GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU + THẤT CHÂN NHÂN QUẢ
Mấy kỳ trước huynh Qin có nhắc về ''giải mã truyện Tây Du Ký'', hôm nay tôi đã đọc và thấy bản này của Lê Anh Dũng đầy đủ và rất hay nên up file lên.
Và một truyện nữa là ''Thất chân nhân quả'' gương sáng của tám vị thầy trò, Thất chân còn dạy ta nhiều bài giáo pháp về tu chơn, tịnh luyện của Tiên gia,
Thất chân nhân quả là 1 kỳ thư mà người tu học không thể thiếu.
Giải mã truyện tây du link :
http://www.mediafire.com/view/?6rcqnzszlcai0e6
Thất chân nhân quả link :
http://www.mediafire.com/view/?4pb0gk4zodlybuk
__________________
__________________
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT CỦA THIỀN ĐỊNH !
Kính gởi đến các bạn bài viết của Ông Hồ Trung Tú (Blogger),
Vui lòng đọc để biết thêm đôi điều mà khoa học đang tìm cách giải mã về Thiền của Nhà Phật .
Mong các bạn chịu khó đọc vì khá dài ,nhưng dể hiểu .
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT CỦA THIỀN ĐỊNH
[21/02/2006 - Khoa Vật lý - ĐHSPHN]
Chưa bao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lại được các phương tiện thông tin đại chúng , các hãng truyền thông lớn , đề cập đến nhiều như thời gian vừa qua.
Các hãng tin như AP , Reuter ( được các báo điện tử Việt Nam như VN Express trích đưa lại) , các báo như News Week, Time ( được báo Lao động trích dịch ngày 10.8.2003) ... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ , qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các Thiền sư , đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố vào hôm thứ tư (May 21, 2003) rằng:
" Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".
Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. 7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian.
Bằng cách "tắt" thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở thành một".
Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu có thể chế phục được nhân hạnh đào (amygdale), một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá ra rằng những thiền sư cao cấp khó bị chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổi giận như những người thường khác.
Tuyến thượng thận, mơi tiết ra Adrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các trường hợp sợ hãi, hoảng hốt gần như được các Thiền sư khống chế hoàn toàn. Ông tuyên bố trong một báo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New Scientist) rằng:
" Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu cầu" .
Các nhà khoa học đều tin chắc rằng Thiền định hoàn toàn có khả năng "rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc.
Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể chữa được được các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và đã có trường hợp thay thế cho Viagra !
Những điều này thật ra không phải quá cường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng đều xuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thể khỏe mạnh.
Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đã biết và dựa trên các kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng ta thấy; bộ não con con người có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh qua những đường dẫn truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinh khác.
Điều này dễ để hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khối lượng thông tin khổng lồ của bộ não.
Thế nhưng điều này cũng cho chúng ta hiểu câu nói mà nhà Phật hay nói
" Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi".
Một tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra như trong phản ứng hạt nhân ! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hình thành .
Các bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trong chừng đó thời gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều !
Thường là không ít hơn 10 chuyện nghĩ khác nhau ! Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng ta sử dụng bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuối một cách chẳng để làm gì .
Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏe mạnh.
Ở người bị bệnh tâm thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có một nhưng họ không thể dừng nó lại được , nó cứ phát triển một cách bùng nổ và đến mức độ nào đó thì người bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩ đều trở thành thật, và chúng ta gọi họ bị bịnh điên.
Những người trong trạng thái stress, cũng không dứt ra được các tình cảm mà họ rơi vào.
Điều này kéo dài sẽ đưa đến những hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể.
Có người thì bị tim mạch, người thì đau dạ dày, người thì mất ngủ, suy nhược thần kinh, cơ thể...
Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biết rằng các ý nghĩ là không có thật và không nên theo.
Chúng ta đều biết dừng lại sau khi "chạy" theo nó một đoạn. Điều này tuy bình thường nhưng các thiền sư thì bảo đó là vọng tưởng.
Cách gọi này không phải là không có lý ở góc độ vô bổ , vô nghĩa.
Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm không cho nó khởi lên ngay từ gốc.
