-
Thỉnh dây chuyền Phật Bốn Mặt Thái Lan và Thần Voi Ý nghĩa và Linh thiêng
Home / Dịch vụ / Thỉnh dây chuyền Phật Bốn Mặt Thái Lan và Thần Voi Ý nghĩa và Linh thiêng
13
May,2017
20
Dây chuyền Phật Bốn Mặt Thái Lan
ByXăm Phép 5 Dòng Thái Lan
Thỉnh dây chuyền Phật Bốn Mặt Thái Lan và Thần Voi Ý nghĩa và Linh thiêng
Save
Share87
Ngoài dịch vụ Xăm Phép chúng tôi còn cung cấp dịch vụ thỉnh dây chuyền Phật Bốn Mặt Thái Lan và Thần Voi Ý nghĩa và Linh thiêng về Việt nam cho những bạn có nhu cầu và tin vào đức phật. Khi nhắc tới Thái Lan chắc chắn ai cũng biết 2 vị thần đáng kính là Thần Voi và Thần 4 mặt (hay còn gọi là thần Brahma – tượng trưng cho vị thần Sáng tạo). Với nhiều năm sinh sống, làm việc tại Thái Lan chúng tôi cam kết và đảm bảo uy tín, chất lượng và chính xác nhất về các sản phẩm và dịch vụ cung cấp cũng như giá thành tốt nhất tại Việt Nam.
Ý nghĩa của Phật Bốn Mặt và Thần Voi
Đất nước Thái Lan có đến 92% dân số theo đạo Phật, đi đến bất kỳ nơi đâu đều có thể bắt gặp được các ngôi chùa có thờ Phật. Tại Thái Lan, vị Phật được mọi người vô cùng tôn kính chính là Phật Bốn Mặt (Tứ Diện Thần). Người dân tin rằng vị Phật này sẽ mang lại cho họ sự thịnh vương, may mắn, sức khỏe và hạnh phúc.
Phật Bốn Mặt
Tứ Diện Thần có bốn khuôn mặt quay ra bốn hương khác nhau, với đầy đủ mắt tai mũi miệng. Ngài có tám cánh tay và bàn tay, ở mỗi tay Ngại cầm một pháp khí riêng biệt. Mỗi pháp khí thể hiện ý nghĩa khác nhau.
Tay cầm Lệnh Kỳ biểu hiện cho “Vạn Năng Pháp Lực”. Tay cầm Phật Kinh biểu hiện cho Trí Tuệ. Tay cầm Pháp Loa (Ốc Báu) biểu hiện cho Ban Phúc. Cầm Minh Luân (Bánh xe ánh sáng) biểu hiện cho thiêu hủy sự phiền não, cầm quyền trượng biểu hiện cho Thành Tựu tối thượng, cầm bình nước biểu tượng cho giải khát khao tức có cầu tất ứng; cầm Niệm Châu biểu hiện cho làm chủ Luân Hồi. Tay còn lại bắt ấn trước ngực biểu hiện cho sự che chở.
Theo nghi lễ thì mặt chính diện chính là biểu tượng cho Từ, sau đó thuận theo chiều kim đồng hồ là Bi, Hỷ và Xả. Toàn bộ tượng, bình hoa, vật trang trí đều có màu vàng biểu tượng của quyền lực và sự may mắn, sức khỏe.
Thần Voi
Vị thần thứ 2 là thần Voi Ganesha là một vị thần đáng kính , nhân dạng của thần kỳ dị, với đầu voi mình người. Thần Ganesha là tượng trưng của tài trí, hạnh phúc và thành công. Ngài là con của thần Shiva và nữ thần Parvati. Mọi người thường đeo dây chuyền có mặt thần Voi và thần 4 mặt để mong muốn được may mắn , thành công , phúc lành. Các nghệ nhân Thái Lan đã chế tác thành công với 3 phiên bản Vàng Thái , Bạc Thái và Kim lại đặc biệt
Truyền thuyết Thần Voi Ganesha
Theo truyền thuyết Ganesha là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati. Nữ thần Parvati luôn bị thần Shiva nhìn với con mắt thèm muốn nên nữ thần đã tìm cách tự bảo vệ mình. Do đó bà đã tạo ra thần Ganesha khi Shiva đang trên đường đi săn. Khi Shiva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì chúng được Ganesha che mất. Shiva rất tức tối và đã chặt đứt đầu Ganesha. Paravati cầu xin Shiva để Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới. Để Paravati không đau khổ, Shiva đã ra lệnh chặt đầu con vật đầu tiên thần nhìn thấy gắn làm đầu cho Ganesha. Và con vật ấy là một con voi.
Parvati người đã tạo nên hình hài của thần voi Ganesha (con trai của Shiva và Parvati) từ những phần nhơ nhuốc của cơ thể bà; sau này thần Ganesha đã được ban cho sự sống nhờ nước thánh của thần Ganga. Do đó, Ganesha được xem như có hai bà mẹ—Pārvati và Gangā, và cũng vì thế nên được gọi là Dvaimātura và Gāngeya (con trai của Ganga)
Một lần nọ, nữ thần Parvati trong khi tắm đã dùng đất có được do kì cọ trên cơ thể của mình tạo nên một cậu bé. Sau đó bà giao cho cậu bé này nhiệm vụ canh giữ phòng tắm của bà. Khi thần Shiva, chồng của nữ thần Parvati lúc đi ra ngoài trở về, đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một kẻ lạ hoắc không biết ở đâu tới đã ngang nhiên chận cửa không cho mình vào. Đùng đùng nổi giận, thần Shiva đã chặt đứt đầu cậu bé. Khi hay biết sự việc, nữ thần Parvati vô cùng buồn đau. Để an ủi vợ, thần Shiva bèn phái đội quân của ngài đi lấy đầu của bất cứ con vật nào mà họ gặp nếu con vật đó đang ngủ mà mặt quay về hướng bắc. Đội quân của thần đi tìm, thấy một con voi con đang ngủ thì chặt đầu mang về. Thần Shiva sau đó gắn đầu voi vào thân hình cậu bé, hồi sinh lại mạng sống và giao cho cậu nhiệm vụ lãnh đạo đội quân của mình. Cậu bé này do đó có tên là Ganesha (ganesah có nghĩa là người cai quản hay chúa tể của một nhóm). Và thần Shiva cũng ban cho cậu bé thêm một đặc ân, rằng dân chúng sẽ thờ phụng và đọc tên của cậu bé này trước khi thực hiện một công việc nguy khó. Đó là những gì được mô tả trong Shiva Purana.
Chuyện tâm linh về Phật Bốn Mặt
Đến Thái Lan chúng ta có thể được nghe kể về sự linh thiêng của vị Phật Bốn Mặt qua những câu chuyện tâm linh thần kỳ như :
Câu chuyện vào năm 1997, trong một vụ tai nạn máy bay TU rơi tại Phnom Penh hầu như tất cả mọi người trên máy bay đều bị chết nhưng chỉ duy nhất một em bé còn sống sót và không bị thương tích gì. Sau đó người ta phát hiện trên cổ em bé có đeo một bức tượng Phật Bốn Mặt được mẹ em thỉnh khi đến thăm chùa.
Quốc vương Thái đã nhận em bé này làm con nuôi.Trong vụ động đất và sóng thần tàn phá Phuket (miền Tây Thái Lan), một em bé con của nhân viên tòa đại sứ Tây Ban Nha đi du lịch, cũng bị sóng đánh quăng lên ngọn cây dừa, và đáng ngạc nhiên là em bé cũng không bị thương tích gì. Trên cổ em cũng đeo tượng Phật 4 mặt.
Một ông chủ người Đài Loan bị phá sản. Ông ta đến thuê một phòng khách sạn trên tầng cao, dự tính để đồng hồ reo đúng giờ đó sẽ nhảy lầu tự tử. Đêm ấy ông ta mơ thấy một ông thần 4 mặt đến gặp ông ta khuyên ông ta nên mua vé số như vầy, như vầy … Đêm ấy, cái đồng hồ reo cũng không reo chuông, nên ông ta ngủ quên đến sáng.
Tỉnh dậy, nhớ đến giấc mơ kỳ lạ đêm hôm, ông ta mua vé số, và trúng độc đắc rất lớn. Tin vào thần linh, ông ta bèn thỏa thuận mua lại nguyên tòa khách sạn ấy, trả giá gấp 4-5 lần nên chủ khách sạn đồng ý bán (tất nhiên chủ KS không biết câu chuyện của ông ta). Và ông Đài Loan này dành nguyên một tầng lầu nơi ông ta đã ngủ để thờ Ông Phật 4 mặt.
Giá cả và Cách thỉnh Thần Bốn Mặt Thái Lan và Thần Voi
Với công dụng mang lại sung túc tài lộc và hạnh phúc trong tìn cảm, vị thần được tôn sùng nhất được đúc kết lại trong mặt dây chuyền nhỏ gọn, được làm phép mạnh của các vị thầy .. giá thỉnh như sau :
Không xá lợi: 4 triệu
1 xá lợi: 8 triệu
2 xá lợi: 14 triệu
3 xá lợi: 20 triệu
9 xá lợi: 30 triệu
Chú ý:
Giá trên đã bao gồm chi phí công đi thỉnh và gởi chuyển phát nhanh về tận nhà
Giá trong hình là giá tại chùa tình theo tiền Baht , 1000 baht = 650k quy đổi theo tỉ giá
– Bạn ghi họ tên, năm sinh, địa chỉ, số điện thoại nghề nghiệp để ghép vào sử dụng
– Có bài khấn kèm theo, túi phép và dây phép kèm theo. Mọi chi tiết bình luận hoặc chat trên Zalo để được tư vấn và giải đáp cụ thể.
Các mẫu tham khảo
Chúng tôi minh họa một số mẫu dây chuyền phật bốn mặt Thái Lan để các bạn tiện tham khảo và biết được để lựa chọn.
http://xamphep.com/213/thinh-day-chu...nh-thieng.html
-
Tượng Phật Dược Sư Thế Kỷ 12 Được Tìm Thấy Tại Campuchia
Admin 18/08/2017 Tin Tức
Tượng Phật Dược Sư quý hiếm và vị thần canh giữ được các nhà khảo cổ tìm thấy tại một địa điểm nổi tiếng, Công viên Khảo Cổ Angkor của Campuchia. Họ đã tìm được các mảnh vỡ của Đức Phật Dược Sư và một bức tượng thần canh giữ cao 2 mét mà họ tin rằng chúng được tạo tác vào thế kỷ 12.
Thời gian khai quật kéo dài 13 ngày gần lối vào phía Bắc của Angkor Thom, các mẫu vật đã được gói lại hồi tuần trước. Đây được cho là một kho báu quý giá của một bệnh viện được xây dựng bởi vua Jayavarman VII (1181-1218). Cùng với các pho tượng quý hiếm, các nhà khảo cổ cũng khám phá ra các dấu vết của quá trình nấu chảy kim loại, mà có thể là để đúc các vật bằng đồng, cũng như các đồ sứ, ngói và đồ gốm Khmer và Trung Quốc.
