Printable View
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ 17: URGYEN TRINLEY DORJE / ORGYEN TRINLEY DORJE (1985 - )
Nguyễn Minh Tiến biên soạn
( http://hoavouu.com/p35a9416/17-dai-s...ley-dorje-1985 )
http://s1.upanh123.com/2016/12/21/u7...3g21556e4c.jpg
Ogyen Trinley Dorje (Tibetan: ཨོ་རྒྱན་འཕྲིན་ལས རྡོ་རྗེ།, Wylie: O-rgyan 'Phrin-las Rdo-rje, Chinese: 鄔金欽列多傑; born June 26, 1985), also written Urgyen Trinley Dorje (Wylie: U-rgyan 'Phrin-las Rdo-rje; or Orgyen Trinley Dorje or Ugyen Trinley Dorje), is a claimant to the title of 17th Karmapa.
Đức Karmapa đời thứ mười bảy sinh ngày 8 tháng 5 năm Mộc Sửu theo lịch Tây Tạng, nhằm ngày 26 tháng 6 năm 1985, tại Lhathok, thuộc miền đông Tây Tạng, trong một gia đình du mục. Cha ngài tên là Karma Dưndrub và mẹ là Gazi Loga. Gia đình ngài sinh sống nhờ vào việc nuôi dưỡng một đàn bò khoảng 80 con, liên tục di chuyển từ vùng này đến vùng khác trên đồng cỏ bao la, thay đổi tùy theo bốn mùa trong năm.
Gia đình ngài được kính trọng trong số khoảng 70 gia đình du mục cùng sống chung với nhau thành đoàn, với khoảng hơn 400 nhân khẩu. Những người dân du mục này dễ dàng được nhận ra với làn da rám nắng và đôi gò má lúc nào cũng ửng đỏ. Cuộc sống của họ gắn liền với những lều trại liên tục di chuyển trên thảo nguyên.
Mặc dù vậy, theo một tập quán đã có từ lâu đời, ông bà Dưndrub đã mang đứa con trai đầu tiên đến tu viện Kampagar của dòng Nyingma, một trong các tu viện của Khamtrul Rinpoche để chuẩn bị cho việc trở thành một tăng sĩ trong tương lai. Sau đó, họ lần lượt hạ sinh cả thảy 5 đứa con, nhưng tất cả đều là con gái. Hết lòng mong muốn có được một đứa con trai, họ tìm đến đại sư Karma Norzang để thỉnh cầu sự giúp đỡ. Vị đại sư này nổi tiếng là Milarepa tái sinh. Ngài ban cho họ những lời khuyên, và họ đã cố gắng hết sức mình thực hiện đúng những lời khuyên ấy.
Theo lời khuyên của đại sư Karma Norzang, ông bà Dưndrub thường xuyên cầu nguyện, lễ bái, và kèm theo đó là bố thí cho người nghèo khó, thí thức ăn cho loài vật như chim, cá... và họ cũng hành hương đến thánh địa Lhasa. Họ đã thực hiện những việc này với tất cả sự thành tâm cầu nguyện, nhưng có lẽ những hạt giống tốt lành ấy vẫn còn chưa đủ thời gian để nảy mầm, nên đứa con tiếp theo của họ vẫn là con gái.
Vào lúc ông bà Dưndrub muốn tiếp tục thỉnh cầu sự ban phước để có được một đứa con trai thì đại sư Karma Norzang đã viên tịch. Vì thế, họ tìm đến để thỉnh cầu sự chỉ dạy của đại sư Amdo Palden, vị trụ trì ở tu viện Kalek, một tu viện dòng Karma Kagyu, vốn trước đây thuộc về đức vua Lhatok. Thoạt tiên, đại sư Amdo Palden không dám chắc rằng có thể giúp được gì cho trường hợp của hai người, nhưng sau nhiều lần thiền định quán chiếu ngài chấp nhận giúp hai người đạt được ý nguyện. Ngài nói rằng, họ có thể sinh được một người con trai, nhưng phải hứa chắc là sẽ giao đứa bé cho ngài chăm sóc và nuôi dưỡng. Ông bà Dưndrub vui mừng chấp nhận và hứa chắc với ngài là họ sẽ làm như vậy. Đại sư Amdo Palden liền tổ chức một buổi lễ ban phúc cho họ.
Không bao lâu sau đó, bà Gazi Loga mang thai. Trong thời gian mang thai, bà nằm mộng thấy 3 con hạc trắng bay đến dâng lên cho bà một bát sữa chua. Trên mặt váng sữa, bà nhìn thấy những dòng chữ sáng rực màu vàng, cho biết rằng bà sắp sinh ra một người con trai. Những con hạc trắng nói với bà rằng chúng được Guru Rinpoche sai đến để báo trước việc bà sẽ hạ sinh một bé trai, nhưng bà cần phải giữ kín điều này cho đến thời điểm thích hợp trong tương lai.
Một lần khác, bà mơ thấy có 8 biểu tượng tốt lành xoay quanh trong một vầng sáng cầu vồng bảy sắc tỏa ra từ vị trí trái tim của bà.
Một đêm trước khi ngài sinh ra, cha ngài nhìn thấy những vầng sáng cầu vồng trên mái lều họ đang ở. Ông vô cùng ngạc nhiên vì mặt trời đã khuất sau dãy núi từ lâu.
Đứa bé được sinh ra một cách dễ dàng, không đau đớn, ngay trước lúc những tia nắng đầu tiên chiếu sáng căn lều. Cùng lúc ấy, một con chim lớn đậu xuống nóc lều và cất tiếng hót lảnh lót.
Hai ngày sau đó, trong không trung bỗng vang lừng âm thanh êm dịu và trầm ấm như tiếng tù và bằng vỏ ốc. Tất cả những người dân du mục quanh đó đều nghe thấy. Đức Karmapa đời thứ mười sáu đã có mô tả về âm thanh này trong bức di thư của ngài khi nói rõ về sự tái sinh sắp tới. Thoạt tiên, những người bên ngoài đều nghĩ rằng âm thanh ấy xuất phát từ bên trong căn lều, và những người trong lều lại cho rằng nó vang lên từ bên ngoài. Nhiều người liên tưởng đến tiếng lễ nhạc thường được cất lên khi có sự xuất hiện của các vị Lạt-ma cao cấp, nhưng họ lại không nhìn thấy gì cả. Chỉ sau đó, mọi người mới biết là âm thanh kỳ diệu kia đã vọng xuống từ không trung. Âm thanh kỳ diệu này kéo dài qua buổi trưa và đến hơn 2 giờ sau đó. Rồi những cánh hoa tươi bỗng xuất hiện và rơi xuống từ giữa không trung. Và không lâu sau đó, mọi người đều nhìn thấy giữa không trung xuất hiện cùng lúc 3 mặt trời chói lọi, với một vầng sáng bảy màu bao quanh mặt trời ở giữa. Hiện tượng này không chỉ được nhìn thấy bởi những người trong vùng, mà tất cả những người dân ở miền đông Tây Tạng đều xác nhận là họ cũng nhìn thấy.
Khi ông Dưndrub và bà Loga tìm đến đại sư Amdo Palden để xin ngài ban một tên gọi cho đứa con trai mới ra đời, theo như tập quán của người dân Tây Tạng, ngài bảo họ rằng đây là một đứa bé rất đặc biệt nên một vị trụ trì tầm thường như ngài không nên đặt tên cho nó. Ngài nói rằng, phải là một bậc thầy vĩ đại như vị Tai Situpa mới có thể đặt tên cho đứa trẻ này, và vì thế họ nên chờ đợi cho đến lúc điều đó có thể được thực hiện.
Nhưng dù sao cũng cần có một tên gọi tạm thời cho đứa bé, nên cha mẹ ngài liền sử dụng tên gọi mà người chị của ngài bảo rằng đã nhận được từ một người bên bờ sông ngay sau khi ngài vừa được sinh ra. Tên gọi ấy là Apo Gaga, trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “đứa em trai mang lại niềm vui”.
Từ khi còn rất nhỏ, Apo Gaga đã tỏ ra vô cùng đặc biệt, với những năng lực và dự cảm phi thường. Chẳng hạn, ngài có thể nói chính xác cho mọi người biết chỗ để tìm kiếm những con cừu hay gia súc bị lạc mất. Điều tất nhiên là khi tin đồn này loan ra, tu viện Kampagar nơi cha mẹ ngài đang sống liền đề nghị cha mẹ ngài cho ngài đến tu viện để được nuôi dưỡng và đào tạo theo phương thức đặc biệt nhằm có thể trở thành một vị Lạt-ma mang lại hạnh phúc và lợi ích cho nhiều người. Nhưng vào lúc đó, đại sư Amdo Palden nhắc lại lời hứa trước đây của cha mẹ ngài, và nhận đưa ngài về tu viện Kalek để ông tự tay chăm sóc và nuôi dạy.
Tu viện Kalek nằm cách xa nơi gia đình ngài đang ở nên có phần bất tiện, nhưng cha mẹ ngài vẫn nhớ lời đã hứa và đồng ý gửi ngài cho đại sư Amdo Palden. Dù vậy, để yên lòng hơn họ liền tìm đến một vị tiên tri rất giỏi trong vùng và hỏi về tương lai đứa bé. Vị này nhìn thấy một vỏ ốc lớn màu trắng với vòng xoáy theo chiều kim đồng hồ, và dự báo rằng Apo Gaga sẽ là người mang đến lợi ích lớn lao cho rất nhiều người, nhưng tương lai của đứa bé chưa thể biết rõ trước lúc 8 tuổi. Cách tính tuổi của người dân Tây Tạng cũng tương tự như cách tính theo âm lịch của người Việt Nam, nên năm dự báo của vị tiên tri này là năm 1992.
Em bé Apo Gaga trải qua khoảng 4 năm được dạy dỗ đặc biệt ở tu viện Kalek, với sự dẫn dắt của một vị Lạt-ma tái sinh chưa được biết đến. Ngài có một cái ngai nhỏ trang trọng ở bên cạnh điện thờ chính để ngồi và một người hầu lúc nào cũng ở bên cạnh để giúp ngài trong mọi việc. Ngài không được phép tham gia các trò chơi đùa thông thường như những đứa trẻ khác, và tất cả bọn chúng lúc nào cũng bày tỏ sự kính trọng đối với ngài.
Thỉnh thoảng ngài có đến thăm gia đình ở nơi làng du mục đang sống. Những lúc này, cha ngài kể lại rằng ngài thường chơi đùa bằng cách xây lên những tu viện tí hon với đất và đá, hoặc tự làm một cái ngai nhỏ rồi ngồi lên đó và đọc những lời cầu nguyện. Họ cũng kể rằng ngài thường cưỡi trên lưng những con thú chạy lên đồi, và thường khóc khi thấy chúng bị đánh đập hay giết hại. Ngài luôn biểu lộ lòng từ bi, thương yêu tất cả. Ngài tỏ ra đặc biệt quan tâm đến cây cối, thường xuyên trồng và chăm sóc những cây xanh. Ngài cũng bày tỏ sự không hài lòng khi nhìn thấy có ai chặt phá cây cối. Những dòng suối nhỏ thường xuất hiện ở những nơi ngài trồng xuống nhiều cụm cây xanh.
Vào năm 1992, ngài bỗng nhiên thúc giục cha mẹ phải dời đến đồng cỏ mùa hè sớm hơn một tháng so với dự tính, nhưng không giải thích lý do. Mặc dù không hiểu vì sao, nhưng cha mẹ ngài vẫn nghe lời và dời trại sớm hơn. Chính điều này đã giúp họ đến đúng vị trí dự báo trong di thư của đức Karmapa đời thứ mười sáu, và đúng vào lúc phái đoàn tìm kiếm ngài cũng vừa đến đó.
Apo Gaga đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để ra đi. Ngài sắp xếp gọn gàng một số đồ vật, hành lý ngay trước khi nhóm đi trước của phái đoàn tìm kiếm ngài đến nơi. Ngài thức dậy sớm hơn vào hôm đó và xếp gọn một số quần áo rồi đặt lên lưng con dê của mình, một con dê đặc biệt không có sừng, và nói với mẹ rằng những tu sĩ của ngài đang đến, và ngài đã sẵn sàng để lên đường đi với họ về tu viện của mình. Ngài nói, nếu có thể được thì ngài sẽ mang theo một vài vật kỷ niệm của tu viện Kalek. Người anh của ngài là Yeshe Rabsal đang ở tại Kalek khi nhóm đi trước của phái đoàn tìm kiếm ngài vừa đến. Họ gọi Yeshe Rabsal từ trên đồi xuống để nói cho biết rằng những tu sĩ được phái từ Tsurphu đến hiện đã đến Katok và đang trên đường đến Barkor để tìm kiếm hóa thân tái sinh của một vị Lạt-ma đặc biệt. Khi nghe được tin tức này, đức Karmapa trẻ tuổi đã cười lớn và nhảy múa reo mừng.
