-
MÙA XUÂN BÀN CHUYỆN
XIN XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN
Hình Phước Liên
Xin xăm không phải là một tập tục riêng có của Khánh Hòa mà là một hoạt động mà tính tâm linh khá phổ biến ở nước ta. Vào những ngày đầu năm, lễ tết hoặc những lúc bản thân, gia đình có điều rắc rối hay khi do dự trước một quyết định nào đó thì nhiều người ở Khánh Hòa lại tìm đến các đền, chùa xin lấy một quẻ xăm để mong đoán được điều hung kiết.
Ở Khánh Hòa có nhiều nơi để xim xăm, nổi tiếng nhất là xăm Bà Thiên Y Thánh Mẫu tại Tháp Bà – Nha Trang, Am Chúa và các nơi thờ Mẫu; xăm Quan Thánh Đế Quân tại các chùa Ông của người Hoa, người Việt; xăm Thiên Hậu Thánh Mẫu tại các chùa Bà của người Hoa và xăm Đức Thánh Trần tại Đền Trần Hưng Đạo – Nha Trang. Nhân mùa xuân Quý Tỵ sắp đến, chúng tôi mạo muội viết đôi điều về “Tục xin xăm Đức Thánh Trần ở Khánh Hòa” theo sự hiểu của mình để mua vui cùng bạn đọc.
Không như các hoạt động lễ bái dân gian khác, nghi thức xin xăm được diễn ra hết sức giản đơn. Dụng cụ thực hành nghi thức xin xăm gồm: Ống xăm, thẻ xăm, quẻ xăm… Ống xăm là một ống tre già được sơn son thếp vàng và dài chừng 2 tấc dùng để đựng các thẻ xăm. Thẻ xăm là miếng thẻ bài làm bằng nan tre già vót mỏng, dài hơn 2 tấc và rộng chừng 2 phân, trên thẻ có ghi số xăm với quẻ xăm từng người xin được. Quẻ xăm là nội dung ứng với lời mách bảo của đấng bề trên về điều mà người xin xăm muốn biết.
Ống xăm với những quẻ xăm
Để thực hành nghi thức, người xin xăm chỉ cần đứng trước bàn thờ (có thể có lễ vật hoặc không) và khấn vái để xin đấng bề trên mách bảo những điều mình muốn cầu xin. Sau đó, quỳ xuống nâng ống xăm lên ngang mày tiếp tục khấn vái và xốc đều ống xăm cho đến khi có một thẻ xăm rơi ra ngoài là hoàn thành xong việc xin xăm. Sau đó, người xin chỉ cần đọc những lời ứng trong quẻ xăm mà tự luận ra những điều hung cát cho mình. Như vậy, thoạt kỳ thủy xin xăm trong tâm thức của cộng đồng người Việt ở Khánh Hòa là một hoạt động tâm linh nhằm nối liền quá khứ hiển linh với thực tại đời thường; là nhu cầu giải bày tâm sự của mình cho đấng bề trên thấu hiểu và chia sẻ.
Theo các bậc trí giả ở lĩnh vực này thì những bài thơ gọi là Xăm chữ hoặc Tổng thi mang tính sấm truyền trong các quẻ xăm đều là lời giáng bút của các Thánh có từ hàng trăm năm trước, được chúng đệ tử ghi lại và lưu truyền cho đến ngày nay. Lúc đầu, mỗi quẻ xăm chỉ có một bài Tổng thi để giúp cho người cầu xin tự hiểu theo nguyên tắc “Hữu cảm tư thông, hữu cầu tắc ứng”. Thế nhưng, nội hàm những bài thơ ấy quá sức sâu xa và để hiểu ra thật không phải là chuyện dễ. Và để hiểu được những lời Tổng thi tất phải nhờ người có hiểu biết sâu rộng giải thích, dần dần hình thành nên bộ phận trung gian làm công việc diễn giải lời Thánh dạy - gọi là thầy bàn. Khảo sát lời bàn của các quẻ xăm ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các lời bàn ấy đều được diễn giải theo chủ quan của người thầy bàn và chịu ảnh hưởng đậm nét khoa lý số và luôn có lời khuyên người ta phải biết làm lành lánh dữ, xem đó là phương pháp giải hạn, trừ tai hữu hiệu nhất. Qua thời gian, những lời bàn ấy được đúc kết lại thành văn bản và in chung cùng bài Tổng thi thành quẻ xăm như hiện nay.
* * *
So sánh với các bộ xăm hiện có tại Khánh Hòa như xăm Thiên Y thánh Mẫu, xăm Thiên Hậu Thánh Mẫu, xăm Quan Thánh Đế Quân thì xăm Đức Thánh Trần Hưng Đạo ít phổ biến hơn và chỉ được thực hiện tại đền Trần Hưng Đạo – Nha Trang. Song bộ xăm Đức Thánh Trần lại là bộ xăm được biên soạn kỹ lưỡng nhất.
Nếu như các bộ xăm khác chỉ có bài Tổng thi (Xăm chữ), bài dịch nghĩa xăm và lời bàn chung thì xăm Đức Thánh Trần lại được soạn chi tiết hơn nhiều. Cấu trúc nội dung quẻ xăm Đức Thánh Trần gồm:
- Triệu: Là đầu đề của quẻ xăm. Mỗi đầu đề là một thành ngữ cổ và qua đó khái quát toàn bộ ý nghĩa của quẻ xăm.
- Tổng thi: Được viết bằng chữ Hán ở thể thơ thất tuyệt; là nội dung chủ yếu của quẻ xăm. Bài tổng thi được viết rất hàm súc với nhiều điển tích, mỗi điển tích là một câu chuyện mà qua đó người xin xăm có thể tự suy ngẫm về điều mình muốn biết và tự rút ra những bài học, cách ứng sử cho riêng mình. Tổng thi chính là lời Thánh dạy ứng với sự cầu xin của từng đệ tử.
- Bản dịch Tổng thi: Cũng được viết ở thể thơ thất tuyệt và dịch rất sát nghĩa với bài tổng thi.
- Chú giải: Giải thích những điều mách bảo của quẻ xăm ứng với các mục: 1) Tự thân gia trạch (Về nhà cửa, gia đạo của bản thân). 2) Cầu quan, cầu tài (Về con đường quan chức, tài lộc). 3) Hôn nhân (Về đường tình duyên). 4) Lục giáp (Về đường con cái). 5) Phong thủy (Về chuyện xây nhà, xây mộ). 6) Quan tụng (Về việc kiện tụng). 7) Tật bệnh (Về sức khỏe, bệnh tật). 8) Hành nhân thất vật (Về người đi, người về; về những vật mất mát). 9) Lục súc điền tầm (Về chăn nuôi, canh tác).
09 mục trong chú giải là 09 vấn đề người xin xăm muốn biết, có khi là tất cả và cũng có thể chỉ một vài vấn đề.
- Tổng đoán thời vận: Tức lời bàn của quẻ xăm.
Về số lượng quẻ và cách phân loại quẻ xăm Đức Thánh Trần cũng có phần khác so với các bộ xăm khác. Xin làm một số so sánh nhỏ sau:
Xăm Thiên Y Thánh Mẫu
Xăm Đức Thánh Trần
Tổng số quẻ: 103.
Phân loại: 3 loại. Gồm:
1. Thượng thượng: 36 quẻ. Trong đó có 3 quẻ số 101 (Đính khôi), 102 (Á khôi),
103 (Đô khôi) là 3 quẻ đặc biệt.
2.Trung bình: 31 quẻ.
3. Hạ hạ: 36 quẻ.
Tổng số quẻ: 50.
Phân loại: 7 loại. Gồm:
1. Thượng quái: 01 quẻ.
2. Thượng thượng: 06 quẻ.
3. Đại cát: 13 quẻ.
4. Trung bình: 14 quẻ.
5. Trung hạ: 01 quẻ.
6. Hạ hạ: 14 quẻ.
7. Hạ quái: 01 quẻ.
Xem bảng so sánh trên, ta thấy số quẻ trong bộ xăm Đức Thánh Trần có số lượng ít và phân loại chi tiết hơn các bộ xăm khác. (Được biết bộ xăm Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế Quân đều có 100 quẻ và phân làm 3 loại như bộ xăm Thiên Y Thánh Mẫu).
Điều đặc biệt và lý thú là ở phần “Triệu” của các quẻ xăm trong bộ xăm Đức Thánh Trần. Bởi vì, mỗi đầu đề của quẻ xăm hoặc là một câu thành ngữ cổ hoặc là một điển cố gắn liền với mẫu chuyện quen thuộc trong các bộ truyện Tam Quốc diễn nghĩa hay Đông Chu liệt quốc. Sau đó, bài tổng thi lại làm rõ thêm ý nghĩa của tên xăm. Vì vậy, xăm Đức Thánh Trần xem ra minh bạch hơn các bộ xăm khác. Tưởng cũng nên giới thiệu đầu đề, ý nghĩa và phân loại của 50 quẻ xăm trên để chúng ta tham khảo:
STT
Tên quẻ (Triệu)
Ý nghĩa
Phân loại quẻ
01
Hòa thân đương xuân
Mùa xuân thần thái ôn hòa
Đại cát
02
Tích thụ sinh hoa
Cây xưa nay lại trổ hoa
Đại cát
03
Vong dương bổ lao
Mất dê mới lo rào chuồng.
Trung bình
04
Hàn thiền ẩm lộ
Ve lạnh uống sương
Hạ hạ
05
Thu giang vọng nguyệt
Sông thu vọng nguyệt
Trung bình
06
Thừa phong phá lãng
Mượn gió lướt sóng
Thượng thượng
07
Bạt thập đắc ngũ
Làm mười được năm
Đại cát
08
Ngạ hổ phùng dương
Hổ đói gặp dê
Hạ hạ
09
Khô mộc vô chi
Cây khô trụi cành
Hạ hạ
10
Thục đạo kỳ khu
Đường Thục gập ghềnh, quanh co.
Hạ hạ
11
Tháo đao chế cẩm
Cắt gấm may áo
Thượng quái
12
Họa xà thiêm túc
Vẽ rắn thêm chân
Hạ hạ
13
Tích cốc phòng cơ
Trữ thóc phòng đói
Đại cát
14
Lạo tận đàm thanh
Lọc hết, nước đầm lại xanh
Trung bình
15
Tế vũ phi hoa
Mưa nhẹ vẫn làm rụng hoa
Hạ hạ
16
Thừa dư tế nhân
Cưỡi xe giúp người
Thượng thượng
17
Trường hạ vi kỳ
Chơi cờ suốt ngày hè
Trung bình
18
Tái Ông thất mã
Tái Ông mất ngựa
Trung bình
19
Chỉ ngưu vi mã
Chỉ trâu rằng ngựa
Trung bình
20
Tàng châu đãi giá
Giữ ngọc đợi giá
Thượng thượng
21
Thiên tương cát nhân
Trời giúp người lành
Đại cát
22
Bạch bích vi hà
Ngọc trắng có vết
Trung bình
23
Ma chứ thành kim
Mài sắt nên kim
Trung bình
24
Tịch dương tại sơn
Trời chiều gác núi
Hạ hạ
25
Du ngư hí hà
Cá giỡn hồ sen
Trung bình
26
Long hổ đấu kỳ
Rồng cọp đua tài
Thượng thượng
27
Lậu tận chung minh
Chuông báo canh tàn
Hạ hạ
28
Lăng cốc biến thiên
Gò hang biến đối
Hạ hạ
29
Đăng hoa báo hỹ
Đèn hoa báo tin vui
Đại cát
30
Ôn cố tri tân
Ôn cũ biết mới
Trung bình
31
Phong vũ quy châu
Thuyền về trong mưa gió
Hạ hạ
32
Nhất lộ phúc tinh
Một đường sao phúc
Đại cát
33
Ngoan kim dược dã
Vàng chảy ra ngoài lò đúc
Trung bình
34
Lão bạng sinh châu
Trai già sinh ngọc
Đại cát
35
Khô trúc sinh duẩn
Tre khô mọc măng
Đại cát
36
Long đông tùng bách
Tùng bách xanh tốt vào mùa đông
Thượng thượng
37
Lưu thủy lạc hoa
Nước chảy hoa trôi
Hạ hạ
38
Đông sơn điệu đàn
Non Đông dạo đàn
Trung bình
39
Khử thảo trừ căn
Nhổ cổ đào rễ
Hạ hạ
40
Khí kê tầm vụ
Bỏ gà tìm cò
Hạ quái
41
Xuất cốc thiên kiều
Bỏ hang dời đến chỗ có cây cao
Đại cát
42
Đắc thố vong đề
Được thỏ quên thuổng
Hạ hạ
43
Khúc đột tỷ tân
Rời ống khói xa củi
Đại cát
44
Cận duyệt viễn lai
Gần đẹp lòng, xa tìm lại
Đại cát
45
Cô nhạn xuất đàn
Nhạn lẻ lìa đàn
Trung hạ
46
Đăng cao tự ty
Lên cao phải khởi đầu từ thấp
Trung bình
47
Đắc Lũng vọng Thục
Được đất Lũng lại mong đất Thục
Thượng thượng
48
Trụy phấn phiêu hương
Rã phấn bay hương
Hạ hạ
49
Tha hương ngộ cố
Đất khách gặp cố nhân
Đại cát
50
Tá trợ họa trù
Mượn đũa bày mưu
Trung bình
Qua bảng tổng hợp trên, phần nào chúng ta có thể hình dung được tổng quan về bộ xăm Đức Thánh Trần Hưng Đạo. Ý nghĩa nội dung và sự phân loại tốt xấu trong mỗi quẻ xăm đã đành là vậy, song hầu như qua lời bàn thì tất cả đều mang tính tương đối – nhất là các quẻ xăm loại trung bình và loại tốt, ý chừng như muốn ngăn ngừa sự ỷ lại của người xin được quẻ xăm tốt và động viên những người xin phải quẻ xăm xấu hày bình tâm, kiên trì vượt qua khổ nạn. Ở đây tư tưởng “Đức năng thắng số” tiềm ẩn và chi phối tất cả và điều ấy cũng nhất quán với tinh thần chủ đạo của lời dạy Trần Thánh Đại Vương Chính Kinh Văn – một bộ kinh nhật tụng của chúng đệ tử Đức Thánh Trần.
