa mấy chỏm phía sau đỉnh đầu và ở phần mang tai dựng lên.
- Trên thân ngài khoác Long Lân Giáp (Giáp Vảy Rồng) của võ tướng tượng trưng cho sự dũng mãnh thần uy sẵn sàng đối diện với nguy hiểm gian khổ. Ở tay ngài có choàng một dải lụa là Như Ý Lăng tung bay phấp phới tượng trưng cho ý tưởng phi thường của tầng Phi Tưởng Diệu Thiên nơi ngài chưởng quản.
- Sau lưng ngài có Ngũ Phương Kì hay còn gọi là Ngũ Hành Kì, tượng trưng cho quyền năng xoay chuyển thiên địa.
- Trên đôi tay ngài lại còn có Trí Huệ Kiếm và Giáng Ma Chữ tượng trưng cho trí tuệ minh triết diệt trừ vô minh, tham sân si và ma chướng tà tâm.
- Đôi chân ngài mang cặp hài Vô Ưu, sẵn sàng lao vào bể khổ để cứu vớt chúng sinh mà tâm vẫn bình thản vô ưu vô tư.
* Tiêu Nhiên Đại Sĩ trong tín ngưỡng tâm linh
- Người đời cảm mến, thần phục trước đức từ bi độ lượng, thần thông quảng đại của ngài nên xưng tụng ngài là bậc Đại Sĩ, cũng giống với tôn danh Quán Âm Đại Sĩ, là một hóa thân khác của Tự Tại Thiên Tử vậy.
- Ở các chùa hoặc đền thờ, người ta thường thờ hình tượng của Tiêu Nhiên Đại Sĩ ở phía sau cùng chánh điện, mặt quay vào pháp đàn để làm một vị Hộ Pháp bảo hộ cho tín chúng.
- Người ta còn hiểu theo hướng tượng trưng của hai hình ảnh là ông Thiện gắn liền với Vi Đà Thiên Tôn chuyên khuyến thiện hộ trì Chánh Pháp, và ông Ác là Tiêu Nhiên Đại Sĩ chuyên răn đe ngăn ngừa cái xấu ác tác quái.
- Người ta thường gọi ngài là Ông Tiêu một cách gần gũi, thân mật.
* Tiêu Nhiên Ấn – Lưỡi Ông Tiêu
- Ở các chùa hay đền có thờ tượng Ông Tiêu thì người ta còn có một đức tin rằng cái luỗi đỏ của ngài là một vật chứng cho sự xuất hiện của ngài. Nếu ai giữ bùa bảo hộ có hình ảnh cái lưỡi này thì tự nhei6n như có ngài ở đấy, tất nhiên chúng quỷ và ma chướng tà thuật đều sẽ không tác quái được.
- Từ niềm tin đó, người ta làm nhiều linh phù dùng giấy đỏ có vẽ hình cái lưỡi dài, để trong một phong bì trang trọng rồi đặt lên một mâm cúng lễ ngay dưới chân tượng Ông Tiêu. Họ tụng kinh, trì chú, cầu nguyện trong pháp đàn cúng tế thí thực cho chư âm linh được an lạc. Sau đó người ta sẽ phát các phong bì có bùa hình lưỡi Ông Tiêu này cho những gia đình nào có con nhỏ hay khóc đêm, hoặc người hay nằm ngủ mơ thấy bậy bạ, bị bóng đè… thì sẽ chấm dứt các tình trạng bất thiện ấy.
- Khi dùng Linh Phù Lưỡi Ông Tiêu thì nên đặt linh phù ở nơi đầu nằm, hoặc trên bàn thờ, hay là làm thành một cái túi nhỏ để đeo trên cổ cũng được. Tránh tối đa việc làm dơ bẩn hay nhàu rách nát Linh Phù, nếu lỡ linh phù bị như thế thì nên đốt đi, tro ấy để trong bát hương của nhà hoặc cho vào chậu cây, không bỏ lung tung ở cống rãnh.
** Lưu ý quan trọng **
* Trên thực tế, Linh Phù Lưỡi Ông Tiêu chỉ có tác dụng hữu hiệu đối với các trường hợp có đức tin mạnh mẽ, rõ ràng và có thiện nguyện, thiện hành cụ thể trong đời sống thường ngày, thường xuyên ăn chay, biết thương xót sinh mạng các sinh linh nhỏ bé. Tạm gọi là những người có đời sống tâm linh đạo đức ở mức tương đối khá. Thì lúc đó mới có cảm ứng tương tác được với Lưỡi Ông Tiêu vì lưỡi ấy cũng tượng trưng cho từ bi, trí tuệ.
* Những người dùng Lưỡi Ông Tiêu mà tâm tình bất thiện, lòng dạ chẳng ngay thẳng, không có giữ gìn giới sát, thường ăn mạng chúng sinh thì chắc chắc không linh ứng.
* Một số hành giả tu Đạo có thể tinh luyện được linh phù này, khi họ có tâm tình và thệ nguyện thiện hành tương đồng, cảm ứng được với các đức tính đặc trưng thể hiện qua hình tướng của Ông Tiêu.
Ảnh minh họa sưu tầm:
Tượng Ông Tiêu ở chùa Phước Trường - Tỉnh Trà Vinh
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...f9&oe=5D4F472C
https://www.facebook.com/TamGioiToan...1784578347447/
-
Biết than vãn với ai, chỉ một lòng tin Tam bảo và oai linh Tổ sư. Thời Kỳ Tiếp Tăng ...
http://www.moidenchanhphap.com/tin-t...linh-son-co-tu
-
Nam mô oai linh Phật mẫu tâm đại Chuẩn Đề Đề vương Bồ tát ma ha tát cảm ứng chứng minh.
https://dienbatnblog.blogspot.com/20...ong-phong.html
-
Thầy hằng nói với các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng nên động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ.
http://www.caodaism.org/e-book-pdf/T...Gia(v2011).pdf
-
A- LỄ TRẤN THẦN & HÀNH PHÁP
Pháp Đạo ngày nay khi Trấn Thần hay Trấn pháp thì dùng NƯỚC TRẮNG để luyện thành NƯỚC PHÁP gọi là MA-HA-THUỶ.