Cha mẹ ngài đã dựng lên một căn lều đặc biệt để tiếp đón phái đoàn. Sau những nghi thức chào hỏi thông thường, các vị tu sĩ liền hỏi mẹ ngài những chi tiết về ngài và về những giấc mơ của bà hoặc của bất cứ thành viên nào khác trong gia đình. Cha mẹ ngài kể lại tất cả những chi tiết về sự ra đời của ngài, về những dấu hiệu đặc biệt, về giấc mơ có những con hạc trắng, những giấc mơ của cha ngài và anh ngài, về con chim đến hót trên nóc lều, về âm thanh kỳ diệu vọng xuống từ không trung, về 3 mặt trời hiện ra... Thật ra, nhóm đi trước của đoàn tìm kiếm đã được nghe hầu hết những chi tiết này từ những người dân du mục khi họ dò hỏi trên đường tìm đến đây. Lạt-ma Domo thay mặt cho tu viện Tsurphu trao cho cha ngài một bản sao bức di thư của đức Karmapa đời thứ mười sáu và ông Dondrup ngay lập tức nhận hiểu được một cách chính xác về đứa con trai phi thường của mình.
Sau một vài trao đổi ngắn, những vị tu sĩ cùng nhau tháp tùng đức Karmapa trẻ tuổi đến tu viện Kalek để chờ hai vị Akong Tulku Rinpoche và Sherab Tarchin sẽ đến ngay trong vài ngày sau đó.
Không bao lâu, hai vị này đã đến. Và tin tức về sự phát hiện này liền được gửi về cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đang ở Ấn Độ. Hai vị ngay lập tức thông báo việc này lên đức Đạt-lai Lạt-ma. Tại tu viện Kalek, khi những chi tiết về hóa thân tái sinh của đức Karmapa một lần nữa được khẳng định, hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin liền dâng lên cậu bé Apo Gaga, nay đã trở thành đức Gyalwa Karmapa đời thứ mười bảy, bộ lễ phục đặc biệt và những thánh vật thiêng liêng mà họ thay mặt hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab mang đến từ Ấn Độ.
Một số phẩm vật và quà tặng đặc biệt được mang đến dâng lên cho cha mẹ đức Karmapa để bày tỏ lòng biết ơn của tất cả mọi người về việc họ đã sinh thành và nuôi dưỡng ngài.
Mọi người cùng lưu lại Kalek một thời gian ngắn để trong khi chuẩn bị cho chuyến đi về Tsurphu. Hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin thay mặt cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab, và một phái đoàn khác cũng được cử đến từ Tsurphu. Sau đó, tất cả cùng tháp tùng đức Karmapa trên đường đến Tsurphu, nơi mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đã rời đi trước đó 33 năm.
Trước khi đoàn người rời khỏi tu viện Kalek, giữa bầu trời đầy sương mù của hôm ấy bỗng nhiên xuất hiện 3 mặt trời chói lọi và hàng trăm người quanh đó đều có thể nhìn thấy rõ. Mặt trời ở giữa lớn hơn và có một quầng sáng bảy màu vây quanh, trong khi hai mặt trời bên cạnh nhỏ hơn và có những cụm mây bao quanh.
Ngày 15 tháng 6 năm 1992, đức Karmapa đến Tsurphu trong một khung cảnh vô cùng cảm động khi hàng ngàn người dân Tây Tạng vừa nghe tin đã nhanh chóng quy tụ về để đón mừng ngài.
Sau khi xuống xe, đức Karmapa đi về tu viện trên một con ngựa trắng được tô điểm xinh đẹp và nghiêm trang, với các vị tăng sĩ vây quanh mang những biểu ngữ lớn với lời chào mừng ngài, cùng với đầy đủ dàn lễ nhạc truyền thống. Đám đông đón rước ngài tháp tùng theo sau, nhiều người trong số đó cưỡi ngựa, tạo thành một quang cảnh vừa trang nghiêm vừa nhộn nhịp.
Đức Karmapa tiến vào tu viện Tsurphu dưới một cây lọng vàng, nghi lễ chỉ dành cho những bậc đại sư, và được chào đón bởi một đám đông đang chờ sẵn. Rời khỏi lưng ngựa, ngài được mời đến ngồi trên một vị trí dành sẵn trước điện thờ chính. Các vũ công với trang phục “sư tử tuyết” thực hiện điệu múa sư tử cổ truyền chào đón ngài, và dâng “sữa sư tử” lên ngài. Một nhóm vũ công đeo mặt nạ tượng trưng cho các vị hộ pháp của dòng Karma Kagyu tiến đến chào ngài từng người một theo đúng nghi lễ như đối với các bậc thánh xưa kia, bày tỏ lòng mong muốn cho cuộc sống của ngài sẽ được dài lâu và khỏe mạnh.
Những buổi lễ chào mừng ngài tiếp tục kéo dài trong nhiều ngày sau đó và người dân Tây Tạng thuộc đủ mọi thành phần vẫn tiếp tục kéo đến để bày tỏ sự vui mừng. Mỗi ngày, đức Karmapa đều thực hiện nghi lễ ban phước lành cho tất cả mọi người.
Ngày 27 tháng 6 năm 1992, Chính phủ Trung Quốc chính thức công nhận ngài là hóa thân tái sinh đời thứ 17 của đức Karmapa. Ngài trở thành vị Lạt-ma tái sinh đầu tiên được chính phủ Trung Quốc công nhận kể từ năm 1959. Điều này gợi nhớ lại một sự thật là từ 8 thế kỷ qua, nhiều hóa thân tái sinh của đức Karmapa đã từng là đạo sư của các vị hoàng đế Trung Hoa.
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đã được phép trở về Tây Tạng để tổ chức lễ đăng quang chính thức của đức Karmapa đời thứ mười bảy. Nhà cầm quyền cũng cho phép tổ chức một buổi lễ xuống tóc và đặt pháp danh cho ngài tại ngôi đền Jo-kang nổi tiếng ở Lhasa. Nơi đây có một pho tượng Phật Thích-ca do công chúa Văn Thành mang đến từ Trung Hoa khi bà trở thành hoàng hậu Tây Tạng vào thế kỷ 7. Tương truyền pho tượng này trước đó đã được mang từ Ấn Độ đến Trung Hoa, và nó đã được tạo ra ở Ấn Độ bởi một nghệ sĩ tên là Visvakarman ngay trong thời đức Phật còn tại thế. Pho tượng miêu tả đức Phật vào năm ngài được 12 tuổi, và đã được chính đức Phật ban phước lành sau khi hoàn tất. Người ta tin rằng bất cứ ai được nhìn thấy pho tượng này đều sẽ được nhiều may mắn.
Nhiều phái đoàn đại diện của các nhóm Phật giáo dòng Karma Kagyu từ các quốc gia trên thế giới đã chuẩn bị đến Tây Tạng để được tham gia buổi lễ đăng quang của bậc thầy trước đây đã khai sáng cho họ, và họ đã nôn nóng chờ đợi sự tái sinh của ngài từ lâu.
Theo đúng như dự báo trước đây của đại sư Chojur Lingpa, vị Tai Situpa Pema Dưnyư sẽ trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười bảy. Dự báo này đã được đại sư Chojur Lingpa đưa ra từ trước đây gần một thế kỷ, khi ngài nhìn thấy những linh ảnh về các hóa thân của Karmapa cho đến tận đời thứ hai mươi mốt.
Vị Tai Situpa là người mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đã giao lại bức di thư. Trong di thư cũng có nói đến việc ông sẽ là thầy dạy của vị Karmapa tái sinh.
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đến Tây Tạng vào ngày 12 tháng 7 năm 1992. Họ đến ngay Tsurphu sau một đêm nghỉ lại thủ đô Lhasa và viếng thăm tu viện của Pawo Rinpoche, thực hiện lễ ban phước cho hàng trăm tín đồ nhiệt thành.
Tu viện Tsurphu được đức Karmapa Dsum Khyenpa thành lập từ năm 1190 và từ đó đến nay luôn là trụ sở chính cả tất cả các vị Karmapa. Vào thời điểm tiến hành cuộc Cách mạng Văn hóa thì Tsurphu có đến 900 tăng sĩ và bao gồm trong nó 4 tu viện với rất nhiều công trình xây dựng. Một trong bốn tu viện này là nơi ở của các vị Goshir Gyaltsab qua nhiều lần tái sinh từ xưa đến nay. Các vị Goshir Gyaltsab luôn là người thay mặt đức Karmapa để dẫn dắt tông phái trong thời gian chuyển tiếp giữa hai lần tái sinh. Trong tiếng Tây Tạng, “gyaltsab” có nghĩa là “người nhiếp chính, người thay quyền”.
Vị đứng đầu tu viện Tsurphu lúc đó là Drupon Dechen Rinpoche, chính là bậc thầy ở Rumtek trước đây. Ông đã cùng với đức Karmapa đời thứ mười sáu rời Tây Tạng vào năm 1959, mang theo một số những xá-lợi và thánh vật từ Tsurphu đến Sikkim. Những xá-lợi và thánh vật này hiện đang được tôn trí tại Rumtek. Chính đức Karmapa đời thứ mười sáu đã khuyên ông trở về Tsurphu để đôn đốc việc xây dựng lại tu viện này. Trong thực tế, Drupon Dechen Rinpoche đã phải nỗ lực kiến tạo lại tất cả từ những đống đổ nát trong những năm gần đây, nhờ vào sự ủng hộ nhiệt thành của rất nhiều người.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa đức Karmapa đời thứ mười bảy và hai vị Rinpoche là một buổi tiếp xúc mang tính nghi thức truyền thống. Sau các nghi thức chào mừng bên ngoài điện thờ, hai vị được đưa đến để lễ bái đức Karmapa lần đầu tiên và dâng phẩm vật cúng dường lên ngài. Những ngày sau đó, sự tiếp xúc mới dần trở nên thân mật, cởi mở và vui vẻ vì không còn mang nặng hình thức lễ nghi. Những mối quan hệ thành tín, tôn kính và yêu thương lẫn nhau được phát triển một cách tự nhiên và mãnh liệt. Theo niềm tin của người Tây Tạng, ba vị là hóa thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara), Bồ Tát Di-lặc (Maitreya) và Bồ Tát Kim Cang Thủ (Vajrapṇi) và đã từng gặp gỡ, giúp đỡ nhau trong công cuộc độ sinh từ nhiều thế kỷ qua.
Cũng giống như Akong Rinpoche trong hơn một tháng qua, hai vị Tai Situpa và Gyaltsab bắt đầu khám phá ra những mối quan hệ chuyển tiếp nổi bật trong tính cách của vị Karmapa đời thứ mười bảy với đức Karmapa trước đây. Ngài cũng biểu lộ sự tự tin, không sợ sệt, luôn vui tính và chân thành thương yêu với một tâm lượng từ bi vô hạn, không khác gì so với đức Karmapa trước đây.
Lễ xuống tóc của đức Karmapa được tổ chức tại ngôi đền thiêng Jo-kang ở Lhasa, vào sáng sớm ngày 2 tháng 8 năm 1992. Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab tiến hành các nghi lễ trước thánh tượng đức Phật Thích-ca, tượng trưng cho sự hiện hữu của đức Phật trong buổi lễ. Đây là lần thứ hai trong lịch sử một vị Karmapa nhận lễ xuống tóc tại ngôi đền này. Nhiều phẩm vật cúng dường được gửi đến dâng lên ngài, và có cả quà tặng từ đức Đạt-lai Lạt-ma: một lời cầu chúc trường thọ và khỏe mạnh, một tấm khăn choàng đã được ngài ban phúc, và một tràng hạt của chính ngài. Các đại diện của nhà cầm quyền tại Lhasa cũng có mặt trong buổi lễ.
Sau buổi lễ xuống tóc, đức Karmapa chính thức nhận một tên gọi mới đã được dự báo bởi đại sư Chogyur Dechen Lingpa là Pal Khyabdak Rangjung Urgyen Trinley Dorje.
Ngày 27 tháng 9 năm 1992, hơn 20.000 Phật tử từ khắp nơi đã tụ họp về Tsurphu để tham dự lễ đăng quang của đức Karmapa. Ngoài đại diện của các trung tâm tu học thuộc truyền thống Karma Kagyu trên toàn thế giới, còn có đại diện của tất cả các dòng phái Phật giáo khác tại Tây Tạng và đại diện của các tôn giáo khác. Tuy nhiên, chiếm đa số trong những người tham dự là các Phật tử Tây Tạng, nhiều người đã phải vượt hàng nghìn cây số để về đây. Nhiều vị tulku đã quy tụ về từ khắp các vùng thuộc Tây Tạng, Ấn Độ và quanh vùng Hy-mã-lạp. Đối với người dân Tây Tạng, việc được hiện diện tại buổi lễ này và có cơ hội nhìn thấy đức Karmapa có một ý nghĩa cực kỳ to lớn. Từ trước năm 1959, điều này vốn đã là một truyền thống lâu đời, và sự khao khát mong chờ của họ càng được nhân lên gấp bội vào thời điểm năm 1992, khi nhìn thấy hé ra một tia hy vọng mới cho tương lai Phật pháp của đất nước. Vì thế, trong dịp này vùng thung lũng Tolung bao quanh Tsurphu trở thành một bãi cắm trại khổng lồ nhộn nhịp đầy màu sắc.