Viết đến đây lòng bỗng băn khoăn, vì sao trong bộ xăm Đức Thánh Trần lại chọn quẻ “Tháo đao chế cẩm” – cầm dao cắt tấm vải gấm để may áo – là quẻ Thượng quái, tức quẻ tốt nhất trong 50 quẻ xăm Đức Thánh Trần và quẻ “Khí kê tầm vụ” - bỏ gà tìm cò - là quẻ Hạ quái, tức quẻ xấu nhất 50 quẻ xăm Đức Thánh Trần. Lật lại bộ xăm và thấy lời bàn như sau:
Tháo đao chế cẩm: “…là quẻ rất tốt. Tuy nhiên, phải chính tay mình may cắt thì áo mới thành; như thế là mình đã tạo đồ trang sức cho mình. Về mưu vọng thì nửa phải trong vào mình, nửa trông vào bạn tri âm, hai đàng hợp một mới mong hoàn toàn…”
Khí kê tầm vụ: “…Quẻ này ứng với Triệu ‘Bỏ gà tìm cò’, là chỉ sự ‘bỏ mồi bắt bóng’, bỏ cái nắm trong tay đi tìm cái bông lông ở ngoài trời, chỉ là mơ tưởng hảo huyền không đi đến đâu.”
Lời giải thích về 2 quẻ tốt và xấu nhất của bộ xăm Đức Thánh Trần, lẽ nào không để cho ta suy nghĩ về triết lý nhân sinh mà người xưa gửi gắm?
Nha Trang, cuối đông 2012- Nhâm thìn
HPL
http://www.ninhhoatoday.net/stbkky65-11.asp
-
-
148 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
ẤN ĐỀN TRẦN NHÌN TỪ TƯ LIỆU HÁN NÔM
Đinh Khắc Thuân, Việt Anh*
Trong đời sống văn hóa Việt Nam những năm gần đây, lễ Khai ấn đền Trần ở
tỉnh Nam Định mặc dầu đang tạo nên nhiều tranh luận trái ngược nhau, song vẫn
được duy trì và phát triển, thu hút nhiều người tham dự. Trên phương diện học
thuật, tài liệu liên quan lệ khai ấn này đến nay tương đối hiếm hoi, nhiều khi không
có nguồn gốc xác đáng. Trong bối cảnh này, những dấu vết ít ỏi trong tư liệu Hán
Nôm liên quan tới nhân vật lịch sử được thánh hóa là Trần Quốc Tuấn, cùng với
thực tế thờ cúng Đức Thánh Trần trong lịch sử, diện mạo văn tự trên các con dấu
từng lưu hành tại di tích đền Trần vào thời Nguyễn (1802-1945) là một nguồn tư
liệu khả dụng. Đặt trong tương quan giữa tư liệu Hán Nôm với tư liệu Pháp văn
khảo cứu văn hóa Việt Nam, giữa tư liệu Hán Nôm truyền thống với tư liệu Hán
Nôm trong lưu trữ thuộc địa, việc khảo cứu trường hợp cụ thể của ấn triện đền Trần
có thể chạm tới ít nhiều nhận thức mới về tôn giáo-tín ngưỡng của người dân Việt
trong một thời điểm của lịch sử.
Điểm tựa của sự kiện ấn đền Trần (Nam Định) theo lý giải đương đại
Việc phát ấn đền Trần (Nam Định) hiện nay được tổ chức vào đêm 14 tháng
Giêng thu hút ngày càng nhiều người đến tham dự và xin ấn. Cơ sở của hoạt động phát
ấn này được giải thích qua hai sự kiện: cách lý giải nguồn gốc lễ Khai ấn của người
đương đại và chuyện trong một bài thơ được viết vào giai đoạn Lê sơ (1428-1527).
Câu chuyện lễ Khai ấn
Câu chuyện lễ Khai ấn ở đền Trần Nam Định chính thức được trang mạng
của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giới thiệu qua bài viết “Nam Định: Lễ Khai
ấn đền Trần”, có đoạn:
“Lễ Khai ấn là một tập tục từ thế kỷ XIII, chính xác là vào năm 1239 của
triều đại nhà Trần thực hiện nghi lễ tế tiên tổ. Tại phủ Thiên Trường, vua Trần mở
tiệc chiêu đãi và phong chức cho những quan quân có công. Những năm kháng
chiến chống Nguyên-Mông sau đó, lễ Khai ấn bị gián đoạn cho tới năm 1262 được
Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại.
(...) Trải bao năm tháng, ấn cũ không còn. Năm 1822, vua Minh Mạng qua
Ninh Bình có ghé lại đây và cho khắc lại. Ấn cũ khắc là “Trần triều chi bảo”, ấn
* Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
TƯ LIỆU
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 149
mới khắc là “Trần triều điển cố” để nhắc lại
tích cũ. Dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô
cương”. Và từ đây, lễ Khai ấn vào giờ Tý ngày
rằm tháng Giêng (từ 11h đêm 14 đến 1h sáng
ngày 15 tháng Giêng) vừa là để tế lễ Trời, Đất,
Tiên tổ, và vừa nhằm chấm dứt ngày nghỉ Tết,
bắt tay vào công việc năm mới”.(1)
Tuy nhiên trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ thấy
chép rằng:
“Kỷ Hợi (1239), mùa Xuân, tháng Giêng, lại
cho Phùng Tá Chu chức Nhập nội Thái phó. Sai
[Chu] về hương Tức Mặc xây dựng nhà cửa,
cung điện.”(2)
“Nhâm Tuất (1262), mùa Xuân tháng 2,
Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc,
ban tiệc lớn. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên,
mỗi người được ban tước hai tư,(3) đàn bà được
hai tấm lụa. Đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên
Trường, cung gọi là Trùng Quang...”(4)
Bài thơ [được coi là] của Đỗ Hựu (1441-?) giai đoạn Lê sơ
Bài thơ chữ Hán “Thập tứ dạ quan khai ấn hội” (Đêm 14 xem hội phát ấn)
được Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định giới thiệu trong công trình 1.000 năm
Thăng Long-Hà Nội, Thiên Trường-Nam Định-thơ.
(5) Đây được xem là bài thơ trực
tiếp đề cập đến hoạt động khai ấn ở đền Trần (Nam Định).
Như thông tin trong ấn phẩm này, tác giả bài thơ là Đỗ Hựu (1441-?), người
xã Đại Nhiễm (thời Trần gọi là xã Văn Tập) huyện Ý Yên (nay thuộc xã Yên Bình
huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Năm 38 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất (1478), làm quan tới Lại Bộ Tả Thị lang.
十 四 夜 觀 開 印 會 Thập tứ dạ quan khai ấn hội
曾 聞 昔 日 有 陳 王 Tằng văn tích nhật hữu Trần vương
即 墨 猶 留 族 祖 堂 Tức Mặc do lưu tộc tổ đường
萬 頃 移 來 田 地 廣 Vạn Khoảnh di lai điền địa quảng
康 村 定 宅 孝 和 彰 Khang thôn định trạch hiếu hòa chương
展 誠 以 祭 前 魚 廟 Triển thành dĩ tế tiền ngư miếu
開 印 惟 祈 後 克 昌 Khai ấn duy kỳ hậu khắc xương
天 下 如 今 誰 對 此 Thiên hạ như kim thùy đối thử
斯 民 斯 邑 望 恩 長 Tư dân tư ấp vọng ân trường.
Ấn Trần miếu tự điển hiện tại ở đền
Trần (thành phố Nam Định)
150 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
Dịch nghĩa:
Đêm 14 đi thăm hội khai ấn
Từng nghe rằng ngày trước vua Trần
Ở đất Tức Mặc có đền thờ tổ
Ban đầu dời tới Vạn Khoảnh(6) đất đai rộng rãi
Sang Khang thôn, lấy sự hiếu với mẹ cha, hòa cùng anh em cư trú
Từ ấy tỏ lòng thành kính hằng năm tế tại Ngư miếu
Và khai ấn để cầu sự tốt lành cho lớp tương lai(7)
Nay trong thiên hạ, nơi nào sánh được
Thế là dân làng sở tại mãi mãi nhờ ơn to lớn.(8)
Bài thơ Hán văn và bản dịch này được nhà nghiên cứu Hán Nôm ở Nam Định
là Dương Văn Vượng sưu tầm, sao chép, phiên dịch từ trước, sau đó, được lựa
chọn và công bố nhân đại lễ mừng Thăng Long nghìn năm tuổi. Từ những chỉ dẫn
của ông Vượng cùng một số nhân vật tham gia biên soạn công trình này, những
địa chỉ có thể liên quan tới việc lưu trữ, sao chép bài thơ thuộc các tỉnh Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, và thư tịch trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm đã được truy tầm lại. Tuy nhiên, đến nay chưa tìm thấy bất cứ thông tin nào
về bản gốc, cũng như các bản sao khác của bài thơ chữ Hán nêu trên.
Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam khẳng định thân thế, lai lịch của tác giả Đỗ
Hựu, người đồng hương trên đất Thiên Trường với các đời vua Trần thế kỷ XIIIXIV.
Nhưng bài thơ “Thập tứ dạ quan khai ấn hội” có đích thực do Đỗ Hựu sáng
tác vào thế kỷ XV trong dịp trực tiếp chứng kiến hội khai ấn tại di tích nhà Trần
tại hành cung Thiên Trường (Nam Định) hay không là câu hỏi bỏ ngỏ, nếu không
muốn nói là có quá nhiều ngờ vực.
Trong một số năm gần đây, hoạt động khai ấn và phát ấn đền Trần ở tỉnh Nam
Định thu hút đông đảo một bộ phận quần chúng khiến dư luận tưởng như quên
rằng, không riêng Nam Định có lễ hội này.
Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) - nơi Trần Quốc Tuấn tạ thế - là một di tích
đền Trần lâu đời. Được thư tịch ghi nhận thời điểm kiến tạo từ thế kỷ XIV, đền
Trần ở Kiếp Bạc trải qua hằng thế kỷ gìn giữ lệ khai ấn và phát ấn. Đến thời điểm
hiện tại, tư liệu điền dã cho biết có 04 chiếc ấn gắn liền với địa điểm Trần miếu
này, bao gồm: Trần triều Hưng Đạo Đại vương chi ấn, Quốc pháp Đại vương, Vạn
Dược linh phù, Phi thiên thần kiếm linh phù. Hoạt động văn hóa liên quan ấn đền
Trần - Kiếp Bạc vẫn tuần tự diễn ra tại đây, vào tháng Tám âm lịch hằng năm – dịp
đại kỵ của nhân vật lịch sử Trần Quốc Tuấn. Ý nghĩa bảo trợ lương dân là nội dung
chủ đạo trong những văn tự hiện diện trên các ấn tín này.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 151
Như vậy, từ giác độ sử liệu, sự kiện phát ấn đền Trần
ở Nam Định đang chờ những điểm tựa khoa học
xác đáng. Nhìn rộng hơn, đền Trần với các nhân tố
văn hóa liên quan tới nó không tồn tại duy nhất tại
một địa phương, một địa điểm. Theo đó, biến thể từ
các nhân tố văn hóa liên quan tới hệ thống đền Trần
có khả năng là đa dạng mặc dầu được nảy sinh từ
chung một đạo lý truy ân tiền nhân.