Có phương pháp thì hướng sự tập trung suy nghĩ vào chuyện khác như đếm hơi thở, theo dõi cơ thể trên từng centimét vuông một, hoặc theo dõi một cách khách quan suy nghĩ của mình không lơi lỏng, nghĩ cái gì là biết mình đang nghĩ cái đó ; có phương pháp thì tập trung suy nghĩ vào một công án, tức một câu hỏi gần như không có lời đáp, ví dụ khuôn mặt ta khi cha mẹ chưa sinh ra là gì ;
có phương pháp thì tập trung vào chuyện ngồi và biết mình đang ngồi, có phương pháp như của Thầy Nhất Hạnh ở Pháp thì luôn nhẩm
" Hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười";
có phương pháp như của thầy Thanh Từ ở chùa Trúc Lâm Đà Lạt thì
"Biết vọng không theo" , gọi tắt là Tri vọng ;
có phương pháp thì niệm chú hoặc nhún nhảy nhẹ nhàng theo một vũ điệu nào đó...
Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạt động của bộ não con người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sự rỗng không.
Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùng khó. Theo bản năng, bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khi đang ngủ.
Trong kinh Phật chúng ta đọc thấy câu
" Chư Phật ngủ không mơ bao giờ !".
Điều này cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạt động khác của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến.
Nhà Thiền có câu chuyện như sau:
Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói:
" Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có ?".
Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có .
Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn:
" Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này".
Quy Sơn bảo:
" Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta".
Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất.
Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc.
Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt.
Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà cóï.
Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo:
" Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này".
Cũng như công án âm thanh của một bàn tay, công án "Ta từ đâu mà có" nếu xét về mặt kiến giải thì có thể xếp vào loại nhận thức một quy luật của tự nhiên.
Triết học hiện đại gọi đó là quy luật vận động, vật chất là luôn vận động, vận động là một thuộc tính của vật chất.
Triết học hiện đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộc tính của vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm.
Triết học phương đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm như vậy, các khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con người có thể mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quy luật có tính toàn vũ trụ .
Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cái quy luật được chứng đắc ấy.
Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuối cùng luôn là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ơí Phật giáo đó là giác ngộ , là Niết Bàn.
Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạt muối thả vào biển.
Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách.
Chúng ta hãy thử giả định rằng chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông với nhiều phép thần thông tuyệt diệu,
tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thể nhìn qua núi non biển cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hào quang,
tinh thần thông suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóa làm gì cũng có thể hiểu được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống trà với ổng mà không một chút e ngại .v.v... thì,
lúc ấy, cơ thể ta sẽ như thế nào ? Bởi vì các phép thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vì cái đời sống tinh thần ấy hầu như không thể hiểu được, không thể kiểm chứng, không thể xác nhận nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác là xem lúc ấy cơ thể ta sẽ như thế nào.
Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều rằng nó sẽ không giống với cái cơ thể ta trước đó. Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều là ta sẽ chẳng có bệnh tật gì cả. Thật vô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết áp, lớn tim, ho lao hoặc ung thư.
Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp tính như gãy xương, ruột thừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà Đức Thế Tôn đã mắc phải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh đến trong suốt. Bệnh gì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như huyết áp, tim mạch, stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy nhược, đau khớp, đái đường... sẽ không bao giờ mắc phải.
Người đã mắc phải, thì nếu giác ngộ xong bệnh này cũng sẽ biến mất. Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnh trên xuất hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có.
Người giác ngộ thế nào không biết chứ chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa.
Cuộc sống của họ là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây, từng phút, thì hỏi làm sao huyết áp tăng cho được ? Bệnh huyết áp là bệnh tây y bảo không chữa được.
Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng với những gì biết được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ không bao giờ tăng huyết áp.
Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này. Và kể từ đó ta sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không bao giờ mộng mị.
Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghe Phật cũng bảo rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ.
Không có bất cứ một giấc mơ nào dầu tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủ người giác ngộ .
Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băng trôi; cái phần lớn nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìm dưới nước chưa được biết đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy này chúng ta đã có thể tin rằng nó rất thật.
***
Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng người trong một chốc giác ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưa từng biết đến xảy ra trong cơ thể mình.
Nó rõ ràng như ngài Huệ Khả nói,
"Nó thường biết rõ ràng, ngôn từ nói không tới !".
Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói
"Ai dè...",
nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững, húc đầu vào cột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó.
Thiền sư Vô Môn Huệ Khai sau sáu năm miên mật , một ngày nọ khi nghe tiếng trống báo giờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ sau :
"Trời quang mây tạnh sấm dậy vang lừng. Mọi vật trên đất, mắt bỗng thấy hết. Muôn hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ. Núi Tu-di cũng nhảy múa vui mừng.
Sư được Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác biệt của mình trong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh như thế, sấm dậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là những cảm giác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn toàn không có một chút nào của tâm thức.
Nó không giống như Archimede hoặc Newton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai biến mạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.
Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ , niết bàn hay địa ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buông xả, ngã hay vô ngã, thế giới vật chất là thường hay vô thường ... nào có gì quan trọng ! Mỗi phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho.
Các phép thần thông cũng đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là một thần thông tuyệt diệu nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy tai ta sẽ nghe tất cả âm thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đến điệu nhạc disco inh tai nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lên đến âm thanh của các vì tinh tú xa xôi.
Năm 761 vua Túc Tông nhà Đường thỉnh Huệ Trung đến kinh đô phong làm Quốc sư.
Suốt trong lần yến kiến vua đã hỏi ông nhiều câu, tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần.
Vua giận mới bảo
" Trẫm là Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm ?" .
Huệ Trung trả lời
" Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng ?" .
" Có". "
Hư không có nháy mắt với bệ hạ không ?".
Cái tâm thế hoàn toàn không thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồng với vũ trụ, hòa với cỏ cây rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý học hiện đại hoàn toàn chưa biết đến.
Có thật vậy không, không biết , chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta.
Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ.
Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó.
Chúng ta , người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .
Tóm lại, nói chung , đó vẫn là chuyện .. như là chúng ta xem phim khủng long !
Tất cả dựa trên một ít "xương cốt" hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế nào, kêu rống thế nào thì chẳng ai biết.
Các nhà khoa học đang tìm cách tái sinh nó.
Giác ngộ cũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Như Lai xuất hiện mặc dầu tinh thần Phật giáo không xem điều đó làm trọng.
Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giá trị của mặt bên kia trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, không hoạt động nhưng lại vô cùng tỉnh thức.
Con người đã nghĩ ra hằng trăm phương pháp thể dục cho cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục cho tinh thần thì hầu như chưa ai nghĩ đến.
May sao con người đã có phương pháp thiền định từ hơn 2500 năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhận nhiều điều nhưng cuối cùng chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cực cho cuộc sống và văn minh nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.
Hồ Trung Tú
DÙNG PHÁP LUÂN THƯỜNG CHUYỄN XỮ LÝ CA CẤP TAI NẠN NGUY HIỄM !
Phải nói là :
"Thật tình cờ ,khi tôi vừa viết bài gởi cho "namotasa",rồi lang thang trên mạng ,ai ngờ gặp được bài này ,hay tuyệt vời dành cho các bạn đang tu tập PLVVKHHBPP,chính tôi phải thốt lên : Thật Không ngờ ! "
( Tôi hay gặp vấn đề này ,khi có được một ý tưởng nào mới ,thì sau đó lại được gặp một bài báo ,hay cuốn sách trong đó có nói đến vấn đề mà tôi đã suy nghĩ ,như bây giờ lại gặp được bài này ,thật là "Đồng Thanh Tương Ứng !",thật là lý thú )
Do vậy liền "copy" chuyễn đến cho các bạn cùng tu tập PLVVKHHBPP cùng xem để nhận thấy mình may mắn có được cái Pháp rất Khoa Học !
Mời các bạn xem.( Chuyện mới được kể lại cách vài tháng)
"Chủ nhật, 06 Tháng 1 2013 02:23
"...Các em và người thân trong gia đình tôi, có cả những Người già và một số khá đông thân hữu, nếu có tập, đều có kết quả như tôi hoặc vượt tôi.
Qua đó tôi xác minh được: Pháp lý Vô Vi là môn khoa học, mang tính nhân văn, nhân đạo & nhân bản.
