Nguyên văn bởi
vuive
PHẦN MỘT
Thiền sinh nên sắm sửa hành trang cho cuộc đi xa, với đời sống giản dị, lành mạnh, nơi chốn tu tập thích hợp, dụng cụ và tư thế ngồi thiền đúng đắn, rồi bắt đầu thực tập phương pháp “Quán niệm hơi thở”.
Chủ đề 1
1. Hít vô dài, vị ấy biết : “Tôi thở vô dài”
Thở ra dài, vị ấy biết : “Tôi thở ra dài”
2. Hít vô ngắn, vị ấy biết : “Tôi hít vô ngắn”
Thở ra ngắn, vị ấy biết : “Tôi thở ra ngắn”
Trong thực tập phương pháp “Quán niệm hơi thở”, có hai hoạt động khác nhau về hơi thở : hít vô và thở ra. Sự biết rõ và phân biệt này dẫn thiền sinh đến sự chú ý. Theo Patisambhidàmagga, I, 177, có 9 cách hít vô và thở ra mà thiền sinh biết rõ mình đang làm như vậy.
1. Hít vô dài
2. Thở ra dài
3. Hít vô dài, thở ra dài, mỗi hơi thở choán một khoảng thời gian.
Thực tập như thế, thiền sinh cảm thấy hơi thở dần dần trở nên an hoà : rồi sự ưa thích tiếp tục khởi lên. Như thế, với sự ưa thích, thiền sinh :
4. Hít vô dài
5. Thở ra dài
6. Hít vô và thở ra dài
và hơi thở trở nên an hoà hơn trước. Trong giai đoạn này, thiền sinh trở nên hoan hỷ ; với tâm ý hoan hỷ, thiền sinh :
7. Hít vô dài
8. Thở ra dài
9. Hít vô dài và thở ra dài
và tâm ý trở nên an hoà một cách tuyệt đối. Tâm ý thiền sinh lúc này không còn có quán niệm về hơi thở dài nữa và như vậy được thanh thản tự tại. Trong giai đoạn này, hơi thở trở nên nhẹ nhàng vi tế ; do đó không còn thấy có hơi thở thô tháo như lúc mới bắt đầu. Hơi thở dài gồm 9 cách như trên goị là Thân (kàya) ; sự hiểu rõ 9 cách trên gọi là Niệm (sati) ; quán chiếu về tính chất vô thường, vô ngã của hơi thở là trí tuệ. Thiền sinh chứng đạt trí tuệ trong thực tập về 9 cách này là thành tựu được phương pháp Niệm thân gồm cả Niệm tức (anàpàsati) của phương pháp bốn niệm xứ (satipatthana).