Di sản Hán Nôm: bóng dáng hoạt động của văn hóa đền Trần trong lịch sử
Quốc sử, Hội điển, văn khắc, tục lệ, địa phương chí, sáng tác văn học… là
nguồn sử liệu đã được tham khảo để lần tìm dấu tích hệ thống di chỉ và di văn của
một giai đoạn lịch sử-văn hóa đặc sắc này. Tuy nhiên, nguồn tư liệu này chỉ là một
phương tiện cơ bản những mong tái hiện, dù chỉ phần nào, diễn biến văn hóa của
đền Trần và các nhân tố liên quan tới hệ thống di tích này qua các triều đại quân
chủ Việt Nam.
Điều trước tiên nhận thấy, theo sử liệu, các tỉnh hành chính hiện nay gồm
Quảng Ninh, Nam Định và Thái Bình là chốn trú ngụ, định cư, lập nghiệp ban đầu
của những thế hệ tiền nhân triều đại nhà Trần ở Việt Nam. Nhiều di tích đền miếu
thờ phụng chủ yếu các vua nhà Trần hiện tại nằm ở các tỉnh này.
Bốn đơn vị ấn được bảo quản tại đền thờ Đức Thánh
Trần ở Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương).
Nguồn: Tư liệu điền dã cá nhân.
Bản in từ bốn ấn trong đền thờ Đức Thánh Trần-Kiếp Bạc
(Chí Linh, Hải Dương).
Nguồn: Ấn phẩm "Di sản Hán Nôm Côn Sơn-Kiếp BạcPhượng
Sơn".
152 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
Đặc biệt, một nhân vật lịch sử của dòng họ này – Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn (1228-1300) – được tôn vinh là “Đức Thánh Trần” và phụng thờ qua
nhiều triều đại và trong lòng dân. Theo đó, hệ thống di tích thờ cúng “Đức Thánh
Trần” hiện diện trong nhiều tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hà Nam,
Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình… và sau này còn phát triển vào một số tỉnh vùng
Trung Bộ và Nam Bộ.
Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Đại Nam thực lục cung hiến không ít tư liệu về một số di chỉ này. Năm 1427, Bình
Định Vương Lê Lợi sai tu bổ ngôi đền thờ Hưng Đạo Đại vương vốn đã được lập
tại núi Vạn Kiếp (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) – nơi vị Quốc công
Tiết chế tạ thế. Năm 1740 đời vua Lê Cảnh Hưng, vào dịp định thể lệ thờ tự ở Võ
Miếu (kinh đô Thăng Long, nay thuộc thành phố Hà Nội), Hưng Đạo Đại vương
Trần Quốc Tuấn được phối thờ vào đây. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật
chí, có chép về phép linh nghiệm ở đền thờ Trần Hưng Đạo:
“Trần Quốc Tuấn (...). Sau khi ông mất, vua tặng phong là Hưng Đạo Đại
vương. Có đền thờ tôn nghiêm ở Vạn Kiếp huyện Chí Linh. Mỗi khi có giặc, làm lễ
cáo ở đền, nếu kiếm trong hòm có tiếng kêu lên thì thế nào cũng thắng trận. Trong
nước hễ có đàn bà bị Bá Linh ám ảnh, gọi là ma Phạm Nhan, người ta thường đem
chiếu đổi chiếu của đền về trải giường cho bệnh nhân nằm thì khỏi ngay”.(9)
Nam Định tỉnh địa dư chí(10) có chép:
陳興道大王廟在保祿社今改荷祿每歲 月二十日忌日也四方士庶均來瞻
拜。陳廟故宮在即墨社史記聖宗紹隆 年改即墨行宮曰重光宮後陳諸帝遜位
皆居焉又別構來朝御宮.
(Miếu Trần Hưng Đạo Đại vương ở xã Bảo Lộc, nay đổi là Hà Lộc. Hàng
năm vào ngày 20 tháng 8 kỵ nhật, sĩ thứ bốn phương đến bái lễ,... Cố cung Trần
miếu ở xã Tức Mặc. Sử chép năm Thiệu Long (Trần) Thánh Tông thứ 4 (1262) đổi
hành cung Tức Mặc thành cung Trùng Quang, sau các vua Trần nhượng ngôi đều
về ở đây. Lại cho xây Ngự cung Lai triều...).
Trần miếu bi ký(11) được khắc vào niên đại Tự Đức thứ 6 (1853), dựng tại đền
Tức Mặc cho biết:
即墨古帝鄉也有陳廟在焉.歷代祀典隆 國朝重熙累洽稽古崇拜彌篤每致
祭地方大吏奉詔惟謹嗣德五年春行省 輝詠來謁以為廟制狹未稱前代明德白
前制臺阮文典(...).修理即得旨支帑錢 百緡又商與外臺尊室合省轄文武各為
捐俸其鄉亦出公私錢充辯材料咸具則 省屬合同邑目鳩工今領定安總督永忠
黎文富布政使黎秉德按察使黃金炎復 繼揭助 (...).自壬子五月 越癸丑陸月
工竣需七千餘.
嗣德陸年陸月中浣三甲進士陽亭吳世 拜撰。
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 153
(Tức Mặc vốn là cố hương vua nhà Trần từ trước, có miếu thờ vua Trần ở đó.
Trải bao đời được thờ tự long trọng, triều ta luôn tôn sùng. Coi xét điển lễ cũ, thấy
sùng bái rất trọng hậu. Khi tế lễ, quan địa phương phụng chiếu kính cẩn nghiêm
trang. Mùa xuân năm Tự Đức thứ 5 (1852), quan tỉnh là Phan Huy Vịnh tới thăm
miếu, thấy quy mô nhỏ hẹp, không xứng với đức sáng ngời của các đời vua thủa
trước, bèn bàn với Tiền Chế đài Nguyễn Văn Điển dâng sớ xin tu sửa. Được triều
đình cho phép, lại xuất tiền trong kho 300 quan để chi phí, bàn với quan đài tôn
thất, hội với các quan văn võ cúng tiền lương bổng, dân địa phương đóng góp công
sức. Tài lực đã đủ, liền phái quan lại tỉnh thuộc cùng sắc mục thôn ấp khởi công
xây dựng. Quan Tổng đốc Định An là Vĩnh Trung nam Lê Văn Phú, Bố chánh sứ
Lê Bỉnh Đức, cùng quan Án sát Hoàng Kim Viêm trông coi. Khởi công tháng 5
năm Nhâm Tý đến tháng 6 năm Quý Sửu (1853) hoàn thành, chi phí tới 7 ngàn quan tiền.
Tiết Trung hoán tháng 6 năm Tự Đức thứ 6 (1853), Tam giáp Tiến sĩ Dương
Đình Ngô Thế Vinh soạn văn bia).
Làng Tức Mặc xưa thuộc đất Thiên Trường - cố hương của nhà Trần (nay
thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) là nơi phụng thờ các vua nhà
Trần. Tuy nhiên, tục lệ của làng này được chép trong “Tục lệ xã Tức Mặc tổng
Đông Mại huyện Mỹ lộc tỉnh Nam Định”(12) chỉ cho biết về hội “Giao điệt” (tức hội
vật). Tục lệ xã Tức Mặc ghi:
一例遞年正月十五日交跌例置田二高 用牲貳頭炊酒社村仝祭祭畢仝均惠
(Lệ ngày 15 tháng Giêng lệ Giao điệt, đặt ruộng 2 sào, lễ dùng hai thủ lợn,
xôi, rượu, toàn dân trong xã thôn cùng tế lễ, lễ xong ban đều lộc).
Tài liệu địa phương chí Nam Định tỉnh chí cũng cho biết về hội Giao điệt này
như sau:
即墨陳廟遞年正月十五日有交跌會.第 社八月十五日輔望社十月十八日
皆有競舟會。諺云… (13)
(Tại đền Trần Tức Mặc, ngày 15 tháng Giêng hàng năm có hội Giao điệt,
xã Đệ Nhị vào ngày 15 tháng 8, xã Phụ Vọng ngày 18 tháng 10, đều có hội đua
thuyền. Có câu ca rằng: Ba năm chúa mở khoa thi, Đệ Nhất thì xướng, Đệ Nhì thì
bơi. Đệ tứ thì đánh cờ người, Phương bồng tứ xứ mồng mười tháng ba).
Giao điệt hội tức hội vật ở đền Tức Mặc là một hoạt động trong dịp lễ để ghi
nhớ công ơn các vị tiên đế nhà Trần, định ngày mở hội của các xã lân cận. Tương
tự, ở đền vua Trần (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình) là lễ tế cá.
Theo lệ xưa, Tức Mặc hàng năm đều tổ chức tế lễ các vị vua nhà Trần. Tức
Mặc là cố trạch nhà Trần, vua Trần hằng năm trở về cúng lễ, bái yết tiên tổ. Đến
thế kỷ XIX, hành cung chỉ còn là ngôi miếu. Bức đại tự tại hậu cung hiện còn được
154 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
đề là Trần Miếu 陳廟 (Miếu nhà Trần) thể hiện điều này. Đến rằm tháng Giêng thì
chỉ có hội vật và đua thuyền. Chưa tìm thấy ghi chép nào về hoạt động phát ấn,
duy uy linh Đức Thánh Trần giúp trừ tà ma, trị bệnh thì thấy được chép trong Lịch
triều hiến chương loại chí.
Tư liệu địa phương chí đã vậy. Quốc sử các triều đại đã vậy. Trong Hội điển
được biên soạn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX)(14) cũng chưa tìm thấy chi tiết nào đề
cập hoạt động phát ấn ở bất cứ di tích đền Trần nào trong lịch sử.
Từ năm 1858, quốc gia Việt Nam ngày một chịu ảnh hưởng rõ nét từ sức
mạnh nhiều mặt của người Pháp. Từ đó sang tới bốn thập niên đầu tiên của thế kỷ
XX, theo đà áp đặt quyền lực chính trị-kinh tế, người Pháp ngày càng rộng chân
thực hiện các khảo cứu văn hóa bản địa Việt Nam. Những ấn phẩm du khảo văn
hóa của họ đã trở thành một bộ phận lưu trữ dấu ấn văn hóa đa diện của con người
Việt Nam thời ấy. Liên quan tới các di tích nhà Trần trên lãnh thổ Việt Nam, cũng
chỉ tìm thấy những ghi chép về “Đức Thánh Trần Hưng Đạo”. Có thể kể tới:
Les Annamites: Société, Coutumes, Religions(15) [Dân An Nam: Xã hội, Tập
quán, Tôn giáo] của Colonel E. Diguet cho biết một ngôi chùa ở Cao Bằng được
dựng mới hoàn toàn vào năm 1905 dành để tôn thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo.
Trong Magie & Religion annamites(16) [Ma lực và Tôn giáo An Nam] tác giả
Paul Giran – một quan chức hành chính ở Đông Dương – cho biết tín ngưỡng thờ
Đức Thánh Trần như là một chỗ dựa tinh thần vững chãi khi người dân bất an, một
sức mạnh siêu nhiên trợ giúp khi người dân gặp hạn hán, dịch bệnh…
Indochine du Nord: Tonkin, Annam, Laos, Yunnam, Kouang-Tcheou Wan(17)
[Xứ Bắc Đông Dương: Bắc Bộ, An Nam, Lào, Vân Nam, Quảng Châu Loan] của
Madroll chỉ dẫn về đền Kiếp Bạc, còn có tên Hộ Quốc, được nhấn mạnh là một
trong những di tích tôn giáo nổi tiếng nhất nước Nam, nơi thờ Hưng Đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn.
Tình hình tư liệu chỉ cho phép người đọc đời sau nhận thấy rõ nét vị thế được
tôn kính và sùng bái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong tín ngưỡng
người dân Việt, cụ thể là người dân vùng Bắc Bộ tính cho tới nửa đầu thế kỷ XX.
Nền hành chính thuộc Pháp ở Đông Dương trong lúc chờ đợi những phán xét
nghiêm khắc của lịch sử, đã thể hiện một số công dụng hữu ích. Đáng kể trong đó
là hệ thống tư liệu lưu trữ có khả năng tái hiện diễn biến của xã hội Việt Nam từ
nửa sau thế kỷ XIX tới nửa đầu thế kỷ XX.