Trấn Thần là dùng phép Huyền diệu của Đức Chí Tôn ban cho để ban rải thanh điển vào một vật, khử trừ các trược điển và đưa một vị Thần đến trấn giữ, không cho tà quái xâm nhập khuấy phá. Nơi cửa Đạo, Đức Hộ Pháp trấn Thần các Dinh thự như: Trấn Thần Đền Thánh, Báo Quốc Từ, Chợ Long hoa…Trấn Thần trên vật như Áo Mão của Chức sắc…
Hành pháp là trên hài cốt đối với người giữ Đạo đã qui Thiên gọi là hành phép xác; với Chức sắc gọi là hành pháp độ thăng… tất cả các Bí-pháp này có được trong buổi Đại Ân Xá của Chí-Tôn mà thôi.
Ma Ha thủy 摩 訶 水
A: The Holy water.
P: L'Eau bénite.
1-Ý nghĩa của Ma Ha Thủy:
Ma Ha thủy, nghĩa đen là nước của con sông lớn linh thiêng ở Ấn Độ, đó là sông Gange, tức là Hằng hà. Đây là con sông mà Đức Phật Thích Ca xuống tắm, tẩy trần và đạt Đạo.(Ma Ha: do tiếng Phạn phiên âm: lớn, đại. Thủy: nước). Nơi Tây Ninh Thánh Địa thì sông Cẩm giang tương lai cũng sẽ là huyền diệu như sông Gange vậy.
Trong Đạo Cao Đài, Ma Ha thủy là nước đã được làm phép, dùng trong hai Bí pháp:Tắm Thánh và Giải oan Sách “Bí Truyền Chơn Pháp” các Ngài dẫn giải về Ma Ha thủy và cách luyện Ma Ha thủy để dùng trong Phép Tắm
Thánh và Giải Oan. Nguyên văn như sau:
“Khi Đức Phật Tổ từ ngôi báu, tầm Đạo, thì Người gặp phải manh sư truyền giáo, cố lấy phương ép xác đặng đạt huyền diệu thiêng liêng. Người tập tuyệt thực, ngồi tại hòn núi chịu khổ hạnh 6 năm, thân hình yếu ớt, sức lực hao mòn, đến đỗi ngày cùng tận của Ngài duy có ăn một hạt cơm mà thôi (theo lời kinh nói). Buổi ấy cái thảm tượng sắp chết của Ngài hầu đến, thoạt nhiên có một người tiều phu đến nơi núi của Người đang trì định; lần đến bên Người, ôm đờn, đờn một điệu rất nên hòa nhã thâm thúy không cùng, nhưng có một điều là lên dây đờn quá thẳng, làm cho đến khúc hay thì đứt dây loan. Đứt rồi nối, nối rồi lên thẳng, đờn lại đứt nữa, chẳng biết mấy lần, làm cho Phật đang nhập thiền trì định phải tỉnh hồn, day qua mà than với ông ấy rằng: Ông đờn thì hay mà lên dây chi cho cao quá, mỗi lần hay phải đứt dây, thì cái hay ấy phải mất đi sự tuyệt diệu, tôi rất nên thương tiếc.
Ông tiều ấy liền trả lời rằng: Tiếng Đờn của tôi hay cũng giống như sự tu của Phật. Dây đờn của tôi lên cao quá nó phải đứt thì cái hay của nó chẳng hữu ích chút nào; còn sự tu của Phật, nếu cái cao siêu huyền bí của nó mà đạt cơ bất diệt, cái cao của nó cũng phải chết theo Phật, còn chi cứu thế độ đời.
Thốt như thế rồi liền đứng dậy xách đờn mà đi (Kinh cho rằng ông ấy là Bồ Tát đến kiến tánh cho Phật). Mấy lời ấy làm cho Phật tỉnh giác, biết mình lầm theo Tà pháp Bàn môn, liền đứng dậy, vội vàng xuống núi, làm cho bốn vị Đệ tử theo bên Người, mong cho thấy Người đạt pháp. Khi thấy Phật xuống núi mông phàm thì ngã lòng thối chí, bỏ Phật không làm Môn đệ nữa.
Trước khi Phật xuống núi, nơi xứ của Phật tu có một vị thiện nữ giàu có sang trọng, nuôi thú vật rất nhiều. Ban đêm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Ngày ấy, giờ ấy, sẽ có Phật tại rừng Bồ đề, nàng phải bắt 72 con bò cho ăn bông mai mà thôi, vắt sữa 72 con bò ấy, cho 12 con uống, rồi vắt sữa 12 con cho một con uống, lấy sữa của con ấy đựng vào Bình bát vàng đem dâng cho Phật.
Khi Phật bộ hành đến mé rừng Bồ-đề thì mệt mỏi quá, thân hình rã rượi, thần sắc lờ mờ, sa vào một cội Bồ đề mà chết giấc, nhờ chết giấc ấy mới xuất thần đặng hội diện cùng chư Phật, thấy rõ trước mắt Địa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt pháp. Duy lạ một điều cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ, Người không gần đặng. Thoạt thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và chơn thần của Người đã chịu nhiều quả kiếp cho nên ô trược nhớp nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến sông Ma Ha tẩy trược. Trong cơn ấy, người đàn bà bưng bình bát sữa vừa đến rừng Bồ đề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết, sờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng tất cả cùng ra tay hô hấp.
Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người. Phật uống đặng bình bát sữa ấy rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa.
Ấy là cơ hiệp Tam bửu: Tinh – Khí- Thần hiệp nhứt. Tinh là hình hài, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Nhờ Tam bửu phối tế, người định giác lần lần, thấy đặng cõi Hư linh và cảnh phàm trần xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.