Khu bảo tồn Angkor là một trong những khu khảo cổ quan trọng nhất ở Đông Nam Á với diện tích khoảng 400 km vuông ở tỉnh Siem Reap phía bắc Campuchia, chứa đựng phần còn lại của đế quốc Khmer vốn phát triển rất mạnh từ thế kỷ 9-15. Trong số những địa điểm nổi tiếng, đền Angkor Wat là di tích tôn giáo được biết đến nhiều nhất thế giới.
Là một di sản thế giới được UNESCO công nhận, Angkor Thom là thủ đô cuối cùng và lâu đời nhất của đế chế Khmer. Thành phố rất phức tạp với hàng trăm đền thờ là nơi cư ngụ của hơn một triệu người, làm cho nó trở thành một trong những trung tâm tôn giáo lớn nhất trong lịch sử. Các khu vực rộng lớn của công viên đã được khai quật qua nhiều thập kỷ, tạo ra một kỳ quan khảo cổ học thu hút hơn 2 triệu du khách mỗi năm.
Các nhà khảo cổ khai quật bức tượng được cho là thần hộ mệnh đứng canh giữ bệnh viện cổ.
Các nhà khảo cổ khai quật bức tượng được cho là thần hộ mệnh đứng canh giữ bệnh viện cổ. Ảnh theguardian.com
Các nhà nghiên cứu cho biết, viên đá sa thạch dài 2 mét được tìm thấy gần đây có thể miêu tả một vị thần canh giữ đứng trước cổng bệnh viện cổ.
Ông Tan Boun Suy, Phó Tổng giám đốc Cơ quan Apsara, cơ quan chính phủ quản lý Công viên Khảo Cổ Học Angkor, đang tiến hành cuộc khai quật cho biết.
“Triều đại Jayavarman VII thực sự quan tâm đến các chương trình xã hội. Bệnh viện bao gồm các tòa nhà bằng gỗ và một nhà cầu nguyện được dựng lên bằng đá. Những gì còn lại là nhà cầu nguyện, vì những cấu trúc bằng gỗ đã biến mất từ lâu.”
Được chôn chỉ 40 cm dưới mặt đất và nặng khoảng 200 kg, bức tượng bị mất cả hai bàn chân, với chân phải kết thúc ngay trước mắt cá chân và chân trái gần đáy đùi. Cả hai cánh tay bị mất ngay dưới vai. Tuy nhiên, cơ quan Apsara cho biết, cơ thể và đầu vẫn được bảo quản tốt. Im Sokrithy, người giám sát khoa học của khu vực cho rằng, nếu bức tượng này hoàn chỉnh thì nó có chiều cao tối thiểu 2,1 mét. Phát ngôn viên của Tổ chức Apsara, Long Kosal nói.
“Thần canh giữ là biểu tượng của sự bảo vệ. Những vị thần canh giữ thường đứng trước cửa đền hoặc những nơi cổ kính khác để bảo vệ.”
Người ta cũng tìm thấy tại cuộc khai quật là những mảnh vỡ của một vị Phật Dược Sư. Những văn bản ghi chép từ thời kỳ này cho thấy hình ảnh của một vị Phật Dược Sư đứng trong nhà cầu nguyện của bệnh viện Jayavarman VII, đây là ví dụ đầu tiên từng được tìm thấy để minh chứng cho điều đó.
Ông Tan Boun Suy cho biết: “Đây thực sự là một khám phá tuyệt vời”, ông nói thêm rằng bệnh viện này là một trong số 102 bệnh viện mà nhà vua thế kỷ 12 được cho là đã xây dựng trên toàn đế quốc của ông.
“Chúng tôi đã nhận ra Ngài vì một vật trong lòng bàn tay của ông ấy, nó có hình dạng tương tự như một toà tháp nhỏ”, Im Sokrithy nói về tượng Phật Dược Sư.
Các mảnh điêu khắc đã được tìm thấy ở khu vực đào. Ảnh cambodiadaily.com
Các mảnh điêu khắc đã được tìm thấy ở khu vực đào. Ảnh cambodiadaily.com
Tiến sĩ Rethy Chhem, một nhà chức trách về các bệnh viện và y học Angkor cho biết.
“Với khám phá này, cuối cùng chúng tôi đã chứng minh được rằng y học Phật giáo đã được thực hiện trong triều đại Jayavarman VII dưới sự ban phước của Đức Phật Dược Sư. Tôi đã nói rằng, chúng ta sẽ tìm được vàng nếu chúng ta tìm thấy tượng Phật”, ông nói thêm. “Đây là nó, chúng tôi đã tìm được vàng.”
Cơ quan Apsara, đã làm việc với các chuyên gia từ Học viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, cho biết các khám phá này sẽ được đưa vào triển lãm công cộng tại Bảo tàng Preah Norodom Sihanouk-Angkor gần đó.
Theo buddhistdoor.net
https://hoasenphat.com/tin-tuc-phat-...campuchia.html
-
"Thần dược" dong riềng đỏ cho người mắc bệnh tim mạch
Khánh Ngọc | 11/08/2015 10:32 AM
535
http://sohanews.mediacdn.vn/thumb_w/...9178841050.jpg
"Thần dược" dong riềng đỏ cho người mắc bệnh tim mạch
Dong riềng đỏ là cây thuốc mới chưa có trong Dược điển, đã được Bác sỹ Hoàng Sầm, người dân tộc Dao (Mán), hiện là Chủ tịch Hội đồng Viện Y học bản địa Việt Nam nghiên cứu từ năm 2002 đến nay.
"Thần dược" tráng dương có bề ngoài ghê sợ ông "chén" bà khen
Tỏi mọc mầm - 'thần dược' bảo vệ cơ thể
Sự thật về "thần dược" tỏi đen chữa được ung thư?
“Thần dược” gieo rắc hiểm họa
Gạo lứt không phải thần dược
Thoát chết nhờ một cây thuốc lạ
Những ngày cuối tháng 6, trong cái nắng sầm sập của miền Bắc, bác sĩ Hoàng Sầm vẫn cố gắng chăm sóc vườn giống cây dong riềng đỏ của mình. Với ông đây là một “kho báu” truyền lại cho bà con nhân dân.
Tâm sự về cơ duyên của mình với cây Dong riềng đỏ, bác sĩ Sầm kể lại: Vào những năm 1994, lúc đó khi ấy tôi tuổi còn đang trẻ, khao khát hiểu biết và cũng được tiếng chữa bệnh mát tay.
Một lần đi khám cho mẹ một người bạn ở xã Sỹ Bình huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn. Từ cơ quan là trường Đại học Y Bắc Thái – nơi tôi đang làm việc đến địa chỉ trên rất xa.
Khi về xã Sỹ Bình đèo heo hút gió, qua suối Pù Cà, chúng tôi tới nhà người bệnh thì trời đã tối. Tranh thủ trước khi ăn cơm tôi hỏi bệnh sử và quá trình mắc bệnh.
Được biết người bệnh mắc bệnh suy tim do hẹp động mạch vành, tuổi đã khá cao. Bà được chạy chữa ở bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên rồi xuống bệnh viện Bạch Mai nhưng bệnh thuyên giảm không đáng kể.
Khám thấy phù 2 chân, khó thở, đau thắt ngực nhiều, tim to, môi lưỡi nhợt nhạt, tiên lượng gần xa đều xấu. Tôi cũng dặn dò, động viên và kê đơn mà trong lòng khiên cưỡng bất an, phần thấy sở học của mình bất lực và thật khiêm tốn”.
Cây dong riềng đỏ.
Cây dong riềng đỏ.
Không cứu được người bệnh nhưng đồng bào Dao ở đó vẫn trân trọng và kính quý bác sĩ Sầm. Điều ấy càng khiến cho bác sĩ Sầm thấy day dứt.
Hình ảnh về ca bệnh cứ gặm nhấm ông và nhiều năm sau này ông vẫn tự hỏi tại sao mình lại không giúp được gì bà cụ. Đến năm 2002 trong một lần công tác ở Bắc Cạn, bác sĩ Sầm gặp lại người bạn năm xưa.
Nhớ lại lúc ấy, bác sĩ Cầm kể: "Tôi có chút ngại ngùng vì ngày trước đã không cứu được mẹ anh. Tôi nghĩ bà cụ chắc đã qua đời. Nhưng thật bất ngờ khi người bạn nói mẹ của anh ấy vẫn khỏe và hỏi thăm anh bác sỹ người Dao".
Hỏi ra bác sĩ Sầm mới biết, khi bà cụ thập tử nhất sinh có một ông lang già cũng người Dao cho 1 cây thuốc nam lá hơi giống lá dong, thân đỏ như mía dò, củ nhơn nhớt, tên tiếng Dao là cây Si mun.
Theo hướng dẫn, người nhà đem cây thuốc này nấu với tim lợn, ăn. Trong khoảng hơn 6 tháng, uống tới đâu nhẹ người tới đó và rồi bà dần dần khỏi, đi nương rẫy được.
Là bác sĩ nhưng bản thân bác sĩ Sầm cũng thấy điều đó thật là tuyệt vời, trên cả bất ngờ.
Bẵng đi một thời gian, vào năm 2003, bác sĩ Sầm dạy lớp Bác sỹ chuyên khoa cấp I gia đình. Lớp có 17 người, đều là những bác sỹ học trò cũ, tuổi trên dưới 40, thầy trò rất thân thiện vì chênh lệch tuổi không đáng kể.
Vào giờ giải lao Bác sỹ Nguyễn Quốc Vinh,Trưởng trạm y tế xã Tân Lập, huyện Đồng Hỷ, Hà Giang nói:
Thầy ạ, em có cây thuốc chữa mạch vành hay lắm, trước đây em đau thắt ngực liên tục, tháng nào cũng phải tới gặp bác sỹ chuyên khoa tim mạch ở Thái Nguyên, rồi Hà Nội.
Hai năm trời mà không sao khỏi được, may có ông lang Xướng ở xã Cao Ngạn có cho mấy liều thuốc nam mà nay em ổn định, hết đau ngực hoàn toàn.
Hỏi thêm mới biết đó là một loại củ nhơn nhớt, hơi giống củ dong riềng, ăn chẳng có mùi vị gì nhưng đem nấu với tim lợn cho người bệnh mạch vành ăn cả nước lẫn cái thì rất ổn”.
Bác sĩ Sầm chợt nhớ ra bài thuốc mà người bạn kia kể đã giúp bà cụ từ mức “viện trả về” vẫn qua khỏi và khỏe mạnh đi rẫy được.