Liên quan tới một (hoặc một số) đơn vị ấn triện trong di tích Trần Miếu, cho
đến nay chỉ tìm thấy một hồ sơ lưu trữ thuộc Văn khố hải ngoại (còn gọi là Văn khố
Bộ Thuộc địa) hiện tọa lạc tại Aix-en-Provence (Pháp quốc).(18) Tại đây, trong văn
khố Đông Dương, phông cũ của Tòa Thống sứ Bắc Kỳ có một hồ sơ lưu trữ diện
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 155
mạo văn tự trên ấn đền Trần ở Nam Định. Y theo “án tại hồ sơ”, vào năm 1898,
chí ít có bốn đơn vị ấn của đền Trần (Mỹ Lộc, Nam Định) được lưu hành bản in
rập trong dân:
Ấn 1: 本祀之祠奉事陳朝顯
聖敕賜信印之寶
(Bản tự chi từ phụng sự Trần
triều hiển thánh sắc tứ tín
ngưỡng chi bảo)
Ấn 2: 陳朝德發當辰信印
(Trần triều đức phát đương
thời tín ấn)
Ấn 3: 五虎號記
(Ngũ hổ hiệu ký)
Ấn 4: 佛法僧寶
(Phật Pháp tăng bảo)
Trong hồ sơ này, cùng với
bản in màu đỏ trên nền giấy
vàng của 04 dấu ấn đền Trần
(Nam Định), bản Hán văn do
người đương thời (năm 1898)
minh họa lại các văn tự triện
thư trong ấn, là báo cáo bằng
Pháp văn của Police indigène
[Cảnh sát bản xứ], thuộc Tòa
Công sứ Hà Nội, trực thuộc
Thống sứ Bắc Kỳ:
(Bản dịch)(19)
Hà Nội ngày 27 tháng Tư
năm 1898
Hôm qua, có hai người bản
địa đến từ Nam Định, có lẽ
là các thầy cúng, dừng chân
ở Hà Nội, tại phố Sinh Từ,
đã phát cho một số dân An
Nam ở phố này một mảnh
giấy vàng in mấy dấu ấn mà
Bản Hán văn thuyết minh văn tự trong 04 ấn đền Trần
(Nam Định). Nguồn: Fonds RST, Văn khố hải ngoại Pháp
quốc, ANOM.
Bản in trên giấy vàng 04 ấn đền Trần (Mỹ Lộc, Nam Định)
được lưu hành tại Hà Nội năm 1898.
Nguồn: Fonds RST, Văn khố hải ngoại Pháp quốc, ANOM.
156 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
sau đây là một bản kèm theo. Họ nói rằng mảnh giấy này là của một ngôi chùa
(đền?) ở Mỹ Lộc thuộc tỉnh Nam Định, nó được phát ra để dán trong nhà ở nhằm
phòng ngừa bệnh tật quanh năm cũng như trong những năm sau này. Hai người
bản địa này sau đó đi về phía làng Tân Ấp.
Ngày 28 cùng tháng diễn ra một cuộc thi chim trong chùa Phương Bai(20)
(phố Hàng Gạch).
Hà Nội ngày 28 tháng Tư năm 1898.
Bản dịch ấn triện:
04 ấn khác nhau:
1/ Ngôi đền này thờ Đức Thánh Trần.
Văn bằng này được cấp ấn rất cao quý.
2/ Ấn về một nhân vật của triều đại nhà Trần, người nổi danh tài đức đương thời.
3/ Chữ ký với dấu ấn “Ngũ Hổ”.
4/ Dấu ấn cao quý về tăng chúng, về luật pháp và về Phật giáo.
Vị thánh này là một nhân vật vĩ đại của triều đại các vua Trần, tên gọi Trần
Quốc Tuấn, chú của vua Trần Nhân Tông (vị vua thứ ba của triều Trần, trị vì từ
năm 1279 tới 1293). Ông nổi tiếng với công tích đánh bại một trong những viên
đại tướng quân Nguyên Mông.
Ông được tôn thờ chủ yếu ở Chí Linh (Hải Dương, vùng Đông Triều), ở Mỹ
Lộc (Nam Định)…, nói chung trong [hầu hết] các tỉnh Bắc Kỳ.
Ông được thờ phụng bởi các bậc cha mẹ mong muốn dạy dỗ con cái thật tốt.
Sinh thời, ông đã được tặng danh vị Hưng Đạo Đại vương [với ý nghĩa] là vị
Đại vương [dẫn dắt] đạo hưng phát.
“Ngũ Hổ” chỉ 5 vị đại tướng cầm quân dưới quyền chỉ huy của Trần Quốc Tuấn.
Đền Trần và tín ngưỡng Đức Thánh Trần: tiếng nói từ tư liệu
Tư liệu ít ỏi cho thấy, ít nhất vào thời điểm năm 1898, riêng một di tích văn hóa
thuộc huyện Mỹ Lộc (Nam Định) có sự lưu hành của bốn 04 mặt ấn liên quan tới
đức tin tôn kính công tích của triều đại nhà Trần (thế kỷ XIII). Theo ghi nhận hành
chính đương thời, ý nghĩa tâm linh hàng đầu của các mặt ấn ấy dành cho việc phòng
ngừa bệnh tật. Một điều khác biệt so với đương đại: trong khi nhiều năm gần đây, dân
chúng đương đại tấp nập đổ về Nam Định tham dự và cầu được sở hữu một bản in
của ấn đền Trần, thì hơn một thể kỷ trước, người nhà đền (hay chùa) của Trần miếu
từ Nam Định lặn lội lên Hà Nội để phát tận tay người dân những bản in dấu ấn ấy. Tư
liệu hiện tại chưa thể phản ảnh toàn diện mong muốn của người đương đại trên hành
trình xin ấn đền Trần. Song với quan điểm sức khỏe là hàng đầu, rất nên công nhận
tính thiết thực của người dân Việt hồi cuối thế kỷ XIX trong tín ngưỡng ấn đền Trần.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 157
Đền Trần mặc dù xuất phát điểm là “Trần Miếu” dành để thờ phụng các thế
hệ tiền nhân và vua nhà Trần, qua thời gian, nhân vật lịch sử Trần Quốc Tuấn được
tôn vinh hơn cả và được phụng thờ bền bỉ trong tâm thức dân gian của nhiều di tích
này. Tầm vóc lớn lao của nhân vật lịch sử Trần Quốc Tuấn của dòng họ ấy đã đáp
ứng đức tin vào sức mạnh siêu nhiên như là khao khát tâm linh truyền đời của dân
gian vùng Bắc Bộ. Điều này thúc đẩy sự kiện ra đời thêm những đền miếu khác thờ
Đức Thánh Trần, ở đó, công lao lịch sử của vị Hưng Đạo Đại vương dần dà được
thấm đẫm kỳ vọng tùy vào nhu cầu thiết thực của chúng dân. Năm 1898 không chỉ
là một năm riêng lẻ, ấy là một thời điểm trong thực tế triền miên thiên tai dịch họa
ở Bắc Kỳ. Người dân cuối thế kỷ XIX cầu khẩn sự che chở khỏi dịch bệnh cũng
không khác tâm lý của quần chúng đầu thế kỷ XXI cầu công danh thành đạt để đảm
bảo cuộc sống giảm thiểu rủi ro.
Tín ngưỡng chuyển đổi theo nhu cầu đời sống là hiện tượng có thực, không
thể cứng nhắc phủ nhận. Tuy nhiên, không gian văn hóa của mỗi di tích cần được
thấu hiểu và bảo lưu càng nhiều càng tốt ý nghĩa ban đầu của nó, với ngụ ý là đất
tổ, cây gốc, để phái sinh những biến thể khỏe mạnh, tốt lành.
Đền Trần trong chiều dài lịch sử văn hóa vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhìn từ
chứng cứ tư liệu, chưa từng bùng phát hiện tượng phát hành bản in ấn triện trên
phạm vi quá rộng, với ý nghĩa tâm linh bồng bột lệch lạc như trong những năm đầu
thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Thêm nữa, các ấn triện đền Trần trong chiều dài
lịch sử không chỉ có một. Di tích đền Trần qua nhiều thế kỷ đã tăng về số lượng, đa
dạng về địa bàn, có khả năng ấn triện được thờ trong các đền Trần là không hoàn
toàn giống nhau. Các thế hệ vua Trần dù có hành hương về chốn tổ dâng lễ, bản
chất chỉ là truy ân tiền nhân riêng một họ tộc hơn là sự điển chế hóa ở cấp quốc gia
một lễ hội địa phương. Sự hiện diện của bất cứ nhân vật nào với tư cách nguyên
thủ quốc gia nếu có ý quan phương hóa một hoạt động văn hóa địa phương đậm
sắc màu dân gian sẽ làm sai lệch ý nghĩa và giá trị sinh động của hiện tượng văn
hóa ấy. Tôn trọng sự khác nhau trong từng di tích dù có chung đối tượng tôn thờ là
một cách lưu trữ tính đặc sắc, đa dạng của văn hóa.
Về phương diện nguồn tư liệu nghiên cứu, cùng với di văn Hán Nôm truyền
thống nói riêng, di sản cổ học Việt Nam nói chung, nên tận dụng ưu điểm về truyền
thống và khoa học lưu trữ tài liệu của phương Tây mà người Pháp đã thực thi ở
Việt Nam, chí ít trong nền hành chính thuộc địa giai đoạn thế kỷ XIX-nửa đầu thế
kỷ XX. Mặc dù cách nay đã hơn một trăm năm, nguyên tắc lưu trữ hồ sơ, điều
kiện khoa học kỹ thuật phát triển cho ra đời các thiết bị công nghệ như máy in,
máy ảnh… có khả năng cho phép bảo quản lâu dài một phần diện mạo của lịch sử.
Trong một số đề tài nghiên cứu cổ học, cùng với việc coi trọng tư liệu xưa cũ, hãy
nghĩ tới các văn khố lưu trữ với vị trí là một nguồn tư liệu khác biệt có giá trị tương
đương, có tác dụng bổ túc đáng tin cậy.
Đ K T - V A
158 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016
CHÚ THÍCH
(1) Theo Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Việt Nam, trang Thông tin điện tử: “Nam Định: Lễ
Khai ấn đền Trần”.
(2) Toàn thư, Bản kỷ, Q.V, tờ 11b, Bản dịch (1998), Tập II, Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội, tr. 17.
(3) Thuật ngữ quan chức thời xưa, mỗi cấp bậc chia làm nhiều tư, đủ số tư nhất định thì thăng 1 cấp.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch (1998), Tập II, sđd, tr. 33.
(5) 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, Thiên Trường-Nam Định - thơ, (2010), Nxb Hội Nhà văn.
(6) Vạn Khoảnh: “Nhà Trần vốn gốc ở Mân Châu mang họ Dương, dời đến Yên Tử vẫn thế, về
Vạn Khoảnh vẫn chưa đổi, sau sang Khang Kiện (Tức Mặc), vì bất hòa nên mới chia ra. Chi
họ Dương dời sang lập làng Dương Xá (nay là xã Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình). Chi ở lại
lấy họ Trần, nay là Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định” (Nguyên chú trong sách 1.000 năm Thăng
Long-Hà Nội..., sđd).
(7) “Lệ này tương truyền là lệ vốn có của tộc đảng chốn quê của họ Trần. Thiên hạ không thấy
có lệ ấy” (Nguyên chú trong sách 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội..., sđd).
(8) Bản dịch của Dương Văn Vượng, in trong sách 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội…, sđd, tr. 96-97.
(9) Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, bản dịch, T.1, (1992), Hà Nội, Nxb KHXH, tr. 311.
(10) Nam Định tỉnh địa dư chí, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.609, tờ 32.
(11) 陳廟碑記, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, N. 13516.
(12) Bản Hán văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, AEa11/16.
(13) Nam Định tỉnh chí, sđd. Sau hai chữ Ngạn vân là những câu ca viết bằng chữ Nôm được
phiên như trên.
(14) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chính biên (8 sách), Viện Sử học dịch, 2005, Huế: Nxb
Thuận Hóa.
(15) Paris, Augustin Challamel, 1906.
(16) Paris, Augustin Challamel, 1912.
(17) Paris, Libraire Hachette. In lần hai: 1925, Paris, Société d’Edtions Géographiques. In lần ba: 1932.
(18) Việc tìm kiếm tư liệu lưu trữ tại Việt Nam có liên quan tới di tích đền Trần và hoạt động văn
hóa ấn đền Trần, tính đến thời điểm này (08/2016) không cho thấy kết quả khả quan nào.
(19) V.A. thực hiện.
(20) Có lẽ chỉ chùa (hoặc đình) thuộc thôn Hương Bài, một di tích văn hóa tọa lạc trên phố Ngõ
Gạch (Hà Nội hiện nay).
TƯ LIỆU THAM KHẢO (trích yếu)
Thư tịch và văn khắc Hán Nôm:
- Nam Chân thập lục vịnh, A.3099, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
- Nam Định tỉnh địa dư chí, A.609, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,.
- Trần Miếu bi ký 陳廟碑記, N. 13516, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
- Nam Định tỉnh Mỹ Lộc huyện Đông Mại tổng Tức Mặc xã tục lệ, AEa11/16, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Tư liệu lưu trữ Hán Nôm (Việt Nam và Pháp):
- Văn khố Đô đốc và Toàn quyền Đông Dương - GGI
- Văn khố Thống sứ Bắc Kỳ - RST
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 159
Ấn phẩm:
- Colonel E. Diguet (1906), Les Annamites: Société, Coutumes, Religions. Paris, Augustin Challamel.