Khi đã định tâm đạt Pháp rồi, Phật liền nhớ lời Bồ Tát dặn, nên lần hồi tới bãi sông Gange, nhưng có một điều lạ là chơn thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên người mờ hồ chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt Pháp.
Xuống tắm sông Gange rồi lên khỏi bờ, cầm Bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt Pháp, xin chư Phật cho cái Bình Bát Vu nầy trôi ngược dòng nước.
Nói rồi, Người liệng Bình-Bát-Vu giữa dòng thì Bình-Bát-Vu từ từ trôi ngược dòng nước.
Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm Bình Bát Vu mà nói rằng: Nước sông Gange sẽ rửa sạch oan nghiệt tội tình của kiếp sống “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa”.
Kể từ ngày tắm nơi sông Gange rồi thì mỗi phen trì định xuất thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào đặng Tây Phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị.”
2-Cách luyện Ma Ha Thủy
Hành Phép Giải Oan
(Baptême de l’eau)
"Múc một tô nước lạnh để tại Thiên bàn. Người hành pháp đứng, định thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng con mắt chữ (. ) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chơn trái lên vẽ chữ (. ), đạp trên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ Đinh, gọi là đạp Đinh Giáp.
Khi hành pháp rồi tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước, buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.) đoạn ngay tay ra truyền thần xuống nước, niệm câu chú: “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa”. Nhắm mắt định thần đợi thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả Ấn liền rút tay ra liền.
Cầm tô nước tay mặt, đến trước mặt người Giải oan biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay Nê Hoàn. Hễ vẽ vừa rồi liền chụp ngay ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ẤN NGŨ-HÀNH SƠN, vừa chụp vừa niệm câu Chú này: “Úm Ma ni bát ri hồng”. Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà niệm: Nam mô Phật; giọt thứ nhì: Nam-mô Pháp, rồi trút hết tô nước niệm: nam Mô Tăng. “Nam-Mô CAO-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.
Hành Phép Tắm Thánh
(Baptême de l’eau)
Phép Tắm Thánh cho trẻ nhỏ cũng vậy, nhưng vừa niệm câu chú “ÚM MA NI BÁT RI HỒNG” phải niệm tiếp câu này: “Nầy là con cái Thiêng liêng của Thầy, xin Thầy gìn giữ trong sạch vậy hoài”.
Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà
- Niệm Nam Mô Phật.
- Giọt thứ nhì niệm: Nam mô Pháp.
- Rồi trút hết tô nước niệm: Nam mô Tăng.
“Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”
CHÚ GIẢI PHÉP XÁC
(Mystère de la délivrance)
Sự sống của con người do nơi Khí Sanh Quang (Vialité) nuôi nấng. Khí Sanh Quang nơi mình chúng ta tu tại 7 khiếu làm nên điển lực. Hễ còn điển lực thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, dứt điển lực thì thi hài “Bất động tử kỳ” (Inaction)
Ai cũng hiểu rằng: Khi tử kỳ đã chí thì thi hài phải chịu một phen đau đớn thảm khổ quá chừng, vì Phật Thích Ca biết cái sự đau đớn ấy dường nào nên Ngài gọi là Tứ Khổ. Sự đau đớn khởi ra từ ngày điển lực đã giảm hao tiều tuỵ, thi hài phải bịnh hoạn, mòn mỏi, vì điển lực đã yếu hấp thụ Sanh quang thì cái sanh mạng của con người
không còn phương bảo tồn đặng nữa..
Kể từ năng lực mòn mỏi cho đến ngày tuyệt Khí Sanh quang thì là một thời gian dài ngắn tuỳ theo quả kiếp của con người, chẳng một vị tu hành nào đã đạt pháp mà định đặng cái thời gian ấy nỗi. Có nhiều kẻ đã chết mà cái năng lực Sanh quang hãy còn, chỉ còn mảy mún mà thôi, nhưng sự mảy mún ấy nó làm cái dây điển lực mà truyền sự đau đớn của thi hài lại với tâm hồn. Sự đau đớn ấy đã quá sức phàm tính để hiểu. Ấy là một quả kiếp đáng ghê sợ. Có kẻ hiểu rằng: Thi hài đã bị nứt nở tiêu huỷ, dòi ăn, hôi thúi mà tinh thần thoát ra không khỏi, rồi chịu sự đau đớn ấy cho tới xương tàn cốt rụi mới thôi. Ấy là một cái hình phạt Thiêng Liêng oai nghiêm hơn hết. Hễ còn biết đau thì còn tưởng đến mình, tưởng đến mình thì còn nhớ sự đời, nhớ sự đời thì còn thương kiếp sống, thương kiếp sống thì còn chuyển kiếp luận hồi.
Vì Chí-Tôn biết lẽ ấy là một lẽ đày đoạ cả con cái của Người nên Người nhứt định dùng diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực gọi là Thất khiếu Sanh Quang gọi là bảy dây oan nghiệt đặng cho Chơn Thần xa lìa xác tục rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh mới rõ ràng là Cơ TẬN ĐỘ.
Ấy vậy làm PHÉP XÁC cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt 7 dây oan nghiệt cho Chơn Thần lìa khỏi xác, rồi đưa Chơn-Thần vào cõi Hư linh nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên.
Ở trong Tam Thập lục Thiên có Ngọc Hư Cung và Niết Bàn ở đó.
PHÉP XÁC
Trước khi hành phép Xác biểu sắm sẵn một cái chén, một nhành dương, một cái kéo và 9 cây nhang.
Dùng chén ấy đựng nước Cam-lồ.
Đoạn vẽ bằng con mắt trong con ngươi Thiên Nhãn chữ (.) vẽ dưới chơn trái của mình chữ (.) vẽ trên đầu người chết chữ (.)