Sau lễ đăng quang của đức Karmapa, vào ngày 29 tháng 9 năm 1992, đức Karmapa Urgyen Trinley Dorje chủ trì một buổi lễ ban phúc cho hàng chục ngàn người. Buổi lễ kéo dài trong nhiều giờ, tuy có sự trợ giúp của hai vị Tai Situpa và Gyaltsab nhưng vị Karmapa chỉ mới 7 tuổi đã bộc lộ năng lực siêu việt với giọng nói vang rền và tự tin trước một cử tọa hàng chục ngàn người. Mặc dù mọi hoạt động Phật sự của một đức Karmapa, hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đều được xem là quan trọng đối với người Tây Tạng, nhưng buổi lễ ban phúc này được xem như một khởi đầu tốt lành và hứa hẹn nhiều hoạt động tốt đẹp mà ngài chắc chắn sẽ làm vì mọi người trong cương vị của một đức Karmapa. Nhiều điềm lành xuất hiện như để làm tăng thêm lòng tin và sự vui mừng của những người dự lễ. Bầu trời quang đãng với chỉ một vài cụm mây trôi lãng đãng, nhưng lại có tuyết rơi nhẹ như những bông hoa trắng đẹp rơi xuống từ không trung, và từng bầy chim đông đảo bỗng tụ về một cách khác thường trong ngày hôm ấy, bay lượn thành những vòng tròn cao vút trên bầu trời xanh. Nhưng ấn tượng nhất đối với tất cả mọi người là một mống cầu vồng bảy màu vĩ đại bắc ngang qua cả bầu trời, hiện ra cao vút ở trên cả những bầy chim đang bay,
Sau khi chính thức nhận cương vị là một đức Karmapa, Urgyen Trinley Dorje bắt đầu giai đoạn học tập nghiêm túc với các vị thầy chính là Tai Situpa và Gyaltsabpa, cùng với sự giúp đỡ của Drupon Dechen Rinpoche, người đứng đầu tu viện Tsurphu. Ngài bắt đầu bộc lộ rõ khả năng của một vị Karmapa tái sinh trong việc học tập kinh điển. Ngài chỉ cần nghe qua một chủ đề hoặc đọc qua một bản kinh văn nào đó là có thể ngay lập tức nắm hiểu được. Đôi khi ngài còn tỏ ra thông thạo cả những vấn đề mà các vị thầy chưa hề đề cập đến.
Ngài bộc lộ sự thông minh, nhạy bén và một trí nhớ phi thường. Mặc dù vậy, các vị thầy dạy vẫn yêu cầu ngài phải học qua tất cả các môn học, các phần giáo pháp truyền thống, giống như tất cả các vị Karmapa trước đây đã làm. Điều này nêu lên một tấm gương chuyên cần cho tất cả mọi người noi theo. Mặc dù vậy, đối với một người Phật tử bình thường, cho dù có nỗ lực hết sức và được sự chỉ dạy tận tâm của những bậc thầy vĩ đại thì cũng không thể nào hoàn tất được hết thảy những gì mà vị Karmapa đã học, đơn giản chỉ vì đó là một khối lượng kiến thức quá nhiều!
Trong giai đoạn học tập đầu tiên, ngài được sự trợ giúp của hai vị thầy uyên bác và nhiều kinh nghiệm là Omdze Thubten Zangpo và Lama Lodro Sherab. Sau đó, Lama Lodro Sherab phải trở lại với tu viện Rumtek vì ở đó đang cần đến ông. Dưới sự hướng dẫn của Omdze Thubten Zangpo, ngài học tập những kỹ năng hành lễ và nghi thức truyền thống. Sau đó, ngài đã vượt qua được kỳ thi Umdze. “Umdze” có nghĩa là “thông thạo về các lễ nghi”, và bao gồm rất nhiều phần nghi thức truyền thống khác nhau. Một học giả cư sĩ tên là Lodro cũng giúp đỡ ngài trong việc học. Đức Karmapa đã khiến cho tất cả mọi người đều phải kinh ngạc khi ngài học thuộc lòng một phần nghi thức tán tụng dài hơn 100 trang chỉ với thời gian chưa đến một tháng, và mỗi ngày chỉ dành chưa đến một giờ cho việc học nghi thức này!
Khoảng năm 1995, đức Karmapa bắt đầu có những linh ảnh trong thiền định giúp ngài phát hiện được sự tái sinh của nhiều vị đại sư, trong đó có cả những vị thầy nổi tiếng như Pawo Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và Dabzang Rinpoche.
Từ năm 1992 đến năm 1999, sự hiện diện của đức Karmapa đã mang lại niềm tin và sức mạnh cho đông đảo Phật tử Tây Tạng. Ngài chủ trì và thúc đẩy tiếp tục công việc xây dựng lại tu viện Tsurphu. Mặc dù trước đó, một số công trình hư hỏng của tu viện đã được ngài Drupon Dechen Rinpoche khôi phục, nhưng phải đến giai đoạn này thì việc trùng tu mới thực sự hoàn tất, với nhiều kiến trúc phức tạp nguyên sơ được khôi phục đầy đủ và nhiều công trình xây dựng mới được thêm vào để đáp ứng với sự phát triển của tu viện.
Ngày 28 tháng 12 năm 1999, đức Karmapa quyết định rời khỏi Tây Tạng vì tương lai phát triển của Phật pháp. Chỉ mấy ngày trước khi bước sang thiên niên kỷ mới, ngài cùng với một số ít các vị tùy tùng bí mật rời khỏi Tsurphu và tìm đường sang Ấn Độ. Ngày 5 tháng 1 năm 2000, ngài đến Dharamsala, Ấn Độ và lần đầu tiên yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma.
Đức Karmapa lưu trú tại Ấn Độ và sống gần Dharamsala. Ngài đã thực hiện một số chuyến đi tham bái các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ, và hằng năm đều chủ trì những buổi lễ truyền thống của dòng Karma Kagyu tại Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya), nơi đức Phật thành đạo, và Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật lần đầu tiên chuyển pháp luân. Ngài cũng viếng thăm Ladakh (nơi định cư của người Tây Tạng ở miền nam Ấn Độ) và nhiều nơi khác trong vùng Hy-mã-lạp.
Cuối năm 2001, ngài chủ trì một buổi lễ quan trọng của dòng Karma Kagyu, với sự tham gia của đông đảo tăng sĩ thuộc dòng phái này từ khắp nơi trên thế giới, cùng quy tụ về ngôi đền Mahabodhi ở Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya), ngay bên dưới cây bồ-đề mà trước đây đức Thế Tôn đã thành đạo. Đây là một nghi lễ được tổ chức hằng năm của dòng Karma Kagyu.
Năm 2002, ngài nhận lời mời của Hội Phật giáo Đại Bồ-đề (Maha Bodhi Society) của Ấn Độ, đến viếng thăm Kolkata ở miền đông Ấn Độ, như một vị thượng khách danh dự.
Cùng với đức Đạt-lai Lạt-ma, ngài cũng tham gia một số hoạt động Phật sự tại Sarnath ở miền bắc Ấn Độ, nơi đức Phật trước đây đã thuyết giảng giáo pháp lần đầu tiên.
Hiện nay ngài đang có dự tính sẽ rời Dharamsala để đến tu viện Rumtek ở Sikkim, trụ sở chính của các vị Karmapa ở bên ngoài Tây Tạng do đức Karmapa đời thứ mười sáu lập ra.
================
*PHỤ CHÚ:
.https://wisdomofcompassionblog.files...17_bio_nth.pdf
.http://thientrithuc.vn/duc-karmapa-t...a-long-bi-man/
.https://sites.google.com/a/quecha.ne...armapadoithu17
.http://linhsonmass.org/pdf/Karmapa17.pdf
.http://vietnam.ucanews.com/2014/07/0...giao-tay-tang/
.http://gelekdorjetronghoang.blogspot...bi-man-oi.html
KARMAPA ĐỜI THỨ 17
Của Thiền Mật Song Tu · Cập nhật khoảng một năm trước
KARMAPA ĐỜI THỨ 17
Lạt Mạ 17 Gyalwang Karmapa, thế danh là Ogyen Trinley Dorje
( https://www.facebook.com/media/set/?...5474133&type=3 )
Karmapa hay Cát Mã Ba, Hạt Mã La, Hạt Mã Ba. Dịch nghĩa là Người hành theo Phật. Lãnh tụ tinh thần của phái Cát mã Ca nhĩ cư (Karma-kagyu), và dòng truyền thừa các vị tái sanh “Chu cô” (Tulku) lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Như đã trình bày trước đây trong phần sơ lược về Phật giáo Tây Tạng, truyền thống này tôn sùng những vị tái sanh, xem như Phật hay Bồ tát sống, có tôn hiệu là Thánh đức (His Holiness).
Riêng dòng Chu cô Karmapa đến nay có 17 lần tái sanh, kể từ thế kỷ 12. Từ thế kỷ 15, các vị tái sanh mang vương miện màu đen, hiện thân của đức Quán Thế Âm Bồ tát (Avalokitesvara). Các vị là những bậc thiện trí thức lỗi lạc, và nhiệm vụ quan trọng nhất là giữ gìn Kim cang thừa (Vajrayãna) được lưu hành.
Ngài Karmapa thứ 17 hiện nay còn trẻ và có những sự kiện tao ngộ rất kỳ bí. Sinh năm 1985 trong một gia đình du mục tại Lhatok đông Tây Tạng, cậu bé Apo Gaga ra đời và lớn lên trong những điềm lành. Năm 1992, chưa từng biết gì về Karmapa, cậu bỗng dưng yêu cầu gia đình di chuyển đến một thung lũng, nơi đó đức Karmapa 16 đã ghi lại trong di chúc cho các môn đệ đến tìm tái sanh của ngài. Đúng theo lời tiên tri mô tả, các môn đệ đến tận nơi đón cậu bé, và đưa về tu viện Tolung Tsurphu vào năm 1992, nhận lễ phong vị chính thức với sự chấp thuận của chánh quyền Trung Quốc. Hơn 40.000 người đã đến tham dự và cầu nguyện trong lễ phong vị cho một vị hóa sanh đầu tiên được Trung Quốc nhìn nhận.
Ngài Karmapa tu tập rất tinh thông tại Tsurphu, nhưng đến năm 1999, nhận thức sự đàn áp của Trung Quốc và do sự hữu ích của Tây Tạng, ngài bỏ nước ra đi. Cuộc bỏ trốn chế độ được xếp đặt trước mấy tháng, ngài Karmapa giả vờ nhập thất rồi mặc quần áo thường dân leo cửa sổ, cùng một vài tùy tùng, dùng đủ phương tiện xe cộ, ngựa, máy bay, xe lửa, sau cùng ngài đến Ấn Độ trong sự ngạc nhiên của đức Đạt lai Lạt ma. Từ đầu năm 2000 đến nay, ngài tu tập và hoằng hóa tại Dharamsala.
.Chokyi Nyima[17] is recognized by Ogyen Trinley Dorje.
.Migyur Drakpa Sengge[18] is recognized by Trinley Thaye Dorje.
Để tìm kiếm và công nhận tái sinh các đời của Đại bảo Pháp vương, thường có 5 vị lạt ma cao cấp nhất của dòng Karma Kagyu là: Sharmapa, Situ Rinpoche, Thrangu Rinpoche, Gyaltsap Rinpoche và gần đây là Jamgon Kongtrul Rinpoche. Đối với Đai bảo Pháp vương thứ 17, Sharmapa Rinpoche công nhận Trinley Thaye Dorje (sinh ở Ấn Độ) trong khi tất cả các vị lạt ma còn lại công nhận Orgyen Trinley Dorje (sinh ở Tây Tạng). Sự bất đồng này đã dẫn đến hai bên từ mặt nhau, và gây chia rẽ sâu sắc và đau đớn cho các tông đồ trên khắp thế giới.
Một số người cho rằng Đại bảo Pháp vương có thể có nhiều hóa thân, và cả 2 vị này đều là hợp lệ. Tuy nhiên 5 vị lạt ma cao cấp trên lại không đồng ý như vậy, mỗi người đều nhất quyết theo hiểu biết và công nhận của riêng mình.
( https://en.wikipedia.org/wiki/Trinle...e#cite_note-18 / https://diepngth.wordpress.com/2014/...en-thua-kagyu/ )
Tiểu sử của Đức PhápVương Gyalwa Karmapa thứ 17
( http://kimcuongthua.org/truyen-thua-...orje-rinpoche/ )
Trinley Thaye Dorje (Tibetan: ཕྲིན་ལས་མཐའ་ཡས་ར ོ་རྗེ་, Wylie: Phrin-las Mtha'-yas Rdo-rje) (born 6 May 1983 in Lhasa) is a claimant to the title of 17th Karmapa.
Từ thời thơ ấu ở Tây Tạng cho đến khi trở thành một vị Thầy hướng dẫn giáo Pháp cho nhân loại trên khắp địa cầu, từ các bản văn truyền thống đến các phương tiện đại chúng, câu chuyện về cuộc đời của Ngài Thaye Dorje, Đức Pháp Vương Gyalwa Karmapa đời thứ 17 đã lan truyền từ Đông sang Tây, giống như những hoạt động (vì lợi lạc giáo Pháp) của Ngài là chiếc cầu nối cho những giá trị truyền thống hòa nhập với các vấn đề đương đại. Dưới đây là tiểu sử ngắn của Đức Karmapa:
Đức Karmapa sinh ngày mùng 6 tháng 5 năm 1983 tại trung tâm Tây Tạng. Thân phụ và thân mẫu của Ngài là Đức Mipham Rinpoche và Dechen Wangmo, những Lama vĩ đại của dòng truyền thừa Nyingma. Ngay khi Ngài biết nói, Ngài đã cho biết rằng Ngài chính là Hóa thân của Đức Karmapa. Các vị Karmapa là những vị hộ trì Dòng truyền thừa Karma Kagyu của Phật giáo Tây Tạng.