Năm 1985 em tôi dạy học tại Chơn Thành. Em tôi (Giả Vô Hạnh) ngày trước đã bị sốt rét ác tính, tưởng đã phải bỏ mình trước sự tuyệt vọng của Mẹ tôi và người thân.
Tôi đã toàn tâm, toàn ý hướng dẫn và dìu dắt em đi qua chặng đường nguy khốn đó để hưởng trọn sự hạnh phúc thật sự của một người lấy lại được sự sống từ bàn tay nhám nhúa và công bằng của tử thần.
Sau em có viết lại kinh nghiệm dùng hơi thở vô cùng tận để chữa bệnh hiểm nghèo (bài số 15) trong cuốn Pháp Luân Thường Chuyển.
Năm 2001, em tôi về dạy học tại Sài gòn. Em gặp tai nạn xe cộ bị vỡ xương trán. Ở bệnh viện Chợ Rẫy, may mắn gặp được vị bác sĩ lại là học trò cũ của em.
Bác sĩ H. ngỏ ý, sẽ đích thân mời thầy dạy cho anh giỏi môn giải phẫu, đứng ra mổ giúp cho thầy giáo cũ là em tôi.
Hội đồng bác sĩ qui tụ lại chừng 15 người, cùng hội chẩn và căn cứ vào kết quả chụp ‘ Citi ’ và X – quang, Bác Sĩ Trưởng Khoa quyết định mổ gấp để tránh việc máu đông tụ lại trong các nẻo hóc, thần kinh, dắt đến việc mù mắt và nếu còn may mà sống được cũng sẽ trở thành người thực vật: chỉ biết nuốt và bài tiết mà sẽ không cảm giác nhận biết người thân.
Tôi hỏi:
"Thưa bác sĩ tại sao phải mổ ?"
Họ trả lời như cách tôi hiểu được qua bác sĩ H. bên trên.
Tôi nói:
"Nếu em tôi có thể đẩy máu bầm do vết thương vỡ xương trán và gây ra, thì có cần phải mổ không?"
Họ nói:
"Làm sao có việc đó được ! Từ khi làm bác sĩ đến nay, ông chưa bao giờ thấy có trường hợp như vậy."
Tôi nói trong sự tự tin:
"Xin cho chúng tôi thử."
Trước sự can thiệp của bác sĩ H., Bác sĩ trưởng khoa Giải phẫu chấn thương sọ não bệnh viện Chợ Rẫy đồng ý.
Tôi cầm 1 nắm bông gòn lớn đặt dưới mũi em, yêu cầu em:
Tập trung t. thần niệm Phật để vòng Nhâm Đốc mạch chạy.
(Khi mới tập thở, hơi còn yếu, muốn cho vòng Nhâm Đốc chạy hành giả phải thở một hồi (một thời gian mang tính kích hoạt, làm nóng bản thể) cho vòng Nhâm đốc khởi động, họat động.
Sau khi kích họat thì vòng nhâm đốc mới chuyển chạy tròn.
Còn khi đã đi qua ranh giới giới hạn của hơi thở, không còn lệ thuộc vào riêng cái hơi thở PLTC nữa, và bản thể đã có sợi dây từ khí, dòng nguyên điển ánh sáng của nguyên lý nam mô a di đà phật móc xích vào dây chuyền pháp lý rồi thì muốn khởi động vòng nhâm đốc hay bất cứ một việc nào chỉ cần máy động ý vào Nguyên ý Nam Mô A Di Đà Phật thì vòng nhâm đốc sẽ chạy..)
Khi vòng nhâm đốc chạy, tôi bảo em:
Hãy thở ra, chờ khi luồng điển chạy đến đỉnh đầu, rồi xuống trán, thì thay vì em cho luồng điển đi theo trật tự tự nhiên, thì em hướng dẫn luồng điển đem theo máu cho (di chuyển) chảy ra mũi, và cứ thế dòng máu bầm từ trán, chỗ xương vỡ, theo hơi thở chảy tràn, giọt xuống ướt đẫm nắm bông gòn.
Máu tiếp tục chảy, từng giọt lớn, liền liền, rồi từng giọt nhỏ, thưa thưa, khi hết máu bầm nơi vết thương thì chảy ra huyết thanh ( máu trắng).. rồi ngưng chảy.
