https://mytour.vn/location/2774-hoi-mieu-ong-dia.html
Printable View
VIỆC TỘC, ĐÔI ĐIỀU GHI NHẬN 13
Về bài “Văn cúng đất đai”
Sàigòn ngày 3/11/2016 (4/10 Bính thân)
Phan Bá Lương (2/16)
Thần linh Việt Nam: Quan Âm và các vị thần linh Tứ Phủ
Thần linh Việt Nam: Quan Âm và các vị thần linh Tứ Phủ
Đây thực chất là bài văn “cúng thần linh” trong các dịp tế lễ Tổ tiên ở gia đình hay dòng tộc. Theo nguyên tắc thì “cúng thần linh” phải được cúng trước và khi nào xong việc “cúng thần linh” mới được cúng Tổ tiên (không phải vừa mới đốt nhang khấn vái thần linh xong thì xoay sang đốt nhang và khấn vái Tổ tiên như nhiều nơi vẫn thường làm). Lý do phải cúng thần linh trước là vì những vị thần linh này có những uy lực nhất định mà không không linh hồn thường nào dám lại gần, nếu cúng thần linh chưa “lễ tất” mà cúng tiếp Tổ tiên thì không có Tổ tiên nào dám bước vào dự, và như vậy lễ cúng Tổ tiên thành vô nghĩa.
Ở miền nam lễ cúng này thường được gọi là “cúng đất đai”; khác với miền trung “cúng đất đai” là cúng người khai khẩn đầu tiên mãnh đất mà ta đang ở theo tinh thần uống nước nhớ nguồn, việc cúng này miền nam lại gọi là “cúng tiền chủ”.
Có một chuyện vui là vì được gọi là “cúng đất đai” nên có người cho rằng “phải để mâm cúng này ở dưới đất” mới đúng.
Thần linh ở đây bao gồm cả “thần ngoại, tức thần ở ngoài phạm vi nhà” và “thần nội, tức thần ở trong nhà”. Thần ngoại thì thật là rộng lớn, vô cùng (chúng ta không thể nào biết hết được), còn thần nội chỉ có “Ông táo” (gồm ba thần hiệu Đông trù tư mạng táo phủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần) và “Thần tài” (có thần hiệu Ngũ phương ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ tài thần).
Tôi vừa tìm được một bản “Văn cúng đất đai” có nội dung như sau (không ghi lại phần đầu về lý do, ai tổ chức, địa điểm, ngày tháng v.v…):
KỈNH THỈNH TẾ VU
1-Khai hoàng đại đế, hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần, đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần.
2-Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quân đương niên tôn thần.
3-Đương niên Hành Kiến, Hành Binh tôn thần.
4-Thái Giám Bạch Mã lợi vật tôn thần.
5-Kiêm niên thái tuế chí đức tôn thần.
6-Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ thổ Long thần.
7-Ngũ hành tiên nương huyền vũ tôn thần.
8-Hậu thổ nguyên quân tôn thần.
9-Ốc tiêu sơn hạTiêu diện đại sĩ Diệm, khẩu quỷ vương tôn thần.
10-Cửu tiên Huyền Nữ tôn thần.
11-Tả ban bổn sứ Thần Quang chư tôn thần.
12-Chánh Đức Tài Thần, Hỉ thần chi Thần.
13-Đại hạng, tiểu hạn chi thần.
14-Thủy long ngọc nữ chi thần.
15-Cao Sơn chi thần.
16-Cung thỉnh Bản gia tiên sư bản viên thổ công Chư vị tôn thần.
KỴ CẬP
Tả ban chư dương hữu ban chư âm. Chư tam thập lục thổ. liệt vị thổ thần, nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư. Đồng lai lâm hưỡng.
Phục Duy Bái Thỉnh
Trước hết, thử tìm xem các thần hiệu được nêu ở trên thuộc về những vị thần nào, trong dân gian được thờ cúng ra sao …:
1-Khai hoàng đại đế, hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần, đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần. Không biết đây là mấy vị thần, nhưng có thể suy đoán là ba vị thần, đó là:
1a.Khai hoàng đại đế. Không tìm thấy thần hiệu này, mà chỉ thấy có thần hiệu Ngọc hoàng thượng đế, là vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên đình theo quan niệm của Trung Hoa và Việt Nam. Tùy theo các triều đại, vị vua thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau như Hoàng thiên, Hạo thiên, Thiên đế, Thái nhất, Thái vi ngọc đế, Tinh chủ thái vi viên, Phạm thiên ngọc đế, Tử vi ngọc đế, Ngọc hoàng đạo quân, Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tề…
Ngọc hoàng thượng đế
Ngọc hoàng thượng đế
1b.Hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần. Ở đây viết sai “bổn xứ = đất của ta” thành “bổn sứ = sứ giả của ta”. Tương tự như trên, cũng không tìm thấy thần hiệu này, mà chỉ thấy có thần hiệu Bản cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bản cảnh, là vị thần trông coi một khu vực nào đó. Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Bản cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Trong nhiều trường hợp, thần không phải là con người bằng xương bằng thịt, nên đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ “thần” và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là “Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng” (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ)[1].
1c.Đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần. Ở đây viết sai “đương cảnh = cõi đất đang được thờ” thành “đương canh = cõi đất đang có”. Thổ địa là vị thần thủ hộ về đất đai, nhà ở, có thần hiệu là Phúc đức chính thần, còn được gọi là Hậu thổ, Xã thần, Xã công, Thổ địa … Ngày xưa lấy nông nghiệp làm gốc, có đất mới có thể sản xuất ra lương thực để sinh sống, vì thế mà có sự sùng bái và biết ơn rất lớn, rồi dần dần con người sáng tạo nên một vị thần để thờ phụng, đó chính là Thổ địa phúc đức chính thần.
2–Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quân đương niên tôn thần. Đây là ba vị Táo quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, được hóa thành “2 ông 1 bà”, dân gian quen gọi là Táo Quân hoặc Ông Táo, hay Định phúc Táo quân [2], gồm thần Thổ công trông coi việc bếp (có thần hiệu là Đông trù tư mệnh táo phủ thần quân); thần Thổ địa trông coi việc nhà cửa (có thần hiệu là Thổ địa long mạch tôn thần); và thần Thổ kỳ trông coi việc chợ búa (có thần hiệu là Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chánh thần). Ba vị Táo quân xưa nay vẫn trấn nhậm một chỗ không có thay đổi, vì vậy mà không cần nêu “đương niên = đang ở năm nay”. Ngoài ra, như đã nêu trên, đây là ba vị với thần hiệu riêng biệt nhưng luôn đi chung với nhau; nêu và thỉnh mời chỉ một vị là thiếu sót lớn.
Táo quân
Táo quân
3-Đương niên Hành Kiến, Hành Binh tôn thần. Ở đây viết sai “Hành khiển = văn quan cao cấp phụ tá cho Tướng quốc, hoặc cầm đầu một đạo” thành “Hành kiến = ? (không có nghĩa)”. Đây là những vị thần trông coi việc nhân gian trong một năm, xem xét mọi việc hay dở của từng người, từng gia đình, từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công luận tội, tâu lên Thượng đế. Thượng đế, căn cứ vào bản công tội đó để chỉ thị cho người mới xuống cai trị biết để định công, tội; hết năm thì những vị thần cũ bàn giao lại công việc cho những vị thần mới, cúng giao thừa ở ngoài trời là nhằm tiển đưa các vị cũ và đón các vị mới. Ba vị thần này có thần hiệu là Thái tuế chí đức tôn thần (đứng đầu, thường gọi tắt là Hành khiển, dưới đây viết tắt là Hk), Hành binh chi thần (Phụ tá về võ, dưới đây viết tắt là Hb), và Phán quan (Phụ tá về văn, dưới đây viết tắt là Pq). Cụ thể 36 vị thần được phân công trông coi trong 12 năm là:
-Năm Tý: Thái tuế chí đức tôn thần Chu vương Hành khiển (Hk), Thiên ôn Hành binh chi thần (Hb), Lý tào Phán quan (Pq).