Tháng 3 năm 1994, nhân dịp kỉ niệm 900 năm truyền thống của Phái Cổ Mật , Đức Thaye Dorje Rinpoche đã được tấn phong là Karmapa đời thứ 17. Đức Pháp Vương Kunzig Shamar Rinpoche đời thứ 14, vị Lama cao cấp thứ 2 của dòng Karma Kagyu đã tấn phong Ngài. Vị Shamarpa thứ 14, Đức Mipham Chokyi Lodro đã được xác nhận bởi vị Karmapa đời thứ 16 và Đức Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1957 và tấn phong chính thức năm 1963. Ngài Kunzig Shamar Rinpoche đã viên tịch vào ngày 11 tháng 6 năm 2014.
Vị Karmapa đời thứ nhất, Dusum Khyenpa sinh năm 1110. Đức Đạt Lai Lạt ma đời thứ nhất, Gendun Drub, sinh năm 1391. Karmapa hộ trì dòng truyền thừa không gián đoạn lâu đời nhất trong 4 trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng.
Karmapa đã trốn khỏi Tây Tạng năm 1994. Năm 2003, Ngài đã hoàn thành chương trình đào tạo khi Ngài nhận danh hiệu Trì Minh Vương, bậc trì giữ thấu suốt Kinh điển và Mật điển.
Ngày nay, Karmapa đã di chuyển đến nhiều nơi để gặp gỡ học sinh, sinh viên, người trẻ tuổi, các nhà lãnh đạo thế giới, những ngọn đuốc sáng trong lĩnh vực tâm linh, hòa bình, giải quyết các xung đột và giáo dục. Ngài còn đảm đương trọng trách về các vấn đề tâm linh cho 900 tu viện và trung tâm thiền trên khắp thế giới.
Trinley Thaye Dorje nghĩa là các hoạt động giáo Pháp bất dịch vô biên. Hiện tại Karmapa định cư tại thủ đô Delhi, Ấn Độ.
http://www.karmapa.org/karmapa-thaye-dorje/biography/
Việt dịch : Nhóm Rigpa Lotsawas
Hiệu đính : Giác nhiên
Mọi sai sót đều do người dịch và người hiệu đính. Có chút phước đức nhỏ nhoi nào xin hồi hướng cho những ai có duyên với Đức Pháp Vương Gyalwa Karmapa đời thứ 17 đều được Ngài dẫn dắt sớm liễu thoát sinh tử và cầu mong nhờ công đức này Ngài sớm trở lại thế gian và quang lâm đến Việt nam.
==========================
Karmapa Thứ 17 – Trinlay Thaye Dorje
Tiểu Sử Karmapa Trinley Thaye Dorje
http://s1.upanh123.com/2016/12/21/15...234_n8277f.jpg
( https://www.facebook.com/17th.Karmapa/ )
Từ thời thơ ấu ở Tây Tạng cho đến khi trở thành một vị Thầy hướng dẫn giáo Pháp cho nhân loại trên khắp địa cầu, từ các bản văn truyền thống đến các phương tiện đại chúng, câu chuyện về cuộc đời của Ngài Thaye Dorje, Đức Gyalwa Karmapa đời thứ 17 đã lan truyền từ Đông sang Tây, giống như những hoạt động (vì lợi lạc giáo Pháp) của Ngài là chiếc cầu nối cho những giá trị truyền thống hòa nhập với các vấn đề đương đại. Dưới đây là tiểu sử ngắn của Đức Karmapa:
Đức Karmapa sinh ngày mùng 6 tháng 5 năm 1983 tại trung tâm Tây Tạng. Thân phụ và thân mẫu của Ngài là Đức Mipham Rinpoche và Dechen Wangmo, những Lama vĩ đại của dòng truyền thừa Nyingma. Ngay khi Ngài biết nói, Ngài đã cho biết rằng Ngài chính là Karmapa. Các vị Karmapa là những vị hộ trì Dòng truyền thừa Karma Kagyu của Phật giáo Tây Tạng.
Tháng 3 năm 1994, nhân dịp kỉ niệm 900 năm truyền thống , Đức Thaye Dorje Rinpoche đã được tấn phong là Karmapa đời thứ 17. Đức Kunzig Shamar Rinpoche đời thứ 14, vị Lama cao cấp thứ 2 của dòng Karma Kagyu đã tấn phong Ngài. Vị Shamarpa thứ 14, Đức Mipham Chokyi Lodro đã được công nhận bởi vị Karmapa đời thứ 16 và Đức Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1957 và tấn phong chính thức năm 1963. Ngài Kunzig Shamar Rinpoche đã viên tịch vào ngày 11 tháng 6 năm 2014.
Vị Karmapa đời thứ nhất, Dusum Khyenpa sinh năm 1110. Đức Đạt Lai Lạt ma đời thứ nhất, Gendun Drub, sinh năm 1391. Karmapa hộ trì dòng truyền thừa không gián đoạn lâu đời nhất trong 4 trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng.
Karmapa đã trốn khỏi Tây Tạng năm 1994. Năm 2003, Ngài đã hoàn thành chương trình đào tạo khi Ngài nhận danh hiệu Trì Minh Vương, bậc trì giữ thấu suốt Kinh điển và Mật điển.
Ngày nay, Karmapa đã di chuyển đến nhiều nơi để gặp gỡ học sinh, sinh viên, người trẻ tuổi, các nhà lãnh đạo thế giới, những ngọn đuốc sáng trong lĩnh vực tâm linh, hòa bình, giải quyết các xung đột và giáo dục. Ngài còn đảm đương trọng trách về các vấn đề tâm linh cho 900 tu viện và trung tâm thiền trên khắp thế giới.
Trinley Thaye Dorje nghĩa là các hoạt động giáo Pháp bất dịch vô biên. Hiện tại Karmapa định cư tại thủ đô Delhi, Ấn Độ.
http://www.karmapa.org/karmapa-thaye-dorje/biography/ Việt dịch : Nhóm Rigpa Lotsawas
Hiệu đính : Giác nhiên
17. Karmapa
Các Thông Tin Khác về Karmapa
17th-karmapa-travelling
Năm 1997, Karmapa thứ 17 được chính thức mời sang Bhutan để tham dự lễ tang của Topga Rinpoche. Ở đây, Ngài đã được tiếp đón long trọng nhất. Ba giờ lái xe từ biên giới Bhutan tới thủ đô Thimpu đã phải kéo dài thành bảy tiếng đồng hồ vì hàng ngàn người đứng chào đón hai bên đường. Vào 17/10/1997, ba ngàn người đã tới nhận sự ban phước và toàn bộ gia đình hoàng gia bao gồm cả đức vua và bốn vị hoàng hậu đã tiếp đón ngài với cương vị là đức Karmapa thứ 17.
Tháng 10/1999, Karmapa thực hiện chuyến đi hoằng pháp quốc tế đầu tiên và đã thực hiện lễ quán đảnh cho hàng ngàn người tại Singpaore và Đài Loan. Một thiên niên kỷ mới đã khởi đầu cùng với chuyến đi thăm phương Tây của ngài. Tại Dusseldorf, Đức, Karmapa đã tiếp nhận sáu ngàn học trò từ hàng trăm trung tâm Diamond Way đến từ hơn ba mươi nước.
Mùa hè năm 2003, Ngài thực hiện chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên. Ngài đã thực hiện hàng loạt các lễ trao truyền và giảng dạy. Trong hai ngày 19 và 20/07/2003, người đã thực hiện trao truyền các phương pháp thực hành Karma Pakshi và Phật Dược Sư tại San Francisco, California. Cũng trong năm này khi Ngài đang thọ nhận giáo pháp với Kenchen Luding Rinpoche của dòng Sakya, Đức Sakya Trizin đã tới thăm Karmapa
04_Karmapa_Luding_SakyaTrizin
Năm 2006, Khi ngài đang ở Kalimpong, có rất nhiều người thường lui tới Kalimpong, một trong các vị khách đặc biệt đó là Đức Chetsang Drikung Kagyu. Hai vị đã cùng dùng trà và những người xung quanh đã được nghe rất nhiều tiếng cười lớn từ họ.
Karmapa thường tham dự đại lễ cầu nguyện Kagyu Monlam ở Bồ Đề Đạo Tràng vào tháng 12, đây là dịp mà tất cả Phật tử đều có cơ hội gặp riêng ngài. Ngài thường gặp gỡ và trò chuyện với từng người một, cho dù số Phật tử muốn gặp ngài phải xếp hàng dài và lên tới mấy ngàn người một ngày. Trong hình là buổi gặp gỡ của Ngài Dilgo Khuyentse Yangsi ở Bồ Đề Đạo Tràng.
Vào tháng 12/2003, sau khi hoàn tất chương trình hoằng pháp của mình, ngài đã được xem như là “Vị thầy Mật tông Vĩ đại” (theo tiếng Sanskrit – Vajracharya). Hiện tại, ngài sống tại Delhi, Ấn Độ. Ngài tiếp tục hoằng pháp tại các nước trên thế giới bao gồm Châu Âu, Châu Mỹ, các nước châu Á như Singapore, Malaysia, Hongkong, Indonesia, Philippine, Đài loan…
Homepage H.H. Karmapa Trinlay Thaye Dorje
Truyền thừa Kagyu
Posted on January 31, 2014 by Hong Diep
( https://diepngth.wordpress.com/2014/...en-thua-kagyu/ )
Sáng nay nhân nghe đĩa CD Sacred Tibetan Chant của tu viện Sherab Ling thuộc truyền thừa Kagyu, đĩa CD được giải Grammy năm 2003, tôi chợt có vài suy nghĩ.
Trong số 4 dòng truyền thừa chính của Mật Tông Tây Tạng là Gelug, Kagyu, Sakya và Nyingma, tôi thấy mình gắn bó hơn cả với truyền thừa Kagyu (truyền thừa khẩu truyền), đặc biệt là dòng Karma Kagyu. Không phải tự nhiên mà tôi đã được đảnh lễ hầu hết những bậc thượng sư cao cấp nhất của truyền thừa này, từ Đại bảo Pháp vương Gyalwang Karmapa đời thứ 17 cho tới 4 vị học trò và cũng là thầy của Đại bảo Pháp vương là Thrangu Rinpoche, Gyaltsap Rinpoche, Situ Rinpoche và Jamgon Kongtrul Rinpoche. Và đặc biệt là tất cả những vị lạt ma này đều ủng hộ Đại bảo Pháp vương Orgyen Trinley Dorje, chứ không phải là vị Trinley Thaye Dorje.
Để các bạn hiểu rõ hơn, tôi xin kể ngắn gọn như sau. Đại bảo Pháp vương là một lạt ma quan trọng và lâu đời nhất trong hệ thống các tái sinh của Mật Giáo Tây Tạng, trước cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, và là người đứng đầu nhánh Karma Kagyu, nhánh lớn nhất trong tám nhánh chính của truyền thừa Kagyu. Để tìm kiếm và công nhận tái sinh các đời của Đại bảo Pháp vương, thường có 5 vị lạt ma cao cấp nhất của dòng Karma Kagyu là: Sharmapa, Situ Rinpoche, Thrangu Rinpoche, Gyaltsap Rinpoche và gần đây là Jamgon Kongtrul Rinpoche. Đối với Đai bảo Pháp vương thứ 17, Sharmapa Rinpoche công nhận Trinley Thaye Dorje (sinh ở Ấn Độ) trong khi tất cả các vị lạt ma còn lại công nhận Orgyen Trinley Dorje (sinh ở Tây Tạng). Sự bất đồng này đã dẫn đến hai bên từ mặt nhau, và gây chia rẽ sâu sắc và đau đớn cho các tông đồ trên khắp thế giới.
Một số người cho rằng Đại bảo Pháp vương có thể có nhiều hóa thân, và cả 2 vị này đều là hợp lệ. Tuy nhiên 5 vị lạt ma cao cấp trên lại không đồng ý như vậy, mỗi người đều nhất quyết theo hiểu biết và công nhận của riêng mình. Tôi từng bị rơi vào hoàn cảnh khó xử khi vô tình tới một tu viện của Ngài Trinley Thaye Dorje ở Singapore. Khi biết không phải là tu viện của Orgyen Trinley Dorje, tôi đã rất hoảng sợ. Tôi không dám nói chuyện hay lưu lại lâu trong tu viện ấy. Tôi ủng hộ Orgyen Trinley Dorje, mặc dầu cảm nhận được một nỗi buồn sâu sắc trong ánh mắt của Ngài Trinley Thaye Dorje kia. Đơn giản là vì duyên của tôi với Ngài Orgyen Trinley Dorje lớn hơn. Nếu hỏi tôi giải pháp, tôi nghĩ tốt nhất là để Ngài Trinley Thaye Dorje trở về làm một lạt ma cao cấp, từ bỏ việc tranh giành ngôi Đại bảo Pháp vương. Nếu không thì sẽ còn gây chia rẽ và đau đớn hơn nhiều cho các tông đồ trên toàn thế giới.