Cảm giác về một thứ cây thuốc nhơn nhớt của ông Lang người Dao trên xã Sỹ Bình, Bắc Cạn cứ lấp lửng trong tâm trí của bác sĩ Sầm. Ông bèn tìm hiểu thêm.
http://soha.vn/song-khoe/than-duoc-d...1112110875.htm
-
11. Trì chú: "Liên Sinh Thượng Sư Phát Man chú" 108 biến.
"Om. lian-sheng. ta-rưa-li. soha"
https://vi-vn.facebook.com/chanphatm...dn0&__tn__=K-R
-
CÁCH TRÌ TÂM CHÚ CỦA PHÁP VƯƠNG LƯ THẮNG NGẠN
---------------------------------------------------------------
Phạn Ngữ: " Om Guru Lian Sheng Siddhi Hum "
Cách đọc: UM .... GULU LIÊN SANH SIT TI ... HUM
(UM & HUM khi trì phải có lực và được nhấn mạnh trong 2 câu này)
- Tuệ -
https://www.facebook.com/chanphatmat...type=2&theater
-
NĂM VỊ THẦN TÀI (NGŨ LỘ TÀI THẦN)
☯️ Triệu Công Minh là vị thần tài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong dân gian. Thần tài Triệu Công Minh cứu bệnh trừ tà và giúp thương nhân làm ăn phát đạt.
Trong dân gian thì ông thần tài được nhiều người van vái và thờ phụng tại nhà riêng, tiệm buôn bán, quán ăn nhà hàng, ở đâu cũng thấy bàn thờ thần tài. Có hai vị thần tài, một vị là quan văn một ông là quan võ. Vị thần tài văn quan tên là Bỉ Can, vị thần tài võ tướng là Triệu Công Minh.
Bỉ Can nguyên là chú của vua Trụ, vị hôn quân tàn ác nhất lịch sử Trung Quốc và là vị vua cuối cùng nhà Thương (1600-1027 trước công nguyên). Ông là một người tài đức, hết lời căn ngăn vua, nhưng không những vua Trụ không nghe mà còn đòi moi tim Bỉ Can ra xem vì vua nghe nói là tim người hiền có bẩy lỗ. Bĩ Can tự tay móc tim cho vua Trụ xem, nhưng ông không chết vì đã uống thuốc trường sinh bất tử. Ông chán nản bỏ đi, mang tài sản ra phân phát cho nhân dân. Nhân dân tôn làm thần tài, đời đời khói hương thờ phụng.
Thần tài Triệu Công Minh theo truyền thuyết là người đời nhà Tần, ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam, Thiểm Tây, Trung Quốc. Về sau đắc đạo, Triệu Công Minh coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà. Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cầu ông để làm ăn được phát đạt may mắn.
Triệu Công Minh là một Thần tài võ hay võ Thần tài, người ta thường vẽ hình ông là một người mặt đen, râu rậm, tay cầm kiếm Thần hoặc cầm Roi cưỡi cọp đen.
Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái. Người đời thường vẽ hình ông trên một cái dĩa làm bằng kim loại trên bàn thờ để thờ cúng.
Triệu Công Minh còn là Trung Lộ Tài Thần và ngày vía là ngày rằm tháng ba âm lịch hàng năm.
Trong Phong Thần Diễn Nghĩa thuật lại thì Khương Tử Nha phong cho Triệu Công Minh là Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân, là Nguyên Soái thống lãnh bốn vị tiên:
💢 Chiêu Bảo Thiên Tôn Tiêu Thăng
💢 Nạp Trân Thiên Tôn Tấn Bảo
💢Chiêu Tài Sứ Giả Đặng Cửu Công
💢 Lợi Thị Tiên Quan Diêu Thiểu Tư.
Những vị này luôn ban phước lộc và may mắn cho những người thương gia, kinh doanh buôn bán. Danh hiệu của bốn vị đem lại những điều tốt lành cho mọi người: Chiêu bảo ( gọi vật quí), Nạp trân ( thu vật báu), Chiêu tài ( gọi tiền về), Lợi thị ( buôn bán có lời). Từ đó, dân gian tôn bốn vị tiên này cộng thêm thần thủ lãnh Triệu Công Minh là năm người, và gọi là Ngũ Lộ Tài Thần.
Đến đời nhà Minh, ông Hứa Trọng Lâm có viết quyển sách, trong đó chính thức nêu lên Triệu Công Minh là Tài Thần giúp chiêu tài tấn bảo, giúp người thương gia buôn bán phát đạt, giàu có, được nhiều tài lộc.
Trong các vị thần tiên của Đạo giáo, Triệu Công Minh là âm thần, là một trong năm vị đại ôn thần, có khả năng điều khiển sấm chớp hô mưa gọi gió, tiêu tai trừ bệnh và chiêu tài tiến bảo.
Tài thần Triệu Công Minh từ xưa là thần tài chủ quản vàng bạc tiền tài, ban phúc lành và là một vị thần chân chính, được thờ cúng rộng rãi trong dân gian cho đến nay.
🍀💰🍀Mề đay Thần Tài như ý đá Ngọc Jadeit Jade Myanmar thiên nhiên. Đã kiểm định trung tâm đá quý Pnj.
☎️0937161616
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...f0&oe=5CCFD64F
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...ea&oe=5CC696FF
https://www.facebook.com/15405099840...4361423038791/
-
Full text of "Esoteric Buddhist Sutras" - Internet Archive
https://archive.org/stream/EsotericB...jusri_djvu.txt
Tirong An la: Phan Khiep An Chan Ngon la: om aksaya-matAye svAhA jna _ ...... SAMANTA-BUDDHANAM_ AJITA-YANA BHUTA-RUPINA_ OM SRI SVAHA Tam ...... vi do 16 dia due, sa-phoc ha 200 (DHURU VIDHURlYE SVAHA) Bat nap-ma ...... Hien Thanh Minh Virang (Asama-devI), Due Xung Minh Virang (Khyati-kan), ...
-
The Dharani of Sri Devi (Sanskrit) 大吉祥天女咒
Namo Sri Maha-Deviye.
-
TIN TỨC
THÔNG BÁO TUYỂN SINH
http://chuaxaloi.vn/upload/hinhanh/T...han_Anh_vn.jpg
Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam (trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) liên kết với Trường Đại học Đông Đô (Hà Nội) mở các lớp đào tạo cử nhân hệ chính quy ngành ngôn ngữ Anh.
Điều kiện nộp hồ sơ:
Đối với văn bằng 2:
- Là những người có ít nhất 1 bằng đại học Chính quy, không Chính quy, Vừa học vừa làm, Chuyên tu, Tại chức, Từ xa,… của tất cả các trường, viện đại học.
Đối với hệ đào tạo 4 năm:
- Là những người có văn bằng Trung học phổ thông.
Hồ sơ xét tuyển gồm:
- Bản sao công chứng bằng tốt nghiệp và học bạ THPT;
- Bằng tốt nghiệp, bảng điểm Văn bằng thứ nhất;
- Các giấy tờ xác nhận đối tượng và khu vực ưu tiên (nếu có);
- 04 ảnh màu (cỡ 3x4), phía sau ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh;
- 01 phong bì dán tem, ghi địa chỉ liên lạc thí sinh.
- Lệ phí ôn thi và lệ phí thi đầu vào : 1.000.000 đ/sinh viên.
- Lệ phí thi tốt nghiệp, lệ phí cấp bằng : 1.000.000 đ/sinh viên
Mức phí đối với hệ văn bằng 2:
Các lớp học vào ngày thường từ thứ 2 đến thứ 6 (sáng hoặc chiều):
- Thu toàn khóa : 27.690.000 đồng (hai mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi ngàn đồng, học tổng cộng 71 tín chỉ, tương ứng 390.000 đ/1 tín chỉ)
Các lớp học vào buổi tối trong tuần và cuối tuần:
- Thu toàn khóa : 29.820.000 đồng (hai mươi chín triệu tám trăm hai mươi nghìn đồng/khóa học, 420.000 đ/1 tín chỉ).
Ghi chú: văn bằng 2 nếu nộp phí một lần cho 2 năm thì phí 10% của mỗi năm không tăng.
Mức phí hệ Đại học chính quy 4 năm :
- Một học kỳ : 6.050.000 đồng (sáu triệu không trăm năm mươi ngàn đồng, mỗi năm mức phí tăng 10%).
Thời gian:
- Hạn cuối nhận hồ sơ: 18/11/2018
- Thời gian thi dự kiến: 25/11/2018
- Thời gian khai giảng dự kiến: 02/12/2018
- Địa điểm học: Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, P7, Q3, TP.HCM
Địa điểm nhận hồ sơ:
Văn phòng Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, chùa Xá Lợi, số 89 Bà Huyện Thanh Quan, P7, Q3, Tp. HCM.
Liên lạc:
Thầy Thích An Nhiên : 0905 33 88 29
Thầy Thích Thiện Hưng : 0909 99 21 02
Thầy Thích Nguyên Huệ : 0938 59 96 96
TM. TTNCPGVN
Thư ký-Đặc trách Giáo dục, Đào tạo
ĐĐ. Thích Thiện Hưng
http://www.chuaxaloi.vn/tin-tuc/thon...sinh/1777.html
-
"Đường Tăng của VN" và chuyện lạ về pho tượng làm bằng tóc người
Tuấn Anh | 13/01/2016 07:00
15
"Đường Tăng của VN" và chuyện lạ về pho tượng làm bằng tóc người
Bức tượng làm bằng tóc người
Tượng làm từ tóc của hàng ngàn phật tử có lẽ chỉ duy nhất có ở Việt Nam. Hiện pho tượng lạ lùng này đang ngự trong chùa Tây Tạng (Thủ Dầu Một, Bình Dương).
Cận cảnh pho tượng làm bằng gỗ hóa thạch tự nhiên lớn nhất VN
Pho tượng quý hiếm thay đổi thần thái và màu sắc
Bình Định: Người dân đổ xô cúng bái pho tượng lạ dưới gầm cầu
Một điều đặc biệt nữa, ngôi chùa cổ kính này còn có một vị trụ trì được coi là “Đường Tăng” của Việt Nam bởi ngài đã có hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh gian khổ hệt như Đường Tam Tạng trong tiểu thuyết lừng danh Tây Du ký.
Tâm nguyện lạ thường của "Đường Tăng của Việt Nam"
Chùa Tây Tạng được xem là danh lam ở Bình Dương. Chùa nằm trên ngọn đồi có nhiều bóng mát cây xanh trên đường Thích Quảng Đức, phường Chánh Nghĩa, TP Thủ Dầu Một.
Biết PV tìm hiểu về pho tượng Đức Bồ Đề Đạt Ma được làm bằng tóc, sư cô Diệu Quang, người đã tu hành ở chùa 20 năm rất vui vẻ chia sẻ nhiều câu chuyện liên quan tới pho tượng này.
Sư cô Diệu Quang cho biết, ban đầu chùa Tây Tạng chỉ là một ngôi chùa nhỏ có tên là Bửu Hương do những người dân địa phương xây dựng từ khoảng năm 1930.
Tới năm 1937, thiền sư Minh Tịnh (hay còn gọi là thiền sư Nhẫn Tế) được người địa phương mời về trụ trì chùa và đổi tên chùa thành chùa Tây Tạng.
Thiền sư Minh Tịnh chính là người đã được mệnh danh là “Đường Tăng của Việt Nam" vì đã có một cuộc hành trình đi chiêm bái, nghiên cứu Phật học trong vòng 2 năm ở nhiều nước là xứ sở của Phật giáo như Ấn Độ, Népal và Tây Tạng.