-Năm Sửu: Triệu vương Hk, Tam thập lục thương Hb, Khúc tào Pq.
-Năm Dần: Ngụy vương Hk, Mộc tinh Hb, Tiêu tào Pq.
-Năm Mão: Trịnh vương Hk, Thạch tinh Hb, Liễu tào Pq.
-Năm Thìn: Sở vương Hk, Hoả tinh Hb, Biểu tào Pq.
-Năm Tị: Ngô vương Hk, Thiên hao Hb, Hứa tào Pq.
-Năm Ngọ: Tần vương Hk, Thiên mao Hb, Ngọc tào Pq.
-Năm Mùi: Tống vương Hk, Ngũ đạo Hb, Lâm tào Pq.
-Năm Thân: Tề vương Hk, Ngũ miếu Hb, Tống tào Pq.
-Năm Dậu: Lỗ vương Hk, Ngũ nhạc Hb, Cự tào Pq.
-Năm Tuất: Việt vương Hk, Thiên bá Hb, Thành tào Pq.
-Năm Hợi: Lưu vương Hk, Ngũ ôn Hb, Nguyễn tào Pq.
Có 36 vị thay phiên trấn nhậm cõi trần, nên năm nào phải ghi thần hiệu của năm đó, không nên ghi chung là Cựu niên (= năm cũ) hay Đương niên (= năm nay) được. Ngoài ra, mỗi năm có ba vị, một vị chánh và hai vị phó, bài văn cúng chỉ nêu có hai thần hiệu (bỏ mất vị phán quan) là thiếu sót lớn.
4-Thái Giám Bạch Mã lợi vật tôn thần. Về thế tục, Thái giám bạch mã lợi vật tôn thần, gọi tắt là Bạch mã thái giám, được thờ ở đình làng và được hiểu như là con vật cỡi (Bạch mã) và là thuộc hạ hầu cận (Thái giám/hoạn quan) của thần Thành hoàng. Còn trong Phật giáo, ngựa trắng/bạch mã được coi là Bồ tát (Balaha) hay chính là Phật. Cụm từ “Thái giám” được hiểu do người lưỡng tính là một thực thể mang những dấu hiệu của hai giới, nhưng còn ở thể hợp nhất chưa phân khai thành hai có thuộc tính đối lập. Người lưỡng tính mang dấu hiệu của sự toàn vẹn tinh thần, bất phân tự nguồn cội. Nói chung, Bạch mã thái giám là mỹ hiệu được tạo thành từ tâm thức lưỡng tính, biểu thị sự vẹn toàn.
Trang trí hình ngựa ở Minh hương phật tự Hội An (Quảng Nam)
Trang trí hình ngựa ở Minh hương phật tự Hội An (Quảng Nam)
5-Kiêm niên thái tuế chí đức tôn thần. Ở đây viết sai “kim niên = năm nay” thành “kiêm niên = gấp đôi năm”. Thật ra Thái tuế chí đức tôn thần chính là thần hiệu đầy đủ của các vị Hành khiển đã nêu ở 3- bên trên. Vì vậy không cần phải nêu phần thần hiệu này vì trùng lắp.
6-Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ thổ Long thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy có danh hiệu chung là Ngũ phương Ngũ đế tức là năm vị (ngũ lão) cai quản năm phương bảo hộ cho các sinh linh trên thế gian; khi nêu Hành khiển, Hành binh, Phán quan đều phải nêu Ngũ phương Ngũ đế. Ngũ phương là Đông phương thủy lão, Nam phương chân lão, Trung ương nguyên lão, Tây phương hoàng lão, Bắc phương huyền lão. Ngũ đế là Đông phương thanh đế, Nam phương xích đế, Trung ương hoàng đế, Tây phương bạch đế, Bắc phương hắc đế. (Lưu ý trong bài văn chỉ cần ghi chung Ngũ phương Ngũ đế là đủ).
7-Ngũ hành tiên nương huyền vũ tôn thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy có thần hiệu Ngũ hành nương nương. Ngũ hành là năm loại vật chất căn bản, gồm: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thủy (nước), Hỏa ( lửa) và Thổ (đất), năm vật chất ấy vận động, phát triển theo hướng “tương sinh” và “ tương khắc”, biểu thị quy luật sinh thành/vận động của toàn vũ trụ và cả trong cuộc sinh tồn của nhân loại. Lần hồi thuyết Ngũ hành được tín ngưỡng hóa thành sự thờ phượng “vạn vật linh thiêng”. Tại nước ta, tục thờ Ngũ hành nương nương xuất hiện muộn, và mãi đến năm Duy Tân thứ 5 (1911), nhà Nguyễn mới có sắc phong chung là “Tự hóa Mạc vận Thuận thành Hòa tự Tư nguyện Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần”, và nêu tên năm Bà là Thổ đức thánh phi, Kim đức thánh phi, Thủy đức thánh phi, Mộc đức thánh phi và Hoả đức thánh phi. Dân gian tin rằng năm vị nữ thần Ngũ hành có những quyền năng nhứt định đối với các nghề liên quan đến đất đai, củi lửa, kim khí, nước nôi và cây gỗ, nói chung là hầu hết tầng lớp thứ dân trong xã hội. Lúc đầu, Ngũ hành nương nương thường được thờ trong những “miếu Ngũ hành”. Ngày nay, những ngôi miễu Bà xuất hiện khắp nơi, người ta thờ Bà bằng bài vị chữ Nho, nhưng lần hồi bài vị được thay bằng tượng đúc, rồi từ màu sơn thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài … đều có màu riêng biệt: Kim bà thì mặc áo trắng, Mộc bà áo xanh, Hỏa bà áo đỏ, Thủy bà áo đen (hoặc tím), và Thổ bà áo vàng.
Ngũ hành nương nương
Ngũ hành nương nương
8-Hậu thổ nguyên quân tôn thần. Đây là vị thần của đất nước Nam. Khi xưa vua Lý Thánh Tông đi thuyền chinh nam đến cửa biển bỗng nhiên trời mưa to gió lớn, sóng cuộn trùm lên, xa trông như những dãy núi, đoàn thuyền không thể qua được. Thần đã báo mộng sẽ giúp vua vượt qua. Nhà vua tỉnh dậy sai những người thân cận tìm khắp các ngọn đồi trên bờ thì thấy một khúc gỗ có nét như người mà nhà vua nằm mộng đã gặp. Vua liền sai mang đặt ở thuyền rồng, đốt hương cầu đảo, ban hiệu là Hậu thổ phu nhân. Chỉ trong giây lát gió lặng sóng yên, đoàn thuyền khởi hành thuận lợi. Sau khi thắng trận trở về, vua đem tượng về kinh đô thờ cúng. Năm Trùng Hưng thứ nhứt (1285), sắc phong là Hậu Thổ thần Địa kỳ Nguyên quân, sang năm thứ tư được gia phong hai mỹ tự Nguyên Trung. Đến đời Trần Anh Tông, gặp lúc hạn hán, nhà vua bèn dựng đàn để cầu đảo, thần bèn thác mộng báo với vua rằng trong đền có Câu mang thần quân có thể làm mưa được. Nhà vua tỉnh dậy, sai quan Hữu ty đến làm lễ, quả nhiên mưa lớn lan tràn. Nhà vua bèn ban sắc phong cho thần là Ứng thiên hậu thổ phu nhân. Sau lại tôn phong là Ứng thiên Hóa dục Nguyên trung Hậu thổ Địa kỳ Nguyên quân.
