Printable View
TẢN MẠN ĐẦU NĂM VỀ TÀI BẢO TRONG PHẬT GIÁO
- VẬT BÁU THẾ GIAN THƯỜNG THẤY TRONG KINH PHẬT-
( Nguồn: https://hr-hr.facebook.com/DongMat/p...403369499466:0 )
Trong Kinh Điển, chúng ta thường có thể nhìn thấy Chư Phật, Bồ Tát, Chư Thiên Hộ Pháp.... Thánh Chúng, dùng rất nhiều Bảo Vật trang nghiêm của bản thân mình với Đạo Tràng. Sau đây giới thiệu các loại Bảo Vật thường thấy trong Kinh Phật.
THẤT BẢO (Bảy Báu)
Thất Bảo (Tên Phạn là: Sapta-ratnàni) là chỉ bảy loại quý báu, lại xưng là Thất Trân là chỉ Vàng, Bạc, Lưu Ly, Pha Lê, Xà Cừ, Xích Châu, Mã Não. Tên gọi bảy báu này xuất xứ từ A Di Đà Kinh do Ngài Cưu Ma La Thập dịch.
Nhưng trong Xưng Tán Tịnh Độ Kinh do Ngài Huyền Trang dịch thì xưng bảy báu này là “Vàng, Bạc, Phệ Lưu Ly, Pha Chi Ca, Mâu Xa Lạc Yết Lạp Bà, Xích Trân Châu, A Thấp Ma Yết Lạp Bà”.
Tên của bảy báu này trong các Kinh Luận đã dịch thời Cổ Đại có phần khác nhau. Dùng bản dịch Vô Lượng Thọ Kinh làm ví dụ thì lời dịch trong bản dịch đời Hán, Ngụy, Đường, Tống đều có cách dịch khác nhau.
Ngoài ra, y theo Kinh Pháp Hoa, Phẩm Tháp Báu và quyển 1 Phật Địa Kinh Luận ghi chép thì đem Pha Lê trong bảy báu, đổi dùng Mân Côi (Karketana).
1. Vàng (Suvarna): Là chỉ vàng ròng, lại xưng là Tử Kim. Tên Phạn là Tô Đại Thích Na (Tu Bạ Nã) dịch là Diệu Sắc (sắc màu nhiệm) hoặc Hảo Sắc (sắc đẹp).
Trong Kinh Phật ngợi khen thân Đức Phật trang nghiêm tốt màu nhiệm thời thường dùng lời nói Diệu Sắc Thân (thân sắc màu nhiệm), Kim Sắc Thân (thân màu vàng).
Quyển 3 Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập dẫn lời giải thích của Ngài Chân Đế, nêu rõ bốn loại đặc sắc của vàng là:
(1) Nhan sắc không thay đổi
(2) Thể tính thuần nhiên không nhiễm
(3) Hay nóng chảy đúc thành các loại đồ dùng, thay đổi chuyển làm
(4) Khiến người giàu sang. không có trở ngại
Trong Kinh dùng bốn loại đặc tính này để thí dụ cho bốn loại đức đặc biệt của Pháp Thân là Thường, Tịnh, Ngã, Lạc.
2. Bạc (Rùpya): Là chỉ Bạc trắng.
3. Lưu Ly (Vaidùrya): Lại gọi là Tỳ Lưu Ly, Phệ Lưu Ly Gia, Tỳ Đầu Lê.... dịch là “Thanh Sắc Bảo” (Báu màu xanh) hoặc “Bất Viễn” (chẳng xa lìa). Là một loại đá quý giống như ngọc. ? Trung Quốc, Nhật Bản thường lầm lẫn là nó có màu thủy tinh (Pha Lê). Từ ngữ này từ xưa đến nay phần nhiều dùng “??Lưu Ly”, đời sau lúc sử dụng đều gia thêm chữ ? (ngọc) bên cạnh.