CAM-LỒ-THUỶ
Nơi Lôi-Âm-Tự có một Cây Dương bao trùm cả LÔI ÂM, mỗi chót nhánh của lá Dương có một giọt sương. Một giọt sương là một sanh mạng của con người. Hễ giọt sương ấy rơi thì con người phải tuyệt. Vậy phải đến LÔI-ÂM-TỰ lấy nước Cam lồ (Bí pháp này phải luyện mới đặng).
Cách luyện Cam-lồ-Thuỷ:
Để chén ngay thiên Bàn, gát ngang nhành Dương liễu qua miệng chén, đoạn lấy hai chén nước Âm Dương xáp lại cùng nhau cho Âm Dương Ký Tế, nghĩa là hai mặt nước hiệp nhau rồi đổ ngay giọt xuống chén mà niệm câu Chú này: “Cam-lồ-Thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệp tội chướng chi đoạ”.
Hễ dứt câu niệm thì phải ngưng giọt nước, đoạn tay trái bắt ấn Hộ-Pháp để chén nước Cam lồ trên Ấn; tay mặt cũng bắt Ấn Hộ-pháp chụp lên miệng chén, co ngón tay giữa tay mặt vẽ bùa (.) trên mặt nước rồi buông ngón ra, truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định Thần, hễ thấy Thiên Nhãn giáng ngay mặt nước thì tức cấp giựt tay ra, đừng đứng đợi để tiêu Thiên Nhãn thì thất Pháp. Nước CAM LỒ đã thành.
PHÉP ĐOẠN CĂN
Cầm cái kéo nơi tay trái, ngón cái và ngón giữa xỏ vô hai lỗ kéo, còn ngón trỏ thì để ngay lỗ kéo cho đủ ba chấm: PHẬT –PHÁP- TĂNG. Đưa cái kéo ngay lên Thiên Nhãn (làm thế nào cho cái kẽ kéo ngay Con Ngươi của Thiên Nhãn rồi cầm chín mũi nhang đốt vẽ chữ (.)
Ấy thành Pháp của cơ thể Đoạn căn (nhớ đếm cho đủ 9 cây đặng cho đủ Cửu Tiêu là ảnh hưởng Cửu Thiên Khai Hoá. Hễ thiếu tắt một cây là thất pháp)
HÀNH PHÉP XÁC
Phải có một người phụ lễ cầm cả một món Bí-pháp theo mình, đứng ngay đầu hàn rồi chính mình người Hành pháp phải xướng đọc BÀI CẦU HỒN. Khi Đồng Nhi đã tiếp đọc rồi thì tay trái bắt ẤN HỘ-PHÁP để chén nước Cam lồ lên. Tay mặt cầm nhành dương liễu ngay lên Trời gọi là “chỉ thiên”, định Thần thế nào thấy thây kẻ chết cho rõ rệt,chớ không đặng phép thấy hòm. Nhún nhành Dương vào Cam-lồ-Thuỷ mà rải cùng thi hài ấy. Hễ mỗi phen rải thì phải niệm câu Chú: “Cam Lồ thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệt tội chướng chi đoạ”.
Hễ cái Thần mình biết nước Cam-lồ rửa cùng mình của kẻ chết thì thôi (đừng thấy cái hòm trước mắt đó mà cứ rải nước thì không ăn thua gì ráo).
Đi giáp vòng ra chính giữa đầu hàn, tiếp tụng kinh với Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhứt.
HÀNH PHÉP ĐOẠN CĂN
Người Hành xướng tụng BÀI CẦU HỒN lần thứ nhì, khi Đồng nhi tiếp đọc rồi thì lấy cái kéo cầm như khi
nãy (nhớ đừng tưởng cái kéo, chỉ tưởng cái “Cắc” của nó mà thôi) đoạn định Thần cho thấy thây chết, đi vòng chung quanh cắt bảy dây oan nghiệt ấy nơi:
1- Trên đầu (mỏ ác) 2- Ngay trán 3- Ngay cổ
4- Ngay tim 5- Ngay hông bên trái
6- Dưới dạ dưới 7- Dươi xương khu.
Hễ cắt đủ bảy dây rồi, trao cái kéo cho người hầu Lễ, vào đứng tại đầu hàn tiếp tụng kinh cùng Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhì.
HÀNH PHÉP ĐỘ THĂNG
Người Hành lễ xướng tụng Kinh CẦU HỒN. Khi Đồng nhi tiếp tụng rồi thì cầm 9 cây nhang bên tay mặt. Tay trái bắt Ấn Hộ-Pháp để ngay trái tim, định thần vẽ chữ (.) trên thây kẻ chết, truyền Thần vô 9 cây nhang rồi thấy cho đặng thi hài hoặc còn nằm hoặc ngồi. Đưa chín mũi nhang ngay vào nguyệt cung (ngay miếng kính trước đầu hàn) định Thần, trục chơn thần của kẻ chết ngồi trên 9 cây nhang rồi nán đợi cho Chơn Thần thăng đủ ba Tam giới, nghĩa là ba bậc thăng rồi lại cầm vững cho Tam bửu nhập định đủ ba lần. Hễ thăng thì lên, trầm thì đoạ. Rồi giao 9 cây nhang cho người hầu lễ, đứng tụng tiếp Kinh cho mãn hồi thứ ba.
CHÚ GIẢI KINH HÔN PHỐI
(Mystère d’union)
Cả cơ thể hữu vi của Tạo Hoá từ Càn khôn thế giới cùng vạn vật đến loài người đều do khối lửa THÁI CỰC mà sanh ra. Khối Thái cực là chỉ một khối lửa..
Khối lửa ấy vì nhờ vật chất trong Càn khôn thế giới chụm vào càng ngày càng lớn, quá sức lớn thì chẳng còn trụ nguyên làm một đặng nữa, phải phân đôi. Hai khối
phân đôi ấy chạy khít nhau và xây tròn nơi không trung mau lẹ quá đỗi, chạm nhau biến hình ra như hai cây. Thoạt nhiên hai cây ấy xấp nhau mà thành chữ Thập, giống in như chong chóng của trẻ thường làm mà chơi đó vậy. Chong chóng ấy xoay rất mau, từ Đông qua Tây và vì sự vụt động quá lẹ, bốn cái đuôi chữ Thập ấy liền cuốn mà thành ra chữ VẠN. Những cuống đuôi chữ Vạn ấy đứt, liệng lửa cùng trong thế giới mà thành ra địa cầu (Tam Thiên Thế giái và Thất thập Nhị địa). Ấy cũng là những đóm lửa của Thái cực đã văng ra, nguội lại thành Địạ cầu.