Những ngày tới khi sang Nepal, tôi sẽ ở tu viện của Ngài Jamgon Kongtrul Rinpoche, mà do bất đồng về Đại bảo Pháp vương Karmapa thứ 17 mà hiện cũng có tới 2 ứng cử viên cho hóa thân của Ngài này. Chính trị thật giống nhau, ở đâu cũng vậy, quả không đơn giản. Chỉ khổ cho các tông đồ và bản thân những ứng cử viên cho các hóa thân này. Như sự khó xử của tôi và nỗi buồn sâu sắc trong mắt Ngài Trinley Thaye Dorje.
Một cuộc phỏng vấn với Ngài Pháp Vương Karmapa thứ 17 Thaye Dorje
( http://hoavouu.com/a21763/mot-cuoc-p...17-thaye-dorje )
http://hoavouu.com/images/file/BH2ud...thayedorje.jpg
Từ website Tuần báo tin tức của Ấn Độ, thực hiện bởi Vijaya Pushkarna/ Lumbini – 10/12/2001
phongvan17thkarmapathayedorjeViệc học của Ngài hiện nay ra sao ạ?
Đức Karmapa: Thậm chí từ trước khi tôi được thừa nhận là một Karmapa, tôi đã được dạy về Phật giáo và triết học. Giờ đây tôi học những điều đó một cách chi tiết hơn rất nhiều, đặc biệt là những lễ nghi của Karma Kagyu. Tôi không đến một trường học chính quy nào. Tôi bắt đầu học tiếng Anh khi tôi đến Ấn Độ (từ Tây Tạng). Ý nghĩ duy nhất của tôi là để chuẩn bị cho vai trò của mình là một Karmapa. Tôi cũng học một chút tiếng Pháp và những ngôn ngữ phương Tây khác, và rồi cuối cùng tôi không cần một phiên dịch nào cả. Bên cạnh đó tôi cũng học các môn như lịch sử, địa lý, khoa học và toán học.
Ngài có nhớ những bạn bè cùng lứa với mình không?
Đức Karmapa: Có. Có nhiều lúc tôi nhớ họ. Nhưng tôi có một trách nhiệm lớn hơn. Cách mà tôi được giáo dục, đó là có rất ít thời gian để nghỉ giải lao. Tôi có rất nhiều thứ cần phải đọc.
Ngài đọc những loại sách nào?
Đức Karmapa: Tôi đọc tất cả các loại sách bao gồm cả hoạt hình và truyện khoa học viễn tưởng. Tôi thích xem phim trên vô tuyến khi có thời gian.
Chương trình TV nào Ngài thích nhất?
Đức Karmapa: Tôi đã rất thích xem Chiến tranh giữa các vì sao.
Điều gì cuốn hút người phương Tây đến với Phật giáo?
Đức Karmapa: Họ sống gấp gáp và đang tìm kiếm sự an bình trong tâm hồn. Họ hướng về Phật giáo để làm tâm hồn dịu lại. Bằng cách thực hành pháp dưới truyền thống Karma Kagyu, họ tìm thấy bình yên. Thiền định giúp họ có cái nhìn rõ ràng hơn đối với cuộc sống.
Vấn đề lớn nhất mà con người phải đối mặt hiện nay là gì?
Đức Karmapa: Con người đang phải chịu nhiều đau khổ trên khắp thế giới. Có quá nhiều bạo lực, mỗi ngày trôi qua điều đó càng nhiều thêm.
Phật giáo hướng đến điều đó như thế nào?
Đức Karmapa: Những người thực hành Phật Pháp biết cách để nhắm đến điều đó. Nhưng cách mà mọi thứ diễn ra, ta nên thực hành pháp chăm chỉ hơn. Điều này tốt cho cơ thể và tâm hồn của ta. Thiền định sẽ cho bạn một lực đẩy mạnh mẽ. Phật giáo có những sự khác biệt ở các quốc gia. Những người thực hành Phật pháp ở những nơi khác nhau sẽ hiểu nó theo những cách khác nhau. Và mỗi người sẽ lấy từ đó những gì mình muốn, và hiểu bằng một cách phù hợp với mỗi người.
Tất cả những thứ đó có phải thật sự là những giáo pháp nguyên bản của Đức Phật không?
Đức Karmapa: Đúng, giáo Pháp và đích đến đều giống nhau. Chỉ có những con đường là khác nhau.
Một ngày bình thường của Ngài như thế nào?
Đức Karmapa: Tôi dậy lúc 6.30 sáng và bắt đầu một ngày bằng việc thiền định. Từ 8 đến 11 giờ, đó là thời gian để đọc kinh tiếng Tạng, triết học, Pháp, những lời dạy của Phật và những môn như toán học, lịch sử và địa lý.
Đức Simpa Dorje từ Varanasi dạy tôi Pháp, triết học và lịch sử của Phật giáo. Tôi phải luyện viết và học cách giảng Pháp nữa. Tôi gặp gỡ những người đến thăm từ 11 đến 13 giờ và ăn trưa. Từ 13 đến 15 giờ, tôi làm bài tập về nhà, và ngồi thiền trong một giờ. Tôi nghỉ giải lao 1 tiếng rưỡi từ 5 giờ chiều, sau đó tôi làm lễ puja ngắn. Trước khi đi ngủ tôi lại ngồi thiền.
Khi nào Ngài có thời gian dành cho TV và phim?
Đức Karmapa: Bất cứ khi nào tôi có thời gian rảnh rỗi, phần lớn là cuối tuần.
Ngài có giữ liên lạc với gia đình không?
Đức Karmapa: Có. Họ sống ở Ấn Độ. Tôi gặp họ khi tôi ở Delhi. Khi tôi gặp họ, tôi là con trai của họ, không phải là Karmapa.
Ngài có đi nhiều không?
Đức Karmapa: Có. Tôi đã từng đến Đài Loan, Singapore, Malaysia, Pháp, Tây Ban Nha và Đức. Tôi thích du lịch, nhưng bây giờ tôi phải hoàn thành việc học của mình.
Ngài có thông điệp gì với Phật tử không ạ?
Đức Karmapa: Hãy tiếp tục sự thực hành của mình, theo những lời Phật dạy và làm nhiều việc thiện.
Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/...view_k17_1.htm
Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên.
Một cuộc phỏng vấn với Pháp Vương Karmapa thứ mười bảy Thaye Dorje
Menlo Park, California, USA, tháng 9/2003
Đạo Phật ngày nay: Thật là một niềm vinh hạnh lớn cho chúng con được tiếp chuyện Ngài trong chính chuyến thăm đầu tiên này của Ngài đến Hoa Kỳ. Ấn tượng của Ngài đối với nước Mỹ và người Mỹ ra sao?
Đức Karmapa: Ở Mỹ mọi thứ đều rất lớn… Tôi đã thấy những đại lộ lớn, xe hơi lớn, và cả những người cao lớn nữa (cười). Nhưng nói chung, mọi người đều có một tâm hồn mở, đó là điều rất quan trọng trong Phật pháp. Từ khi tôi còn rất nhỏ, ở Tây Tạng, tôi đã luôn luôn muốn đi du lịch. Cơ hội được nhìn thấy nhiều nơi khác luôn làm tôi rất hứng thú. Khi tôi đến châu Âu, hay bất kì nơi nào khác, đó là những trải nghiệm học hỏi của tôi, và ở đây cũng vậy. Mặc dù tôi đã ở một chỗ trong hai tháng rồi, nhưng tôi vẫn học được rất nhiều. Và tất cả những điều đó đều là những trải nghiệm tuyệt vời.
Những điểm cốt lõi của Phật giáo là gì?
Đức Karmapa: Phật giáo không phải là tôn giáo hay một môn triết học. Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình. Dựa trên những phương pháp của Phật giáo, ta có thể nhận ra bản thể của vạn vật. Người ta có thể nói rằng mình nhận ra bản chất tâm của anh ta, vì tâm ta tạo nên thế giới luân hồi này. Vì lý do đó, cái tâm là rất quan trọng, nhưng mặt khác, người ta có thể nói một cách đơn giản là “bản thể của mọi vật”. Bất kỳ điều gì ta nhìn thấy, cảm thấy hay sáng tạo nên, đạo Phật hiểu được bản chất của chúng. Phật giáo chỉ là một phương pháp. Nó không dựa trên những điều mà ai đó nói hoặc dựa vào số mệnh; nó có nền tảng là sự thật. Khi sử dụng phương pháp này, chúng ta tiến gần hơn đến sự thật, chúng ta không chỉ dùng giáo pháp mà còn tất cả những tài nguyên khác, tất cả những tri thức mà ta có thể tích lũy được từ thế giới này mà không bám chấp vào bất kỳ điều gì trong đó.
Bồ đề tâm (tâm Bồ tát) khớp với điều gì?
Đức Karmapa: Đối với chúng ta, những hành giả Karma Kagyu, những người theo con đường Đại thừa và Kim Cương thừa, bồ đề tâm rất quan trọng. Bồ đề tâm làm mọi thứ trở nên rất khác biệt. Tất cả mọi điều ta làm, dù chúng ta vẫn nghĩ về bản thân mình, nhưng ta nên chú ý đến việc làm lợi lạc cho những người khác. Điều này rất quan trọng trong Phật giáo Mật thừa.
Cả Đại thừa và Kim cương thừa đều cần đến Bồ đề tâm.
Con đường Đại thừa mở rộng và sáng rõ hơn, nhưng nó dùng nhiều sách vở và theo đó là những sự hướng dẫn.
Kim Cương thừa dùng nhiều phương tiện trực tiếp hơn, điều đó nguy hiểm và đầy cám dỗ. Chúng ta đi thẳng đến giai đoạn cuối cùng, và từ đó cố gắng nhìn lại và thấy tại sao ta lại đến được đó.
Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa sẽ làm việc đầu tiên là gieo một hạt giống, sau đó tưới nước và thêm một ít đất, và sau đó nó sẽ ra quả. Hai phương pháp này sử dụng một cách tiếp cận có hệ thống. Trong Kim Cương thừa, chúng ta cố gắng kết hợp việc gieo hạt với quả của chính nó. Ta cố gắng mang chúng lại gần nhau hơn và sử dụng những cách hoàn toàn có thể để hái quả ngay trong vài ngày.
Vậy là ta đạt được mục đích như là một điểm bắt đầu.
Đức Karmapa: Đúng vậy. Đó là cách ta sử dụng những phương tiện thiện xảo nhất.
Điều đó giống như dùng thêm phân bón và sử dụng kỹ thuật di truyền học.
Đức Karmapa: (cười)
Ngài có thể giải thích rõ hơn về Bồ đề tâm?
Đức Karmapa: Boddhicitta là một từ tiếng Phạn. Ở Tây Tạng chúng tôi sử dụng thuật ngữ monpa sem khyed và jukpa sem khyed. Sem có nghĩa là tâm và khyed có nghĩa là phát ra, để phát Bồ đề tâm cả trong tâm tưởng và trong thực tế. Monpa sem khyed là sự thực hành phát tâm bồ đề trong tâm tưởng, và jukpa sem khyed là tâm bồ đề thực hành.
Điều đầu tiên là người ta phải thấy được cõi luân hồi này là đau khổ, và sau đó thấy được những chúng sinh hữu tình đang bị đắm chìm trong đau khổ đó. Dựa vào nền tảng của sự hiểu ấy, ta phát triển một nguyện để xóa bỏ đau khổ và thay vào đó là mang đến hạnh phúc. Ở Tây Tạng chúng tôi gọi đó là jampa và nyinje. Jampa nghĩa là mang đến hạnh phúc, và nyinje là mang đi đau khổ. Điều này khá cơ bản và đơn giản. Tôi nghĩ rằng thuật ngữ Tiếng Anh của nó là “yêu thương” (jampa) và “từ bi” (nyinje).
Để mang lại hạnh phúc lâu dài không có nghĩa là làm các công việc từ thiện mà chính là việc dạy giáo Pháp và giúp chúng sinh hiểu được ý nghĩa của Pháp, làm thế nào để dùng và để thực hành Pháp. Bồ đề tâm trong tâm và trong thực hành đều rất cần thiết.
Bồ đề tâm rất quan trọng khi nó trở thành hành động thuộc về Pháp. Chúng ta giúp đỡ những người khác cũng như giúp chính mình. Bằng việc làm lợi lạc cho người khác chúng ta tích lũy được nhiều trí tuệ, và bằng việc giúp chính bản thân mình chúng ta sẽ trở nên có khả năng giúp người khác nhiều hơn. Cả hai cách đó đều rất hữu ích.
Bồ đề tâm trong thực hành chính xác là điều gì?
Đức Karmapa: Mong muốn hoặc bồ đề tâm có chủ ý là một nguyện gắn bó để đạt được trạng thái của giác ngộ, trong khi đó bồ đề tâm tích cực là sự gắn bó thực sự với con đường giác ngộ. Bồ đề tâm tích cực là dũng khí. Điều đó không phải là chỉ ước muốn và để nó bay đi, mà phải là đưa nó vào hành động, nắm trong tay từng hoàn cảnh và đưa vào thực hành. Bồ đề tâm tích cực bao gồm Sáu Ba la mật.