- Paul Giran (1912), Magie & Religion annamites. Paris, Augustin Challamel.
- Madroll (1925), Indochine du Nord: Tonkin, Annam, Laos, Yunnam, Kouang-Tcheou Wan. Paris,
Libraire Hachette. In lần hai: 1925, Paris, Société d’Edtions Géographiques. In lần ba: 1932.
- Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Bản dịch (1998), Tập II, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội. Lịch triều hiến
chương loại chí, Nhân vật chí, Bản dịch, T.1, (1992), Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội.
- Viện Sử học dịch (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chính biên (8 sách), Huế, Nxb
Thuận Hóa.
- Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định (2010), 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, Thiên Trường-Nam
Định - thơ, Nxb Hội Nhà văn.
- Ban Quản lý di tích Hải Dương (2006), Di sản Hán Nôm Côn Sơn-Kiếp Bạc-Phượng Sơn, Hà
Nội, Nxb Chính trị Quốc gia.
- Ngô Đức Thọ chủ biên (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Hà Nội, Nxb Văn học.
- Tổng tập văn học Việt Nam (1999), tập 3, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội.
- Tư liệu báo chí đương đại về hoạt động văn hóa truyền thống Việt Nam.
TÓM TẮT
Trong đời sống văn hóa Việt Nam những năm gần đây, lễ Khai ấn đền Trần ở tỉnh Nam
Định mặc dầu đang tạo nên nhiều tranh luận trái ngược nhau, song vẫn được duy trì và phát triển,
thu hút nhiều người tham dự. Trên phương diện học thuật, tài liệu liên quan lệ khai ấn này đến
nay tương đối hiếm hoi, nhiều khi không có nguồn gốc xác đáng. Trong bối cảnh này, những dấu
vết ít ỏi trong tư liệu Hán Nôm liên quan tới nhân vật lịch sử được thánh hóa là Trần Quốc Tuấn,
cùng với thực tế thờ cúng Đức Thánh Trần trong lịch sử, diện mạo văn tự trên các con dấu từng
lưu hành tại di tích đền Trần vào thời Nguyễn (1802-1945) là một nguồn tư liệu khả dụng. Đặt
trong tương quan giữa tư liệu Hán Nôm với tư liệu Pháp văn khảo cứu văn hóa Việt Nam, giữa
tư liệu Hán Nôm truyền thống với tư liệu Hán Nôm trong lưu trữ thuộc địa, việc khảo cứu trường
hợp cụ thể của ấn triện đền Trần có thể chạm tới ít nhiều nhận thức mới về tôn giáo-tín ngưỡng
của người dân Việt trong một thời điểm của lịch sử.
ABSTRACT
TRẦN TEMPLE’S SEAL VIEWED FROM HÁN-NÔM DOCUMENTS
In recent years, the Trần Temple’s seal opening ceremony in Nam Định Province has
created a lot of contradictory debates, but it is still maintained and developed, attracting many
participants. In academic field, documents related to this seal opening ceremony have been
relatively rare, mostly from untrustworthy sources. In this context, meager traces of Hán-Nôm
documents related to the historical figure Trần Quốc Tuấn who was sanctified, along with the
worship of him in history and the words carved on the seals used in the Trần Temple under the
Nguyễn Dynasty (1802-1945) are available documenting sources. In the correlation between
Hán-Nôm documents and French documents related to Vietnamese culture, between traditional
Hán-Nôm documents and colonial archives, the study of the Trần Temple’s seal can, more or less,
hurt the religious awareness of the Vietnamese people in a period of history.
-------
[PDF]ẤN ĐỀN TRẦN NHÌN TỪ TƯ LIỆU HÁN NÔM - Tạp chí khoa học Việt ...
http://www.vjol.info/index.php/ncpt-...ew/26739/24026
Translate this page
by ĐK Thuân
thực tế thờ cúng Đức Thánh Trần trong lịch sử, diện mạo văn tự trên các con dấu .... Sang Khang thôn, lấy sự hiếu với mẹ cha, hòa cùng anh em cư trú. Từ ấy tỏ ...
http://www.vjol.info/index.php/ncpt-...ew/26739/24026
-
NDT1349'S BLOG
Just another WordPress.com weblog
Tết 2008 January 3, 2008
Filed under: Uncategorized — ndt1349 @ 8:48 am
Năm nay tiệc Tất Niên không cầu kỳ, không bày biện, nhưng rất vui. Đêm đó thức tới tận 6h sang mới ngủ. 10h tỉnh dậy, thấy tuyết rơi trắng xóa trời. Lạnh buốt tay. Nhưng vẫn quyết tâm đi lễ chùa. Lạnh vậy mà bà con đi đông nghìn nghịt.
Photobucket Photobucket
Tuyết rơi mịt mù mà vẫn cắn răng để chụp hình
Photobucket Photobucket
Bà con đi lễ như trẩy hội vậy- Gifu Inaba jinja
Xì xụp khấn lễ. Sau đó tới màn xin thẻ (xăm). Trống ngực đập thình thịch. Mở ra, mừng quýnh khi nhìn thấy 2 chữ ĐẠI CÁT (大吉).
Thẻ (xăm) tiếng Nhật là Omikuji (おみくじ). Tùy theo từng nơi mà có thể có 7 loại, xếp theo thứ tự từ tốt nhất tới xấu nhât là ĐẠI CÁT- TRUNG CÁT-TIỂU CÁT-CÁT- MẠT CÁT-HUNG- ĐẠI HUNG (大吉 >中吉 >小吉 >吉 >末 >凶 >大凶). Hay cũng có nơi có 12 bậc ĐẠI CÁT- TRUNG CÁT-TIỂU CÁT-CÁT- BÁN CÁT- MẠT CÁT – MẠT TIỂU CÁT- HUNG- TIỂU HUNG-BÁN HUNG- MẠT HUNG- ĐẠI HUNG (大吉>中吉>小吉>吉>半吉>末吉 末小吉>凶>小凶>半凶>末凶>大 凶).
Photobucket Photobucket
Buộc thẻ (xăm) xấu lại đền
Thông thường khi rút được thẻ từ Cát trở lên, người ta sẽ đem về nhà. Còn nếu là Hung trở xuống sẽ buộc lại nơi rút để gửi gắm lời cầu nguyện chuyển HUNG thành CÁT tới các vị Thần Phật. Tuy nhiên cũng có người cho rằng nếu con quẻ thẻ HUNG như một lời răn đe, như một bài giáo huấn cho năm mới thì mang về nhà cũng không sao. Nhưng có điều là chẳng thấy ai đủ dũng khí mang về hết, nên hầu nhu ngôi đền, chùa nào cũng chi chít những quẻ thẻ được buộc lại như vậy.
Ngày 2 thì chơi bài bạc tới tận 1h sáng mới về. Hì, năm nay cũng đỏ, chứ không đen thui như năm ngoái nữa rồi. CT nói là Khởi đầu một năm mới thắng lợi…Hi vọng vậy!
https://ndt1349.wordpress.com/2008/0...1%BA%BFt-2008/
-
-
Ổ Biến Thái . Khải Thiên - Thiên Nguyên Couple đã thêm 3 ảnh mới.
26 tháng 1, 2017 ·
Nguyên ge up bô
赶在16年的尾巴红红火火恍恍惚惚一次 ,在新的一年,祝大家事事顺心[可爱] 天天开心[嘻嘻] 身体健康[加油] 万事如意[哈哈]……………发大财![挤眼][挤眼][挤眼]
=>>> Vào ngày cuối cùng của năm 2016 hồng hồng hoả hoả hốt hốt hoảng hoảng* một lần. Năm mới chúc mọi người sự sự thuận tâm, ngày ngày vui vẻ, thân thể khoẻ mạnh, vạn sự như ý....... Phát đại tài!
========================
* cái mớ đó thật ra được hiểu theo nghĩa hahahahahahaha, cười mang rợ, kiểu thể hiện tung tăng vui sướng.
https://scontent.fsgn5-1.fna.fbcdn.n...b4&oe=5CEAA8E7
https://scontent.fsgn5-7.fna.fbcdn.n...3e&oe=5CF06D4E
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...87&oe=5CEE0569
https://www.facebook.com/obienthai/p...type=3&theater
-
-
cúng dường Nangkwak dùng 5 cây nhang, hoa có hương thơm, bánh kẹo, ly nước thơm. Ở Những nơi cửa hàng, trước khi bán hàng họ thường khẩn cầu vào ly nước thơm, gửi vào đó những lời cầu nguyện, rồi đem nước đó rắc lên các đồ vật, hàng hóa của mình để mong được buốn bán thuận lợi và đông khách.
https://lotusleanh.blogspot.com/2016...-voi-luon.html
-
BẠN XUI QUÁ ??? CHỚI VỚI LUÔN !!!?
1 - Bạn cần tìm 4 ngôi chùa nghèo ở 4 hướng ,cúng dường gạo hay tiền cho
chùa,chùa có nuôi con nít mồ côi hay người già càng tốt ....sau đó thả
phóng sanh số cá bằng số tuổi của bạn,ví dụ 30 tuổi ta ,thì thả 30 con
,thả buổi sáng hay trưa ,nhưng không quá 12giờ trưa.
2 - Bạn nên phát nguyện trước Phật ,xin ăn chay ít nhất 4 ngày trong
tháng,tuỳ bạn chọn,nhưng tốt nhứt là ngày 30-1-14-15 âm lịch.
3 - Buổi tối bạn cần lần chuỗi 108 hạt ,niệm 108 câu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT. Niệm rồi vái xin Phật chứng minh cho mình hồi hướng công đức nầy
đến CỬU HUYỀN THẤT TỔ siêu thăng.
Nếu Cửu Huyền an vui thì họ sẽ giúp bạn mau thoát cảnh bế tắc hiện nay.
Chúc bạn vượt qua mọi khó khăn !
https://lotusleanh.blogspot.com/2016...-voi-luon.html
-
HONDROCREAM cho khớp: giải pháp hữu hiệu cho chưng thoái hóa xương sụn, thoái hóa khướp xương và chấn thương!
Điều trị triệu chứng đau
Góp phần tái tạo tế bào sụn
Điều trị chứng căng cơ
Giảm thiểu phù nề
Chống viêm
ĐẶT HÀNG
Bạn đang đau lưng và khớp xương?
Hãy đến với kem bôi HONDROCREAM – giải pháp hữu hiệu cho chưng thoái hóa xương sụn, thoái hóa khướp xương và chấn thương!
Hiệu quả mà kem HONDROCREAM mang lại cho lưng và khớp
Tác dụng mang tính toàn diện tuổi già có liên quan
Không gây tác dụng phụ Tuyệt đối an toàn dù trong 1 hay nhiều lần sử dụng
100% chiết xuất từ thiên nhiên Chỉ chứa duy nhất các thành phần thảo dược hoạt tính cao
Hiệu quả cao Cải thiện tình trạng bệnh và giảm đau chỉ sau lần sử dụng đầu tiên
Được kiểm chứng nghiêm ngặt bởi các chuyên gia trong ngành Sản phẩm được cấp bằng chứng nhận và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng
Cách sử dụng Hondrocream
Làm sạch và để khô vùng da trước khi bôi sản phẩm. Xoa đều cho đến khi kem thẩm thấu vào da.
Dùng 2-3 lần 1 ngày
Trong vòng 1 giờ sau khi bôi không được tiếp xúc vùng da vừa bôi kem với nước
Các chuyên gia trong ngành khuyên dùng kem bôi Hondrocream
Kem Hondrocream – liệu pháp tối ưu dành cho người bị mắc bệnh thoái hóa khớp hoặc thoái hóa xương sụn. Tôi khuyên dùng loại kem này cho tất cả những ai đến nhờ tôi chữa trị chứng đau nhức ở vùng cột sống hay khớp. Hondrocream giảm đau nhức và phù nề trong một thời gian ngắn, giúp người bệnh trở lại cuộc sống năng động hàng ngày. Ngoài ra còn có tác dụng điều trị các chứng đau nhức ở tuổi già- chính bản thân tôi cũng dùng nó để chữa thoái hóa đĩa đệm, đặc biệt kem mang lại hiệu quả tức thì và lâu dài. Nếu sử dụng thường xuyên thì nỗi âu lo về vấn đề đau nhức lưng có thể được chấm dứt.
KHÔI NGUYÊN, bác sĩ thể thao
Những chia sẻ từ phía người tiêu dùng
Kem bôi Hondrocream đã giúp tôi xử lý chấn thương ở khớp đầu gối sau buổi tập. Đầu gối lúc đó sưng lên và đau nhức nhối, chân tôi thậm chí còn không cử động được. Thế nhưng nhờ có Hondrocream chỉ sau 4 ngày tôi đã có thể đi làm lại. Ngay ngày đầu tiên tôi đã có thể đi lại bình thường.