Sinh thời, thiền sư Minh Tịnh luôn tâm niệm, muốn chấn hưng Phật pháp phải biết cội nguồn của Phật pháp. Với ý chí, tư duy đó, ngài đã quyết tâm lên đường xuống bến Nhà Rồng để về xứ Phật vào ngày 17/4/1935.
Từng sự kiện trong cuộc hành trình hơn 2 năm đó đã được thiền sư Minh Tịnh ghi rất đầy đủ, chi tiết trong nhật ký “Tây du Phật quốc” dày hơn 300 trang của mình.
Chùa Tây Tạng, nơi từng có trụ trì được ví như Đường Tăng.
Chùa Tây Tạng, nơi từng có trụ trì được ví như Đường Tăng.
Khổ ải hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh
Theo cuốn nhật ký, sau 15 ngày đêm lênh đênh trên biển, vào ngày 31/4/1935, thầy Minh Tịnh đã đến Ấn Độ. Điểm đầu tiền mà thiền sư tìm tới là thành Ba La Nại ở Lộc Giã Viên, nơi hình thành 3 ngôi Tam Bảo đầu tiên của đạo Phật.
Sau đó thiền sư đến vườn Lộc Giã xin tu tập tại đây 10 tháng. Rồi đến Boudhagaya (nơi đức Phật thành đạo) nơi đây thầy Minh Tịnh chiêm bái và tư duy về sự tu chứng của đức Phật.
Ấn Độ chỉ là nơi đức Phật tu tập và truyền đạo, còn xứ sở băng tuyết Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn ) thuộc địa phận Népal mới là nơi thái tử Sĩ Đạt Ta (tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) ra đời.
Từ Boudhagaya thầy phải mất 6 ngày mới đến được Himalaya, nơi đây mùa đông chỉ toàn là băng tuyết, ít người có thể chịu nổi cái lạnh của xứ này.
Đặc biệt trong chuyến đi đến Népal của thiền sư Minh Tịnh là được chiêm bái ba ngôi đại tháp thờ Xá Lợi Phật lớn nhất ở Népal; tháp Simb-Nath; tháp Boudha-Nath; tháp Nam mo- Bouddha.
Sau nhiều lần dâng lễ thỉnh cầu, thiền sư Minh Tịnh đã khiến vị thượng tọa quản tháp Xá Lợi cảm phục đức hạnh và lòng hiếu đạo của mình nên đã dâng cúng Xá Lợi cho thiền sư đem về nước.
Thiền sư Minh Tịnh
Thiền sư Minh Tịnh
Có thể nói vào những thập niên 30- 40 ở miền Nam Việt Nam, đây là lần đầu tiên Xá Lợi Phật được thỉnh từ Tây Thiên do thiền sư Minh Tịnh mang về.
Sau 12 ngày lưu trú tại xứ sở băng tuyết của Népal, thiền sư Minh Tịnh trở về Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) và sau đó ngài xin tổ chức hội để được đi sang đất Tây Tạng, xứ sở của Phật giáo.
Ngày 27/2/1936 thiền sư Minh Tịnh khởi hành từ Bồ Đề Đạo Tràng đi Tây Tạng. Thiền sư đi bằng tàu hỏa, ngựa và cuốc bộ. Suốt hơn 3 tháng ròng mới đến thành LhaSa, thủ phủ của Tây Tạng.
Trong cuốn nhật ký của mình, thiền sư Minh Tịnh kể về chuyến đi này đầy gian nan, cực khổ. Mùa đông thì băng giá thấu xương, mùa hạ thì khô da cháy thịt, trèo núi băng rừng...
Đường Tăng sang Tây Trúc có các đồ đệ tài giỏi hộ vệ, còn thiền sư Minh Tịnh chỉ có một mình. (Ảnh minh họa: Internet)
Đường Tăng sang Tây Trúc có các đồ đệ tài giỏi hộ vệ, còn thiền sư Minh Tịnh chỉ có một mình. (Ảnh minh họa: Internet)
Ở Tây Tạng, Quốc vương cũng là đại đức Lama. Trong chuyến hành hương này, thiền sư đã được yết kiến Quốc vương Tây Tạng.
Ngày 4/10/1936, thiền sư Minh Tịnh xin được cầu pháp với Lama Quốc vương. Quốc vương chấp thuận và tâm ấn trao cho nhiếp chính vương Lama ngự bút ban đặt cho pháp danh: Thubten- Osall Lama.
Sau hơn 4 tháng nghiên cứu, tu tập, chiêm bái, đạt thành sở nguyện, ngày 29/10/1936 thiền sư Minh Tịnh trở về Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) và trở về Việt Nam vào ngày 14/6/1937.
Với uy tín và đức hạnh của mình, ngay sau khi về nước thiền sư Minh Tịnh đã được thỉnh về trụ trì chùa Bửu Hương và ngài đã đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự để đánh dấu chuyến đi hành hương xứ Phật và Tây Tạng của mình.
Thiền sư Minh Tịnh viên tịch năm 1951, thọ 63 tuổi.
Giấc mơ kỳ lạ và pho tượng làm từ tóc người
Pho tượng làm bằng tóc được phác theo chân dung của Đức Bồ Đề Đạt Ma. Sư cô Diệu Quang cho biết, vị nghệ nhân chế tạo bức tượng là ông Nguyễn Khắc Bửu, ở TP. HCM.
Ông Bửu không chỉ là một người đa tài mà con là một võ sư nổi tiếng. Sau một lần đến chùa Tây Tạng chiêm bái đã rất khâm phục cuộc hành trình tới đất phật của thiền sư Minh Tịnh.
Biết thiền sư đã nhận lấy pháp môn chính lý của Đức Bồ Đề Đạt Ma và Đức Bồ Đề cũng chính là người sáng lập võ phái Thiếu Lâm tự nên võ sư Bửu thấy mình như có “căn duyên” với ngôi chùa này.
Ý tưởng tạc tượng Đức Bồ Đề Đạt Ma cũng nhen nhóm từ đó.
Sư cô Diệu Quang kể chuyện chế tác pho tượng làm từ tóc người.
Sư cô Diệu Quang kể chuyện chế tác pho tượng làm từ tóc người.
Sau khi đàm đạo và được sự nhất trí của Hòa thượng Thích Tịch Chiếu (đệ tử chân truyền của thiền sư Minh Tịnh, cũng là trụ trì chùa Tây Tạng) năm 1983, ông Bửu cùng 3 người phụ tác khác của mình bắt đầu chế tác bức tượng.
“Ban đầu pho tượng cũng được ông Bửu làm bằng vôi vữa, mật đường, cốt thép. Tuy nhiên sau nhiều lần chế tác vẫn không thành công nên đành phải nghỉ một thời gian để nghiên cứu thêm về vật liệu”, sư cô Diệu Quang chia sẻ
Cũng theo sư cô Diệu Quang, tình cờ trong một giấc mơ ông Bửu đã mơ thấy rằng cần phải lấy vật liệu chính là tóc người thì mới chế tác được.
Ngay sáng hôm sau ông Bửu đã trình bày ý tưởng lấy tóc của Phật tử để trộn vào làm nguyên liệu chế tác tượng với Hòa thượng Thích Tịch Chiếu và được ông đồng ý.
Vậy là hàng chục bao tải tóc của các phật tử xuống tóc đi tu ở nhiều ngôi chùa được gom lại. Có được “vật liệu” rồi ông Bửu và các phụ tác trộn chung với vôi vữa, mật đường để chế tác tượng.
Nhờ tóc người nên hỗn hợp trên đã vô cùng kết dính và lần này thì ông Bửu đã thành công.
Sư tổ Bồ Đề đã đến Việt Nam?
Sư cô Diệu Quang cho biết, việc lựa chọn tóc làm nguyên liệu chính để chế tác tượng cũng là do tóc nằm ở vị trí cao nhất của một con người nên đạt tới sự tinh khiết, sạch sẽ.
Các phật tử xuống tóc cũng là rũ đi bao nhiêu muộn phiền, bụi trần để đạt tới sự thanh thản tuyệt đối.
Pho tượng Bồ Đề Đạt Ma được đặt trang nghiêm trên một bệ thờ ở trai phòng phía sau chính điện, với hình dáng mũi cao, tóc quăn, râu rậm, lông mày xếch ngược, vầng trán nhăn nhíu, đôi mắt to sáng.
Tượng có chiều cao 2,32m; chiều ngang tính từ túi càn khôn đến hòm kinh Lăng Già là 1,74m.
Pho tượng làm từ tóc của hàng ngàn phật tử.
Pho tượng làm từ tóc của hàng ngàn phật tử.
Thông thường hình ảnh Đức Bồ Đề Đạt Ma thường được tạo tác đứng trên một cành lau lướt đi trên sông, vai mang chiếc gậy quẩy gánh một chiếc giầy.
Thế nhưng, pho tượng Bồ Đề Đạt Ma bằng tóc ở chùa Tây Tạng lại được tạo tác khác với hình tượng thông thường đó.
Ngài mặc 3 lớp áo, trong cùng màu trắng, tới màu lam nhạt và ngoài cùng màu nâu, lưng thắt một dải lụa màu xanh, quần dài ống rộng bó gọn trong giầy cỏ, các nếp nhăn của trang phục được gợi tả khéo léo và tinh tế.
Trên cổ ngài đeo một vòng tràng hạt lớn, phía sau lại kèm theo một chiếc nón rất đặc trưng Việt Nam.
Chiếc gậy của ngài được cải biên gần giống chiếc đòn gánh quen thuộc của người nông dân với một bên là túi càn khôn và một bên là hòm kinh Lăng Già chứ không phải là một chiếc giầy.
Đặc biệt, trên bức tượng còn có cả một chiếc nón lá của Việt Nam.
Theo sư cô Diệu Quang, sở dĩ các nghệ nhân chế tác thêm cả chiếc nón lá này vì có nhiều tài liệu cho rằng, trong hành trình từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền giáo, sư tổ Bồ Để Đạt Ma đã đi qua và truyền giáo ở Việt Nam trước.
Pho tượng đã được công nhận là kỷ lục Việt Nam và đang được đề xuất kỷ lục Châu Á.
http://sohanews.sohacdn.com/thumb_w/...2570533045.jpg
http://soha.vn/xa-hoi/duong-tang-cua...1123184567.htm
-
https://www.youtube.com/watch?v=jGbztbkO6sA
Chùa Tây Tạng - Bình Dương (có phụ đề)
Tâm Nguyệt
Published on Nov 14, 2016
SUBSCRIBE 4.6K
Chùa Tây Tạng tọa lạc tại 46B Thích Quảng Đức, phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, là ngôi chùa duy nhất ở Nam bộ mang dấu ấn Mật tông Tây Tạng.
Chùa Tây Tạng do Thiền sư Minh Tịnh (1888-1951) còn gọi là Hòa thượng Chơn Phổ-Nhẫn Tế, sáng lập vào năm 1928 với tên gọi Bửu Hương Tự. Lúc bấy giờ, chùa chỉ là một am nhỏ thờ Phật cất trên một ngọn đồi thấp có nhiều cây cổ thụ, để thiền sư tu tập và phổ độ chúng sanh. Năm 1937, sau khi thiền sư Minh Tịnh vân du đất Phật trở về, mới cho đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự.