9-Ốc tiêu sơn hạ Tiêu diện đại sĩ Diệm, khẩu quỷ vương tôn thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy thần hiệu Tiêu diện đại sĩ (còn gọi là Tiêu diện đại quỷ vương, Diện nhiên đại sĩ, Diện nhiên quỷ vương, Diện nhiên, Ông Đại sĩ, Đại sĩ vương, Diệm khẩu quỷ vương) là vị thần của Phật giáo và Đạo giáo, có thân hình gầy ốm, miệng luôn bốc cháy lửa và cổ họng nhỏ như cây kim, do vì đời trước tham lam, keo kiệt, bỏn xẻn nên bị quả báo như vậy. Vị này thống lãnh tất cả chúng Ngạ quỷ và người ta cho đó là hóa thân của Bồ tát Quán thế âm. Vào dịp tiết Trung nguyên (rằm tháng bảy), trước khi vái lạy tổ tiên, người ta thường bái tế Diện nhiên Đại sĩ. Mọi người đều tin rằng vào dịp này, các vong linh trên dương thế đều do vị thần này quản lý; chuyện kể rằng có một đêm nọ trong khi đang hành thiền, vào canh ba tôn giả A Nan chợt nhìn thấy một con quỷ đói thật hung tợn tên là Diệm khẩu có thân hình gầy ốm, miệng rực cháy lửa và cổ họng nhỏ như cây kim. Con quỷ ấy đến trước mặt tôn giả thưa rằng ba ngày sau mạng của tôn giả sẽ hết và sanh vào thế giới Ngạ quỷ (ma đói). Nghe vậy, tôn giả A Nan vô cùng ngạc nhiên. Con quỷ cho biết nếu tôn giả có thể cúng dường thức ăn và nước uống cho trăm ngàn ức chúng Ngạ quỷ, cho vô số đạo sĩ Bà la môn, cho chư thiên và các vị thần cai quản việc làm của con người, cho quá cố các vong linh, dùng cái hộc của nước Ma Kiệt Đà để cúng dường cho họ 49 hộc thức ăn và nước uống, và vì họ mà cúng dường cho Tam Bảo, như vậy tôn giả sẽ được tăng thêm tuổi thọ, cùng lúc sẽ làm cho chúng tôi thoát khỏi cảnh khổ đau của Ngạ quỷ và sanh lên cõi Trời. Sau khi A Nan bạch lên đức Thế tôn, Ngài bèn chỉ cho nghi thức hành trì và thiết cúng thí thực. Từ nguồn gốc này, lễ cúng Thí thực hay Chẩn tế cho âm linh cô hồn ngạ quỷ ra đời cho đến ngày nay, và trong các đàn tràng chẩn tế thường có thiết bàn thờ Tiêu diện Đại sĩ.
Đạo giáo gọi vị này là U minh Giáo chủ Minh ty Diện nhiên Quỷ vương Giám trai Sứ giả Vũ lâm Đại thần, tôn xưng là Phổ độ Chơn quân; thường gọi là Ông Phổ độ. Tiêu diện Đại sĩ được xem như là hóa thân của Thái ất Cứu khổ Thiên tôn, chủ tể thống lãnh các quỷ, hộ trì hai cõi âm dương. Vị này thường trú duới núi Ốc Tiêu, làm thống soái các loài quỷ ở cõi âm, được hưởng hương hỏa cúng cấp của con người. Hình tượng của Ngài thường được vẽ với trên đỉnh đầu có hai sừng, mặt xanh, răng nanh nhọn hoắt, cao lớn uy vũ; trên đầu lại có hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát.
10-Cửu tiên Huyền Nữ tôn thần. Ở đây viết sai “cửu thiên = 9 tầng trời [3]” thành “cửu tiên = 9 vị tiên”. Cửu thiên huyền nữ (Huyền nữ, Cửu thiên nương nương) là một vị thần trong thần thoại, theo đó, Cửu thiên huyền nữ là người đã chỉ dạy cho Hoàng đế đánh bại Xi Vưu. Trong trận Trác Lộc, quân Hoàng đế bị quân Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng, nên mỗi khi đánh ra giải vây thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Lúc bấy giờ, Cửu thiên huyền nữ hiện ra dạy Hoàng đế chế ra xe hai bánh có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hoàng đế củng cố binh mã, từ trong đánh ra làm cho quân Xuy Vưu thảm bại, Xuy Vưu bị bắt sống. Sau đó, Cửu thiên hHuyền nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Hoàng đế và nhiều người như giúp Hoàng hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy “Cai thiên” để xem thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Cửu thiên huyền nữ còn truyền khoa Lục nhâm độn giáp và phép bói 64 quẻ Dịch để đoán kiết hung.
Cửu thiên huyền nữ
Cửu thiên huyền nữ
11-Tả ban bổn sứ Thần Quang chư tôn thần. Ở đây viết sai “bổn xứ” thành “bổn sứ”; “thần quân (hay thần quan)” thành “thần quang”; chỉ có “tả ban” mà không có “hữu ban” là thiếu sót lớn [4]. Cách nêu chính xác trong trường hợp này phải là Tả ban liệt vị tôn thần và Hữu ban liệt vị tôn thần, có thể hiểu đó là những vị thần cấp dưới đứng vào bên trái và phải của vị thần đứng đầu.
12-Chánh Đức Tài Thần, Hỉ thần chi Thần. Đây là các vị thần tạo việc tốt, và không có thần hiệu “chánh đức” đi kèm.
13-Đại hạng, tiểu hạn chi thần. Đại hạn (viết sai thành đại hạng, nhưng lại viết đúng tiểu hạn), Tiểu hạn, Nguyệt hạn, Mệnh hạn… được dùng trong việc giải đoán là số tử vi của một người nào, không phải là thần linh để nêu trong văn cúng.
14-Thủy long ngọc nữ chi thần. Ở đây chỉ có thần hiệu “Thủy long thần nữ” và “Thủy long thánh mẫu” mà không có “Thủy long ngọc nữ chi thần”.
14a.Thủy long thần nữ là vị thần cai quản dưới thủy cung, là một trong hai đệ tử của bà Thiên Y A Na là thần nước và thần núi, cả 2 đều là nữ. Thần có công bảo vệ đất nước, che chở muôn dân, được phong tặng là Trung đẳng thần với các cặp mỹ tự: Uông nhuần, Dực bảo, Trung hưng. Cư dân vùng sông nước lập miếu thờ Thủy long thần nữ với niềm tin có được sự che chở bảo bọc, gặp điều thiện tránh điều ác để có một cuộc sống ấm no hạnh phúc, an cư lạc nghiệp. Dân gian còn cho rằng Thủy long thần nữ chính là mẹ của hai cậu là cậu Tài và cậu Quý (cũng là hai vị phúc thần bảo hộ cho vùng sông nước) nên từ đây đã hình thành tín ngưỡng “thờ Bà Cậu” (Bà là bà Thủy long; cậu là cậu Tài, cậu Quý).