Đặng Thị Ngọc, 31 nên ghi là “tuổi”
Huấn luyện viên các nhóm tập thể tại 1 trung tâm thể dục thể thao Trước đây tôi thường xuyên bị đau lưng.Chứng thoái hóa xương sụn ở tuổi tôi thì cũng không có gì là lạ. Vợ tôi tra trên mạng thấy Hondrocream. Và loại kem ấy thực sự đã trở thành vị cứu tinh của tôi. Khác với trước đây bây tôi có thể vươn vai vào mỗi buổi sáng thức dậy. Quan trọng nhất là lưng không con đau nữa TRUNG NGHĨA, 58 nên ghi là “tuổi” Một lần tôi sơ ý bị bong gân ở mắt cá chân, bác sỹ bảo tôi sẽ phải chữa trị rất lâu. Thế mà may sao tôi mua được Hondrocream, và chỉ 1 tuần sau dây chằng hồi phục, chỗ đó không còn đau nhức, tôi đi lại bình thường và trở lại về với công việc của mình. Bây giờ cả gia đình tôi, ai bị đau lưng hay đau khớp,đều sử dụng kem Hondrocream.
Đặng Thịnh Hoa, 35 nên ghi là “tuổi”
Cách đặt kem bôi Hondrocream chữa đau lưng và khớp
Điền thông tin vào đơn đặt hàng
Lựa chọn hình thức giao hàng
Thanh toán sau khi nhận được hàng
https://bactefort-vn.com/hondrocream
-
SỐ 39: HẠ HẠ 第三十九号簽 下下 北山門下好安居 若問終時慎厥初 堪笑包藏許多事 鳞鴻雖便莫修書 Xăm chữ hán
http://hocday.com/s-39-h-h-------xm-ch-hn.html
-
-
1.BÁT NHÃ VÔ TẬN TẠNG CHƠN NGÔN:
Phật rằng Vô Tận Tạng Chân Ngôn thật là mẹ chư Như lai. Dầu hay trì tụng Thần Chú ấy, hết thảy tội nghiệp đều cũng tiêu diệt. Lại được chính trí, biết quá khứ kiếp túc mạng nhân duyên, chỗ nghe chính pháp hằng nhớ chẳng quên. Bèn kíp chứng được vô thượng Bồ Đề .
*Hán Việt:
般若無盡藏真言. 納謨薄伽伐帝。缽唎若。波羅蜜多曳 � 怛姪他。唵。紇唎地唎室唎。戌嚕知 �三蜜栗知。佛社曳。莎訶。
Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, Ba la mật đa duệ đát điệt tha. Án, hộc rĩ địa rị thất rị, thú rô thú rô tri, tam mật lật tri, Phật xả duệ tá ha.
*Phạn âm:
NAMO BHAGAVATE PRAJNA PARAMITAYE. TADYATHA: OM HRIH DHIRI SRI SRUTI SMRTI VISAYA SVAHA.
=> namo bhagavate prajñā pāramitāye tadyathā oṃ hrīḥ dhiri śrī sruti smrti viṣāya svāhā.
câu śrī = si-ri đọc ghép thành một âm và kéo dài âm của chữ i
[PDF]金 剛 般 若 波 羅 蜜 經
http://www.longbeachmonastery.org/Th...rajna%20Parami...
Translate this page
namaḥ samanta-buddhānāṃ oṃ duru-duru-thivī svāhā. 南 無 三 滿 哆 ...... namo bhagavate prajñā pāramitāye tadyathā oṃ hrīḥ dhiri śrī sruti smrti viṣāya svāhā.
http://www.longbeachmonastery.org/Th...ta%20Sutra.pdf
https://www.youtube.com/watch?v=NFIwMnYFI5Y
般若無盡藏陀羅尼果濱居士梵音唸誦 �十遍- Видео
https://aziz-group.kz/watch/...梵音唸誦三十遍/NFIwMnYFI5Y
Translate this page
( 梵音) namo bhagavatye prajna paramitaye dadyatha om hrih dhih sri srute smrti vijaye svaha ... 怛侄他,唵,紇唎,地唎,室唎, 戍嚕知,三蜜栗知,佛社曳,莎訶。
http://www.diendan.daitangkinhvietna...hp?f=26&t=3645
-
水的三種加持咒語
● 觀世音菩薩甘露咒:唵 度寧 度寧 迦度寧 莎訶(誦此短咒二十一遍)
每至天降雨時,鬼道眾生因業力所感 降下的雨滴,悉皆化為火球燒身苦不 言,誦此咒可免除其苦;或為利益一 切有情,逢雨起大悲心仰面向空誦此 二十一遍,其雨滴所霑一切有情,盡 一切惡業重罪皆獲利樂。
● 護生咒(飲水、取水時唸):唵 (口縛)ㄨㄚˊ 悉波羅 摩尼 莎訶(三遍)
寶髻如來在成佛時曾發願,要度脫水 眾生。若為水族眾生稱念其佛號或咒 時,則其捨報後可以昇天免除三途之 苦。故放生水族眾生時,書寫此護生 ,將之沉到河海等水中,不僅所放之 命,水中所有的生命,皆蒙解脫。
我們可以將此咒寫成小紙條丟如家裡 近的水溝裡,或是河、海裡,或者護 後掛在家中的每一個水龍頭、馬桶水 箱、飲水機等,甚至隨身攜帶丟入有 的地方。
佛觀一缽水,八萬四千蟲,若不持此 ,如食眾生肉。家中佛堂上供水時, 應用煮開過的水,應直接用水龍頭的 清水或礦泉水,再念三遍此護生咒將 中的生物超度。因為諸佛慈悲,不會 望我們為供奉他而殺死水中八萬四千 眾生的。
● 甘露水真言:南摩 蘇嚕婆也 怛他俄哆耶 怛至他 嗡 蘇嚕蘇嚕 缽囉蘇嚕 缽囉蘇嚕 梭哈(三遍或七遍)
海濤法師每天走到哪,身上一定會有 瓶加持甘露水,走到哪就灑到哪(以 悲咒加持水亦可,唯此真言較精簡方 便)。觀想此水咒力加持,清淨湛然 周遍法界,令諸餓鬼咽喉自開,法界 生一時皆得甘露飲食,諸鬼神等充足 飽滿,歡喜無量。
密宗行者蓮花國強頂禮寶髻如來 觀世音菩薩
https://www.youtube.com/watch?v=CI7g...scW6DQIngCoAEC
-
The Buddhist Manuscripts at Gilgit
Dutt, Nalinaksha.
The Indian Historical Quarterly
1932. 06
pp.342--350
p.342
The Buddhist Manuscripts at Gilgit
The title of the Ms.
The second manuscript examined by me is written
in the calli- graphic Gupta characters very similar
to those in the first manuscript.(1) The characters
are much more legibly written, though their size is
comparatively smaller. It is also a birchbark
manuscript containing 41 leaves and on each leaf
there are 5 lines. The title of the book as stated
at the end of the ms. is Bhaisajyaguru nama
mahayanasutra (leaf 40 b). In the Siksasamuccaya it
is called Bhaisajyaguru vaidurya-prabha-raja-sutra,
while in its Tibetan version (Rgyud. Tha., pp. 470
ff), the Sanskrit title is
Arya-Bhagavato-Bhaisjyaguru-Vaiduryaprabhasya
Purvapranidhana-visesa-vistata nama mahayana-sutra
(phags. pa bcom. Idan hdas. smon-gyi bla vai. du.
ryahi hod-kyi snon-gyi smon-lam gyi khyad. par rgyas.
pa shes. bya. ba theg. pa chen pohi mdo). The Tibetan
title though too long for the title of a book is not
without a basis for we have on leaf 2 the following
passage, in which Manjusri requests Buddha to deliver
the sutra:
(Preach O Bhagavan, in full details, the
excellent resolutions that were made previously by
the Tathagatas).
The object of the whole work is to relate the
great resolutions (mahapranidhanas) made by each of
the seven Buddhas, and the effect of such
resolutions. This section deals with the resolutions
of the Buddha called
Bhaisajyaguru-vaidurya-prabharaja. In the Saddhar-
mapundarika, (p. 470), Bhaisajyaraja and
Bhaisajyasamudgata are described as sons of king
Subhavyuha and are repeatedly mentioned as highly
meritorious bodhisattvas, but it is difficult to say
whether any of these bodhisattvas became later on the
Buddha Bhaisajyaguru-vaidurya-prabharaja, for in
the Chinese version of this sutra the former names
appear as bodhisattvas. If these Bodhisattvas have
been elevated to Buddhahood, it must have been done
posterior to the time of compilation
-----------------------
1 For an account of the first Ms., see IHQ., VIII,
pp.93ff.
p.343
of the Saddharmapundarika, the date of which may
be placed in the 1st century A.D.
In a paper contributed to the Bulletin de 1'Ecole
Francaise d' Extreme-Orient, (vol. III, 1903, pp.
33-37),(2) Prof. Paul Pelliot has dealt with the
Chinese versions of this work. He writes:--"The
Bhaisajyaguru is one of the most popular Buddhas in
China, Japan and Tibet. His name in Chinese is
Yao-che lieou-li-kouang-jou-lai, (Bhaisajyaguruvaidu-
ryaprabha). The restoration of the original name is
guaranteed by the dharani transcribed phonetically in
the sutra consecrated to the glory of Bhaisajyaguru.
The Sanskrit text of the sutra has not been
discovered, but it exists in more than one
translations in Chinese".
Its Chinese translations
From the Chinese and Tibetan translations we
learn that the present work is the last chapter of
the book dealing with the great vows (mahapranidhana)
of the seven past Buddhas. In view of the fact that
this last chapter have independent translations both
in Chinese and Tibetan, and also of the fact that
quotations from this chapter only appear in
Santideva's Siksasamuccaya, it may be stated that
this particular chapter, containing the vows of
Bhaisajyaguruvaiduryaprabharaja, attained the
greatest popularity.
About the Chinese translation of this chapter,
Prof. Pelliot furnishes us with the following
information: "The 12th or the last, and undoubtedly,
the oldest chapter of Fo-chouo-ta-kouan-ting-chentch-
eou-king(3) was translated by Srimitra between 317
and 322 A.D.; it should, however, be observed that
certain catalogues mention only nine chapters of the
translation of Srimitra; in any case, it comprised 12
chapters at the time of the compilation of the K'ai
yuan che kiao lou(4) in 730 A.D. Among the in
dependent translations, it appears that the
----------------------
2 I should thank Dr. P. C. Bagchi for drawing my
attention to this article.
In my translation of the portions of this French
article, I have retained the method adopted by
the French writers in transliterating Chinese
words.
3 Nanjio (167) remarks under this book that it is in
12 fasciculi, "each fasc. contains a sutra with
its own title, so that this is a collection of 12
sutras."
4 "Catalogue of books on the teaching of Sakyamuni."
p.344
first is that of Houei-kien entitled
Yao-che-lieou-li-koung-king and dated 457 A.D. It was
mentioned in 597 in the (catalogue) Li-tai
-san-pao-ki(5) and about 664 in the
Ta-t'ang-nei-tien-lou(6) but it disappeared at the
time of the compilation of K'ai yuan che kiao lou
(730). The translation of Dharmagupta executed in
615 still exists (Nanjio, 170); it is called Fo
chouo yao che jou lai pen yuan king
(Bhaisajyaguru-tathagata-purva-pranidhana ). It is to
this that reference has been made in the preface
entitled Yao che jou lai pen yuan kong to king siu,
which preface in the Japanese Tripitaka has been
placed by mistake at the beginning of the translation
of the sutra of Bhaisajyaguru made later on by
Yi-tsing. The author of this preface was one of the
collaborators of Dharmagupta. It is curious that he
does not mention Fo-chouo-kouan-ting-king (Nanjio,
l67) or the translation of Srimitra. He speaks only
about the many inaccuracies in the translation of
Kien-houei. The text adopted by Dharmagupta, on the
contrary, was based on three mss. and the translation
was accepted after three revisions. But this
translation of Dharmagupta, although it is still
extant, has been eclipsed by that of Hiuan-tsang,
entitled Yao-che-lieou-li-kouang-jou-lai-pen-yuan-
kong-to king (Nanjio 171 = Bhaisajyaguru-vaidurya-
prabhasa-purva-pranidhana-guna-sutra), and is dated
650. It is this translation that was entirely copied
by the emperor K'ang-hi by his own hand in 1695 and
it is this that has been partially reproduced in the
T'ou-chou-tsi-tch'eng. This is assuredly the most
popular in China. The three translations of Srimitra,
of Dharmagupta and of Hiuan-tsang, however, follow
one another quite closely."