Ví dụ, khi Ngài giảng pháp hoặc truyền quán đỉnh, hoặc có ai đó xây dựng một Thiền tự Phật giáo, đó là Bồ đề tâm tích cực?
Đức Karmapa: Bồ đề tâm tích cực là sự kết hợp của cả chủ ý và hành động. Nếu không có sự chủ định, chúng ta có thể làm được gì? Khi xây dựng một tự viện, giảng pháp hay quán đỉnh, hoặc thậm chí khi ngồi thiền, ta cần có chủ đích để giúp những người khác, có phải như vậy không?
Ngài là người đứng đầu dòng truyền thừa Karma Kagyu. Dòng truyền thừa Karma Kagyu là gì?
Đức Karmapa: Ka trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là tất cả những sự chỉ dẫn, và gyu có nghĩa là sự truyền giao được chuyển lại từ những bậc thượng sư giác ngộ đời trước đến đời sau. Sự trao truyền trong sạch, tinh khiết và không lỗi lầm. Dòng truyền thừa Karma Kagyu bắt nguồn từ Ngài Tilopa và Ngài Naropa. Ngài Tilopa đã nhận được sự trao truyền trực tiếp từ Đức Kim Cương Trì và từ những bậc thầy giác ngộ trên khắp bốn phương Ấn Độ. Sự trao truyền ấy đi qua các Ngài Marpa, Milarepa và đến Ngài Gampopa. Ngài Gampopa đã truyền pháp cho ba đệ tử chính của Ngài, đặc biệt là Ngài Karmapa đầu tiên Dusum Kyenpa. Họ đã từng gọi Ngài Karmapa đầu tiên là “Khampa Use”. Khampa là một vùng ở phía đông Ấn Độ, và Use có nghĩa là tóc bạc.
Dòng Kamtsang Kagyu của chúng tôi bắt đầu từ Ngài Karmapa đầu tiên. Pháp thực hành chính của dòng là Sáu Pháp Du già của Naropa và Đại thủ ấn. Đại thủ ấn (Mahamudra) là thuật ngữ tiếng Phạn chúng tôi sử dụng trong dòng Kagyu. Trong tiếng Tây Tạng đó là Chag Gya Chenpo, và đó là những giáo pháp đặc biệt của dòng truyền thừa của chúng tôi trong việc thiền định thẳng trên bản thể của tâm. Tất nhiên có những thuật ngữ khác để chỉ Đại thủ ấn trong dòng Nyingmapa và Gelugpa, như là Tawa Chenpo, Uma Chenpo và Dzogpa Chenpo.
Đâu là sự khác biệt giữa Đại thủ ấn (Mahamudra) và Đại toàn thiện (Dzogchen)?
Đức Karmapa: Đây chỉ là hai phương cách khác nhau. Có những cách tiếp cận khác nhau dành cho những người khác nhau, chỉ cần cách đó phù hợp với họ. Điều cuối cùng, vấn đề không phải ở chỗ ta dùng con đường nào để đạt được chứng ngộ. Kết quả luôn luôn là giống nhau. Điều đó giống như khi nói, “Giờ tôi sẽ đi đến Frankfurt, và tôi có thể đến đó bằng máy bay của hãng Lufthansa hoặc hãng United”
Ở Trung tâm hành pháp Kim Cương này, pháp thực hành chính là Guru Yoga của Ngài Karmapa thứ mười sáu. Ngài có thể giải thích về sự lợi lạc của pháp thực hành này?
Đức Karmapa: Đầu tiên chúng ta cần hiểu ý nghĩa của Guru Yoga. Guru Yoga là sự thực hành với chính bậc thầy của mình. Bình thường, người ta có thể quán tưởng một vị bản tôn hiền hòa hoặc phẫn nộ, nhưng lý do để thực tập Guru Yoga đó là, bậc thầy cũng là con người, như chúng ta. Bằng cách đó, chúng ta có thể dễ dàng hơn để có mối liên kết với bậc thượng sư, chúng ta có thể có sự liên hệ tốt hơn và mạnh mẽ hơn. Trong thực tế, nếu không có bậc thầy, ta không bao giờ biết đến Pháp. Bậc thượng sư là người dẫn đường tốt nhất, con đường tốt nhất. Cả việc thực hành bản tôn và Guru Yoga đều rất cần thiết, nhưng lý do Guru Yoga trở nên quan trọng như vậy là bởi vì nếu không có bậc thầy thì chúng ta thậm chí còn không biết đến các vị bản tôn. Bậc thượng sư là người đã cho ta thấy mọi thứ. Chúng ta học mọi phẩm hạnh của Người và sử dụng chúng để đạt được đến mức độ tương đương của sự chứng ngộ.
Khi chúng ta nghĩ về một bậc thượng sư, vị ấy cũng là con người như chúng ta, ta có thể dễ dàng có mối liên kết với bậc thầy và đạt được điều gì đó. Vì vậy khi ta thực hành Guru Yoga, sự gia trì mà ta nhận được thậm chí sẽ còn lớn hơn, đơn giản bởi vì tâm chúng ta rộng mở hơn. Mặt khác, chúng ta có thể thực hành Guru Yoga với một tảng đá. Điều đó là giống nhau. Nhưng với một bậc thầy chúng ta cảm thấy tin tưởng hơn.
Một mặt khác, chúng ta không nên nghĩ rằng bậc thượng sư chỉ là một con người, nhưng phải quán đến những phẩm hạnh của Ngài. Những phẩm hạnh ấy là Ba ngôi báu, và bậc thượng sư có cả ba điều đó. Giống như Đức Phật, vị ấy không chỉ đơn giản là một người bình thường mà còn là người đã chỉ cho ta con đường đi đến giải thoát. Thứ hai, Ngài sở hữu và biết về Pháp, và thứ ba, Ngài là người giúp đỡ ta trên con đường của mình, và đó là Tăng đoàn. Nếu bạn nghĩ rằng Guru Yoga chỉ đơn thuần là thực hành trên phần thân của bậc thượng sư, thì đó sẽ là cội nguồn của đau khổ luân hồi. Thân người không có gì là bền vững; nó chỉ gồm thịt và xương.
Thông qua Guru Yoga, bậc thầy sẽ cho ta khả năng để hiểu được trạng thái cuối cùng, miếng ghép cuối cùng làm cho mọi thứ trong sáng rõ ràng như pha lê. Bậc thượng sư có khả năng đó.
Pháp thực hành Guru Yoga dường như là một pháp thực hành thuận tiện hơn nhiều cho cuộc sống ngày nay, hơn là, ví dụ, Sáu pháp du già của Naropa?
Đức Karmapa: Mỗi phần của sự tập Phật pháp đều cần thiết. Bất kỳ phần thực hành nào mà bạn làm đều quan trọng và tất cả chúng đều rất hiệu quả. Nếu bạn cảm thấy tin tưởng hơn, và phần nào phù hợp hơn với bạn, bạn sẽ đạt được kết quả nhanh hơn. Đó là vấn đề pháp nào là phù hợp nhất với mỗi cá nhân, với hoàn cảnh, với thời gian của người đó, và cả phù hợp về văn hóa.
Chúng ta có thể đạt được sự chứng ngộ của những bậc thượng sư vĩ đại mà không cần quá trình nhập thất lâu dài và những pháp thực hành như Sáu pháp du già của Naropa không?
Đức Karmapa: Khi ta nói về Sáu pháp du già của Naropa, chúng ta nghĩ đến rất nhiều điều mình phải làm, và điều đó giống như một gánh nặng to lớn. Và sau đó ta nghe thấy rằng người ta chỉ cần đơn giản là thực hành Guru Yoga, cũng có thể đạt được kết quả tương tự. Người ta nói, “À, Guru Yoga rất ngắn, và tôi có thể làm được”. Nhưng dần dần ta sẽ hiểu được những tính chất đặc biệt của phương pháp Sáu pháp du già của Naropa, ví dụ phép Phowa [Chuyển di thần thức: ND], rằng nếu không thực hành pháp này ta không thể đi sâu vào trong cũng như không thể thật sự chứng ngộ được sự thật trong khoảng thời gian ngắn như vậy. Do đó có những lúc ta muốn thực hành Sáu pháp du già; điều này sẽ trở thành một điều cần thiết. Thông qua pháp Guru Yoga, ta sẽ tiến đến gần hơn và nhận được những phần nhỏ của Sáu pháp du già. Ta sẽ được nếm trải một phần của pháp ấy nhưng không phải là trải nghiệm hoàn toàn.
Ngài có thể nói một vài điều về sức mạnh của chú không? Những lợi lạc khi sử dụng câu chú Karmapa Chenno?
Đức Karmapa: Chúng tôi sử dụng câu chú Karmapa Chenno trong phần tu tập Guru Yoga với Ngài Karmapa thứ mười sáu để tiến gần đến với mức độ chứng ngộ của Ngài. Trong tiếng Tây Tạng, Karma nghĩa là hoạt động, Pa là người thể hiện những việc làm đó. Karmapa chỉ đơn giản là con người của hành động. Vì vậy, kể cả câu chú cũng là một dạng của Guru Yoga.
Chỉ đọc một câu chú cũng là Guru Yoga?
Đức Karmapa: Nếu chỉ nói như vậy thì có thể không chính xác lắm, nhưng hãy nghĩ đến ý nghĩa của điều đó. Khi ta nhắc lại câu chú, ta tiến gần hơn đến bản thể của Karmapa, ta cầu thỉnh thân, khẩu, ý của Ngài. Những chữ này chứa đựng bản thể của Ngài trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ta có thể nói một cách đơn giản rằng Karmapa, hay tất cả những vị thượng sư mà ta thực hành Guru Yoga với Ngài, đều là hiện thân của Tam Bảo.
Khi tụng câu chú sáu âm của Ngài Chenrezig (Bồ Tát Quan Âm), Om Mani Peme Hung, ta mở rộng tâm hồn của mình đối với những phẩm hạnh vĩnh cửu của Ngài. Khi Ngài có lời nguyện Bồ tát và bắt đầu những hạnh nguyện ấy, Ngài đã có những lời nguyện rất mạnh mẽ rằng tất cả những ai trì tụng câu chú sẽ nhận được ân phước gia trì của Ngài. Với câu chú Karmapa Chenno cũng như vậy.
Mỗi vị Karmapa đều tuyên bố bản thân mình là Karmapa, và Ngài đã làm điều tương tự khi Ngài còn là một đứa trẻ?
Đức Karmapa: Đúng vậy, tôi nghĩ hồi đó tôi còn rất nhỏ .
Ngài có thể nói rằng đó là một niềm tin vững chắc không?
Đức Karmapa: Có, và tôi có một cảm giác mạnh mẽ rằng tôi có thể làm được một điều gì đó tốt lành, đơn giản rằng, tôi có thể thực hiện những Pháp sự và có thể chấp nhận những thách thức của việc giảng dạy giáo lý. Tôi có một niềm tin tưởng lớn lao. Vào thời điểm đó, tôi còn rất nhỏ và tôi không biết chính xác rằng cảm giác đó có nghĩa là gì. Điều đó rất kỳ lạ, và tôi chỉ bắt đầu hiểu được nó khi tôi sáu hay bảy tuổi. Thông qua sự thực hành, giờ tôi có thể nói rằng tôi có thể thực hiện được bất kỳ điều gì mà Ngài Karmapa đời trước đã làm, và tôi có khả năng để làm điều đó. Đó là những gì tôi cảm thấy. Bằng cách đó, vâng, tôi có thể nói rằng tôi là Karmapa. Karmapa chỉ đơn giản có nghĩa là người của hành động.
Ngài rất tự tin rằng mình có thể đảm đương được nhiệm vụ của Karmapa?
Đức Karmapa: Đúng, mặt khác tôi chỉ là một trong những người được mọi người xác nhận là Karmapa. Việc chỉ nói rằng “Tôi là Karmapa” là không đủ. Để công nhận là Karmapa, người ra cần phải chứng minh. Điều đó mất rất nhiều công sức và thiền định cường độ cao về phía người có trách nhiệm đi tìm Ngài.
Trong trường hợp này là Ngài Shamar Rinpoche?
Đức Karmapa: Đúng vậy, đó là Shamar Rinpoche với sự giúp đỡ của những vị thầy khác.
Giờ Ngài đang ở trong môi trường hoàn toàn khác biệt so với Tây Tạng. Ngài có nhớ nơi mình đã lớn lên không? Ngài có cảm giác về việc mình có thể sẽ quay lại nơi đó không?
Đức Karmapa: Ai biết được, tôi có thể sẽ ung dung quay trở lại nơi ấy vào một ngày nào đó. Tôi đã dành phần lớn tuổi thơ của mình ở Lhasa, nhưng tôi không nhớ nơi đó nhiều như thế này. Điều mà tôi nhớ là sự yên tĩnh ở miền đông Tây Tạng, những đồng cỏ, những dãy núi và thiên nhiên.
Ngài có nghĩ rằng Phật giáo ở Tây Tạng đang suy tàn?