( chỗ này vượt lên trên tự nhiên bằng chủ ý của mình)
Chắc bạn đang nghĩ : anh chàng này lại đi .. sai nữa rồi, phải không bạn, Tôi đang dẫn điển đấy ! thế mà tôi lại kể ra cho bạn nghe cái chỗ tôi đang thực hiện cái sai. Cái điều mà thiên hạ, nếu đã lỡ vi phạm phải lo dấu cho kỹ, dấu như mèo dấu c.. ấy chứ ! lỡ bạn đạo khác mà biết thì khó mà yên thân trong thời gian còn lại, còn ở lại trong pháp môn này.
Vậy vì sao mà tôi lại không ngại ?! bạn cũng đang nghĩ như vậy, chứ ?! _ Thực ra khi ở vào giới hạn này (thấp thôi), tùy theo trường hợp, có thể dẫn điển.
Vì sao ư ?
_ Khi mà tất cả các luân xa có thể cùng lúc xoay, xoay luân xa được cả 2 chiều: xuôi và ngược. Xuôi là xuôi thuận theo chiều kim đồng hồ và ngược là ngược chiều kim đồng hồ.
Hoặc muốn cho luân xa này quay, luân xa kia ngừng.. (mới tu thì không được dẫn điển, sau khi đã mở nhâm đốc và các mạch khác, thì tùy thời, khi cần có thể dẫn điển).
Luân xa có thể xoay cả 2 chiều, ánh sáng hào quang xuất hiện ra trên 84000 lỗ chân lông rồi, mở ra từ trường ảnh hưởng chung quanh.
Sống theo nguyên lý Nam Mô A Di Đà Phật, biết mình đang trả nghiệp, vui vẻ để giải tỏa nghiệp chướng, để hòan tất nợ nần, để đi lên, để giải thóat.
Tôi không hề có xen vào một chút nào lòng kiêu hãnh nơi đây, mà thuần túy chỉ là trình bày một khía cạnh về chân lý mà thôi ..}
Bác sĩ trưởng khoa GP. bệnh viện Chợ Rẫy nói :
“ Hay quá ! Chưa từng thấy, đem nẹp lại đây . . ”
Rồi đích thân ông băng lại vết thương trán của em tôi với cái nẹp gỗ.
Ông nói :
“ Truyền dịch, tăng Calci, bồi dưỡng để phát triển xương. Khỏi cần mổ ! ”.
Sau ông hỏi:
“ Anh làm cách gì mà hay vậy ? ! ”.
Tôi trả lời thế cho em tôi:
“ Chúng tôi rèn luyện hơi thở của một pháp thiền cho khai thông Nhâm Đốc nên làm được ”.
Ông nói:
“ Sau này anh có thể chỉ lại cho tôi biết với, có được không ? ”
Tôi nói:
“ Rất sẵn lòng ! Tôi sẽ quay lại ”.
Và trải thời gian ....
Sau 4 năm, nay ông đã trở thành bạn tu rốt ráo của chúng tôi ’."
Tâm Quảng
PHÁP LUÂN THƯỜNG CHUYỄN !
Các bạn thân mến ,
Pháp môn PLVVKHHBPP mà chúng ta đang tu tập ,nếu các bạn có được sự cố gắng ,kiên trì ( DŨNG) từ khi chấp nhận tu tập với Pháp này.
Với các bạn mới bắt đầu tu tập thì chịu khó tập Soi Hồn và Pháp Luân Chiếu Minh (PLCM)trong thời gian 3 đến 6 tháng ,cũng nên tập thêm phương cách Niệm LTDĐ ( nhớ cắn răng co lưởi suốt cả ngày vì rất có ích lợi cho về sau ).
Các bạn thực tập như vậy sẻ ổn định cho thân xác( Nhờ PLCM và SH) và tâm trí ( hay lao xao nên nhờ vào Niệm LTDĐ để làm chủ cái Ý) của mình để được ổn định ( Thân và Tâm ).
Thật ra,nhờ cái Niệm LTDĐ khi đi đến được giai đoạn "Nhất Niệm",thì khả năng của tập trung rất là mạnh từ đó do có được sự tập trung mà các bạn sẻ thấy việc thở PLCM của mình càng lúc càng sâu và nhẹ .