Sau lần đại trùng tu vào năm 1992, chùa Tây Tạng có dáng dấp gần giống như một ngôi chùa ở xứ sở Tây Tạng. Chánh điện có cấu trúc hình khối vuông, chính giữa là ngôi tháp, tứ giác có chiều cao trên 15 m. Ở tầng thượng nóc chùa có 5 điện thờ 5 vị gọi là "Ngũ trí Như Lai", là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng.
Bên trong chánh điện thiết kế thờ phượng như một pháp hội khi Phật Thích Ca còn tại thế. Ở giữa điện thờ tượng Phật Thích Ca ngồi thiền cao 2,3 m. Chung quanh có chư Phật và Bồ tát ở các vị trí, như tầng dưới thờ Địa Tạng, Di Lặc; tầng kế thờ Phổ Hiền, Văn Thù; tầng trên thờ Quan Âm, Đại Thế Chí, v.v...
Đặc biệt, trong chùa có bức tượng Đạt Ma Sư Tổ (cao 2,83 m, ngang 1,74m), làm bằng tóc được thu nhận từ các Phật tử, kết hợp với mật rỉ đường và vôi vữa được ông Nguyễn Khắc Bửu cùng với các ông Nguyễn Chí Cơ và Tôn Ngọc An làm trong 2 năm (1982 - 1983) mới hoàn thành và được sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là bức tượng bằng tóc lớn nhất Việt Nam.
chùa Tây Tạng có 3 đời kế thế trụ trì là Thiền sư Minh Tịnh (1888-1951), Hòa thượng Thích Tịch Chiếu (1911-2016), Đại đức Thích Chơn Hạnh.
-
CÁC TRƯỜNG PHÁI MANG TÊN NHÂN ĐIỆN
Các bạn thân mến, tên gọi "Nhân điện" chỉ là một tên gọi chung chung vì tên gọi này đã dùng cho rất nhiều bộ môn hay truờng phái Nhân điện. Tôi tạm liệt kê ra đây một vài trường phái cũng có tên gọi Nhân điện:
1/ Ông Huynh Hai có tên là Huỳnh Văn Trạng. Ông là người Việt. Ông không học trực tiếp từ Tổ nào. Có lẽ vì ông có căn cơ và có duyên với Tổ Dasira Narada từ tiền kiếp nên đã lãnh hội Tổ qua thần giao cách cảm dạy cho ông pháp môn Nhân điện để cứu giúp hậu thế.
Ông không giấu giếm lai lịch, ông nói với mọi người ông vốn là công nhân tại xưởng Bason (Hải Quân công xưởng cũ). Những khi ông chữa bệnh hoặc những chỉ dạy cho môn sinh đều là do Tổ truyền qua thần giao cách cảm. Với tính khiêm nhường, ông yêu cầu các môn sinh gọi ông là Huynh Hai, trái lại, ông gọi tất cả là Huynh. Đầu tiên, ông dạy cho một số các tu sĩ Thiên Chúa Giáo khu Vũng Tàu; rồi dạy cho nhiều người Việt.
Hiện nay, một số các môn sinh là trưởng môn các trung tâm Trường Sinh Học Nhân Điện ở trong và ngoài nước. Ông cũng được mời sang Trung Quốc thuyết trình và huấn luyện về Nhân điện. Ông đã mất năm 2005 tại Sài Gòn.
2/ Nhân điện của ông Nguyên văn Chiều Gia lâm Hà nội (đã mất), là một thợ điện bị điện cao thế giật không chết. Tỉnh lại sau nhiều ngày mê man ông trở thành người có khả năng chữa bệnh không dùng thuốc. Môn này cũng mở luân xa, còn gọi là tâm năng dưỡng sinh, môn này cũng phát triên ở một số vùng của Việt nam (Đây là môn phái chuyên luyện thu nạp, phát triển nội năng, rồi tận dụng năng lực mầu nhiệm của luân xa Tim để chuyển hoá năng lượng thu nạp được dùng vào mục đích dưỡng sinh, chữa bệnh. Nguyên lý cơ bản như sau: Khi hoạt động cơ thể và hoạt động tinh thần Tiệm cận tới Cực Tiểu, thì hoạt động Năng lượng Tiệm cận tới Cực đại).
3/ Nhân điện của ông Nguyên đình Phư, tiến sĩ toán lý, giảng viên trường ĐH tổng hợp TP HCM (được biết là học trò của Thầy Lương minh Đáng từ năm 1989) môn phái này về căn bản là như tài liệu của Thầy Đáng nhưng phát triển mở 14 luân xa (mạch nhâm và mạch đốc) và phối hợp mở rộng với kinh mạch của châm cứu, truyền điện thêm vào huyệt theo nguyên lý kinh mạch. Ông Phư có xuất bản nhiều sách trong đó có cuốn "Nhân điện những phát hiện và ứng dụng" (nhà xuất bản văn hoáthông tin 1999).
4/ Nhân điện của ông Hải Ân biên soạn, tự tập luyện một thời gian sẽ có Nhân điện, có khả năng tự chữa bệnh bằng tay, truyền điện có nguyên lý điện âm điện dương. Môn này chỉ như một bài tập dưỡng sinh nên không được phổ biến. Tác giả Hải Ân viết rất nhiều sách dưỡng sinh trong đó có quyển "Nhân điện thực nghiệm trong cuộc đời " hướng dẫn cách tập luyện này (NXB Thanh niên1999).
5/ Nhân điện của bác sĩ Nguyễn Thu Phong (hay Hoàng Vũ) đã viết một cuốn sách rất thú vị :"Thôi miên và Nhân điện" xuất bản năm 1996. Môn học này không mở Luân xa, chỉ tập luyện đúng các động tác như hướng dẫn trong sách trong vòng 4 đến 6 tháng thì cơ thể sẽ có khả năng phát điện, và có khả năng thôi miên người khác băng ý nghĩ. Mục đích môn này là chữa bệnh và để thực hành biểu diễn nghệ thuật hay ảo thuật...{Tìm hiểu về thôi miên và nhân điện (nhân điện toàn khoa) tác giả Nguyễn Thu Phong (Hoàng Vũ) NXB Đà Nẵng 1996}
6/ Nhân điện của Ông Vũ Bội Quang Khôi sinh tại miền bắc Việt Nam, định cư tại Hoa Kỳ năm 1980, hiện cư ngụ tại Orange County - tiểu bang California. Từ 10 năm nay ở Hoa Kỳ, thầy Vũ Bội Quang Khôi đã áp dụng "Tâm pháp" này đã giúp cho hàng trămngười khỏi những bệnh nan y (không cần dùng thuốc). Và 5 năm gần đây, Thầy Khôi đã chữa bệnh trên nhiều đài phát thanh ở Orange County, thuộc tiểu bang California, bên Mỹ. Những người bệnh gọi từ các tiểu bang khác, và nhiều nước khác nhau trên thế giới, có những người đã gọi từ Việt Nam, và họ đã được chữa lành. (Các bạn có thể tìm xem ở đ/c: http://www.chuabinhbangtamlinh.com/trangchu.html)
7/ Và trường phái Nhân điện lớn nhất hiện nay, đang có rất đông học viên theo học do Thầy Lương Minh Đáng sáng lập và truyền dạy lớp đầu tiên vào năm 1989 tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Tháng 11 năm 2002, Phân Khoa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ đã được thành lập tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka). Thầy Đáng đã được giao phó trách nhiệm Chủ Nhiệm của Phân Khoa mới thành lập, và đồng thời kiêm chức vị Phó Hiệu Trưởng Bộ Ngoại Vụ của cùng Trường Đại Học này.
Sau sự kiện quá cố của Thầy Đáng tại Melbourne, Úc Châu vào ngày 12 tháng 8 năm 2007, quả phụ của Thầy, Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn đã tiếp nối sứ mệnh của Thầy Đáng và trở thành Sứ Giả và giảng viên hàng đầu của Trường Học Năng Lượng Vũ Trụ. Cô Thủy nhậm chức Chủ Nhiệm của Phân Khóa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung, và đồng thời kiêm chức vị Phó Hiệu Trưởng Bộ Ngoại Vụ của Trường ĐạiHọc. Hiện nay Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn là Chủ Tịch của Học Viện Năng Lượng Con Người, Vũ Trụ và Tâm Linh (HUESA).
8/ Song song với HUESA, một nhánh khác cũng được biết đến là MEL (giữ nguyên chữ viết tắt tên gọi: Nhân loại- Giác ngộ- Tình thương do Thầy Đáng trước kia đặt) do Lương MinhTrung con trai của Thầy phụ trách giảng dạy, và hướng dẫn.
HUESA và MEL tuy khác nhau về tên gọi, người hướng dẫn, có một số khác biệt về cách giảng dạy và công thức nhưng mục đích và tôn chỉ vẫn đi theo mục đích- tôn chỉ của Người sáng lập là Giáo Sư Tiến sĩ Lương Minh Đáng.
(Sưu tầm và cập nhật qua các tài liệu)
https://vi-vn.facebook.com/NangLuong...567427219099:0
-
an thổ địa chơn ngôn : Om điri điri đêvi sô ha ( 7 lần )
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...n-gi%E1%BA%A3n
=========
OM DHARA DHARA DEVI SVAHA
http://hocthuatphuongdong.vn/index.p...ic=6648.0;wap2
===========
3.An Thiên Địa chân ngôn: Na mắc sa măn tá búd đa năm, om đu ru đu ru đi ri đi ri pơ rít thi vi de xoa ha. >3 lần
https://www.facebook.com/52927575381...5071197038647/
============
An Thiên Địa Chân Ngôn
namaḥ samanta buddhānāṃ oṃ duru duru diri diri prthiviye svāhā (3x)
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...BB%80N/page103
===========
QuangQuy
Hội viên
Hội viên
Đã tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Nam Mô tam mãn đà một đà nẫm Án tô rô tô rô tô ra tô ra địa vĩ ta bà ha (3-7x)
=
4) An thổ địa:
Na mô Sa măn ta Buýt đà năm,
Úm đu ru đu ru đi ri đi ri
Pơ rít thi vi dê Xoá ha (3-7x)
Hoặc:
Nam Mô tam mãn đà một đà nẫm Án tô rô tô rô tô ra tô ra địa vĩ ta bà ha (3-7x)
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A1p/page37
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...1&PN=12&TPN=34
============
https://upanh1.com/images/Untitled49266569de7e14ba.png
https://vi.scribd.com/doc/150097914/...-TRI-CHAN-NGON
==============
https://i.ytimg.com/vi/7ETiBNSpbXk/maxresdefault.jpg
https://www.youtube.com/watch?v=7ETiBNSpbXk
=========
拿摩三滿哆布馱喃嗡度嚕度嚕德威史 哈
嗡 他囉 他囉 德威 史哇哈
梵文咒語3:namo samanta buddhanam om tulu tulu devi svaha om dhara dhara devi svaha
中文拼音 :南摩 三滿哆 布馱南 嗡 度嚕 度嚕 德威 史哇哈 嗡 他啦 他啦 德威 史哇哈
https://docsplayer.com/23116690-Micr...%B7%A8new.html
http://hocthuatphuongdong.vn/index.p...ic=6648.0;wap2
http://www2.budaedu.org/newGhosa/C02...f/T031Z_03.pdf
-
c/-An Thổ Địa Chân Ngôn :-Nam mô tam mãn đà ,một đà nẫm ,án, tô rô tô rô,địa vĩ ,ta bà ha (3 lần )
http://hocthuatphuongdong.vn/index.p...ic=6856.0;wap2
-
DHARA DHARA (Gia trì cho ta và người )
DHIRI DHIRI (Người gia trì không kể nam nữ)
DHURU DHURU (Lóe sáng)
http://www.daibi.vn/2012/08/thap-nha...tu-tai-bo-tat/
-
NAMAH SAMANTA BUDDHANAM: OM DHURU DHURU DIVI, PRTHIVIYE SVAHA.