Trong quyển 1 Tuệ Lâm Âm Nghĩa nói rằng: “Mặt phía nam của núi Tu Di là do báu này tạo thành, báu đó màu xanh trong suốt mà có ánh sáng, hễ có vật nào để gần đều phản chiếu lại màu sắc của nó, mà Kế Châu (viên ngọc kết ở búi tóc) của Đế Thích Thiên cũng là do báu này tạo thành, báu này là Thần Vật do Trời sinh ra , chẳng phải là đá được nung đúc ở nhân gian tạo ra, lửa rực tạo thành Lưu Ly này”.
4. Pha Lê (Sphatika): Tức là Thủy Tinh. Lại gọi là Tát Pha Chi Ca, Táp Pha Trí Gia, Tắc Pha Chi Ca, Pha Lê....
Trong quyển 4 Tuệ Lâm âm Nghĩa nói rằng: “Đời xưa dịch Pha Lê là Thủy Tinh, cách nói này cũng không hoàn toàn chính xác, vì Pha Lê là loại giống với Thủy Tinh lại có bốn loại màu sắc khác nhau là: Tím, Trắng, Hồng, xanh biếc (Bích).... trong đó phải có đầy đủ bốn loại yếu tố then chốt là Tinh Oánh (trong suốt), Thanh Tịnh (sạch sẽ), Thông Đạt (sáng bóng), Minh Thấu (nhìn thấy rõ bên trong) thì loại báu này mới tốt. Về màu sắc thì màu Hồng, xanh biếc là quý nhất, kế đến là Tím, Trắng, như hạt sỏi trong suốt đẹp, sạch sẽ không có tỳ vết”.
5. Xà Cừ (Musàragalva): Âm tiếng Phạn là Mâu Sa Lạc Yết Lạp Bà. Có thể là chỉ San Hô trắng.
Trong quyển 2 Pháp Hoa Kinh Huyền Tán nói rằng: “Xà Cừ âm tiếng Phạn là Mâu Sa Lạc Yết Bà, màu xanh trắng xen lẫn nhau”. Đời sau đem San Hô trắng với vỏ con Sò chế thành vật này xưng là Xà Cừ.
Quyển 46 Tăng Quảng Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân nói rõ, cho rằng Xà Cừ là chỉ loại Sò lớn dài khoảng 2 đến 3 thước (Thước Tàu), rộng khoảng 1 thước, dầy khoảng 2 đến 3 tấc, vỏ bên ngoài có vết rãnh sâu lớn, vỏ bên trong thì trắng trẻo như Ngọc, cho nên bị nhận lầm là loại Ngọc Thạch.
Hiện tại loại này được xưng là Xà Cừ là do San Hô trắng với vỏ Sò chế thành, nhưng San Hô thông thường phần nhiều là màu đỏ, San Hô trắng cũng được xưng là Xà Cừ. Đời xưa vốn dùng hai chữ “Xa Cừ”, đời giữa trở về sau từ ngữ dùng Xà Cừ, Xa Cừ.... Nói chung rất khó phân biệt Báu này với Mã Não, Hổ Phách
6. Xích Châu (Lohita-muktikà): Tức là Trân Châu đỏ.
Quyển 10 Đại Trí Độ Luận nói: “Trân Châu sinh ra từ trong bụng Cá, trong cây tre, trong não Rắn”.
Trong quyển 1 Phật Địa Kinh Luận nói: “Loài trùng đỏ sinh ra, tên là Trân Châu đỏ hoặc Châu Thể Xích tên là Trân Châu đỏ”.
Trân Châu bình thường có màu lông chuột nhạt, màu tro, Xích Châu là chỉ viên ngọc có màu hơi đỏ. Trân Châu thuần màu đỏ rất là hiếm thấy.
7. Mã Não (Asmagarbha): Thật ra chẳng phải là Mã Não mà con người hay nói, mà là đá quý màu xanh biếc hoặc kèm có ánh sáng màu sẫm.
NGŨ BẢO (Năm Báu)
Ngũ Bảo là chỉ năm loại vật báu của Mật Giáo dùng để tượng trưng cho tất cả trân bảo.