14b.Thủy Long Thánh Mẫu (hay thần nữ Kim Giao) được xem là người có công khai phá huyện đảo Phú Quốc. Tương truyền, bà thuộc dòng dõi vua chúa Cao Miên, do bị lật đổ, nên đã trốn sang Phú Quốc để sống. Tại đây, bà thiết lập một đồng cỏ rộng lớn cho đàn trâu mà bà mang theo, đồng thời tuyển mộ người đi khai khẩn đất đai để trồng trọt. Ngày nay, những cánh đồng trồng lúa ấy vẫn còn vết tích (dân địa phương gọi là đồng Bà), trên đồng còn nhiều cột cây trai, vết tích của những chuồng trâu thuở nọ; dọc theo sông Cửa Cạn còn một vũng nước sâu gọi là búng Dinh Bà (đây là nơi bà lập dinh trại ngày xưa). Có thuyết nói bà chết ở Cửa Cạn (Phú Quốc), sau đó vua Cao Miên cho đem hài cốt về nước. Thuyết khác cho rằng bà chết ở đảo Phú Dự. Lại có thuyết nữa cho rằng, khi dòng họ bà khôi phục lại đế nghiệp, bà trở về Cao Miên. Truyền thuyết cũng kể rằng, bà đã từng cưu mang chúa Nguyễn Phúc Ánh trong những ngày lưu lạc trên đảo. Người dân Phú Quốc rất tôn kính bà, coi bà như người tiên phong khai phá đảo, tôn bà là Thủy Long Thánh Mẫu. Hằng năm, dân chúng tổ chức lễ cúng tế bà vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch. Hiện nay, huyện đảo Phú Quốc có hai ngôi đền thờ bà, một ở xã Cửa Cạn, gọi là Dinh Bà Trong, một ở thị trấn Dương Đông, gọi là Dinh Bà Ngoài .
15-Cao Sơn chi thần. Thần Cao Sơn hay Cao Sơn đại vương là tên gọi của nhiều vị thần núi khác nhau trong truyền thuyết Việt Nam, bao gồm:
-Cao Sơn đại vương ở núi Tản Viên trong tam vị Tản Viên sơn thánh, tên là Hiển, sống ở thời Hùng Vương thứ 18, có công giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục.
-Cao Sơn đại vương là một trong năm mươi người con theo mê Âu Cơ lên núi, được phong chức Lạc tướng cai quản vùng núi phía tây Ninh Bình, sau được dân làng Kim Liên ở Hà Nội rước về thờ và được phong trấn phía nam kinh thành (Thăng long tứ trấn).
Chính điện đình Kim Liên (đền Cao Sơn), trấn nam của Thăng Long tứ trấn
Chính điện đình Kim Liên (đền Cao Sơn), trấn nam của Thăng Long tứ trấn
16-Bản gia tiên sư bản viên thổ công Chư vị tôn thần.
-Tiên sư (còn gọi là Tổ sư, Thánh sư, Nghệ sư) là ông tổ của một nghề nào đó, nói cách khác, đây là người đã khai phá ra nghề và truyền lại cho đời sau. Những người cùng làm chung một nghề hay cùng buôn bán một thứ họp nhau thành phường hội lập miếu thờ Tổn sư; đồng thời lập bàn thờ Tổ sư tại nhà riêng. Như vậy, vị Tiên sư này không phải là thần (trừ trường hợp được phong thần).
-Bản viên thổ công tức là vị thần đất được nêu ở phần trên.
17-Tả ban chư dương hữu ban chư âm. Chư tam thập lục thổ. liệt vị thổ thần, nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư. Không hiểu đây lả các vị thần nào vì “Tả ban chư dương hữu ban chư âm” có nghĩa là “bên trái là các vị nam, bên phải là các vị nữ”; “Chư tam thập lục thổ. Liệt vị thổ thần” có nghĩa là “ba mươi sáu vị thổ thần = không biết là vị nào”, cách viết cũng không đúng vì thừa chữ “chư” (đã có chữ “liệt vị” ở sau); lại có dấu chấm ở trước chữ liệt vị v.v…. “Nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư” cũng không biết là vị thần nào.
Từ “bài văn cúng đất đai” nêu trên, cho ta thấy:
1-Đây là văn “cúng thần linh” thì ghi rõ là “cúng thần linh”, không nên ghi là “cúng đất đai”, thần quản lý đất đai chỉ là một số nhỏ trong toàn bộ các thần linh mà ta kính báo và mời hâm hưởng lễ vật.
2-Thần hiệu là quan trọng, nêu sai thần hiệu là một sơ sót rất lớn, mà muốn nêu đúng thần hiệu thì khó có cách nào biết chắc chắn được (trừ một số ít vị), bài văn cúng chỉ nêu có vài chục vị thần linh thì hầu hết đều nêu sai hoặc thiếu ở thần hiệu; vì vậy, cách tốt nhất là chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
3-Trong một đám như giỗ gia tiên hay tế dòng tộc, không cần thiết phải kính báo những vị thần linh cao xa như Ngọc hoàng đại đế, Cửu thiên huyền nữ, Tiêu diện đại sĩ, Cao Sơn chi thần v.v…, còn những vị khác (trừ một số vị sẽ nêu bên dưới) thì chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
4-Thần linh, nhất là thần ngoại, là vô cùng (không ai có thể biết được số lượng cụ thể) vậy mà chỉ mời có bao nhiêu vị nêu trên thì chắc chắn không đủ, mặt khác cần lưu ý tránh trường hợp những vị hung thần (ác thần) không được kính báo sẽ tức giận gây ra những hậu quả xấu…. Vì vậy ở đây, chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
5-Cần lưu ý, nếu là cúng Tiên thường tức là “lễ cẩn cáo”, thì các chữ “Kỉnh thỉnh tế vu” được thay bằng “Cẩn cáo vu” và trong câu cuối không được ghi câu “đồng lai hâm hưởng = mời hưởng lễ vật”, hôm nay có mời vị thần nào dự đâu mà mời hâm hưởng, hâm hưởng là vào ngày mai, ngày chánh kỵ, không phải là hôm nay, ngày tiên thường. (Chữ “Kỉnh” ở đây là chữ của người Quảng Nam, trong nam là “Kính”).
6-Tóm lại, theo tôi, chỉ cần ghi như thế này là đủ:
KỈNH THỈNH TẾ VU
-Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần [5].
-Thái tuế chí đức tôn thần …. vương hành khiển, …… hành binh chi thần, …… phán quan [6].
-Thành hoàng bổn cảnh [7].
-Các vị thần linh bản xứ [8].
-Đông trù tư mạng táo phủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần [9].
-Ngũ phương ngũ thổ Long thần, Tiền hậu địa chủ Tài thần [10].
Như vậy, lời kính báo nầy đầy đủ các vị thần liên quan từ trên xuống dưới, tránh được thiếu sót bất cứ một vị nào, và không sợ nêu sai thần hiệu.
Cuối cùng, xin được nói rõ, bài viết này được thực hiện khi nhận được bài “văn cúng đất đai” như đã nói ở trên, nếu vì lý do gì mà có phần giống như các văn cúng tại các gia đình, các tộc họ khác, thì xin hiểu đây chỉ là sự ngẫu nhiên, không cố ý của người viết.
Chú thích
[1] Từ đường tộc Phan (Bảo An) hiện ở Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, TP.Hồ Chí Minh nên trong văn cúng cần ghi rõ thần hiệu Thành hoàng (bằng cách liên hệ với Ban quý tế đình Bình Triệu).
[2] Bài vị thờ “ông Táo” trong nhà chúng ta có 4 chữ Hán, đó chính là 4 chữ “Định phúc Táo quân” này.
[3] 9 tầng trời (hay 9 phương trời) gồm: Quân Thiên (quân = đều đặn, quân bình; ở trung ương); Thương Thiên (thương = màu xanh biếc; ở phương đông); Biến Thiên (biến = thay đổi; ở phương đông bắc); Huyền Thiên (huyền = màu đen huyền; ở phương bắc); U Thiên (u = tối tăm, kín đáo, sâu xa, ở phương tây bắc); Hạo Thiên (hạo = sáng trắng; ở phương tây); Chu Thiên (chu = màu đỏ như son; ở phương tây nam); Viêm Thiên (viêm = nóng, ngọn lửa; ở phương nam); Dương Thiên (dương = trái với âm; ở phương đông nam).