-
-
-
-
THNT
Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017
90 CÂU THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ
90 CÂU THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ
1. Ông chẳng bà chuộc:
Sự tích xưa, có người đánh rơi viên ngọc, vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý “chuộc thì chuộc”, chồng thì dứt khoát “chẳng chuộc”. Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, do nhân dân tưởng tưởng ra, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống nhất, không ăn khớp giữa người này với người khác. Nhiều thành ngữ như “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “Ông nói gà bà nói vịt” cũng diễn đạt ý này.
2. Quan xa nha gần: (Quan thì xa, bản nha thì gần)
Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở phòng giấy các quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này.
3. Ra môn ra khoai:
Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ. Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”. Cây ngô và cây khoai không thể lầm được.
4. Rách như tổ đỉa:
Có người tưởng tổ đỉa là tổ con đỉa. Cũng chưa ai biết con đỉa có tổ hay không. Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, một loại cây thường mọc ở ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá như lá cây đinh lăng, trông lởm chởm và rách như xé ra từng mảnh nhỏ. Vì vậy, ai mặc rách rưới quá, người ta thường nói “rách như tổ đỉa.”
5. Rối như bòng bong:
Nếu quan sát một người ngồi vót nan để đan rổ rá, ta thấy những xơ tre nứa mỏng cuộn xoắn vào nhau thành một mớ, khó gỡ ra được. Đó là mớ bong bong. Thành ngữ ta còn có câu : rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối như gà mắc tóc, rối tinh rối mù. Thành ngữ “rối như bong bong” dùng để chỉ tâm trạng hoặc sự việc khó gỡ ra được vì không tìm thấy đầu mối.
6. Sáng tai họ, điếc tai cày:
Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc. Khi cày ruộng, người đi cày hô “họ”thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô “vắt” thì phải kéo cày.
Nguyễn Khuyến, trong bài “Anh giả điếc” có câu
Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây
Chẳng ai ngờ : sáng tai họ điếc tai cày
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
7. Sẩy đàn tai nghé:
Thành ngữ này dùng để chỉ sự chia lìa, tan nát của một gia đình hoặc một tập thể nào đó khi mất người đứng đầu.Thành ngữ này bắt nguồn từ đời sống của bầy trâu rừng. Bầy trâu bao giờ cũng có những con trâu đực đầu đàn để chống chọi với thú dữ, bảo vệ cả đàn (thường có trâu cái và bầy nghé con). Nếu mất trâu đầu đàn thì cả đàn sẽ tan tác vì bị thú dữ ăn thịt dần. Sẩy là từ cổ, có nghĩa là mất, chết. Tục ngữ có câu: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”.
8. Sơn cùng thủy tận:
Đây là thành ngữ gốc Hán (cùng là cuối, tận là hết), nơi cuối dãy núi, hết nguồn nước, dùng để chỉ những nơi hẻo lánh, hoang vu. Một thành ngữ khác thâm sơn cùng cốc cũng để diễn đạt ý này. (Thâm sơn là núi sâu, cùng cốc là cuối hang núi)
9. Sơn hào hải vị:
Sơn hào là món ăn quý lấy từ động vật rừng như bàn chân gấu, lộc nhung. Hải vị là món ăn quý lấy từ biển như bào ngư, hải sâm…
Thành ngữ này dùng để chỉ các món ăn sang trọng. Câu này gần nghĩa với câu “Cao lương mĩ vị” (cao là thịt béo, lương là gạo trắng, mĩ vịlà ngon miệng)
10. Sư tử Hà Đông-Giấm chua lửa nồng:
Các thành ngữ này đều dùng để chỉ những người phụ nữ hay ghen.
– Hà Đông là một địa danh Trung Quốc, tục truyền có nhiều sư tử và sư tử cái thường bắt nạt sư tử đực. Ông Trần Quý Thường, bạn thân của Tô Đông Pha, có bà vợ hay ghen. Tô Đông Pha liền làm bài thơ đùa bạn, trong đó có câu :
Hốt kiến Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc phủ tâm mang nhiên.
(chợt nghe tiếng sư tử Hà Đông rống lên. Đang chống gậy lòng hoảng hốt đánh rơi cả gậy).
– Vua nước kim rất yêu hai cung nữ. Trước khi mất, vua dặn phải chôn theo hai cung nữ đó. Hoàng hậu rất ghen, nên trước khi chôn hai cung nữ, đã đổ giấm vào quan tài để xác và xương mau tan, không thể hầu hạ đức vua được. Lửa nồng dịch từ Hỏa cang (nóng như hang đốt lửa) cũng để chỉ tính ghen. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giải thích lửa nồng là chốn lầu xanh (sống ở nơi ngột ngạt). Truyện Kiều có câu:
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
11. Sửa mũ vườn đào, sủa dép vườn dưa:
Khi đi qua vườn đào, dù mũ đội đầu có bị lệch cũng không nên giơ tay lên sửa mũ, sẽ bị ghi là hái chộm đào. Khi đi qua ruộng dưa, dù dép có bị đứt quai cũng đừng cúi xuống sửa, sẽ bị ghi là hái trộm dưa.
Câu này ý nói tình ngay lí gian, khuyên ta nên đề phòng để tránh bị ngờ oan :
Qua: Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo. Điền: ruộng. Lý: cây lý, cây mận. Hạ: dưới. Qua điền: ruộng dưa. Lý hạ: dưới cây lý. Thành ngữ trên nói đầy đủ là: Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan. Nghĩa là: Nơi ruộng dưa thì không nên xỏ giày, dưới cây lý thì không nên sửa nón.
12. Nằm gai nếm mật:
Câu này nói lên sự chịu đựng vất vả gian khổ để mưu việc lớn. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Câu Tiễn là vua nước Việt bị Phù Sai là vua nước Ngô bắt làm tù binh, phải chịu mọi điều khổ nhục. Khi được thả về, Câu Tiễn thường nằm trên đệm gai, không ăn cao lương mĩ vị mà thường lấy tăm nhúng vào mật đắng để luôn nhắc nhở mình không quên mối thù xưa. Sau hai mươi năm chuẩn bị lực lượng, Câu Tiễn đã phục thù, đánh bại được Ngô Phù Sai.
13. Năm thì mười họa:
Trong tiếng Việt, thì còn đọc là thời (có nghĩa là lúc, thủa). Ví dụ : thời son trẻ, đương thì con gái, tứ thời, thời gian, thời tiết. Còn họa là từ thuần Việt có nghĩa là ít có, có chăng.
Ví dụ :
– Sắc đành đòi một, tài đành họa hai (Truyện Kiều)
– Vào sinh ra tử họa là thấy nhau (Truyện Kiều).
(Đừng lầm với họa từ Hán. Họa là vẽ (họa sĩ), họa là đáp lại (họa vần thơ), họa là tai vạ rủi ro (họa vô đơn chí)).
Thành ngữ năm thì mười họa có nghĩa là thỉnh thoảng, họa hoằn mới có :
Năm thì mười học hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
(Hồ Xuân Hương)
14. Ngựa quen đường cũ:
Thành ngữ này vốn gốc ở thành ngữ Hán “Lõa mã thức đồ”. Do đâu có thành ngữ này ? Chuyện Xưa kể rằng : Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Lúc cất quân đi là mùa Xuân, lúc trở về đã là mùa đông, băng tuyết phủ đầy nên lạc đường. Quản trọng bèn tâu :
– Thưa bệ hạ, trí nhớ của ngựa già rất tốt. Xin để con ngựa già đi trước dẫn đường. Quả nhiên, ngựa đã tìm được đường về.
Trước kia, thành ngữ này được hiểu theo nghĩa : người có kinh nghiệm thường rất thành thuộc sự việc.
Ngày nay, thành ngữ này mang nghĩa xấu dùng để chỉ những người không chịu rời bỏ thói hư tật xấu.
15. Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng:
Câu này vừa mang nghĩa đen, vừa mang nghĩa bóng. Nghĩa đen thì ai cũng hiểu. Nguồn nước có trong thì dòng nước mới trong, gốc cây có thẳng thì cây mới vươn thẳng lên được.
Nhưng nghĩa bóng mới là nghĩa có tác dụng giáo dục mọi người. Trong một gia đình, bố mẹ phải làm gương tốt cho con cái. Nếu bố mẹ làm điều bậy (nguồn đục, gốc cong) thì con sẽ bị nhiễm thói xấu. Có một câu ca dao đầy chất châm biếm :
Con ơi nghe lấy lời cha
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Bố xấu như vậy thì con cũng sẽ thành trộm cắp. Trong gia đình, bố mẹ cần sống tốt để làm gương cho con cái.
16. Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò:
Đây là thành ngữ chỉ nghề làm gốm sứ. Muốn có sản phẩm tốt phải chú ý ba yếu tố : xương, da, dạc lò. Xương là chất đất để nặn ra sản phẩm, da là chất men dùng tráng mặt ngoài của sản phẩm (có vài chục chất men để tạo màu sắc khác nhau), dạc lò là độ nóng của lửa nung. Cũng có người giải thích dạc lò là hình dáng lò nung. Lò nung phải xây đúng cách để khi nung, độ nóng tỏa đều khắp thì sản phẩm mới đẹp.
17. Nhũn như chi chi:
Thành ngữ này thường được dùng để chỉ thái độ nhún nhường sợ sệt hoặc bị lép vế trước kẻ khác. Chi chi là trrn một loài cá nhỏ, thân rất mềm.. Con chi chi bị vớt lên khỏi mặt nước thì chỉ một giờ sau đã nhũn, thân bị bấy ra. Chi chi dùng làm mắm rất tốt vì mau ngấu. Nhũn từ nghĩa đen (nát bấy ra) đã được dùng với nghĩa nhũn nhặn để chỉ thái độ con người.
18. Nổi cơn tam bành:
Nghĩa của thành ngữ này là nổi giận lên mà làm điều ác :
Mụ nghe nàng mới hay tình
Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên.
(Truyện Kiều)
Theo thuyết của Đạo gia, trong con người có ba vị ác thần là Bành Kiều, Bành Cứ, Bành Chất. Ba vị này thường xui ta làm điều ác.