Lúc Tu Pháp tạo Đàn của Mật Giáo thường đem năm loại Báu (Ngũ Bảo), năm loại thuốc (Ngũ Dược), năm loại hương thơm (Ngũ Hương), năm loại lúa (Ngũ Cốc) cùng chôn ở dưới bốn phương và chính giữa của cái Đàn, làm thành Ngũ Bộ Tháp Bà, đại biểu cho kho tàng quý báu (Bảo Tàng) của Địa Thần. Hoặc lúc Quán Đỉnh, đem năm báu cất chứa vào trong năm cái bình của cái Đàn lớn, biểu thị khai mở Tâm Bồ Đề trong sạch mà khai thông cái Đức bản nhiên có đầy đủ năm Trí của Chúng Sinh.
Trong quyển 4 Đại Nhật Kinh Sớ nói: “Liền đào chính giữa Mạn Trà La sâu khoảng một khuỷu tay, dùng Thành Biện Chư Sự Chân Ngôn (ND: tức là Bất Động Chân Ngôn), gia trì vào năm loại báu, năm loại lúa, năm loại thuốc an trí trong đó..... nên lấy cái bình Quán Đỉnh chứa nước sạch sẽ, đừng cho đầy tràn, cắm các hoa quả, đặt chính giữa năm báu lúa gạo thuốc (ngũ bảo cốc Dược) để tại nơi chôn lấp báu”.
Liên quan đến chủng loại của năm báu, trong các Kinh Điển đều có cách nói khác nhau.
Thành Tựu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Vương Du Già Quán Trí Nghi Quỹ và Kiến Lập Mạn Trà La Hộ Ma Nghi Quỹ.... nói năm loại này là: Vàng, Bạc, Trân Châu, Sắt Sắt (đá quý màu xanh biếc), Pha Lê
Trong quyển Nhuy Tứ Gia Kinh nói là: San Hô, Pha Lê, Vàng, Bạc, Thương Khư (vỏ Sò)
Kinh Tô Tất Địa Yết La. Phẩm Hộ Ma Pháp Tắc nói là: Vàng, Bạc, Trân Châu, vỏ Ốc, Xích Châu
Quyển 4 Đà La Ni Tập Kinh nói là: Vàng, Bạc, Trân Châu, San Hô, Hổ Phách.
HÀNH TRÌNH TỚI CÁC CÕI BÊN KIA CÁI CHẾT
DELOG DAWA DROLMA
https://daivienman.files.wordpress.c...-gioi-khac.pdf
Phật Bổn Hành Tập Kinh
Tập Kinh Hạnh gốc của Phật
Hán dịch: Tùy Thiên-trúc Tam Tạng Xà-na-quật-đa dịch
Việt dịch: Phật tử, Bùi Đức Huề
-o0o-
http://www.tangthuphathoc.net/kinhtang/0190-nt.htm
[PDF]大輪金剛陀羅尼mahā-cakra-vajra dhāranī
http://dharanipitaka.net/2011/2008/M...e-miao-bao.pdf
http://www.daitangkinh.net/Study/Res...a%20mantra.pdf
http://repository.uksw.edu/bitstream...5_BAB%20IV.pdf
http://www.kadamchoeling.or.id/downl...addha_mala.pdf
http://call999.net/cgi-bin/czreadall...=2001&month=10
http://tieba.baidu.com/p/3476849870
http://www.network54.com/Forum/84462...D3%C2%DE%C4%E1
http://www.purifymind.com/GreatMantras.htm
http://www.666ccc.com/lrc/4809/181308.htm
http://www.tibetanmalashop.com/mantra/
http://centrodeyogavajrapani.com.br/...ras-tibetanos/
A Buddhist Tale: Have Faith and Recite
on SEPTEMBER 27, 2012
( Nguồn: https://www.vajrayana.com.au/blog/a-...th-and-recite/ )
Years ago when I was studying Buddhism in Italy and, yes, in the heartland of Roman Catholicism, my late teacher Geshe Jampa Gyatso would tell many stories during his teachings. I suspected that it could be because a number of us, including myself, was dozing off under the weight of the philosophical discussion. I was always amazed at how many tales he had stored in his memory bank. Here is one of them, at least my version of it.