[4] Một số tộc họ, một số làng viết văn tế với chữ “thần quan” thay vì “thần quân” như: Ngũ phương long thần thổ địa trú trạch thần quan; Long Thần Trụ Trạch Thần Quan; Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quan, Lai Sơn Khứ Thủy Long Mạch Thủy Đạo Thần Quan, Môn Thừa Hộ Úy Bát Quái Cửu Cung Thần Quan, Thanh Long Bạch Hổ Châu Tước huyền Võ Câu Trần Đằng Xà Thần Quan …
[5] Đây là toàn bộ các vị thần trên trời và dưới đất, không sợ thiếu một vị nào, và cũng không sợ sai thần hiệu.
[6] Đây là ba vị thần trông coi cõi nhân gian trong 1 năm (phạm vi cai quản nhỏ hơn trường hợp trên), nêu thần hiệu theo năm cai quản.
[7] Đây là vị thần trông coi lãnh thổ nơi ta cúng (phạm vi cai quản lại nhỏ hơn 2 trường hợp trên). Trong trường hợp nơi ta cúng có thành hoàng có thần hiệu thì phải nêu rõ thần hiệu như:
-Làng Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) thờ sáu vị thành hoàng đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước là Lưu Thiên Tử đại vương, Đức Thánh bà – Lã Đệ tam Đại vương, Bạch Mã Đại vương, Phan Đại tướng Đại vương, Hộ Quốc Đại vương và Cai Minh Tự Đại vương.
-Thôn Thường Lạc huyện Đông Xuyên (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp), thần Thành hoàng bổn cảnh là Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng…”.
-Thôn Phú Nhuận huyện Bình Dương (nay thuộc TP. HCM), thần Thành hoàng Mala Cẩn, được phong là Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng…”.
[8] Đây là toàn bộ thần linh ở lãnh thổ nơi đang cúng (trong phạm vi Thành hoàng cai quản), không sợ thiếu vị nào, và cũng không sợ sai thần hiệu.
[9] Bên trên là thần ngoại, bây giờ đến thần nội, mà thần nội thì Táo quân là “nhất gia chi thần” phải nêu thần hiệu trước các vị thần nội khác.
[10] Thần tài.
Miếu Phước Đức Cà Mau
Phước Đức Chính Thần
Ngày nay, dại diện cho cộng đồng người Hoa ở Cà Mau là Hội Tương tế người Hoa có trụ sở ở nhóm Phúc Kiến hoạt động tại Phước Đức Miếu (khóm 4, phường 9, thành phố Cà Mau)
Miếu Phước Đức (Chùa Ông Bổn) của người Hoa Phúc Kiến thì nhỏ hơn Thiên Hậu Cung và Miếu Quan Đế. Ngôi miếu này tọa lạc bên rạch Gập thuộc khóm 4, phường 9, thành phố Cà Mau. Ngôi miếu có kiểu dáng tứ trụ, giống như ngôi miếu của người Việt. Ban thờ giữa ngôi miếu là Phước Đức Công Công, hai bên là Tả Ban và Hữu Ban, và có thờ thêm Tiền Hiền, phía ngoài sân là ban thờ Bà Hỏa.
Hằng năm, người Hoa Phước Kiến tổ chức lễ cúng vào ngày 29/3 âm lịch.
Tại Phường 8, Tp.Cà Mau: CẢNH PHƯỚC HIẾU mà dân gian thường gọi là CHÙA ÔNG BỔN. Xưa kia cách đây khoảng 200 năm, chùa này là của người Phước Kiến lập ra. chính quyền phường 8. Xóm Rạch Rập ngày xưa và cho đến ngày nay cứ mọi cuộc vui chơi lễ lộc đều quy tụ ở sân chùa
Sông Rạch Rập bắt nguồn từ Phường 8, TP Cà Mau
Đường Kinh Rạch Rập, Phường 8, Cà Mau, Cà Mau
Đường Rạch Rập, khóm 2, phường 8, TP. Cà Mau, Cà Mau)
Kênh Rạch Rập với chiều dài 13,5 km.
Cặp bên khuôn viên Chùa Bà, đường Lê Lợi, phường 2, TP Cà Mau có con hẻm nhỏ và ngắn ngủn dẫn xuống bến đò đi qua bên kia kinh Rạch Rập.
Rạch Rập, K3, P8, Thành phố Cà Mau, Cà Mau,
kinh Rạch Rập (khóm 3, phường 8, TP. Cà Mau, Cà Mau)
Bến đò Rạch rập-P8 - TP CÀ Mau
Qua cầu Rạch rập
===
Tín ngưỡng thờ Phước Đức Chính Thần (Ông Bổn) cũng được người Hoa tôn kính. Đây còn là vị thần bảo hộ cho khu vực đất đai nơi người Hoa sinh sống. Trước năm 1975, người Hoa ở Cà Mau còn phổ biến tục xin xăm thuốc ở ban thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh trong Thiên Hậu Cung, số của từng quẻ xăm ứng với một thang thuốc Bắc, và sau khi xin xong, họ mang ra cửa hàng thuốc Bắc để bốc thuốc về uống.
Thiên Hậu Cung (Chùa Bà Mã Châu) hiện tọa lạc tại đường Lê Lợi, phường 2, thành phố Cà Mau. Phía trước miếu là con sông Gành Hào chảy ngang. Ngôi miếu được lập năm 1882, ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ bằng tranh. Năm 1903, miếu được người Hoa Triều Châu địa phương xây cất lại theo kiểu dáng, nguyên trạng như ngày nay. Đây còn là hội quán của người Hoa Triều Châu ở Cà Mau. Ngoài ra, người Hoa còn thờ Ông Bổn (Phước Đức Chính thần) bên trái và Thành Hoàng Bổn Cảnh bên phải.
Ngoài ra, đối với nhóm Triều Châu có trụ sở tại Thiên Hậu Cung (đường Lê Lợi, phường 2, thành phố Cà Mau)
Miếu Thiên Hậu Thánh Mẫu (người Hoa thường tôn kính gọi là A Má, tức bà trong gia đình), toạ lạc trên đường Lê Lợi, Phường 2, TP Cà Mau
Miếu Bà Thiên Hậu ở phường 2, TP Cà Mau (người dân quen gọi là Chùa Bà, hay Chùa Bà Thiên Hậu) là nơi được biết đến nhiều nhất.
http://www.camau.gov.vn/wps/portal/!.../p=WCM_PI=1/=/
http://quehuongonline.vn/dat-nuoc-vi...-mau-24646.htm
http://m.baocamau.com.vn/newsdetails...nguoi_Hoa.aspx
Miếu Quan Ðế Thánh Quân (người Hoa thường tôn kính gọi là A Côn, tức ông trong gia đình), toạ lạc trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau.
http://m.baocamau.com.vn/newsdetails...nguoi_Hoa.aspx
3. Miếu Thổ Thần.
Đây là một loại miếu thơ hầu hết thuộc sở hữu của gia đình và là loại miếu thờ phổ biến nhất ở Cà Mau. Trong cộng đồng không có miếu thờ nào dành riêng để thờ Thổ thần.Nếu là miếu của cộng đồng thì chỉ là một miếu nhỏ trong quần thể các miếu khác hoặc nhiều khi chỉ là một bài vị đặt dưới đất trong phạm vi miếu lớn. Miếu thờ Thổ Thần xuất phát từ tín ngưỡng thờ đất của người Việt. Qua khảo sát miếu ở 02 huyện Cái Nước và Ngọc Hiển, kết quả cho thấy:
- Huyện Cái Nước, trên tuyến sông 12km từ thị trấn Cái Nước đến xã Phú Tân, có khoảng 15 miếu thờ thổ công.
- Huyện Ngọc Hiển, trên một đoạn sông khoảng 9km thuộc khu vực từ thị trấn Năm Căn đến giáp ranh xã Hàng Vịnh trên tuyến sông cửa lớn có khoảng trên 30 miếu thờ Thổ Thần.