Đức Karmapa: Không hoàn toàn. Rất nhiều vị thầy vẫn đang ở đó, và có rất nhiều người đang làm Pháp sự. Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử, giáo lý bắt nguồn từ Ấn Độ, và sau đó được mang đến Tây Tạng, sau đó là Trung Quốc, châu Âu và nhiều nơi nữa. Ở Ấn Độ, vẫn còn nhiều vết tích của Phật giáo còn lại. Đó chắc chắn là một nền tảng vững chắc của Tây Tạng. Vào thời điểm nào đó, Phật giáo ở đây có thể sẽ lại trở nên hưng thịnh .
Cha của Ngài là một bậc thượng sư của Nyingma. Ngài có thể chia sẻ rằng ông đã có ảnh hưởng thế nào đến Ngài khi Ngài là một đứa trẻ?
Đức Karmapa: Cha tôi có ảnh hưởng rất lớn đến tôi. Tôi nghĩ rằng tôi có ông ấy như một người cha, và cũng là một người mẹ, đã cho tôi cách tiếp cận dễ dàng hơn đối với Pháp. Đặc biệt bởi vì cha tôi là một thượng sư của Nyingma, một Rinpoche, trí tuệ về Pháp của ông rất uyên thâm. Tôi đã học được nhiều hơn và nhanh hơn những đứa trẻ bình thường.
Ông ấy có dạy Ngài thiền định không?
Đức Karmapa: Không, không hẳn là thiền định. Ông ấy đã dạy tôi cách viết và cách đọc. Hồi đó tôi không có một gia sư nào. Tôi không đến trường bởi cha mẹ tôi nghĩ việc đó là không an toàn. Từ khi tôi còn rất nhỏ, bằng cách này hay cách khác họ đã biết được phần nào về việc tôi là ai. Vậy nên cha tôi và bác tôi đã dạy tôi mọi thứ.
Ngài đã chọn cách học tập ở nhà?
Đức Karmapa: Đúng, tôi đã rất may mắn. Thời điểm tôi rời Tây Tạng, tôi đã biết khá nhiều thứ. Tất nhiên, tôi không có máy vi tính, nhưng tôi đã nhớ rất nhiều bài đọc.
Hiện tại ai là giảng sư chính của Ngài, và Ngài có thể nói đôi điều về những vị ấy được không?
Đức Karmapa: Mỗi vị thầy đều có riêng những phẩm hạnh đặc biệt, và tôi là người rất may mắn khi có được rất nhiều bậc thầy chỉ dạy. Tôi đã nhận được sự gia trì của các Ngài Shamar Rinpoche, Chobje Rinpoche, Ludhing Khenchen Rinpoche, Beru Khyentse Rinpoche, Khen Trinley Paljur Thri Rinpoche, và Ngài Peba Tulku. Ngài Topga Rinpoche, Sempa Dorje và Khenpo Chodrak đã dạy tôi triết học Phật giáo. Thỉnh thoảng tôi dành vài tháng để nhập thất thiền định. Điều đó là khá quan trọng bởi chỉ có kiến thức là không đủ, mà ta cần phải có trải nghiệm về nó.
Ngài đã tiếp nhận giáo dục của phương Tây từ đâu?
Đức Karmapa: Tôi không đến bất kỳ một trường học nào, nhưng tôi đã học được rất nhiều từ những thầy giáo người Anh của tôi trước đây. Tôi học tiếng Anh từ một vài người, trong đó có Mark Tschelischeff, một người Mỹ, Lucy, một cô gái ở Đại sứ quán New Zealand ở New Delhi, giáo sư Sprigg, một người Scot với giọng Anh, và Shona và Stewart Jarvis từ nước Úc.
Giờ đây, người ta có thể học được rất nhiều thứ với sự trợ giúp từ những công nghệ hiện đại như Internet. Dù tôi đã học được khá nhiều, nhưng đó vẫn là chưa đủ. Tôi phải học nữa, tri thức trên thế giới này là không có giới hạn. Đó là một quá trình đang diễn ra, và không có kết thúc nào cả.
Ngài có thể nói về lễ quán đỉnh gần đây nhất về Mật điển của Ngài Marpa mà Ngài đã nhận được từ Ludhing Khenchen Rinpoche không? Tại sao những Mật điển này được coi là quý giá đến như vậy?
Đức Karmapa: Shamar Rinpoche có đề nghị Ludhing Khenchen Rinpoche một vài lần về việc tiếp tục những quán đỉnh này, nhưng rất khó để tìm được thời gian để làm việc đó ở Ấn Độ bởi Ngài Ludhing Khenchen Rinpoche đã có rất nhiều Pháp sự ở đó. Khi Ngài có thời gian đến Seattle, chúng tôi đã nghĩ rằng đây thật là cơ hội hoàn hảo để nhận những quán đỉnh quan trọng này ở đây, ở nước Mỹ. Đó là những giáo lý ẩn giấu, đã không được giảng dạy trong dòng truyền thừa của chúng tôi trong hai thế kỷ. May mắn thay, những giáo lý đó đã được thực hành trong dòng Sakya, và đây đúng là một cơ hội vàng để lấy lại. Tôi đã nhận được hai mươi hai pháp quán đỉnh trong số đó, còn lại một vài pháp mà do thời gian chúng tôi chưa thể giải quyết được. Chỉ riêng việc truyền 22 pháp này đã tốn nhiều năng lượng của Rinpoche. Ngài đã phải thực hành mỗi ngày sáu giờ để chuẩn bị cho mỗi phần quán đỉnh, và hai giờ nữa để truyền pháp. Những quán đỉnh dài hơn thì mất hai ngày.
Tại sao việc tiếp tục những Mật điển này lại quan trọng như vậy?
Đức Karmapa: Việc bảo tồn được số lượng lớn những phương pháp đa dạng là rất quan trọng. Chúng đều có bản chất giống nhau nhưng có những tính chất khác nhau. Để truyền quán đỉnh này cho cộng đồng, ta phải nhận được khẩu truyền và truyền Pháp, và đạt được những chứng ngộ nhất định. Luôn luôn phải có những người có thời gian để thực hành, chứng thực và truyền tiếp nó.
Ngài có nghĩ rằng ngày nay có những đệ tử có thể có khả năng thực hành những Mật điển đó không?
Đức Karmapa: Tôi sẽ nói là có, mọi người đều có thể làm được điều đó. Chúng ta phải sử dụng điều đó, chứ không chỉ là giữ gìn nó cho tương lai.
Nhưng thực tế, điều đó là có thể không?
Đức Karmapa: Mỗi người phải có thời điểm và thời gian để làm được việc đó. Điều đó cũng giống như khi ta nói mọi người đều có Phật tính. Ví dụ, có rất nhiều loại quả trong vườn, nhưng ta chỉ có thể ăn được khi chúng chín. Nếu ta ăn trước, chúng sẽ rất đắng và khó mà tiêu hóa được.
Vậy điều này phụ thuộc vào cá nhân mỗi hành giả, dù người ấy có sẵn sàng cho điều đó hay không?
Đức Karmapa: Đúng vậy, kể cả khi người đệ tử chưa sẵn sàng, nhưng người thầy sẽ cố gắng tạo nên những điều kiện tích cực cho họ để thực hành Pháp. Đó là lý do tại sao chúng ta có những trung tâm thực hành Pháp.
Là Ngài Karmapa thứ 17, Ngài nghĩ thế nào về những Pháp sự của mình?
Đức Karmapa: Phía trước vẫn còn là con đường dài, và có rất nhiều khó khăn. Tôi đang đi bước đầu tiên, và tôi nghĩ rằng việc này sẽ rất thú vị.
Việc thực hiện nghi lễ Mũ Đen có quan trọng đối với Ngài Karmapa không?
Đức Karmapa: Điều đó là quan trọng. Đó là truyền thống được gìn giữ từ Ngài Karmapa thứ mười sáu, nhưng chỉ là truyền thống, không hơn. Đối với tôi điều đó không quan trọng lắm. Chúng ta có thể tổ chức lễ đó, nhưng nếu chúng ta không làm, thì cũng không phải là sự khác biệt lớn.
Ta nói rằng Mũ Đen là biểu tượng của những hoạt động của Karmapa, và đó là sự thật ở thời điểm đó. Hiện tại, khi chọn đúng thời điểm, kể cả một chiếc mũ bóng chày cũng có thể khai sáng được cho ai đó. Nó giống như một cái tay nắm để mở cửa.
Có rất nhiều kiểu thực hành trong dòng truyền thừa Kagyu, điều này đôi khi dẫn đến sự phân chia trong Tăng đoàn. Là người đứng đầu của dòng truyền thừa, Ngài có nghĩ vai trò của mình là người hợp nhất và thống nhất các nhóm, hay sẽ đón nhận sự phân chia các nhóm và những hành giả ấy và coi đó là một điều tự nhiên?
Đức Karmapa: Việc có một số ranh giới nhỏ là một điều tự nhiên. Vào thời điểm Đức Phật nói giáo Pháp, chỉ có một cách hiểu những giáo lý ấy của Ngài. Khi Ngài viên tịch, ngày càng nhiều phương pháp mới xuất hiện. Những cách khác nhau của sự tu tập là rất tốt nếu chúng có hiệu quả và hữu dụng với mọi người. Tuy nhiên, nếu những sự chia cắt xuất hiện và những khó khăn đến, ta nên giải quyết chúng. Và cũng nên đòi hỏi việc đổi mới cách dạy. Ý tưởng này không phải là mang đến một điều gì mới, mà dùng những cách diễn đạt khác trong khi vẫn giữ gìn bản chất của chúng.
Điều gì làm phương cách Kim Cương thừa trở thành duy nhất?
Đức Karmapa: Tôi có thể nói rằng đây không phải là một câu hỏi thích đáng. Bạn cũng có thể tìm thấy những điều độc đáo ở tất cả những phương pháp thực hành Phật pháp khác nữa.
Kim Cương thừa là một phương pháp rất hiện đại, đặc biệt hiệu quả cho người phương Tây, và chúng tôi đã nhìn thấy những kết quả tốt ở đó. Ví dụ, ở châu Âu có rất nhiều hành giả, rất nhiều trung tâm, và nhiều người không chỉ đi theo mà còn rất hiểu, điều đó là quan trọng nhất. Bằng cách đó, Kim Cương thừa trở nên rất hữu ích trong thời hiện đại này. Nó có thể phù hợp hơn với cách sống của phương Tây, vậy nên bằng cách đó nó trở nên độc đáo.
Sự phát triển ở châu Âu phụ thuộc phần lớn vào những hoạt động của Lama Ole Nydahl. Ngài nghĩ rằng tại sao Ngài ấy lại có khả năng đạt được những thành tựu như vậy?
Đức Karmapa: Tôi nghĩ rằng Ngài ấy là một tấm gương tốt cho tất cả mọi người. Bạn có thể thấy rằng một cá nhân có thể thành tựu đến mức nào. Trước khi Ngài ấy trở thành Phật tử, đã từng rất ngông cuồng. Nhưng một khi đã chạm được vào bản tính Phật của mình, ta thậm chí có thể dời được cả núi.
Tôi có thể hỏi Ngài một câu hỏi riêng tư không? Ngài có thấy khó khăn khi lúc nào cũng là tâm điểm chú ý của mọi người không?
Đức Karmapa: Bằng cách nào đó tôi đã trở nên quen với việc ấy. (cười) Đôi khi nó có thể hơi bất tiện, nhưng trong văn hóa ở một số nơi, đó là cách để thể hiện sự kính trọng, và nó được thực hiện với ý nghĩa tốt đẹp nhất. Ở Mỹ hoặc Bắc Âu, việc này dễ dàng và thoải mái hơn.
Cách nào là cách tốt nhất để gọi Ngài? Những đệ tử của Ngài có nên gọi Ngài là Pháp Vương không?
Đức Karmapa: Tôi không phiền vì nếu người ta dùng bất kỳ tên nào. Karmapa cũng tốt, tên đó đơn giản. Tôi nghĩ rằng tôi thích một cái tên hơn là một danh hiệu.
Thế còn việc đỉnh lễ trước một bậc thượng sư?
Đức Karmapa: Đỉnh lễ là một cách chào đón tùy vào từng hoàn cảnh. Ở châu Á, đó là một phần của văn hóa. Ở phương Tây, đôi khi việc đó trông hơi bất tiện và ta có thể bỏ qua. Đối với bản thân tôi, mỗi khi tôi nhận được quán đỉnh, đỉnh lễ là việc phải làm. Trong đúng hoàn cảnh, đó là dấu hiệu của lòng thành kính. Ta không nên làm việc đó mà không có lý do. Làm bất kỳ điều gì trong Phật pháp, chúng ta cũng nên làm với một sự hiểu biết đúng đắn.
Ngài nghĩ thế nào về tương lai của dòng truyền thừa Karma Kagyu?
Đức Karmapa: Tương lai rất tốt đẹp. (mỉm cười) Trong dòng truyền thừa của chúng tôi, có rất nhiều người có hứng thú với Pháp, họ không chỉ đơn giản là đi theo mà còn có sự hiểu biết trí tuệ. Đó là nền tảng tốt cho sự phát triển xa hơn.
Xin cảm ơn Ngài rất nhiều.
Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/..._k17-usa_1.htm
Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên
Ngài có thể nói một vài điều về sức mạnh của chú không? Những lợi lạc khi sử dụng câu chú Karmapa Chenno?