Hai không khí ấm lạnh do: nhiệt (Calorie) của Thái cực Hàn (Froid) của Càn Khôn tương khắc biến thành nguơn Khí. Cái nguơn Khí ấy y theo lời của Đức Nguyệt Tâm chứa đầy dẫy sanh quang (Vialité). Khí sanh Quang lại biến ra muôn hình vạn tượng mà tạo thành vạn vật toàn trong Càn khôn thế giới. Thật sự thì Thái cực chỉ sanh Tứ tượng mà thôi gọi là Tứ Dương, nhưng bởi vận động giữa không trung mau chóng quá đỗi mới biến bóng hình thêm bốn cánh. Bốn cánh ấy chỉ là bóng mà thôi nên gọi rằng Tứ Âm. Nhưng nhờ cái Tứ Âm ấy vốn là bốn khoản trống để cho Sanh Quang ra vào biến đổi mới có linh cảm hình tượng của vạn vật trong Càn khôn (cũng như chúng ta đánh trứng gà, biến ra hình này hình kia, rồi Thầy dùng huyền diệu Thiêng Liêng hoá sanh ra vạn vật). Mỗi hình thể của vạn vật không giống nhau là vì đó.
Chúng ta đưa cả và hai tay hai chơn ra thì thành chữ Thập gọi là Tứ Dương hiệp lại với hình thể của đàn bà thì thành ra Tứ Âm nữa. Âm Dương tương hiệp thì mới đủ Bát Quái, mới ra cơ sanh hoá:
- Nam là Tứ Dương.
- Nữ là Tứ Âm
Hành pháp bí mật chỉ hiệp Tứ Dương và Tứ Âm
của tinh thần đặng cho biến hoá thêm nữa, sản xuất thêm nữa, chẳng phải sanh hình thể của con mà thôi, mà sanh cả hồn phách của chúng nó nữa.
Ấy vậy khi hành LỄ HÔN PHỐI phải biểu chàng rễ và cô dâu vào quì giữa Bửu Điện trên hết mọi người, dầu cho cha mẹ cũng phải quì sau (Quyền phép ấy Đạo chỉ coi rễ là Tứ Dương, dâu là Tứ Âm của Tạo Hoá mà thôi, ngoài nhơn luân và nhơn tình, Hội Thánh chẳng biết chi khác hơn nữa).
HÀNH PHÉP HÔN PHỐI
Bảo Cô dâu và chàng rễ phải nắm tay nhau, tay tả của nam nắm tay hữu của nữ, tay hữu của Nam nắm tay hữu của nữ, thành ra Ấn Bát-Quái, đoạn vị hành pháp ngó ngay Thiên Nhãn định Thần lấy con mắt của mình viết chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái lên viết chữ ( ) đạp trên chữ ( ) ấy rút chơn mặt ký chữ Đinh ( ) gọi là đạp Đinh Giáp, day lưng lại ngó ngay vào đầu của con dâu và chàng rễ viết chữ ( ) ngó ngay Nê Hoàn nghĩa là mỏ ác của chúng nó, viết chữ cho lớn, đặng bao trùm cả hai mỏ ác, viết bằng con mắt ( ).
Đợi chừng Thiên Nhãn giáng ngay Nê hoàn ấy, chụp trên Thần hai bàn tay ngay Thiên Nhãn và đỡ nó lên lưng bàn tay cho hiệp hai Thiên Nhãn ấy lại kề nhau thì thấy mặt của CHÍ-TÔN hiện tượng, đoạn đỡ hình tượng của Chí-Tôn day lại ngay Thiên Nhãn mà cho nhập chung vào đó (nhớ đừng lo ra thì mất mà thành ra nguy hiểm cho hai người Nam Nữ ấy lắm). Khi cho nhập rồi thì để hình tượng ấy yên tịnh nơi Thiên Nhãn đứng cầu nguyện dùm cho hai trẻ dài dòng cả họ, hữu hạnh hữu phước, truyền kế không ngừng, nương nơi quyền Thiêng Liêng của Chí-Tôn
đặng tấn hoá trong đường Thánh Đức, nối tóc đến già,
đồng tịch đồng sàng, đồng sanh đồng tử.
Đoạn ngó ngay lên Thiên Nhãn của Chí-Tôn định thần trục Thiên Tượng ấy ra (nhớ lấy cho đủ hai con mắt) day lại lừa Thiên Tượng ấy ngay đầu hai trẻ trả lại như xưa, tức làm tiêu Thánh Tượng (hồi đem xuống cũng bắt Ấn Bát Quái Dương nằm trên Âm)
Đứng ngay giữa đôi đứa đọc bài thi của Đức Chí Tôn dạy làm phép Hôn phối:
Bài Thi:
Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,
Mãn thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo-đức nhất tâm tu đảo cáo.
Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn (1)
Rồi khuyên lơn hai trẻ và dặn rằng: phải giữ nhơn luân đạo nghĩa (dạy dỗ giữ vẹn nhơn luân và cho biết rằng quyền Hội-Thánh định không cho đặng lìa nhau cho đến trọn đời. Nếu như đôi lứa phản nhau, có lẽ phải sa đoạ Phong đô định tội) Khi dạy khuyên đôi trẻ rồi thì vị hành pháp vói tay nắm hai tay ngoài của nam và nữ đỡ đứng dậy sắp hai mặt vào nhau, xây cho hai đứa cặp nhau (đừng day lưng mà khổ cho hai trẻ) còn mình đi chính giữa, nắm tay hai trẻ dìu dắt đưa ra cho khỏi Toà Thánh, tức nhiên ngoài cửa Hiệp Thiên Đài mới cúi đầu từ tạ trở lại Điện)
Ghi lại nguyên văn “BÍ TRUYỀN CHƠN PHÁP”
của Hội Thánh giữ bản quyền, được Ngài Hiến Pháp quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài kiểm duyệt và chỉnh văn ngày 12-8-1972
Lời Bà tường thuật như vầy:
“Nhắc lại hồi Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Chú thích (1) Bài thi này là của Đức Chí-Tôn ban cho Bà Lâm Hương Thanh trong ngày thành hôn của Ông Nguyễn Ngọc Thơ và Bà. Chính Thầy làm Lễ Hôn phối cho:
Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi 15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết. (Phò loan có Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp). Thầy cho 4 câu thi cùng dạy ĐạoTại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (5-6 Bính Dần)
Thầy,
“Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau:
Dạy con hiểu à!
Thầy bảo ông Nguyễn-Ngọc-Thơ viết ra Hán văn: dưới là bút tích của Ngài Thái Thơ Thanh(Trích: Tam vị Nữ Đầu sư)
天 恩 此 日 賜 成 婚
滿世 不 離 體 與 魂
道德 一 心 須 到 告
主 中 是 我 至 天 尊
https://www.daotam.info/booksv/DichL...-chuongIII.htm
-
https://cdn.cadao.me/wp-content/uplo...3/06/ha-ba.jpg
Hà Bá Vị thần cai quản sông trong tín ngưỡng đạo giáo. Xưa kia ven sông thường có đền thờ Há Bá để cầu cho mọi người không gặp nạn trên sông và bắt được nhiều cá trong mùa mưa. Hà Bá thường được miêu tả là một ông lão râu tóc bạc trắng, tay cầm một cây gậy phất trần với một bầu nước uống, ngồi trên lưng một con rùa và cười vui vẻ
https://cadao.me/the/tho-dia/#note-3899
-
Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ
-
- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra sao, cớ gì lại dám lăng miệt, hủy tượng đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ (2).
https://www.maxreading.com/sach-hay/...ien-22223.html
-
Ông Địa giáng đàn qua các chi phái nào?
Về sau qua các Thánh Giáo của các chi phái trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chúng ta có thể ghi nhận được sự hiện diện của một số Đấng Thiêng Liêng khi giáng cơ có xưng danh ĐỊA như: Môn Quang Thổ Địa, Nam Phương Thổ Địa Thần Kỳ, Thổ Địa Chánh Thần, Thần Hoàng Thổ Địa, Linh Quang Phước Thần, Linh Quang Phật Địa … nhưng phổ biến nhứt là Linh Quang Thổ Địa, … …
ông Địa đã giáng cơ qua các Ban Hiệp Thiên Đài từ Tây Ninh đến Chiếu Minh, Minh Thiện, rồi Tiên Thiên, Hội Thánh Truyền Giáo, Cao Đài Thống Nhứt, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Thánh Tịnh Thiên Trước, Ngọc Linh Thánh Tịnh, … …
3. Xưng Danh
Trong một số đàn, khi giáng cơ, Đức Linh Quang Thổ Địa không những không xưng tên, chỉ cho 4 câu thơ ẩn danh, mà còn cắc cớ đố bổn đạo giải nghĩa 4 câu thơ xưng danh mới biết được Ngài là ai, đúng là ông Địa– gần gũi và đầy dí dỏm. Thí dụ:
a. Đàn tại Thánh Tịnh Thiên Trước, Ô Môn Cần Thơ.
THI
“Lính tráng còn đây sắc bỏ đâu,
Quảng chi chẳng hỏi lại câu mâu;
Thô sơ hỏi lại tình sau trước,
Đi đến đại đồng ạ, Á, Âu.”
Giải:
Lính tráng còn đây sắc bỏ đâu,
(Chữ Lính, sắc bỏ, tức là bỏ dấu sắc còn lại chữ Linh)
Quảng chi chẳng hỏi lại câu mâu;
(Chữ Quảng: chẳng hỏi, không có dấu hỏi là chữ Quang)
Thô sơ hỏi lại tình sau trước,
(Chữ Thô: hỏi lại, nghĩa là mang lại dấu hỏi. Là chữ Thổ)
Đi đến đại đồng ạ, Á, Âu.
(Chữ Đi: đến … … đồng ạ, là chữ Địa)
b. Một lần khác, Ngài đố:
THI
“Hiển hách diệu huyền bút chuyển lai,
Ẩn trong ánh sáng rạng danh bai;
Ngũ hành lựa chọn đành ứng cuối,
Đối ngược Thiên đàng tại trước nay.
Vậy trung đàn hãy tìm xem danh hiệu Lão ẩn nghĩa trong bài thi. Nếu giải thích được rõ ràng từng câu thì cứ tọa an! Bằng không thì hãy cảm phiền quì đó! Sĩ Tải bình lại bài thi để tất cả cùng suy nghiệm!
(Bạch………….)
Khen thay! Khen thay! Hãy rót cho Địa một ly rượu đầy!
Đây! Ly rượu nầy Địa thưởng ban cho hiền đó! Cười! Cười!” 3
Giải: .
“Hiển hách diệu huyền bút chuyển lai”.
Hiển hách diệu huyền nghĩa là linh hiển. Lấy chữ Linh.
. “Ẩn trong ánh sáng rạng danh bai”
Ẩn trong ánh sáng ẩn nghĩa là quang minh. Lấy chữ Quang.
“Ngũ hành lựa chọn dành ứng cuối”
Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) chọn … cuối. Lấy chữ Thổ.
. “Đối ngược Thiên đàng tại trước nay”
Đối ngược Thiên đàng là “Địa ngục”… trước nay là lấy chữ Địa.