Vì là miếu Thổ Thần nên đối tượng thờ là đất. Phạm vi của đất lớn nhỏ sẽ quyết định đến việc thờ cúng. Tùy theo phạm vi và hình thức của đất mà mỗi người (chủ đất) sẽ xây dựng miếu của mình cho phù hợp. Chính vì lý do đó mà miếu thờ Thổ Thần ở Cà Mau là một mô hình thờ cúng rất tự do. Người ta dựng miếu theo bất kỳ hướng nào cho phù hợp với mảnh đất của mình. Thậm chí ở một ranh đất có hai miếu thờ đâu lưng lại với nhau do 02 chủ đất khác nhau, đã từng có những mâu thuẫn với nhau về phạm vi đất đai. Điều này cho thấy rõ hơn về ý thức tôn giáo - tín ngưỡng: Thần Thánh chính là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra.
Không gian của miếu thờ Thổ Thần có qui mô nhỏ nhất so với các miếu khác. Chất liệu xây dựng cũng tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của gia chủ. Có những miếu được cất bằng tre lợp lá, bao quanh bằng tấm lợp nylon. Có những miếu được xây cất bằng gạch, quét vôi rất sạch sẽ, trang trọng. Tất cả các miếu thờ thổ thần có chiều cao không quá 1m2. Miếu thờ Thổ Thần của gia đình thường là miếu độc lập, nghĩa là không có sự chung đụng với các đối tượng thờ khác, nhưng đôi khi nằm trong quần thể các miếu khác ở cùng một khu vực thờ tự của cộng đồng nhưng chiếm một vị trí rất nhỏ bé, khiêm tốn. Trong xu hướng hiện nay, khi tỉnh Cà Mau thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất; mở rộng phạm vi nuôi trồng thủy hải sản thay cho sản xuất nông nghiệp thì đời sống người dân đã khá hơn nhiều so với trước. Các miếu thờ Thổ Thần cũng được chuyển biến từ chất liệu tre, lá sang các chất liệu gạch đá.
Trong dân gian, miếu thờ Thổ Thần còn được gọi là miếu ranh (ranh đất) hoặc miếu thờ Thổ Thần chủ. Phía sau miếu luôn luôn là một gốc cây để tạo sự mát mẻ, giảm bớt được nắng, mưa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thờ cúng.
4. Miếu thờ thần Bổn Cảnh:
Miếu thờ thần ở Cà Mau xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần thành hoàng của người Việt. Đúng ra, tín ngưỡng này gắn liền với thiết chế đình làng nhưng vì điều kiện lập làng và xây dựng đình quá tốn kém, nên người Cà Mau lập miếu thờ thần thành hoàng bổn cảnh thay cho đình, nhưng số lượng miếu này rất ít. Có miếu được xây dựng gần như đầy đủ các yếu tố của đình như: bài vị, tả ban - hữu ban - tiền hiền - hậu hiền rồi sau đó có lẽ không xin được sắc phong cho nên vẫn không được chấp nhận như đình. Đây là trường hợp mà trong dân gian gọi là miếu Ông Cò tại khu vực chợ xã Phú Tân, huyện Cái Nước. Từ bờ sông bước lên, người ta thấy tấm bình phong bằng xi măng có bức phù điêu rồng vờn cọp có sơn màu phù hợp biểu tượng cho âm dương giao hòa. Phía sau của bức bình phong này là một bệ thờ bằng đá, phía sau bệ đá, hai chữ thần nông màu đỏ được đắp nổi trên nền màu xanh. Cách tấm bình phong 4m, phía bên phải thờ Hà Bá, phía bên trái thờ Thổ Thần, cả hai có kích cỡ như nhau (0,6m x 0,5m, cao 0,7m). Hai miếu này đâu mặt với nhau ở về phía hai bên trước mặt miếu chính. Miếu chính cách 02 miếu Thổ Thần và Hà Bá khoảng 6m. Trước mặt miếu chính là đường đi của dân. Đối diện với miếu chính phía tay trái, nằm ở ngay lề đường có miếu nhỏ tương đương với miếu Hà Bá và Thổ Thần là miếu thờ thần hổ.
Qua sự bố trí các miếu và các hình thức tại miếu Ông Cò cho thấy hình thức quần thể kiến trúc này đã muốn vươn tới việc xây dựng đình của cư dân địa phương nhưng thời gian của thời đại phong kiến không còn nữa nên họ không thể hoàn thành các điều kiện lập đình như nguyện vọng của họ.
Qua sự khác biệt về phạm vi không gian của các miếu nói trên, ta thấy rõ ràng sự phân cấp thứ bậc quan trọng trong tâm linh của người dân nơi đây . Bà Chúa xứ luôn là đối tượng thờ quan trọng nhất trong tâm thức của cư dân trong khi đó thần thành hoàng với danh nghĩa là thần bổn cảnh lại đứng vai trò thứ yếu. Đây chính là tính trội của yếu tố nữ trong công đồng người Việt nói chung.
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/v...-pho-bien.html
Miếu Bà Thiên Hậu và Miếu Ông Bổn, đường Võ Tánh, KV Yên Thượng, phường Lê Bình
http://cantho.gov.vn/wps/wcm/connect...96559eaefbbf=7
MIẾU ÔNG BỔN
( Đường: Võ Tánh, KHU VỰC: YÊN THƯỢNG, Phường: Lê Bình, Quận: Cái Răng, Thành Phố: Cần Thơ )
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page10
=========
Hiệp Thiên Cung Cái Răng tổ chức lễ “Đáp tạ Thần Ân”
Ngày 18 tháng 01 năm 2016, Hiệp Thiên Cung - Cái Răng, đường Hàm Nghi, phường Lê Bình, long trọng tổ chức ngày Đại Kiết để “Đáp Tạ Thần Ân” (hay còn gọi là Cúng Bình An). Đến dự buổi Lễ có đại diện lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, Ban Dân tộc, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận và các đoàn thể quận, các Hội đoàn của người Hoa cùng đông đảo bà con người Hoa đến dự.
Bà con người Hoa đến cúng cầu bình an và cầu năm mới làm ăn thuận lợi
Năm nay, vào ngày 18 tháng 01 năm 2016, Hiệp Thiên Cung Cái Răng, long trọng tổ chức ngày Đại Kiết để “Đáp Tạ Thần Ân” (hay còn gọi là Cúng Bình An). Đến dự buổi Lễ có đại diện lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, Ban Dân tộc, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận và các đoàn thể quận, các Hội đoàn của người Hoa cùng đông đảo bà con tiểu thương người Việt và bà con trong cộng đồng người Hoa đến dự.
Quận Cái Răng được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004 theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Quận gồm có 07 phường và 63 khu vực; có tổng diện tích tự nhiên là 6.886,38 ha; có 23.045 hộ, dân số là 91.000 người; trong đó, dân tộc Hoa 396 hộ (Triều Châu, Quảng Đông, Hẹ) , với 1.498 khẩu chiếm tỷ lệ 1,72% số hộ, và 1,65% số khẩu toàn quận. Dân tộc Hoa sinh sống tập trung đông ở phường Lê Bình, Thường Thạnh và Ba Láng. Trên địa bàn quận có 05 Hội đoàn của người Hoa gồm: Nghĩa Trang Triều Châu Đạt Nghĩa Từ, Khu vực 6, phường Hưng Thạnh; Miếu Bà Thiên Hậu và Miếu Ông Bổn, đường Võ Tánh, KV Yên Thượng, phường Lê Bình; Hiệp Thiên Cung Thạnh Mỹ, Khu vực 1, phường Lê Bình và đặc biệt là Hiệp Thiên Cung Cái Răng, số 29, đường Hàm Nghi, phường Lê Bình được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp thành phố vào ngày 31/12/2009.