( Cả hai hổ trợ cho nhau trong việc tập trung của cái Ý)
Sự phối hợp đồng đều của Thân và Tâm sẻ giúp cho các bạn dể dàng khai thông được Nhâm và Đốc mạch .
( Đây là điều nói riêng với các bạn đã và đang tu tập Pháp môn này ,nếu các bạn không đã thông được Nhâm và Đốc mạch thì không cách gì các bạn bước vào được Nhập Định về sau này ! )
Trong Pháp môn này có một điều rất hay là khi các bạn vọng động mau có được cái này hoặc cái nọ ,thì sự tu tập ( Công phu ) hằng đêm của các bạn sẻ bị trì trệ ,bức rức khó chịu ngay tức thì cho việc công phu ,nhờ có vậy mà các bạn sẻ tự kiểm điễm lại chính mình sau buổi công phu đó ,nếu nó không mang lại kết quả tốt thì phải xét cả thân lẫn tâm đã làm gì mà gây trở ngại cho việc công phu !Nhờ đó mà mình tự sửa sai từ thân đến tâm trí mà để có được việc công phu có kết quả thấy thoải mái an lạc sau buổi công phu ,một sự hưng phấn tràn trề và hạnh phúc trong tâm hồn của mình ngay sau buổi công phu đó.
Đó là cái thước đo hằng đêm của mình để biết được mà tự mình sửa sai với chính mình ,rồi dần dần càng lúc càng sáng trí (nhờ SH + PLCM + Niệm) ra để hiểu biết với việc "giữ Giới".
Khi người càng ngày càng được nhẹ ( Tống Trược ,Lưu Thanh),thì hơi thở sẻ nhẹ ,sâu và dài hơn,cũng như ( có thể tùy cơ địa mỗi người ) sẻ tự chuyễn hóa theo yêu cầu của thân xác là "Bị" bắt buộc ăn chay ,vì lúc này người tu tập trở nên thanh nhẹ do vậy những thức ăn mặn sẻ có mùi vị không nuốt nỗi ,ngữi vào chỉ muốn ói ,muốn nôn ,nên sẻ "phải" ăn chay theo sự thay đỗi sinh lý của cơ thể yêu cầu !
Còn nếu như các bạn đã tự ăn chay thì khác ,như vậy sẻ giúp cho việc thanh lọc cơ thể nhanh hơn những người ăn mặn ,ăn chay chỉ là để cho cơ thể được thanh nhẹ trong việc tu tập mà thôi ,tùy hoàn cảnh cuộc sống mỗi người mà ăn chay hay mặn ,điều này không bắt buộc ,ngoại trừ khi cơ thể đòi hỏi như nói trên là coi như "Bị phải" ăn chay !
Khi cơ thể có những biến chuyễn sinh lý như vậy ,thì Tâm lý cũng được thay đỗi trong suy nghĩ rất nhiều ,vì càng lúc càng sáng trí hơn ,điềm tĩnh hơn ,đầu óc sẻ giải quyết công việc đến với mình nhanh hơn lúc xưa rất nhiều ,mà làm việc trong sự hiểu ,biết nhất là rất bình tĩnh xữ lý trong mọi tình huống khó khăn xãy đến cho mình hay cho gia đình .
Từ đó ,mình sẻ học trong việc hiểu trong cái hiểu ,biết trong cái biết ,thấy trong cái thấy mà điều này sẻ được gọi là "Nhanh trí" !
Thật ra trong mọi phương cách gọi là ngồi Thiền thật sự thì cũng sẻ gặt hái kết quả như thế này ,nhưng sẻ không nhanh bằng khi mình vận dụng thêm cách SH ,PLCM và nhất là Niệm ,để đưa đến việc ngồi Thiền của mình có được kết quả là An lạc ,Thanh nhẹ ,Hạnh phúc và Sáng suốt .
Thưa các bạn ,đó là một ít về kinh nghiệm trong việc tu tập PLVVKHHBPP mà tôi có được xin chia sẻ với các bạn trong Pháp môn này .Mong các bạn tinh tấn trên con đường tu tập .Thân ái .