4. Linh hiển diệu huyền
Trong dân gian, người kỉnh trọng tin tưởng ông Địa, mỗi khi mất vật gì mà tìm không ra thì van vái với Ngài xin giúp cho. Và quả thật, nhiều người đã tìm lại được và sau đó tạ ơn Ngài chỉ với nải chuối hay ít bánh quà đơn sơ.
Trong Cao Đài Giáo, sự linh hiển của Ngài đã được nhơn sanh tín hữu chứng nghiệm nhiều lần. Vài chuyện kể sau đây để minh họa.
Thử cơ bút
Câu chuyện như sau:
“Ông Bùi Thiện Lai (Thánh Danh Thiện Thông Tâm) thử cơ bút tại Thánh Tịnh Thiên Trước. Đàn Ngọ thời Rằm tháng 6 Quí Sửu 1973 như sau:
Ông dấu kín tờ phái qui y của bên Phật Thầy Tây An. Để lá phái trong khăn đống đội trên đầu rồi ông vào hầu đàn cơ. Đức Linh Quang Thổ Địa giáng đàn về minh việc nầy:
Thi Bài
Giục hồi chuông âm thinh tuông đổ,
Giục hồi kèn như chỗ oai linh;
Điểm xong ba tiếng thình lình,
Phút đâu đổi lại hậu tình thể nhiên.
Dùng một lối uy quyền trao lại,
Đáp cho người hầu phải noi theo;
Giờ đây chớ có ngặt nghèo,
Cang trường lao lý là treo danh mình.
Cũng có người vô tình khảo đạo,
Lại có điều thiện bảo nên chăng;
Địa đây nhận thấy biết rằng,
Với lòng thử thách trước đàn xét xem.
Vậy ai thử xin kèm lời nói,
Địa không thèm buộc trói bao giờ;
(Không có ai ra mặt và trả lời, thì Đức Linh Quang Thổ Địa dạy tiếp)
Thiện Tâm kêu gọi đơn sơ,
Cho lòng tin tưởng một tờ vô vi.
Thử Đồng Loan việc gì đó vậy,
Hàng chữ kia có phải vẹn toàn;
Cho là Phật Thầy Tây An,
Khăn kia liền giở ra làm thử xem.”
Ông Thiện Thông Tâm run rẩy đứng dậy tái xanh nét mặt, liền hai tay dỡ khăn đống, tờ giấy phái đạo cấp của bên Đức Thầy Tây An rớt ra, trước sự ngạc nhiên của bao nhiêu người hầu đàn đang chăm chú theo dõi. Đức Linh Quang Thổ Địa dạy tiếp:
Rồi đứng dậy đã kèm tờ giấy,
Hỏi thử lòng, lòng ấy toại nguyền;
Hỏi rằng tờ ấy linh thiêng,
Ra sao Địa giảng cho hiền tìm ra.
Đó là tờ của cha hiền sĩ,
Giao lại hiền cất kỹ linh thiêng;
Đến nay mới biết nhiệm huyền
Nên hiền thử thách, cũng phiền gắng lên.
Rồi sau này vững bền một mối,
Cứu bệnh tình nhờ bởi bùa linh;
Hiền ơi hãy khá nhận nhìn,
Địa còn thấu rõ muôn nghìn việc chi.”
b. Địa không ưa thịt gà
Có một người ngoài đời ở gần Thiên Lý Đàn Ô môn - Cần Thơ, nhà đàn của ông Nguyễn Kim Sanh (Thánh danh Thông Tâm, chức sắc Giáo Sư, là thân phụ của hiền hữu Nguyễn Kim Bia ở Ô môn hiện nay), thường đến nhà đàn nầy để hầu đàn cơ. Bà rất tin tưởng Ơn Trên.
Một bữa nọ bà về nhà nói lại với người chồng rằng: - Ông ơi! Tôi đi hầu đàn. Có một vị về đàn xưng danh là Linh Quang Thổ Địa, nói rất hay, việc gì cũng biết rõ hết.
Người chồng bảo: - Bà nói hay như thế, bây giờ tôi viết một “bức thơ” xin mách cho tôi mua một con đề (số đề), nếu trúng thì tôi mới tin.
Chồng viết xong bảo vợ khi nào đi hầu đàn thì đem theo, lén dỡ chân đèn mà dấu kín, không để ai hay biết !
Trong một buổi lập đàn, có Đức Linh Quang Thổ Địa về xưng danh rồi thì nói: “Hiền Thiện Mỹ, hãy lên Thiên Bàn, dỡ chân đèn lên lấy phong thơ gởi cho Địa. Hiền quì cầm giữ nó, chờ Địa phân trần xong rồi sẽ mở ra đọc”.
Sau đó Đức Linh Quang Thổ Địa cho bài thi:
Ớ muội Sen ! Lòng hiền muốn thử,
Rõ chánh tà căn cứ đạo gia;
Anh Địa vốn thật là ta,
Ở nơi Thiên Lý, thịt gà không ưa.
Nay Địa muốn cho vừa lòng muội,
Rõ chánh tà, cặm cụi lo tu;
Chánh tà hai nẻo xa mù,
Tu là đàng chánh, quyết tu đắc thành.
Phong thơ được mở ra và đọc lên. Trong thơ người chồng viết như vầy: “Kính gởi anh Địa! Anh có linh thiêng hộ độ cho tôi trúng được con đề 36 thì tôi cúng cho anh một con gà”.
Đạt Tường
1 Cho đến Rằm tháng 10 Bính Dần, Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo, Thiền Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh mới được khánh thành trở nên Thánh Thất Cao Đài đầu tiên.
2 Theo Khảo Luận Xây Bàn và Cơ Bút tr 62, Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, Ất Dậu 2005
3 Thiên Trước, 15.3 ẤT Mão (26.4.1975)
http://antruong.free.fr/ongdiaquacobut.html
-
https://www.youtube.com/watch?v=SkScfMO3r7c
Triệu thỉnh thổ địa chú
Đạo Sĩ Ngọc Trường Chân
Xuất bản 27 thg 12, 2017
Thổ địa có nhiều vị như môn khẩu thổ địa, môn quan thổ địa, thông linh thổ địa, thổ địa công...