Once upon a time, there lived an elderly woman who was a devotee of the Buddhist goddess Cunda. She had been reciting Cunda’s mantra for many years, pronouncing it as: om vale vule vunde svaha. So strong was her faith in this practice that after some times she was able to recite the mantra over a stone, cooked it in boiling water and ate it. This special power came in handy during a famine when she can easily live on stones and rocks.
One day, a Buddhist pundit, as in a very learned fellow, came across this old woman reciting this funny sounding mantra. Upon enquiry, he realised that she has mispronounced the mantra, which should be: om chale chule chunde svaha. He felt compelled to correct the woman, insisting that she pronounced the mantra correctly.
Giving in to the authority of the pundit, she started to recite Chunda’s mantra in the right way. But, to her horror, she can no longer make her stones edible with this revised version of the mantra. Being an eminently practical person, she promptly dumped the authentic version and reverted to her old way. And I love to report that she lived happily ever after, munching on her stones.
What is the moral of this story? There can be several ones, such as the importance of faith or trust in one’s spiritual practice. But I like to interpret it as: when in doubt, go back to our experiences to check it out.
TÁN ĐẢN SANH
Trần gian ngập lệ…
Bồ tát hóa thân.
Nghìn năm Đàm nở rộ thanh tân.
Trời đất chấn động ngân.
Sen hiện đỡ chân.
Chúng sanh nhuận hồng ân.
Na mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần )
TÁN ÂN PHẬT
Khói hương nghi ngút.
Đèn nến lung linh.
Chư Phật đại bi độ chúng sinh.
Từ nẻo tối điêu linh.
Khai thị tâm kinh.
Ta Bà rực bình minh.
Na mô Thường Trú Thập Phương Phật ( 3 lần )
TÁN DIỆU PHÁP
Một niệm bất giác.
Muôn kiếp đành xa.
Lành thay! Diệu Pháp tợ mưa sa.
Cây cỏ nhuận tươi ra.
Một sớm chim ca.
Linh sơn Phật niêm hoa.
Na mô Chuyển Pháp Luân Bồ tát ( 3 lần )
TÁN CHƯ TĂNG
Ầm vang Bát Nhã.
Chấn động tam thiên.
Chư Tăng câu hội rực huỳnh liên.
Vì Phật Pháp trùng tuyên.
Nghĩa lý thâm uyên .
Xứ xứ đặng bình yên.
Na mô Phổ Chiếu Huệ Bồ tát ( 3 lần )
TÁN PHẬT TỬ
Đêm đêm cầu nguyện.
Ngày ngày sinh nhai.
Gia duyên ràng buộc đạo không phai.
Cùng chư Tăng kề vai.
Pháp Phật hoằng khai.
Bồ Đề quả nay mai.
Na mô Thường Tinh Tấn Bồ tát ( 3 lần )
TÁN BỒ ĐỀ
Sum suê quảng tán.
Sừng sững thiền môn.
Bốn mùa xanh biếc điểm càn khôn.
Gió reo pháp Thế Tôn.
Chim hót véo von.
Nhạc trời hòa kim ngôn.
Na mô Bồ Đề Quả Bồ tát ( 3 lần )
TÁN VÔ THƯỜNG
Vô thường chằng hẹn.
Đến thì phải đi.
Đã hội họp tất có chia ly.
Nào mất hẳn buồn chi.
Sanh ký tử quy.
Thôi ô hô…, hi hi…
Na mô Bất Nhị Pháp Bồ tát ( 3 lần )
TÁN TANG QUYẾN
Chít vành khăn trắng .
Ôm nỗi buồn đen.
Sụt sùi oán trách tử thần xen.
Đoạn trường tiễn biệt quen.
Cốc cốc keng keng…
Lai sinh gặp lại nghen.