Hàng năm tại Hiệp Thiên Cung diễn ra nhiều lễ hội và thu hút đông đảo du khách và khách thập phương và đông đảo cộng đồng người Hoa đến cúng bái và tìm hiểu như:
- Lễ đón Giao thừa (Mồng một Tết) với ý nghĩa tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới. Cầu “mưa thuận, gió hòa”, “quốc thái dân an”, “chánh thần phò hộ ban phước lành...”.
- Lễ họp mặt đầu xuân của người Hoa được tổ chức vào Mồng 2 Tết. vào ngày này bà con người Hoa trong tất cả các Ban đến Chùa tập họp đông đủ cùng vui Tết đón Xuân, chúc Thọ - chúc Tài lộc lẫn nhau và làm lễ cúng viếng “Ông”.
- Lễ Nguyên tiêu hay còn gọi là tết Thượng Nguyên được tổ chức vào ngày Rằm tháng Giêng, đây được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm, để bắt đầu vào một năm mới cầu cho gia đạo bình an, làm ăn phát đạt và cầu xin mọi điều tốt lành.
- Lễ vía bà Thiên Hậu Thánh Mẫu được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, các lễ cúng gồm: heo quay, bánh bao, bánh hồng đào, mâm ngũ quả, hoa tươi, trà, rượu, nhang, đèn cầy.
- Lễ vía “Ông” Đây là ngày lễ chính và lớn nhất trong năm, được tổ chức từ ngày 12 đến 14 tháng 5 âm lịch, trong đó ngày 13 là ngày lễ vía chính. Lễ vật cúng gồm: heo quay, bánh bao, bánh hồng đào, mâm quýt (đại kiết), hoa tươi... Ngoài ra chùa rước đoàn hát Triều Châu (hát Tiều) về biểu diễn tại chùa.
- Lễ Vu lan, tổ chức vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch. Thời gian khai lễ bắt đầu từ 7 giờ tối ngày 16 cho đến chiều ngày 17 tháng 7 âm lịch. Tại ngày lễ chùa còn tổ chức phát gạo, khám chữa bệnh cho người nghèo.
- Lễ Bửu Điện Trùng Quang (Rước Ông), tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch. Thời gian tổ chức bắt đầu từ 9 giờ sáng và kết thúc vào buổi trưa cùng ngày.
Theo thông lệ cổ truyền hàng năm tại Hiệp Thiên Cung tổ chức ngày Đại Kiết, không ấn định ngày nhưng thường chọn những ngày như mùng 9, 19 tháng 12 âm lịch, để đáp tạ thần ân đã phò giúp một năm làm ăn phát đạt, thuận lợi. Đây là địp để bà con trong cộng đồng người Hoa thành phố Cần Thơ ngồi lại để hỏi thăm và chia sẽ kinh nghiệm trong buôn bán làm ăn và chúc nhau năm mới làm ăn, kinh doanh, thuận buồn xuôi gió, buôn bán ngày càng thuận lợi, phát đạt. Cầu xin năm mới “mưu thuận gió hòa, quốc thái dân an”… Ngoài ra với giá trị về mỹ thuật, kiến trúc, di tích Hiệp Thiên Cung Cái Răng còn là nơi giao lưu sinh hoạt, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa, là nơi vui chơi giải trí, giữ gìn bản sắc dân tộc và là một địa điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Hoàng Ba
http://cantho.gov.vn/wps/wcm/connect...96559eaefbbf=7
Xin Xăm Ông Bổn
TÊN NGƯỜI XIN XĂM:
Nhập Tên Bạn
Ông Bổn rất linh thiêng !
Muốn xin được chính xác, Người xin xăm phải thật sự thành tâm.Nhấp chuột vàoVÒNG ÂM DƯƠNG phía dưới để xin Ông Bổn hiển linh cho xăm !
Xăm Ông Bổn
XIN XĂM ÔNG BỔN:
Ông bổn là vị thần bảo vệ đất đai và con người. Có tất cả 28 quẻ lấy theo tên của 28 chòm sao (nhị thập bát tú):-
Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ
Đẩu, Ngưu, Nữ , Hư, Nguy, Thất, Bích
Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm
Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn
KQUẢ
Xin Xăm Ông Bổn
1 - THÁNH THÁNH ÂM ( Giác )
1 - 聖聖陰 ( Giác )
角聲三弄響
無雪自心寒
勸君休愁慮
合眷馬人安
Giác thanh tam đoạn hưởng
Vô tuyết tự tâm hàn
Khuyến quân vô sầu lự
Hiệp quyến mã nhân an
Dịch :
Tù và ba khúc trổi du dương
Lòng tự lạnh lùng chẳng tuyết sương
Xin đừng lo lắng buồn suy nghĩ
Toàn gia nhơn mã được an khương
Giải :
Quí nhân phò trì , mọi việc hữu lý .
Sau được gặp thời , đường tới thông lộ .
Mừng đặng bình an ,già trẻ song toàn .
Đoán :
Hôn nhân tốt , bệnh tật an , người đi tới .
==============
NGUYÊN BẢN XÂM
1 - THÁNH THÁNH ÂM ( Giác )
1 - 聖聖陰 ( Giác )
角聲三弄響
無雪自心寒
勸君休愁慮
合眷馬人安
Giác thanh tam đoạn hưởng
Vô tuyết tự tâm hàn
Khuyến quân vô sầu lự
Hiệp quyến mã nhân an
Dịch :
Tù và ba khúc trỗi du dương
Lòng tự lạnh lùng chẵng tuyết sương
Xin đừng lo lắng buồn suy nghĩ
Toàn gia nhơn mã được an khương
Giải :
Quí nhân phò trì , mọi việc hữu lý .
Sau được gặp thời , đường tới thông lộ .
Mừng đặng bình an ,già trẻ song toàn .
Đoán :
Hôn nhân tốt , bệnh tật an , người đi tới .
_________________
1.4.4.1. Thổ công
Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất, là
vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì
có Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết cho
rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện Sự tích Táo
quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng thứ hai là Thổ Công (trông coi
việc bếp núc, còn gọi là vua bếp), người chồng thứ nhất là Thổ Địa (trông coi
việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán, chợ búa cho phụ nữ
trong nhà và sản sinh vật ngoài vườn). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ
Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà.
Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình.
Tổ tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở
giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai.
Nhưng khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép
cho tổ tiên về.
Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải
về với đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra).
2.2.2.1. Thờ ông Công, ông Táo
a/ Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất,
là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì
có Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết cho
rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện Sự tích Táo
quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng thứ hai là Thổ Công (trông coi
việc bếp núc, còn gọi là vua bếp), người chồng thứ nhất là Thổ Địa (trông coi
việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán, chợ búa cho phụ nữ
trong nhà và sản sinh vật ngoài vườn). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ
Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà.
Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình.
Tổ tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở
giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai.
Nhưng khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép
cho tổ tiên về.
Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải
về với đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra).
http://lib.hpu.edu.vn/bitstream/hand...yen_VHL301.pdf
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...52341161_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...25815368_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...38425896_n.jpg
Chùa Ông Bổn
(Do Ban Trị Sự điều hành)
10600 TURTLEWOOD CT
Điện thoại: (281) 983-0097
Chùa Ông Bổn, also known as Teo Chew Temple
10600 Turtlewood Ct.
Houston, TX 77072
281-983-0097
.Người Hoa (gốc Phúc Kiến) ở Chợ Lớn đã cụ thể hóa “Ông Bổn” là Châu Đạt Quan – Một vị quan đời Nguyên.