-
https://www.youtube.com/watch?v=C1YdwYO2TEg
Cầu Ngọc Hoàng Thượng Đế
Đạo Sĩ Ngọc Trường Chân
Xuất bản 15 thg 1, 2018
Cầu Ngọc Hoàng Thượng Đế ban quẻ cơ về việc làm ăn
-
Ngũ-Phương Ngũ-Đế, Ngũ-Hổ oai linh. Tướng ở ... Thỉnh triệu các tướng oai linh đáo đàn. Hoặc là ở ... Sơn tiêu Thổ-địa âm binh đẳng thần. Tróc tà sư kỳ binh ...
https://www.google.com/search?q=OAI+...w=1680&bih=905
-
SỚ ĐIỆP CHỮ VIỆT - THÍCH TỊNH NGHĨA - Google Sites
https://sites.google.com/site/mjnhch...g-van-chu-viet
Translate this page
Jan 11, 2012 - 13 - Điệp cúng bà cô thân ruột ( Tư độ linh diên ) ...... Gia Đường Hương Hỏa Liệt Vị Oai Linh , Bổn Thổ Thổ Địa Phước Đức Tài Thần , Lai Sơn ...
-
Nếu nhà có 5 dấu hiệu sau đây thì xin chúc mừng bạn, bạn đang sống trong căn nhà có phong thủy tốt, được thần linh phù hộ.
1. Lối vào
Lối vào nhà được xem là nơi các nguồn khí tốt và xấu di chuyển qua lại. Không để cây lớn, bức tường hay vật chắn trước cửa vì chúng có khả năng hạn chế nguồn khí tự nhiên chảy vào nhà. Bạn nên thường xuyên chăm sóc cửa lớn sao cho không bị gãy mục, gỉ sét, loang lổ, nứt vỡ; luôn tạo một lối đi dẫn vào nhà thoáng khí, xanh mát, đầy đủ ánh sáng.
5 dau hieu chung minh phong thuy nha ban “hop” than linh, tho dia, cang o cang co tien - 1
2. Ngoại thất
Nếu ngôi nhà bạn gần đường sắt, có sân sau dốc, nằm ngay ngã ba đường… thì hãy nhờ chuyên gia phong thủy hóa giải các nguồn năng lượng xung khắc vào nhà. Bạn có thể tham khảo ý kiến của họ để bày trí ngoại thất nhà nhằm phát huy tối đa năng lượng tốt. Việc lựa chọn màu sắc ngôi nhà, số lượng cửa sổ, thiết kế chiều cao của cửa chính sao cho thật phù hợp… cũng góp phần tạo ra các nguồn vượng khí cho nhà.
5 dau hieu chung minh phong thuy nha ban “hop” than linh, tho dia, cang o cang co tien - 2
3. Cửa chính
Chủ nhà cần tạo ra một không gian vui vẻ tại cửa ra vào. Phía trước cửa nên có hàng hiên thoáng mát, ánh sáng đầy đủ và có một tấm thảm màu sắc hài hòa, tạo cảm giác chào đón. Đối với phía trong ngôi nhà (sau khi bước qua ngưỡng cửa), không nên xây nhà vệ sinh đối diện, không lắp gương thẳng hàng với cửa chính và cũng không nên có chân cầu thang đối diện với cửa.
Bạn cũng không nên xây cửa sổ đối diện với cửa ra vào vì điều này sẽ khiến các nguồn vượng khí dễ thoát ra ngoài. Nên tạo một không gian mở để chào đón mọi người bằng một bình hoa đặt trên kệ cao ngay cửa ra vào, một bức tranh phong cảnh tạo không gian rộng thoáng.
5 dau hieu chung minh phong thuy nha ban “hop” than linh, tho dia, cang o cang co tien - 3
4. Nguồn khí
Nguồn khí vào nhà phải đảm bảo các yếu tố như lưu chuyển liên tục, không bị đồ đạc lộn xộn gây ứ đọng. Để đảm bảo được chất lượng nguồn vượng khí, chủ nhà nên chú ý lắp đặt gương, bày trí nội ngoại thất, cách sắp xếp đồ đạc, xây dựng cầu thang và các công trình phụ, tạo ánh sáng vào nhà.
Hơn nữa, bạn có thể tăng thêm các dòng vượng khí bằng cách tạo một không gian thoáng và thơm mát cho các căn phòng thông qua bình hoa, hòn non bộ, bể cá cảnh, tinh dầu tự nhiên…
5 dau hieu chung minh phong thuy nha ban “hop” than linh, tho dia, cang o cang co tien - 4
5. Tam hợp
Sức mạnh của một ngôi nhà hợp phong thủy phụ thuộc rất nhiều vào nguồn năng lượng tam hợp của các căn phòng: Phòng ngủ - nhà bếp - phòng tắm. Nên chú ý phong thủy tại các căn phòng này để mang lại nguồn vượng khí tổng hòa cho cả ngôi nhà. Hãy chắc chắn việc bố trí phong thủy phải được thực hiện đồng thời tại ba căn phòng này. Nếu chỉ bày trí hợp phong thủy được hai căn phòng thì phòng còn lại sẽ kìm hãm sự phát triển của toàn ngôi nhà.
https://phuquyhome.com/san-pham/5-da...g-co-tien.html
-
-
Phần Điệp Cúng Đám Tang THÍCH TỊNH NGHĨA... - Nhánh họ Nguyễn ...
https://ar-ar.facebook.com/.../phần.../668415343187713/
Translate this page
Pháp viện Quan Tướng Sứ Binh . Đương Cảnh Thành Hoàng Thổ Địa Chánh Thần . Thừa Thọ Cảm Ứng Nhất Thiết Oai Linh . Phục duy : Giám nạp chiếu niệm