Na mô Thường Độ Tử Bồ tát ( 3 lần)
TÁN HỒNG CHUNG
Đêm buồn tăm tối.
Chuông gọi ngân nga.
Hỡi oan hồn vất vưởng gần xa.
Lắng nghe nghiệp phôi pha
Thế sự bôn ba.
Dừng lại thanh bình ca.
Na mô Thính Chung Thinh Bồ tát ( 3 lần )
TÁN MÕ CHÙA
Tròn tròn tợ thủ.
Chân chất như tương.
Công phu tinh tấn mõ đảm đương.
Cốc cốc xóa tai ương.
Ngộ đạo hoàn lương.
Xứ xứ nhuận tình thương.
Na mô Diệu Âm Đạt Bồ tát ( 3 lần )
TÁN PHỤ MẪU
Mẹ như biển cả.
Cha tợ non cao.
Nuôi đàn con trẻ nặng công lao.
Gian khổ người chẳng nao.
Mong muốn con sao.
Thành đạt vui xiết bao…
Na mô Hiếu Phụ Mẫu Bồ tát ( 3 lần )
TÁN LY BIỆT
Hơi thở vừa dứt.
Kiếp sống đà thôi.
Bỏ cuộc chơi – về chốn xa xôi…
Đoàn tụ hay đơn côi ?
Nghiệp lực cuốn trôi.
Bàng hoàng ngoảnh lại…ôi!
Na mô Ngộ Tánh Không Bồ tát ( 3 lần )
TÁN TỪ GIÃ
Lệ sầu kim cổ.
Tử biệt sanh ly.
Quỷ vô thường đến phải ra đi.
Đời chìm nổi ai bi.
Giả tạm tiếc chi.
Mĩm cười buông… vô vi
Na mô Hoan Hỷ Tạng Bồ tát ( 3 lần )
TÁN LINH SÀNG
Đàn tràng bày biện.
Nghi ngút khói nhang.
Ảnh buồn nhìn nến lệ sang ngang.
Hãy buông hết nghiệt oan.
Thanh thản thênh thang.
Lắng tiếng chuông lòng vang.
Na mô Phản Văn Tánh Bồ tát ( 3 lần )
TÁN PHÁP GIỚI
Ba ngàn thế giới.
Như hạt cải thôi.
Ba a tăng kỳ kiếp cuốn lôi.
Như một sát na trôi.
Một niệm than ôi!
Bờ Giác đã xa xôi.
Na mô Pháp Giới Tạng Bồ tát ( 3 lần )
TÁN VU LAN 1
Thiền môn náo nức.
Khai hội Vu Lan.
Mục Liên thương mẹ giải nghiệt oan.
Thanh Đề lìa tham xan.
Tăng chú nguyện an.
Hương hiếu ngát trần gian.
Na mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ( 3 lần )
TÁN VU LAN 2
Hồn thu ai oán.
Đói khát sầu bi.
Vu Lan tế độ chẩn khoa nghi.
Lời triệu thỉnh lậm ly.
Sám hối quy y.
Ấm lòng siêu thoát đi...
Na mô Diện Nhiên Vương Bồ tát ( 3 lần )
Nguyên Thạnh
Kỷ niệm đêm 12/3/ Quý Tỵ
( Nguồn: http://nguyenthanh.byethost15.com/in...=2&ckattempt=1 )
THẬP NGUYỆN
Một nguyền lễ kính Như-Lai.
Hai nguyền xưng tán công dày Thế-Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường.
Bốn nguyền sám hối nghiệp vương tội trần.
Năm nguyền tùy hỷ công huân.
Sáu nguyền thỉnh chuyển Pháp-luân độ người.
Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.
Tám nguyền học Phật tùy thời phát minh.
Chín nguyền hằng thuận chúng-sinh.
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.
PHÚNG KINH
Tụng Kinh công đức tuyệt vời,
Xin đem hồi hướng khắp người gần xa.
Chúng sanh pháp-giới Ta-Bà,
Mau về cõi Phật Di-Đà Tây-Thiên.