19. Nghèo rớt mùng tơi:
Khi ta nấu canh mùng tơi, trong lá mùng tơi có nhiều rớt (nhớt) nên khi múc canh vào bát, môi canh bị trơn tuột, không dính tí gì. Nghèo rớt mùng tơi là nghèo xơ nghèo xác không có chút của cải gì.
Thành ngữ này cũng còn một cách giải thích khác. Mùng tơi là phần trên của chiếc áo tơi (phần dày nhất và khâu kĩ nhất). Áo tơi thường làm bằng lá cọ hoặc lá đót. Khi áo tơi rách thì mùng tơi vẫn còn, dùng cho đến khi rớt (rơi) hết mùng tơi vẫn không có tiền mua áo khác, chứng tỏ nghèo lắm.
19b. Nói nhăng nói cuội:
Nói nhăng nói cuội là nói vu vơ, hão huyền cũng như thành ngữ nói hươu nói vượn.
Nhăng là từ cổ có nghĩa là băng nhăng qua quýt…
Cuội là một nhân vật trong truyện kể dân gian, nổi tiếng nói dối (nói dối như cuội).
Cũng có người cho rằng thành ngữ này là “nói giăng nói cuội” (Giăng là mặt trăng, chỉ ý xa vời, không thực tế). Dù hiểu cách nào thì nghĩa cũng giống nhau.
20. Nồi da nấu thịt:
Những người đi săn thú muốn làm thịt ăn ngay ở giữa rừng nhưng không có nồi. Họ thường lột da con thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà làm hại lấn nhau, giống câu vỏ đậu nấu đậu
21. Nợ như chúa chổm:
Chúa Chổm chính tên là Lê Ninh. Thời nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, là hoàng tử nhưng ông rất khéo. Tuy vậy, các quán ăn ở kinh đô, nếu được ông mở hàng thì rất đắt khách. Vì vậy, nhiều quán mời ông ăn chịu và ghi nợ. Khi được lên làm vua, (tức vua Lê Trang Tông) các chủ quán đến đòi nợ. Vua ra lệnh mở kho để trả nợ nhưng trả nhiều lần chưa hết vì có kẻ đòi nợ khống. (Theo truyền thuyết, khi vua đi dạo, hễ đi vào phố Cấm Chỉ thì không ai được theo đòi nợ nữa) (phố Cấm Chỉ ở đầu phố Hàng Bông, gần Cửa Nam ngày nay).
22. Nuôi ong tay áo:
Trong thực tế, không ai nuôi ong ở tay áo cả vì ong dễ đốt vào người. ong ở đấy được dùng để chỉ kẻ xấu.
Câu này mang ý nghĩa : nuôi dưỡng giúp đỡ kẻ xấu thì kẻ xấu có khi lại phản bội lại mình, làm hại mình.
Tuy vậy cũng không nên hiểu một chiều. Thực tế, kẻ xấu cũng cần sự giúp đỡ, giáo dục để trở thành người tốt. Xã hội ta đã cải tạo được nhiều người xấu trở thành người hữu ích.
Câu này chỉ dùng khi người nuôi dưỡng, giúp đỡ đã bị phản bội.
23. Nước đục bụi trong:
Thành ngữ này nói lên cảnh trái ngược, những việc làm bất đắc dĩ, trái với ý muôn : nước trong ma flaij đục, bụi đục mà lại trong.
Ví dụ:
Lỡ làng nước đục bụi trong
Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
(Truyện Kiều)
Tục ngữ ta có câu “Chết trong còn hơn sống đục”để khuyên ta sống trong sạch, thà chết còn hơn làm điều phi nghĩa, bất lương.
24. Lá lành đùm lá rách:
Câu tục ngữ có hai vế đối lập lá lành, lá rách. Lá lành hàm chỉ người có đời sống khá, sung túc. Lá rách hàm chỉ người nghèo khổ. Từ lávàđùm cũng gợi ý về vật chất vì trong đời sống hàng ngày người ta đùm cơm, đùm bánh, đùm xôi thường dùng lá. Từ đùm cũng gợi ý đùm bọc, che chở, giúp đỡ. Câu thành ngữ này khuyên ta phải cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hàng ngày cũng như lúc hoạn nạn. Câu này cũng nói lên đạo lý tốt đẹp của ông cha ta.
25. Lật đật như sa vật ống vải:
Câu này thường bị nói sai “lật đật như ma vật ông vải”. Nghĩa câu này hàm ý chê trách việc vội vàng, hấp tấp. Khi kéo sợi vải, ta dùng cái sa để quay, con cúi sa bằng bông sẽ dùng mũi quay để kéo thành sợi. Ở mũi quay có ống vải để cuốn sợi. Mũi quay thường làm cho ống vải rung lật đật.
26. Lệnh ông không bằng cồng bà:;
Lệnh và cồng là hai dụng cụ bằng đồng dùng để báo hiệu. Có người nói câu này xuất hiện từ thời Bà Triệu khởi nghĩa. Ông Triệu Quốc Đạt là anh nhưng không được mọi người tin yêu bằng bà Triệu Thị Trinh. Mỗi khi nghe tiếng cồng của Bà Triệu thì binh sĩ ở mọi nơi đều tập hợp ở dưới cờ.
Ngày nay, câu này được dùng với ý : vợ có quyền to hơn chồng trong một gia đình nào đó
27. May xống phải phòng khi cả dạ:
Câu này khuyên ta phải nhìn xa trông rộng, tính trước mọi việc. Xống là váy. Người phụ nữ khi may váy phải tính toán để khi có thai, bụng to (cả dạ) vẫn mặc được.
28. Mỏng mày hay hạt:
Thành ngữ này thường dùng để chỉ người phụ nữ có khuôn mặt nhẹ nhõm xinh xắn, dáng người thon thả thắt đáy lưng ong.
Mày và hạt xuất phát từ việc chọn giống của nhà nông. Mày là cái vảy dính ở gốc hạt lúa, hạt ngô. Hễ mỏng mày là hạt chắc, nếu dùng làm hạt giống rất tốt. Từ đó người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt, ngoài các đức tính khác như đảm đang, tháo vát.
Tục ngữ còn có câu :
Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua
Phành phạch quạt mo cho không ai lấy, hoặc câu : Mặt nạc, đóm dày, mo nang trôi sấp chó cụt đuôi. (Mặt nạc là mặt lắm thịt, chứng tỏ người không khôn ngoan), và câu :
Những người béo trục béo tròn,
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày.
(Béo trục béo tròn đối lập với thắt đáy lưng ong).
29. ột đồng một cốt:
Để hành nghề mê tín dị đoan, các ông đồng bà cốt thường gọi hồn, bắt ma, làm lễ giải hạn để kiếm tiền thiên hạ. Họ dùng nhiều mưu mẹo để lừa dối. Thành ngữ này để chỉ bọn người chuyên dối trá lừa đảo :
Đà đao lặp sẵn chước dùng
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay
(Truyện Kiều)
30. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ:
Câu này nói lên mối tương quan giữa cá thể và cộng đồng. Để khuyên bảo về đạo lí, ông cha ta thường mượn vật để nói người như : “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. “Một con ngựa đau” nói lên một cá thể bị hoạn nạn. Cả tàu bỏ cỏ nói lên sự thông cảm chia sẻ của đồng loại, tât cả các con ngựa trong chuồng đều không ăn cỏ vì thương cảm.
Ở đây không nói lên sự giúp đỡ mà nói về tình cảm. Hiểu rộng ra, cả tàu còn nói cả làng, cả nước phải thương yêu đùm bọc lấy nhau ; cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi.
31. Muôn chung nghìn tứ:
Chung là cái hộc, đơn vị dùng để đong thóc ngày xưa. Tứ là cỗ xe có bốn ngựa kéo. Câu này chỉ bậc vương hầu khanh tướng, ăn lộc đến nghìn chung thóc, trong nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa.
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau
(Truyện Kiều)
32. Học ăn, học nói, học gói, học mở:
Đây là câu thành ngữ khuyên mọi người phải học cách đối xử ở đời để trở nên người có văn hóa.
Ăn cũng phải học ăn như “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Đối với trẻ, khi ăn không nên khua bát khua đũa. Nhiều trẻ khi nhai cứ nhồm nhoàm hoặc tạo ra tiếng chồm chộp vì nhai hai hàm một lúc, hàm trên bập xuống hàm dưới tạo thành tiếng kêu. Cần tập cho trẻ chỉ dùng một hàm khi nhai.
Nói cũng phải học để biết cách xưng hô nói năng lễ phép, lịch sự. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngày nay, ta thường gặp nhiều cô cậu ăn mặc diện nhưng nói rất tục. Chỉ nghe qua lời nói ta đã biết là loại vô văn hóa. Học gói học mở theo phép lịch sự ở đất kinh kì cũng rất khó. Ở đất Hà Nội xưa, một số gia đình giàu sang thường gói nước chấm vào lá chuối xanh đặt vào cái chén xinh bày lên mâm cỗ. Người gói phải khéo tay mới gói được và người ngồi, ăn cũng phải biết cách mở để khỏi bật tung nước chấm ra mâm…
Ngày nay, gói bánh trưng đã mấy người biết gói cho đẹp để bánh cao thành sắc cạnh và mở bánh (bóc bánh) chưng cũng phải học mới khéo được.
Có người còn hiểu rộng câu trên, cho rằng mở và gói khó nhất la khi làm văn :
Văn hay chẳng lọ là dài
Mới đọc mở bài đã biết văn hay.
Còn gói bài văn (kêt luận) thế nào để người đọc còn thấy dư âm và gây ấn tượng sâu không phải dễ.
33. Kẻ ăn rươi, người chịu bão:
Hằng năm, cứ khoảng thánh chin âm lịch, các ruộng nước chua mặn ở miền biển có giống rươi nổi lên. Người ta hớt rươi về làm thức ăn (chả rươi, mắm rươi). Nhưng mùa này cũng hay có báo làm thiệt hại. (cũng có người giải thích, mùa này trở trời nên dễ đau lưng đau bão). Câu này nói lên sự không công bằng : kẻ được ăn, người chịu vạ lây.
34. Kẻ tám lạng, người nửa cân:
Cân và lạng ở đây là loại cân cũ của ta. Một cân có 16 lạng (tương đương 605 gam) và một lạng bằng một phần mười sấu cân tương đương với 37,8 gam. Vì vậy nếu cân bằng cân ta thì nửa cân là tám lạng, tám lạng là nửa cân.
Thành ngữ này trong tiếng Việt thường chỉ sự so sánh tương đương lực lượng giữa hai phe, hai đấu thủ trong cuộc đọ sức thì bằng nhau, không ai kém ai.
35. Kết cỏ ngậm vành:
Thành ngữ này chỉ sự báo đền công ơn :
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau
(Truyện Kiều)
Đây là hai điển tích xưa của Trung Quốc.