Its Tibetan translations
In the tenth (tha) volume of the Rgyud (Tantra)
of the bkah-hgyur, leaves 433-470 contain De.
bshin-gsegs-pa bdun. gyi snon. gyi smon. lam. gi khyad.
par rgyas. pa (=Sapta-Tathagata-purvapranidhanavisesa
-sutra).(7) To this probably corresponds the Chinese
text translated by Yi-tsing (Nanjio 172), the title
of which text as restored by Nanjio
-----------------------
5 "Records concerning the Triratna, under successive
dynasties."
6 "Catalogue of Buddhist books collected under the
great Than dynasty."
7 Asiatic Researches, XX, p. 508-9.
p.345
is Bhaisajyaguru vaiduryaprabhas (adi)
sapta-buddha purvapranidhanaguna sutra. By examining
the Tibetan xylographs, I find that the first
tathagata mentioned in it is called mtshan. legs.
par. yons. bsgrigs. dpal. gyi rgyal-bo. It maybe
restored as Su-yasa-parigranthita-sri-raja. Prof.
Pelliot gives the Chinese name of the first Tathagata
as Chan-ming-tch'eng-ki-siang-wang-jou-lai, which may
be restored as Su-yasasriraja-tathagata.
In Tibetan there is also an independent
translation of this work on leaves 470-484. On
comparison I notice that this Tibetan version closely
follows the present Sanskrit text. From the summary
supplied by Prof. Pelliot from the Chinese version of
Srimitra, Dharmagupta and Hiuan-tsang, it will be
apparent that the first portions (see p. 346 para 1)
agrees with the present Sanskrit text but not the
rest, excepting the last few lines. In this
connection, I should also point out that the
quotation, which is a fairly long one, in
Santideva's Siksasamuccaya (p. 175) has been taken
from the text under consideration.
Popularity of Bhaisajyaguru in China and Japan
About the popularity of this Tathagata in China
and Japan, Prof. Pelliot writes:
"The Bhaisajyaguru is the Buddha of the 7th of
these worlds, all of which are situated in the east,
and of which Tsing-lieou-li is the furthest. It seems
that the necessity of symmetry has caused the
location of this happy eastern world opposite to the
western Paradise. In a Chinese inscription of 776
A.D., Bhaisajyaguru's world of the east and the
Sukhavati of the West are mentioned side by side, and
a few lines furher there is a reference to the
twelve vows that he had taken when he was a bodhisat
tva for the welfare of beings.
From China, the Bhaisajyaguru passed to Japan at
an early date. He is represented at Horiuji in a
group in bronze; the most ancient representation is
perhaps attributed to Tori Busshi; an inscription
enables us to date it exactly in the year 607; it was
in his honour that in the year 681 on the occasion
of an illness of the Queen, the Emperor Temmei
founded at Yamato the great Yakushiji, the temple of
Bhaisajyaguru. This temple perserves even now the
wonders of ancient Japanese art."
p.346
The Contents of the Sutra
For the purpose of comparison I am reproducing in
English the substance given by Prof. Pelliot from the
Chinese texts as also that of the Sanskrit text:
1. "The Buddha arrives at Vaisali; he is
surrounded by all the beings of the worlds.
Manjusrikumara stands up and requests the Tathagata
to give an exposition of the vows made formerly by
the past Buddhas for extricating the living beings
from the miseries of existence. Bhagava grants the
request and explains the twelve vows taken formerly,
when he was a bodhisattva, by a Buddha whose world is
separated from ours by Buddhaksetras, the number of
which is ten times the number of the sands of the
Ganges; that Buddhais Yao-che-lieou-li-kouang-jou-lai
(Bhaisajyaguruvaiduryaprabha); he lives in the world
Tsing-lieou-li. He wished that he himself might
attain bodhi, pure and resplendent as the vaidurya
(mani), and illuminate the world immersed in
darkness; he wished that his name if uttered might
cure maladies, release the prisoners, change into men
those women who are sick of their miserable
condition, procure food for the famished, or clothes
for the destitute. In short, in that world, for
innumerable kalpas there would be neither suffering
nor poverty; there would be no more feminine beings,
nor beings in inferior states of existence; the soil
would be of vaidurya, ropes of gold would line the
routes;(8) the walls and the houses would be made of
seven jewels and one would believe it to be the
westen Sukhavati.(9) In the country there would be
two bodhisattvas, viz., Je-kouang-pien-tchao and
Yue-kouang-pientchao, (10) the chief among the
innumerable bodhisattvas and second to
----------------------
8 Neither in Tibetan (vide leaf 474, 11. 4-5) nor in
Sanskrit I find any passage corresponding to this.
Cf. Tib. xylograph, leaf 474a, 11. 4-5.
10 The Chinese terms used by Srimitra or Dharmagupta
or Hiuantsang are really different translations of
the Sanskrit names: Suryavairocana and Candra-
p.347
the Buddha alone; they protect the precious
treasure of the law of their Tathagata. Also all
believers male and female must take the vow to be
reborn in the world of this Buddha.
2. It will suffice only to think of his name for
deliverance from all evils, and if one dreams of him
at the time of death, Manjusribodhisattva,
Avalokitesvara b., Mahasthamaprapta b., Aksayamati
b., Pao-t'an-houa b., Bhaisajyaraja b.,
Bhaisajuasamudgata b.,(11) Maitreya b. will act as
attendants of the deceased and conduct him to the
place of delight.
3. If one makes an image of this Buddha, or if
one recites the text of the sutra, he will escape
from the nine ways of death (neuf fins violentes):
this is what the Bodhisattva Kieou-t'o(12) explained
to Ananda. In conclusion, having heard this
instruction of Bhagava, 12 great raksasa-chiefs, each
having a following of 7000 raksasas, were converted;
and they consecrated themselves to better the lot of
living beings."
The Sanskrit text (in translation) begins as
follows:
"Salutations to all the Buddhas and Bodhisattvas.
Thus have I heard. Once Bhagava in course of his tour
came to the great city of Vaisali. There he stopped
under a tree, giving out musical sounds, with a large
number of bhiksus, bodhisattvas, householders, gods,
nagas, yaksas, gandharvas, etc., in short, many human
and nonhuman beings. Then the dharmarajaputra
Manjusri, being inspired by Buddha, put the robe on
one shoulder, knelt down and said with folded hands:
O Bhagava, tell us the names of the Tathagatas and
their former resolutions in detail for the good of
all beings."
The Sanskrit text follows the first para of Prof.
Pelliot's translation quite closely, as has been
shown by quotations of some of the corresponding
Sanskrit passages. After this, it gives the following
conversation of Bhagavan with Manjusri:
-----------------------
vairocana which are found in the present Sanskrit
ms. as also in the inscription of Say-fong.
11 All these names occur in the list of
bodhisattvas in the Saddharmapundarika (see ante
p. 342); but these names are not found in the
Sanskrit Ms.
12 Its Sanskrit restoration is Tranamukta.
p.348
"There are, O Manjusri, men who are unwise and
avaricious and so when they give gifts, they feel
pain in their mind; they seek food for themselves and
not even for their parents. These will be reborn in
the animal world, but in that state if they just
remember the name of Bhaisajyaguru, they will be born
in future among men, and be able to remember their
former existences and sufferings, and so will lead a
pious life.
There are some who transgress the (Buddhist)
precepts, or become conceited on account of their
learning and look down upon others. They will be
reborn in hell where, however, if they remember the
name of Bhaisajyaguru, they will be born in future
among men and become devoted followers of the
Buddhist religion.
There are again some who speak ill (avarnam
bhasati) of others. They will be reborn as asses,
horses, cows, etc. or as low-class labourers. If they
remember the name of Bhaisajyaguru, they will be
reborn as men and will become wise and obtain good
friends.
There are also some who slander others
(paisunyabhirata) and instigate people to quarrel
among themselves, or kill animals, or practise
dreadful (Tantric) practises (ghoravidyam) and so
forth; they also, if they hear the name of
Bhaisajyaguru will love their enemies or victims.
Those of the monks and nuns, male or female
lay-devotees, who observe the 8 silas or follows the
code of discipline for three months or one year will
be reborn in the Sukhavati world of the west. Should
they hear the name of Bhaisajyaguru, eight
Bodhisattvas(13) will appear at the time of their
death and conduct them to the world of gods. They may
be reborn also as sovereigns of the four dvipas, or
as rich householders, and if they are females, they
will lose their femininity and become males.
After this, commences the account of the merits
acquired by one who makes others hear the name of
Bhaisajyaguru, or preaches and propagates this Sutra.
This is followed by an account of the method of
worshipping the Tathagata through an image (tasya
tathagatasya puja kartukamenasca tena tathagatasya
pratimam karapayitavyam).
----------------------
13 See ante, p. 347.
p.349
The worshipper is to observe the 8 silas, avoid
impure food, choose a clean spot, burn incense,
decorate the place with various kinds of cloths,
flags and festoons. Then he is to bathe, and with a
pure mind try to be friendly to all beings. After
this he is to circumambulate the image with music,
and read out the present Sutra, remembering all the
while the vows of the Tathagata. Such worship brings
the worshipper wealth, sons etc. and on the other
hand rids him of all worldly evils.
Those, who will hear the name of the Tathagata as
well as take the three Saranas, observe the five
Siksapadas and the Bodhisattvasamvaras (rules of
discipline for Bodhisattvas), or become monks
observing the 250 Siksapadas, or become nuns
observing 500 Siksapadas, will always be protecteed
by the Tathagata from evil destiny.
The women with child will by uttering his name
feel no pain at the time of giving birth to the
child, and the baby will be healthy, good-looking and
intelligent."
This is followed by a conversation of Buddha with
Ananda about the credibility of the results
enumerated above brought about by merely hearing or
uttering the name of Bhaisajyaguru. As usual Ananda
dares not say anything against it and expresses his
deep conviction in the same, pitying the evil lot of
those who would not believe it.
After Ananda, there appears one Tranamukta
bodhisattva who enquires whether in future beings
lying senseless on their death-bed when Yamaraja is
taking stock of his merits and demerits can be
revived by his relatives by making him hear the name
of Bhaisajyaguru and performing the worship of the
Tathagata. He is given an answer in the affirmative,
and an account of the method of worship. The worship
is to be performed more elaborately by setting up
seven images and so forth.
Ananda now raises the question about the troubles
of the ruling kings and the possibility of their
removal by uttering the name of 'Bhaisajyaguru.
This is followed by a conversation between Ananda
and Tranamukta bodhisattva about the various causes
of death.'(14)
----------------------
14 See ante, p.347, para 3.
p.350
At last, appear the raksasas, whose chiefs were
Kimca, Vajra, Sanila, Indraloka, Payila, Vidala, etc.
who promised to utter the name of Bhaisajyaguru, take
the three saranas and the vow to preach the Sutra
everywhere.
The Sutra ends with a discussion about the
suitablity of its title. Thus ends the
Bhaisajyaguru-nama-mahayana-sutra.*
NALinaksha DUTT
-----------------------
* I hope to publish an edition of the Sanskrit text
with its Tibetan version within a short time.
http://buddhism.lib.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-ENG/nal.htm
-
namo Bhagavate bhaisajya-guru vaidurya prabha raja-ya (37)
-
-
魔道鬼神的作怪(3)
分享: facebook PLURK twitter
再來說來能作障礙假人門。
作障假人雖有無量,但不出四種,是哪四 種呢? <假人:指的是靈界 >
一者魔。
二者外道。
三者鬼。
四者神。
是名為四。
.................................................
所言魔者。四種大魔,三萬二千眷屬魔 。
言外道者。九十六種諸大外道,九萬三 眷屬外道。
所言鬼者。十種大鬼,五萬一千三百二 諸眷屬鬼。
所言神者。十五大神,五萬一千三百二 諸眷屬神。
像這一切諸類,皆悉礙亂正教,令向非道 ,故名邪道。
<都是這些魔道鬼神在作祟防礙人修正 法,惡心故意擾亂人向非道而去.
………………………………………… ………
魔及外道名義差別,已在經典中分明說 過了,今且略而不再解釋。
鬼及神事。在經典中無分明故,今簡單 說。
....................................
言十鬼者,祂們的名字云何?
一者) 遮毘多提鬼。
二者) 伊伽羅尸鬼。
三者) 伊提伽帝鬼。
四者) 婆那鍵多鬼。
五者) 爾羅爾梨提鬼。
六者) 班尼陀鬼。
七者) 阿阿彌鬼。
八者) 闍佉婆尼鬼。
九者) 多阿多伊多鬼。
十者) 堆惕鬼。
這十(種)鬼來如何來惑亂修行人的呢?
若第一鬼)或作晝境。或作夜境。或作 月及星宿境。或作節境。隨應變轉。
若第二鬼)作種種香味,種種衣具,種種 木境,隨應變轉。
若第三鬼)作地水火風之境界,隨應變轉 。
若第四鬼)作飛騰境,隨應無礙。
若第五鬼)作諸根識閉開之境,隨應無礙 。
若第六鬼)作六親眷屬,亦有,亦無境,隨 無礙。
若第七鬼)作老少境,隨應無礙。
若第八鬼)作有智,無智之境,隨應無礙
若第九鬼)作無有境,隨應無礙。
若第十鬼)作蝎蠅蟻龍虎師子,種種音聲 等之境界,隨應無礙。
.............................................