NGUYỆN TIÊU
Nguyện tiêu tam chướng não phiền,
Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời.
Nguyện bao nghiệp tội xa rời,
Nguyện hành Bồ-Tát đời đời độ tha.
NGUYỆN SANH
Nguyện về Tịnh-Độ nước nhà,
Hoa sen chín phẩm là Cha Mẹ mình,
Hoa khai ngộ Pháp Vô-Sanh,
Bất thối Bồ-Tát bạn lành dựa nương.
TAM QUY-Y
Tự quy-y Phật,
Cầu cho chúng-sanh,
Hiểu rõ đạo lành,
Phát lòng vô thượng.
Tự quy-y Pháp,
Cầu cho chúng-sanh,
Kinh luật hiểu rành,
Trí tuệ như biển.
Tự quy-y Tăng,
Cầu cho chúng-sanh,
Hiệp chúng đồng tình,
Chẳng hề trở ngại.
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức lành,
Hồi hướng cho tất cả,
Chúng con với chúng-sanh,
Đều chứng thành Phật-quả.
( Nguồn: http://quan-am-cuu-kho-cuu-nan.blogs...am-bo-tat.html )
NHẬT QUANG BỒ TÁT THẦN CHÚ - LỄ KÍNH TAM BẢO CHÚ
[ 日光菩薩神咒 - 禮敬三寶咒 ]
( Nguồn: http://www.dharanipitaka.net/2011/20...ll-mantras.pdf )
http://s.web66.com.tw/_file/C12/1282...2417308912.jpg
NAMO BUDDHAYA GAURAVI
NAMO DHARMAYA TAYANI
NAMAH SAMGHAYA MAHA-DHI
TRI-BHUVI SADHUTAM NAMAH.
http://buddha.goodweb.cn/music/music...ao_louge_s.jpg
http://s6.sinaimg.cn/middle/44a1d604...6ba945&690&690
http://s8.sinaimg.cn/middle/44a1d604...5c4a07&690&690
http://buddha.goodweb.cn/music/music...ges/dblg_1.jpg
http://img.blog.163.com/photo/1Xwqc-...3211180154.jpg
http://s13.sinaimg.cn/bmiddle/44a1d6...7b734c&690&690
http://buddha.goodweb.cn/music/music...mages/dblg.jpg
http://buddha.goodweb.cn/music/music...mages/bhah.jpg
http://buddha.goodweb.cn/music/music...ges/dblg_3.jpg
http://s7.sinaimg.cn/middle/44a1d604...0bcd06&690&690
http://buddha.goodweb.cn/music/music...mages/bd_y.jpg
http://s12.sinaimg.cn/middle/5e20af83t81a61470d82b&690
http://img3.ph.126.net/izQWev3AImSBT...3738989483.gif
一切如来心秘密全身舍利宝箧印陀罗 � �咒
宝箧印陀罗尼(蔡文端居士版)
Namas triya-dhvikanam
那莫 悉得哩呀 地尾噶南
sarva tathagatanam.
萨尔瓦 怛他噶怛南
Om,bhuvi bhavana vare vacale vacatai.
嗡 部尾巴哇拿哇利 哇夹利 哇夹泰
Curu curu,dhara dhara,
祖嚕祖嚕 达啦达啦
sarva tathagata-dhatu dhare
萨尔瓦 达他噶达 达睹 达利
padmam-bhavati
巴得莽 巴瓦地
jaya vare mudre smara
夹呀瓦利 母得利 思嘛啦
Sarva tathagata dharma-cakra
萨尔瓦 达他噶达 达尔嘛
夹克拉
pravartana
波拉瓦尔塔那
vajra-bodhi-manda alam-kara alam-krte.
瓦夹啦 钵地曼达 阿楞卡拉 阿楞科(ki)哩地
Sarva tathagata adhisthite,
萨尔瓦 达他噶达 阿地思谛替
bodhaya bodhaya,bodhi bodhi,budhya budhya,
播达呀播达呀
播地播地 布地牙布地牙
sam-bodhani sam-bodhaya.