Đức Karmapa: Chúng tôi sử dụng câu chú Karmapa Chenno trong phần tu tập Guru Yoga với Ngài Karmapa thứ mười sáu để tiến gần đến với mức độ chứng ngộ của Ngài. Trong tiếng Tây Tạng, Karma nghĩa là hoạt động, Pa là người thể hiện những việc làm đó. Karmapa chỉ đơn giản là con người của hành động. Vì vậy, kể cả câu chú cũng là một dạng của Guru Yoga.
Chỉ đọc một câu chú cũng là Guru Yoga?
Đức Karmapa: Nếu chỉ nói như vậy thì có thể không chính xác lắm, nhưng hãy nghĩ đến ý nghĩa của điều đó. Khi ta nhắc lại câu chú, ta tiến gần hơn đến bản thể của Karmapa, ta cầu thỉnh thân, khẩu, ý của Ngài. Những chữ này chứa đựng bản thể của Ngài trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ta có thể nói một cách đơn giản rằng Karmapa, hay tất cả những vị thượng sư mà ta thực hành Guru Yoga với Ngài, đều là hiện thân của Tam Bảo.
Khi tụng câu chú sáu âm của Ngài Chenrezig (Bồ Tát Quan Âm), Om Mani Peme Hung, ta mở rộng tâm hồn của mình đối với những phẩm hạnh vĩnh cửu của Ngài. Khi Ngài có lời nguyện Bồ tát và bắt đầu những hạnh nguyện ấy, Ngài đã có những lời nguyện rất mạnh mẽ rằng tất cả những ai trì tụng câu chú sẽ nhận được ân phước gia trì của Ngài. Với câu chú Karmapa Chenno cũng như vậy.
( http://hoavouu.com/a21763/mot-cuoc-p...17-thaye-dorje )
http://s1.upanh123.com/2016/12/21/gy..._16th9aecc.jpg
Pháp thân của Đức Karmapa 16
( http://zerokun.com/?p=841 )
http://www.dharmawheel.net/viewtopic.php?t=10969
( http://www.dharmawheel.net/viewtopic.php?t=10969 )
==============
http://i945.photobucket.com/albums/a.../DSC063511.jpg
2 Bàn Tay của Đức Karmapa 17 lúc 10 tuổi.
( http://thegioivohinh.com/diendan/sho...A9c-Karmapa-17 )
Ngài Lama Zopa Rinpoche hướng dẫn niệm Phật để trị bệnh Ung Thư!
( http://omahhung108.blogspot.com/2015...niem.html#more )
Lama Zopa Rinpoche, nhà lãnh đạo tinh thần cho mạng lưới toàn cầu các Trung tâm Phật giáo và hoạt động thiện nguyện Hội Bảo tồn truyền thống đại thừa,
Ngài Lama Zopa Rinpoche
Có một sinh viên người Australia được chẩn đoán là bị ung thư. Cô đang cầu nguyện theo nghi thức của Phật giáo và trì tụng thần chú White Tara. Bạn bè của cô đã viết thư cho ngài Lama Zopa Rinpoche, nhờ ngài hướng dẫn cách thức cầu nguyện và các phương pháp tu tập. Sau đây là nội dung lời khuyên từ ngài Lama Zopa Rinpoche.
Andrea thân mến,
Con mang trong mình căn bệnh này là một sự tịnh hoá vĩ đại, không chỉ cho bản thân con mà còn cho vô số chúng sanh trong địa ngục, trong ngạ quỷ, súc sanh, trong loài người, loài trời và a-tu-la.
Con nên trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, càng nhiều càng tốt, cùng với sự quán chiếu mạnh mẽ về lòng từ bi và ánh sáng của Đức Phật.
Bên cạnh đó, con nên trì tụng thần chú Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), quán chiếu rằng, Bồ-tát Kim Cang Tát Đảo sẽ làm cho mọi thứ được thanh tịnh, như là bệnh tật, các thế lực nguy hại, nghiệp bất thiện và những chướng ngại được tiêu trừ. Với thần chú Hum Om Vajrasattva, quán chiếu rằng cơ thể của con nằm trong bản chất của ánh sáng, và ánh sáng từ trong cơ thể thiêng liêng của Bồ-tát chiếu ra làm thanh tịnh cơ thể của con. Hãy quán chiếu theo cách này để thanh lọc thân tâm.
Đồng thời, con nên phóng sanh các loài động vật, như cá, chim… Nếu thực hiện việc phóng sanh này ở Kathmandu, Nepal thì rất tốt, vì tại đấy con có thể đưa các sinh vật ấy nhiễu quanh tháp Swayambhunath và tháp Boudha, rồi sau đó thả chúng trở về với môi trường tự nhiên. Nếu không thì hãy phóng sanh theo sự hướng dẫn của thầy: Con có thể làm lễ phóng sanh tại trung tâm tu tập của mình, với nhiều vật thiêng liêng ở trên bàn. Bưng các sinh vật nhiễu quanh bàn, chú nguyện vào trong nước rồi rải nước lên các sinh vật, sau đó đem thả chúng.
Nếu con có thể thọ lãnh và hành trì Bát quan trai giới thì rất là tốt. Bát quan trai giới tạo ra động lực để đạt được giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Tám giới ấy cũng chính là nhân tố tạo ra sự giải thoát, giác ngộ và hạnh phúc cho hiện tại lẫn tương lai; và đấy cũng là nhân tố để cứu vớt tất cả chúng sanh từ biển luân hồi đau khổ, giải thoát cho họ khỏi đại dương sinh tử. Hành trì giới luật có thể làm được tất cả những điều đó!
Con có thể dùng thuốc rinchen tsundru DHA shel (moon crystal) và rinchen tang cho của y học Tây Tạng. Đây là loại thuốc đã được sử dụng hàng ngàn năm nay. Nó được làm từ những viên ngọc quý, tinh khiết và vô hại. Thuốc này được sản xuất ở Tây Tạng và có xuất khẩu ra nước ngoài. Theo quan sát của thầy thì những loại thuốc này rất công hiệu. Có thể uống 8 viên moon crystal và mười viên tang cho, một tuần uống moon crystal và tuần tới uống tang cho, xen kẽ như thế. Hiệu quả rất tốt. Con nên sớm sử dụng loại thuốc đó. Phải luôn có sự nghỉ ngơi giữa hai hoặc ba ngày uống thuốc. Con có thể lấy thuốc đó tạiAustralia, nếu không thì con có thể gửi email cho cô Holly và cô ấy sẽ sắp xếp để gửi thuốc cho con.
Điều tốt nhất là sự chín muồi của nghiệp bất thiện có thể được sử dụng cho niềm hạnh phúc, không chỉ cho hạnh phúc trong đời này mà cho cả đời sau, giải thoát khỏi vòng luân hồi và được giác ngộ. Nó có thể được sử dụng cho sự giác ngộ tối hậu. Trên thực tế thì điều đó khó diễn ra, nhưng nếu chúng ta có thể trải nghiệm nó với tâm bồ-đề, nó sẽ trở thành nhân tố của sự giác ngộ và giải thoát cho vô lượng chúng sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, trời và a-tu-la thoát khỏi sanh tử luân hồi. Nó đem đến hạnh phúc lớn lao nhất và trở nên ý nghĩa nhất.
Không có gì vĩ đai hơn khi chịu thay căn bệnh này đối cho tất cả chúng sinh với tâm bồ-đề – không chỉ cho gia đình của mình mà còn đối với vô số chúng sinh – nhằm giúp họ được hạnh phúc, đưa họ đến với sự giác ngộ. Hãy tâm niệm rằng, con đã nhận tất cả khổ đau của chúng sinh và những nghiệp bất thiện, bao gồm cả bệnh ung thư, thay cho vô số chúng sinh đang đau khổ và sẽ chết. Vì vậy, bằng việc nhận lãnh những đau khổ của chúng sanh, bao gồm cả bệnh ung thư của họ, con sẽ nhận được tất cả các lợi ích như đã đề cập ở trên, cộng với tất cả phần còn lại của những đau khổ và nguyên nhân của chúng. Lợi ích sẽ lớn hơn, lớn hơn vô số lần. Con sẽ trải nghiệm những hạt nhân của sự giác ngộ và sẽ tạo ra điều này cho vô số chúng sinh.
Vì vậy, mỗi ngày, mỗi giờ, càng nhiều càng tốt, hãy tâm niệm như thế. Nếu trước đây con đã từng phát nguyện nhận tất cả những khổ đau và những nguyên nhân khổ đau của tất cả chúng sanh, ban tặng tất cả niềm hạnh phúc và phước đức của bản thân đến tất cả chúng sanh, thì hãy nghĩ rằng: “Bây giờ tôi đạt được thành công lớn nhất, bằng cách thọ nhận những đau khổ của chúng sinh và tôi đang chịu đau khổ thay cho tất cả chúng sinh”. Hãy cố gắng dũng cảm để suy nghĩ theo cách này, càng nhiều càng tốt.
Giúp cho vô số chúng sinh trong mỗi quốc độ có hạnh phúc vô song của sự giác ngộ, không còn đau khổ, là điều thực sự làm cho cuộc sống của con có ý nghĩa. Mỗi khi con nghĩ đến điều đó thì sẽ giúp con tịnh hóa những nghiệp tiêu cực từ vô thỉ kiếp, không chỉ giới hạn trong một vài kiếp sống. Nhờ đó mà căn bệnh ung thư và nguyên nhân của nó được tịnh hóa dần, và mỗi lần tư duy như thế là con đang gieo vô số hạt nhân của sự giác ngộ. Nếu con nhận lấy khổ đau do bệnh ung thư của một chúng sinh hoặc tất cả sự đau khổ của một chúng sinh, đấy là những hạt nhân để đạt được giác ngộ, hạnh phúc vô song, và là thành công lớn nhất vượt lên trên tất cả những thành công của cuộc sống.
Tại vì có vô số chúng sinh trong địa ngục, ngạ quỷ và những chúng sanh trong không trung, cho nên tạo ra bảy loại trong vô số hạt nhân đưa đến sự giác ngộ. Việc nhận lãnh bệnh ung thư của một người tạo một hạt nhân của sự giác ngộ, nhận lãnh nhiều đau khổ của một chúng sinh thì tạo ra rất nhiều hạt nhân cho sự giác ngộ. Cho nên điều đó rất là tuyệt vời và hạnh phúc nhất.
Do vậy, ngay cả khi chúng ta qua đời thì không thể nào bị thác sanh vào các cõi thấp hơn. Thay vào đó, chúng ta sẽ được tái sinh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, và theo ngài Kyabje Trijang Rinpoche, chúng ta có thể đạt được giác ngộ. Hoặc là ở trong cảnh giới Shambala và Heruka thanh tịnh, chúng ta có thể được giác ngộ. Ít nhất, chúng ta sẽ được sự tái sinh ở cảnh giới cao hơn, hoặc tái sinh làm một người hoàn hảo, gặp gỡ những người bạn có đạo đức, thực hành giáo pháp, sống một cuộc sống an lạc và hạnh phúc hơn nhiều.
Ngài Geshe Chekawa, tác giả của cuốn sách Bảy điểm huấn luyện tâm, luôn phát nguyện được tái sinh trong địa ngục để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Khi ngài sắp viên tịch tại nơi ẩn dật của mình, ngài nhìn thấy các cõi tịnh độ và ngài nói với vị tu sĩ trẻ bên cạnh rằng: “Tôi đã không đạt được những điều mong ước của mình vì tôi được tái sinh trong một cõi tịnh độ. Tôi đã không thành công!”. Ngài cảm thấy sự hối tiếc này như là tâm dũng mãnh của một vị Bồ-tát. Đó không phải là một lời giả dối, vì ngài thực sự muốn được tái sinh trong địa ngục.
Thầy dừng lại ở đây. Thầy hy vọng con hiểu lá thư của thầy. Hãy viết thư cho thầy, để thầy có thể hiểu những điều đang diễn ra với con.
Với tình yêu thương rộng lớn nhất và những lời cầu nguyện,
Lama Zopa Rinpoche.
Con có thể dùng thuốc rinchen tsundru DHA shel (moon crystal) và rinchen tang cho của y học Tây Tạng. Đây là loại thuốc đã được sử dụng hàng ngàn năm nay. Nó được làm từ những viên ngọc quý, tinh khiết và vô hại. Thuốc này được sản xuất ở Tây Tạng và có xuất khẩu ra nước ngoài. Theo quan sát của thầy thì những loại thuốc này rất công hiệu. Có thể uống 8 viên moon crystal và mười viên tang cho, một tuần uống moon crystal và tuần tới uống tang cho, xen kẽ như thế. Hiệu quả rất tốt. Con nên sớm sử dụng loại thuốc đó. Phải luôn có sự nghỉ ngơi giữa hai hoặc ba ngày uống thuốc. Con có thể lấy thuốc đó tạiAustralia, nếu không thì con có thể gửi email cho cô Holly và cô ấy sẽ sắp xếp để gửi thuốc cho con.
( http://omahhung108.blogspot.com/2015...niem.html#more )
http://s1.upanh123.com/2016/12/21/co...rblogdfb7d.jpg
His Holiness 16th Karmapa, consecrating KTD.
( http://the17thkarmapa.blogspot.com/2...reword-to.html )
https://www.youtube.com/watch?v=dIsMXcIirR8
HT làm Lễ An Vị Phật
( http://quangduc.com/p153a59547/video...o-duong-moscow )