這些鬼運用這些境界來惑亂修行人,
如是諸用,又各因何力而得成就的?
各因三種事而令祂們得成就。云何為 。
一者師。
二者教。
三者習。
..............................................
師謂)教人。
教謂)所學。
習謂)宿熏。
是這三種。
如是十鬼,恒一切時,不相捨離。俱行俱 轉,作障礎事。
用之名字從增建立。如第一稱。
………………………………………… …………………..
十五神者名字云何。
一者)筏羅羅鍵多提神。
二者)阿只陀彌梨尼神。
三者)補多帝陀訶訶婆神。
四者)闍毘摩只尼神。
五者)那多婆奢神。
六者)多多多多地地神。
七者)阿里摩羅神。
八者)尸叉尼帝婆竭那神。
九者)班彌陀羅鄔多提神。
十者)唵唵吟吟神。
十一者)阿阿訶帝神。
十二者)修梨彌尼神。
十三者)頭頭牛頭神。
十四者)婆鳩神。
十五者)精媚神。
是名十五。
......................................
此十五神會現出什麼樣的事呢?
若第一神)作聰明境。
若第二神)作闇鈍境。
若第三神)作樂有光明之境界。
若第四神)作樂空光明之境界。
若第五神)作浮散境。
若第六神)作專注境。
若第七神)作惡空善有之境界。
若第八神)作一切覺者之境界。
若第九神)作我覺他惑之境界。
若第十神)作俱不修行之境界。
第十一神)作無無境。
第十二神)作速進退之境界。
第十三神)作移轉境。
第十四神)作堅固境。
第十五神)作應時境。
如是十五)大神王者。
恒一切時不相捨離。俱行俱轉,而作礙 惱亂行者。
.............................................
魔和外道有什麼差別呢?
所言魔者,令作人去惡事。(讓人去作惡 事)
外道者,令人去捨善事。(讓人不去作善 事)
二種差別應如是知。
鬼及神有什麼差別呢?
障身為鬼。 (讓人身體生病痛苦 )
障心為神。 (讓人心靈惛沉散亂失心退心..)
二種差別應如是知。
<出自: 釋摩訶衍論 > 小龍女
................................................
註: 由上可知,本尊法中諸多可以學習辟除 甲護身結界之法,
是多麼的重要啊. 這些法亦有很多內容可學習的.
晨朝時要修誦金剛忿怒本尊法,供養,請 求驅除魔道鬼神,否則家中都回藏這些!
這些驅除法,要配合水.芥子.香灰.除障 .法印等來作....
http://marcpolly.pixnet.net/blog/pos...6%80%AA%283%29
-
BÍ QUYẾT NGŨ ĐẾ TRỪ NGŨ QUỶ
Trong Huyền Học Mệnh Lý của phương Đông thường có một khái niệm được định danh NGŨ QUỶ, Ngũ Quỷ có nhiều cách tính có thể căn cứ vào Tuổi (tuổi Tý gặp năm Thìn, tuổi Sửu gặp năm Tị, Tuổi Dần gặp năm Ngọ, tuổi Mão gặp năm Mùi, tuổi Thìn gặp năm Thân, tuổi Tị gặp năm Dậu, tuổi Ngọ gặp năm Tuất, tuổi Mùi gặp năm Hợi, tuổi Thân gặp năm Tý, tuổi Dậu gặp năm Sửu, tuổi Tuất gặp năm Dần, tuổi Hợi gặp năm Mão là phạm Ngũ Quỷ).Hoặc cũng có thể xét theo Bát Tự - Tử Bình, như sinh ngày Ngọ mà trong Tứ Trụ gặp chữ Tuất là phạm Ngũ Quỷ...
Hoặc có thể căn cứ theo Cung Mệnh Quái (Phi Cung) để biết có hay không phạm vào Ngũ Quỷ. Nếu cung Mệnh là Tam Bích Chấn ( Mộc ), mà hướng nhà
cung Càn ( Kim ) là phạm Ngũ Quỷ, hoặc cung Khôn ( Thổ ) mà ở vào hướng Tốn ( MỘC ) là phạm Ngũ Quỷ … cũng có thể so đôi tuổi với người hợp tác, vợ chồng để biết có phạm Ngũ Quỷ hay không.
Ngũ Quỷ thường ứng với tốc phát tốc phá, sự đến bất thường đột nhiên … Do đặc tính của Ngũ Quỷ là Âm Hỏa Liêm Trinh nếu điệp điệp trùng sinh, được gọi là Ngũ Quỷ Vận Tài, nếu bị nó khắc phạm được gọi là Ngũ Quỷ Khiếu Hồn !
Thông thường người ở vào các tuổi âm lịch 5,17, 29, 41, 53, 65, 77, 89... ( lần lượt 12 năm tiếp theo ) đều phạm Ngũ Quỷ ! đây chính là câu “49 chưa qua 53 đã tới !” bởi 49 tuổi phạm Thái Tuế,53 tuổi phạm Ngũ Quỷ. Lại có câu “Ngũ Quỷ sao hung 5 cái đầu … Mười người gặp nó 9 người sầu !”
Ngũ Quỷ thường ứng vào phá tài, vì bạn bè dây dưa mất tiền kiện tụng rắc rối, hoặc bị tiểu nhân lôi kéo bè lũ ám hại … hoặc bị các chứng bệnh về Phổi, Gan, Máu Huyết …
2. Ngũ Đế Tiền:
Ngũ Đế Tiền là chỉ Tiền của 5 đời thịnh trị Thanh Triều bên Trung Hoa là Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long và Gia Khánh được gọi là “Khang Càn Thịnh Thế”. Theo Phong Thủy Học Ngũ Đế Tiền có công dụng như sau:
– Tăng gia Tài Vận
– Treo tại cửa nhà để kháng sát hóa giải Hung Tinh. (Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Ngũ Quỷ Hướng)
– Hóa Giải Ngũ Quỷ (Theo Tuổi )
– Dùng bổ sung cho người có tổ hợp Bát Tự Kim yếu.
– Dùng để chôn táng cùng hài cốt để con cháu giàu có (Tử Tôn Tiền)
– Dùng để gieo quẻ Dịch.
Do đâu mà Ngũ Đế Tiền lại có được nhiều tác dụng như vậy ?! Có mấy điểm được các nhà Phong Thủy Học thống nhất như sau:
– Tiền đúc thời kỳ này có lượng Đồng cùng các kim loại phối hợp hợp chuẩn nhất, tinh khiết nhất và có kích thước tỷ lệ tốt nhất.
– Tiền do được lưu hành vào thời kỳ thịnh vượng được lưu chuyển qua nhiều người, nhiều vùng đất, nhiều thời gian nên hội đủ nhiều nhất, tốt nhất các yếu tố Tam Tài :Thiên Địa Nhân.
– Đồng Tiền được đúc với lỗ ở giữa hình Vuông tượng trưng cho Địa với sự biến hóa vô cùng vô tận, viền ngoài hình tròn biểu trưng cho Thiên với các quy luật tuần hoàn xoay vòng và trên thân đồng tiền in Đế Hiệu các đời Hoàng Đế biểu trưng cho yếu tố Nhân với các Mỹ Từ đẹp đẽ Thuận Trị (Thuận lợi trị an), Khang Hy (Vui vẻ khỏe mạnh tốt đẹp), Ung Chính (Bồi đắp sự chính trực), Càn Long (Thịnh hưng của quẻ Càn gồm Nguyên, Hanh, Lợi Trinh), Gia Khánh (Tăng thêm sự tốt đẹp vui vẻ) …
3. Ngũ Đế Trừ Ngũ Quỷ:
Ngũ Đế Tiền là biểu tượng của Càn Kim tức ứng với Thiên phương vị ở Tây Bắc, tượng trưng cho đầu mối của vạn vật là Khí thuần Dương cương cường. Mở đầu Kinh Dịch là Quẻ Càn với bốn tính Chất Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Ngũ Quỷ là Âm Khí( chí âm ) có sát tính mạnh, có sức phá hoại lớn.
Dùng tính chất Dương Cương Cường của quẻ Càn đối trị lại tính chất Âm Sát của Ngũ Quỷ chính là lấy Đạo Âm Dương tương hóa, lấy Đức lớn của Trời dung hóa Sát Tính của Quỷ, thu phục và chuyển hóa thành các yếu tố có lợi cho nhân sinh.
Đó chính là Đạo Hóa Sinh của Thiên Đạo.
Cách làm:
– Chọn mua Ngũ Đế Tiền ( tiền cổ thật thì tốt nhất) nếu loại phục chế thì chọn loại tiền có chất lượng đồng tốt( loại này hiện nay có bán trên thị trường có đủ các kích cỡ )
– Rửa sạch bằng nước, rượu.
– Bỏ vào một đĩa sứ sạch rồi trì tụng 49 biến ĐẠI BI CHÚ ( ai chưa có chú Đại Bi thì gửi tin nhắn, tôi sẽ cung cấp ) … nói về việc mình cần .
– Chọn giờ tốt, ngày tốt đem sử dụng (Treo trên cửa nhà hoặc mang trong người). Hiện nay những nhà ở khu vực miền Trung Bộ và Nam Bộ hay dùng để treo trước cửa nhà để hóa sát, chiêu tài lộc.
https://www.facebook.com/phongthuyta...37898412898538
-
Tìm kiếm
Thất Diệp quật
(七葉窟) Phạm: Sapta-parịa-guhà. Hán âm: Tát đa ban na cầu ha. Cũng gọi Thất diệp thụ quật, Thất diệp thụ lâm thạch thất, Sát đế sơn quật, Xà đế thạch thất, Thất diệp huyệt, Thất diệp nham, Thất diệp viên. Tên của động đá nằm trong núi Tì bà la (Pàli:Vebhàra), gần thành Vương xá, Trung Ấn độ; là 1 trong 5 tinh xá thuộc thành Vương xá. Vì trước cửa hang động có cây Thất diệp nên gọi là Thất diệp quật. Chỗ này vốn là linh tích đánh dấu nơi đức Thích tôn thuyết pháp, sau khi đức Phật nhập diệt, tôn giả Ca diếp triệu tập 500 vị Hiền thánh về họp tại đây, các ngài A nan đà, Ưu ba li, Ca diếp... là những bậc Thượng thủ, kết tập 3 tạng Kinh, Luật, Luận, an cư 3 tháng, hoàn thành đại sự. Cứ theo Pháp hoa văn cú quyển 1 thì 5 tinh xá là chỉ cho Tì bà la bạt thứ, Tát đa ban na cầu ha, Nhân đà thế la cầu ha, Tát pha thứ hồn trực ca bát bà la và Kì xà quật sơn. Nhưng Chỉ quật dịch thổ tậpquyển 21 thì hợp chung Tát đa ban na cầu ha và Tì bà la bạt thứ làm một gọi là Tì bà la bạt thứ tát đa ban na cầu ha, rồi thêm tinh xá Trúc viên mà thành 5 tinh xá. [X. kinh Tạp a hàm Q.39; Đại đường tây vực kí Q.9]. (xt. Ngũ Tinh Xá Thập Tháp).
Sapta-parnaguha (S) Hang Thất Diệp Hang nằm trong núi Tỳ bà la (Vebhara) gần thành Vương xa, là nơi Phật thuyết pháp, nơi Ca Diếp nhóm họp 500 hiến Thánh kiết tập kinh điển trong 3 tháng.
112梵名 Sapta-parṇa-guhā。音譯作薩多般那求訶。又作七葉 樹窟、七葉樹林石室、剎帝山窟、車 石室、七葉穴、七葉巖、七葉園。位 印度王舍城附近毘婆羅(巴 Vebhāra)山中之石窟,為王舍城五精舍 之一。因窟前有七葉樹,故名。其地 為釋尊說法之靈跡,佛滅後迦葉尊者 其處會五百賢聖,以阿難陀、優婆離 、迦葉等為上首,結集經、律、論三 ,安居三月,完成大業。據法華經文 卷一載,五精舍指鞞婆羅跋恕、薩多 般那求訶、因陀世羅求訶、薩簸恕魂 迦鉢婆羅、耆闍崛山等。但據枳橘易 集卷二十一,則將薩多般那求訶、鞞 婆羅跋恕二者合併為鞞婆羅跋恕薩多 那求呵,而加入竹園一名,合為五精 。〔雜阿含經卷三十九、大唐西域記 卷九〕(參閱「五精舍十塔」1190)
Quay lại
https://thuvienhoasen.org/tudien?k=T...20qu%E1%BA%ADt