三布达你 三布达呀
Cala Cala calantu
夹啦 夹啦 夹懒都
Sarva-avaranani,
萨尔瓦 阿瓦拉那你
Sarva papa vi-gate,
萨尔瓦 巴巴 尾噶地
huru huru sarva soka vi-ghate,
户鲁户鲁 萨尔瓦 肖噶尾噶地
Sarva tathagata hrdaya vajrani,
萨尔瓦 达他噶达 和利达呀 瓦夹啦你
Sam-bhara Sam-bhara,
三巴拉 三巴拉
Sarva tathagata guhya-dharani mudre. Buddhi su-buddhi,
萨尔瓦 达他噶达 谷哈呀 达拉你 母得利 布地苏布地
Sarva tathagata adhisthita
萨尔瓦 达他噶达 阿地思谛塔
dhatu garbhe svaha.
达睹噶比 斯瓦哈
Samaya adhisthite svaha.
三嘛呀 阿地思谛替 斯瓦哈
Sarva tathagata hrdaya dhatu mudre svaha.
萨尔瓦 达他噶达 和利达呀 达睹 母得利 斯瓦哈
Su-pratisthita
苏布拉 地思谛塔
stupe tathagata adhisthite
思度比 达他噶达 阿地思谛替
huru huru hum hum svaha
户鲁户鲁 轰轰 斯瓦哈
Om sarva tathagatosnisa
嗡 萨尔瓦 达他噶度思你沙
dhatu mudrani
达睹 母得拉你
Sarva tathagatam sad-dhatu vi-bhusita adhisthite
萨尔瓦 达他噶单 萨达睹尾部悉塔 阿地思谛替
hum hum svaha.
轰轰 斯瓦哈
听即解脱咒
Ah Ah Sha Sa Ma Ha
阿 阿 夏 沙 嘛 哈
Ma Ben Dharma Ra Ra
嘛 北 当 嘛 RA RA
Ha Gan K(g)a Ah Sha La
哈 港 嘎 阿 夏 拉
Sa Den Dharma Da Li
沙 殿 当 嘛 达 哩
Ga Ha Na Ah Li Ta
嘎 哈 哪 阿 哩 答
Ha Ma Sa Sha K(g)i U
哈 嘛 撒 夏 给 优
( Nguồn: http://blog.sina.com.cn/s/blog_6d2b8a320102dwcm.html )
摩利支天陀羅尼咒
Tadyatha Om Matta Vatta Camasi Vara Camasi Bhutayamasi Niramasi Arkamasi Markamasi Uramamasi Manamasi Kulamamasi Civaramasi Maha Civaramasi Andartanamasi Svaha.
摩利支天陀羅尼心咒
Tadyatha Om Arkamasi Markamasi Civaramasi Utulumasi Maha Civaramasi Andartanamasi Svaha.
摩利支天心咒:Om Maricyai Mam Svaha.
*摩利支天陀羅尼護輪咒
摩利支天陀羅尼護輪咒(1):
Namo Ratna Trayaya
Tadyatha Om Arkamasi Markamasi Atumasi Civaramasi
Maha Civaramasi Andartanamasi Maricyaimasi Namostuti
Raksa Raksa Mam "Sarva Sattvananca Sarvadhara Sarvabhyoh Patravibhyo" Svaha.
摩利支天陀羅尼護輪咒(2):
Namo Ratna Trayaya
Tadyatha Om Alotaloka Sichitaloka Samaya Muladate Raksa Raksa Mam " Da Tang Sem Chen Tam Che la,
Chi Wa Dang, Jipa Dang Ne Tam Che Dang Soong Su" Svaha.
摩利支天事業心咒
Tadyatha Om Vattali Vadali Vandha Vandha Vandhamukhi Jambhaya Stambhaya Mohaya Svaha
Om Maricyai Svaha Sarva Dustanam Pradustanam Caksurmukham Vandha Vandha Svaha.