.Chùa Ông Bổn - Houston của người Hoa gốc Triều Châu, Phước Kiến: THỜ BỔN ĐẦU CÔNG CHÂU ĐẠT QUAN
[ Nguồn gốc người Triều Châu là một câu chuyện lịch sử lâu đời, khởi thủy là người nước Triệu (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay). Người Triều Châu buộc phải tha hương sinh sống khắp nơi. Một số lui về phương Nam tỉnh Quảng Đông, một số lên Tây Bắc thuộc tỉnh Phúc Kiến ]
Chùa Ông Bổn hay còn gọi là (Nhị phủ miếu), còn có tên là Nhị Phủ Hội Quán, tọa lạc tại số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông – Phường 14 - Quận 5 – TP Hồ Chí Minh.
Theo tài liệu của Lý Văn Hùng trong Gia Định tràng Phật Tích cổ thì ông Bổn chính là Châu Đạt Quan, một viên quan của triều đình Trung Hoa đời nhà Nguyên, thế kỷ thứ XIII. Ông tham gia các sứ bộ Trung Hoa đến nhiều nước ở Đông Nam Á, trong đó có vùng đất nam Việt Nam và Chân Lạp. Ông là nhà viết sử và nhà du ký... nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Từ miền Chân Lạp trở về, ông viết quyển Chân Lạp phong thổ ký (ghi chép về phong tục, đất đai và con người) mô tả vùng đất cực nam Đông Dương thế kỷ XIII...
Hàng năm, miếu Nhị Phủ có nhiều ngày cúng tế với đông đảo đồng bào Hoa - Việt đến chiêm bái. Hai ngày tế lễ chính là rằm tháng Giêng và rằm tháng Tám theo Ban Trị sự miếu, đó là ngày sinh và ngày mất của ông Bổn.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page10
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%85%AC-)/page4
http://ditichlichsuvanhoa.com/vanhoa...-mieu)-a8.html
http://blog.dulichbui.org/2010/09/mi...-q5-tphcm.html
https://www.facebook.com/pages/Ch%C3...86177008137165
Người Hoa gốc Triều Châu, Hải Nam ở miền Tây Nam bộ lại cụ thể hóa là Tam Bảo Thái Giám Trịnh Hòa – Người đời Minh.
Người Triều Châu (ở Hội An) cụ thể hóa là Phục Ba Tướng quân Mã Viện.
Người Quảng Đông ở Chợ Lớn cho Ông Bổn của họ là Thần Thổ Địa,...
nhưng những người Hoa họ Vương (gốc Phúc Kiến) ở Bình Dương cho rằng Ông Bổn của họ là Huyền Thiên Thượng đế . Huyền Thiên Thượng đế là một vị thần do Thượng đế phân thân còn gọi là Chơn Võ (Chân Vũ). Trấn Vũ là vị thần ở núi Võ Đang.
và họ Lý (gốc Triều Châu) cho Ông Bổn của họ chính là Ông tổ họ Lý.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%...nh_Ngh%C4%A9a)
Mai Nguyen đã check in tại Chùa Ông Bổn.
12 Tháng 4 2016 · Houston, Texas, Hoa Kỳ
Chùa Ông Bổn - Houston Texas
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...79992849_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48826435_n.jpg
( https://www.facebook.com/pages/Ch%C3...86177008137165 )
Chùa Ông Bổn
(Do Ban Trị Sự điều hành)
10600 TURTLEWOOD CT
Điện thoại: (281) 983-0097
Chùa Ông Bổn, also known as Teo Chew Temple
10600 Turtlewood Ct.
Houston, TX 77072
281-983-0097
===============
Bởi thế, sau khi đi một vòng chánh điện quan sát các tượng thần thánh trong chùa, tôi cúng dường đáp lễ hương hoa xin một quẻ thử thời vận trong năm mong phát tài may mắn. Cầm tờ giải xăm, ra xe ngồi đọc. Ứng nghiệm thay: “Vừa mới hao tài tốn của. Chi xài tiền bạc cẩn thận”.
http://nhinrabonphuong.blogspot.com/...ton-texas.html
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...25072242_o.jpg
Trang thờ Ông tại chính điện của Chùa Ông Bổn (Nhị Phủ Miếu). — tại Chùa Ông Bổn.
=======
Ngày Lễ Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng) cũng là ngày vía Ông Bổn. Hằng năm, cứ đến ngày này tất cả các đền chùa tại Sàigòn đều tổ chức lễ Nguyên tiêu một cách trang trọng. Riêng tại chùa Ông Bổn (Phúc Đức Chính Thần) là ông Thần Tài Bổn Mạng đối với người làm ăn kinh doanh, nên Lễ hội này được tổ chức trang trọng nhất. Những hình ảnh được chụp trong Album này đều được thực hiện bằng máy ảnh Olympus OM-D E-M1 với ống kính OLYMPUS M.ZUIKO DIGITAL 14-150mm 1:4-5.6, với chế độ Programmed Auto (P), ISO 400, Auto White balance, Image Quality RAW.
https://www.facebook.com/pages/Ch%C3...86177008137165
Chuyện Xưa Tích Cũ - Tích Ông Bổn
TÍCH ÔNG BỔN
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình
Ở Chợ Lớn, tại góc đường Khổng Tử và Phùng Hưng có ngôi chùa Phước Kiến thờ ông Bổn, thành lập cách đây hơn một trăm năm.
Ông Bổn là ai?
Sử Tàu ghi rõ: Đời Vĩnh Lạc (1403-1424) vua Tàu sai quan Thái giám tên là Trịnh Hòa đi điều tra các nước ở miền Đông Nam Á. Quan Thái giám tuân lệnh, tìm cách liên lạc với những người Huê kiều hải ngoại, chăm sóc đến đời sống của họ, dạy họ phải giữ thuần phong mỹ tục. Chuyến trở về, quan Thái giám mua ngọc ngà châu báu, các sản phẩm miền nhiệt đới từ Ấn Độ, Nam Dương quần đảo, Chiêm Thành, Mã Lai, Xiêm, Việt Nam đem về dâng cho vua.
Khi đi du hành, ông Trịnh Hòa cố gắng giúp đỡ dân chúng, thi ân bố đức, giúp giới Huê Kiều tìm sinh kế,
Sau khi ông mất, giới Huê Kiều hải ngoại nhớ ơn ông, thờ ông làm phúc thần. Vua Tàu phong sắc cho ông chức tước “Bổn Đầu Công.” gọi tắt là ông Bổn.
Ở những xóm đông đảo người Việt gốc Hoa, ngày nay còn nhiều người thờ ông Bổn và nhắc lại sự tích ông bổn đi chẩn bần thời xưa. Do đó nhiều người ngỡ ông Bổn là Bao Công!
POSTED BY PHAP LUAN A
http://vuonhoadaoplw.blogspot.com/20...h-ong-bon.html
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled42421.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...16427796_o.jpg
( https://www.facebook.com/pages/Ch%C3...86177008137165 )
Phước Đức Cổ Miếu nằm trong khuôn viên hơn 3.000m2 cạnh Quốc lộ 1A, thuộc địa bàn ấp 1, thị trấn Phú Lộc, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/08/26/tudi.jpg
土地公灵签
( https://m.zhouyi.cc/lingqian/tudi/ )
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled606b0.png
============
土地公灵签
https://uphinhnhanh.com/images/2017/08/26/tudigong.jpg
( http://www.zgjm.org/chouqian/tudigong/ )
土地公灵签总共有三十二支,土地公 签每支签都有其特殊的意义。土地公 签,最玄之处是签文不会有详细解释 ,一切都要自行会意,要靠个人的慧 去参透当中的玄机。
妈祖天后灵签
开始抽签
开始抽签
抽灵签前要专心一致,秉除杂念 先双手合手默念,土地公公,指点迷 。然后默念自己姓名,出生年月日和 居住地址。接着请求指点的问题,如 姻、事业、流年、财运等等。
接着心里默想从一到一百其中的 个数字,然后掷杯,连续三个圣杯可 此灵签,如没有杯可执可使用两个十 元硬币代替。切忌,一样的问题不可 复询问,否则签会不准的。