– Ông Ngụy thù đời Tần có nhiều vợ lẽ đẹp. Theo phong tục nước Tần, hễ chồng chết thì vợ lẽ phải chon theo chồng. Nhưng Ngụy Khảo, con trai của Ngụy Thù có lòng nhân đạo nên không theo tục lệ đó. Sau Ngụy Khảo nên làm tướng nước Tần, đánh nhau với nước Tấn. Bên Tấn có tướng Đỗ Hồi rất giỏi. Hôm đó, đang đánh nhau thì ngựa của Đỗ Hồi bị vướng cỏ, Đõ Hồi ngã ngựa và bị Ngụy Khảo giết. Đêm hôm ấy, Ngụy Khảo nằm mơ thấy bố người vợ lẽ đến tạ ơn và nói : “Tôi cám ơn ông không chôn sống con tôi, nên tôi đã kết cỏ làm cho Đỗ Hồi ngã ngựa”.
– Dương Bá đời Hán,lúc 9 tuổi bắt được con chim sẻ bị thương. Bá chăm sóc chim cho khỏe rồi thả ra. Sau chim đó ngậm bốn vành ngọc trắng đem đến tạ ơn.
36. Gái thương chồng đương đông buổi chợ-Trai thương vợ nắng quái chiều hôm:
Câu tục ngữ này có rất nhiều cách giải thích. Sở dĩ có nhiều cách hiểu vì cụm từ “đương đông buổi chợ” và “nắng quái chiều hôm” được hiểu với nghĩa khác nhau. Dưới đây xin nêu một vài cách hiểu đó :
1. Hiểu đây là lời khuyên, không phê phán ai cả
“Đương đông buổi chợ” được hiểu là thời son trẻ duyên dáng của người phụ nữ, có nhiều chàng trai để ý đến.
Tình thương chồng được thể hiện rõ khi cô ta còn nhan sắc, nhiều người để ý nhưng vẫn một mực chung thủy với chồng. “Nắng quái chiều hôm” được hiểu là thời người con gái đã xế chiều, nhan sắc tàn phai và khuyên chồng nên chung thủy cả khi vợ đã luống tuổi.
2. Hiểu câu này chỉ mức độ tình yêu giữa nam và nữ một cách khách quan, không phê phán ai cả
Hiểu tình yêu của người phụ nữ đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông còn tình yêu của nam giới thì bồng bột, rực rỡ nhưng mau tàn như nắng quái chiều hôm.
3. Hiểu câu này theo cách phê phán
Tình yêu của người phụ nữ đậm đà bền chặt như buổi sáng lúc đương đông buổi chợ.
Tình yêu của nam giới chỉ thoáng qua, mau tắt ngấm như buổi chiều, lúc nắng quái chiều hôm.
Cho đến nay nhứng cách hiểu khác nhau vẫn tồn tại và chắc còn nhiều cách hiểu khác. Chúng ta chưa có cơ sở để lựa chọn và khẳng định.
37. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm-Gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn:
Nhân dân ta rất coi trọng láng giếng “Bán an hem xa mua láng giềng gần”. Nhưng hai loại láng giềng “nhà giàu” và “kẻ trộm” thì lại khổ cho láng giềng. Câu này được hiểu là “Gần nha giàu khổ như đau răng lại nhai cốm, gần kẻ trộm khổ như đang ốm lại phải đánh đòn”. Vì sao vậy ? Láng giềng giàu thường ít thích giao tiếp với hàng xóm nghèo nên khi tối lửa tắt đèn ít nhờ vả được nhau. Gần kẻ trộm thì dễ mất trộm hoặc có khi bị đòn oan. Câu này khuyên ta nên chọn láng giềng mà ở. (Cũng có người giải thích là gần nhà giàu thì được ăn nhiều đến mức đau cả răng. Giải thích cách này không hợp lô gích).
38. Già kén kẹn hom:
Trong các sách thành ngữ đều giải thích : Tình duyên lỡ làng vì quá kén chọn.
Trong cuốn tục ngữ lược giải của Lê Văn Hòe giải thích như sau :
Già kén là kén kĩ quá, kén nhiều quá.
Kẹn hom là giơ xương ra, ý nói già yếu gầy guộc, giơ xương.
Câu này ý nói : kén chọn kỹ quá thì người già mất.
Giải nghĩa như trên không có gì sai. Nhưng câu này gốc là “Già kén kẹn hom” và chỉ thấy trong từ điển của Gensibrel (1893) ghi là chẹn và dịch tiếng Pháp là serer (tức xương hom bị chẹn lại). Câu này có nghĩa là già kén (kén chồng) thì lấy chồng muộn (vãn hôn) và dễ mắc bệnh chẹn hom. Một số thầy thuốc có nói bệnh chẹn hom là bênh khi sinh nở lần đầu, xương hom – không giãn nở to, khó sinh và dễ chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy, ngày trước có bài thuốc chữa bệnh chẹn hom để làm cho dây chằng dễ giãn khi đẻ. Nếu hiểu như vậy thì câu thành ngữ này khuyên phụ nữ đừng kén chọn quá dễ nguy hiểm đến tính mệnh.
Câu thành ngữ này cũng còn có cách giải thích khách như : Kén là kén tằm (danh từ) nếu để kén đã bị bướm cắn thủng (già kén) thì khó kéo tơ. Cách giải thích này rất xa với nghĩa ta thường hiểu.
39. Giấy rách phải giữ lấy lề:
Sách chữ nho ngày trước thường phải đóng lề ở gáy để kết chặt các tờ thành quyển. Khi viết, ở phần lề được để trắng, rông độ 3 centimet theo chiều dọc. Trong quyển sách, lề là phần gốc, nếu lề bị hỏng thì toàn quyển sách sẽ bung ra hết. Dù giấy có rách, phần gốc vẫn cần bảo tồn.
Câu thành ngữ này khuyên ta nên giữ vững truyền thống, nề nếp của gia đình. Lề từ nghĩa đen đã được mở rộng để chỉ những phong tục tốt đẹp trong câu “Đát có lề, quê có thói”.
40. Gió táp mưa sa:
Thành ngữ này có 2 nghĩa : nghĩa hẹp chỉ sự vất vả ở đời. Nhưng trong văn học, gió táp mưa sa lại dùng để chỉ người có tài làm câu thơ, tứ thơ đều nhanh như gió mưa do câu Phong vũ thôi thi tứ (tứ thơ đẩy đến ào ạt như gió mưa).
Tay tiên gió táp mưa sa
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
(Truyện Kiều)
41. Gương vỡ lại lành:
Thành ngữ này nói ý hàn gắn, đoàn tụ, sự thay đổi từ xấu thành tốt trong đời sống.
Điển tích xưa chép câu chuyện như sau : Từ Đức Ngôn yêu công chúa Nhạc Xương nhưng vì loạn lạc, hai người phải xa nhau. Họ bẻ đôi chiếc gương, mỗi người giữ một nửa. Về sau, Đức Ngôn lên kinh đô, thấy có người bán mảnh gương vỡ. Nhờ manh mối đó, Đức ngôn đã tìm được người yêu, hai mảnh chắp lại thành gương cũ.
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
(Truyện Kiều)
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.
(Tố Hữu)
42.Da mồi tóc bạc:
Thành ngữ này dùng để miêu tả những người cao tuổi. tóc bạc là tóc trăng như bạc. Da mồi là da bị vết lốm đốm, thường có màu nâu như mai con đồi mồi. Đồi mồi thuộc họ rùa sống ở ven biển, mai có hoa rất đẹp, dùng làm lược hoặc kẹp tóc.
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi quăn vẫn hoàn quăn
(Ca dao)
43. Dốc bồ thương kẻ ăn đong:
Nông dân thường đựng thóc vào bồ. Dốc bồ là nhà hết thóc. Khi đó mới thương những người đi đong gạo ăn hằng ngày. Câu này ý nói có cùng cảnh ngộ thì mới thương nhau, dễ thông cảm với nhau.
44. Dốt đặc cán mai – Dốt có chuôi:
Mai là dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai thường làm bằng táu, một thứ gỗ rất cứng để khi bẩy đất không bị gãy cán. Dốt đặc cán mai ý nói đầu óc bị đặc như cán mai, không có chỗ để nhét chữ vào được.
Dốt có chuôi (dốt co đuôi) là do điển tích xưa. Một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Thầy không biết viết chữ Tròn nên khoanh một vòng. Có kẻ tinh nghịch sổ thêm một nét thành cái gáo. Gáo dừa thường có chuôi (cán) dùng để cầm. Khi cúng, thầy đọc tên là gáo làm cho gia chủ bực mình.
45. Đanh đá cá cày:
Câu thành ngữ này có nghĩa là ương ngạnh, cứng cỏi, không chịu thua kém ai. Cá cày là cái cá (làm bằng tre hoặc gỗ, to bằng cái cán dao, hình như con cá) dùng để nâng bắp cày lên xuống khi muốn cày nông hoặc sâu. Cá cày tuy nhỏ nhưng điều khiển được cả lưỡi cày.
46. Đánh giáp lá cà:
Câu này ai cũng hiểu là đánh nhau mặt đối mặt, hai bên giáp sát vào nhau. Từ điển Việt Nam của hội Khai trí tiến đức giải nghĩa giáp lá cà : “nơi quân hai bên xông vào đâm chem. nhau”. Từ giáp này hiện nay vẫn dùng : Hai nhà ở giáp nhau. Hai người giáp mặt nhau.
Nhưng lá cà là gì ? Có người giải thích : Ngày Xưa, trong chiếc áo của ta có dùng nhiều từ lá. Lá sen là bộ phận đệm phía trong vai áo để mặc được bền. Miếng vải này hình giống lá sen. Lá xoài là một miếng vải đệm bông, lòng vào cổ và tỏa ra hai vai. Phu khiêng kiệu, khiêng cáng thường phải có lá xoài để đỡ đau vai và đỡ rách áo. Lá cà là một bộ phận trong áo võ quan. Loại này có hồng tâm bằng đồng đẻ che ngực và một mảnh lá cà để che bụng và hạ bộ. Mảnh này giống hình chiếc lá cà. Trong quần áo hát hội, các nghệ nhân gọi nó là lá cà. Đánh giáp lá cà là mặt đối mặt, các lá cà của hai tướng sát vào nhau.
47. Đánh trống lảng:
Trong lễ tế thần, khi tiến rượu, các tế viên (ông mạnh, ông bồi) phải đi khoan thai, từng bước một, theo điệu nhạc và nhịp trống từ ngoài sân vào trong cung. Khi ở trong cung trở ra, các tế viên phải bước rất nhanh theo nhịp trống dồn nhập gọi là trống lảng (tiếng giục để lảng ra cho nhanh). Sau này, thành ngữ đánh trống lảng được dùng với nghĩa : một người nào đó đang nghe chuyện này thì nói lảng ra chuyện khác, hoặc lảng ra chỗ khác để tránh điều bất lợi cho mình.
48. Đánh trống lấp:
Trong lễ tế thần, khi đọc văn tế, vì kiêng tên húy của thần nên người đọc văn chỉ đọc lẩm nhẩm trong miệng. Tuy vậy, vẫn sợ người ngoài biết tên húy nên khi đọc đến tên và chức tước của thần, người đánh trống còn điểm mấy tiếng trống để làm lấp tiếng người đọc. Đánh trống lúc đó gọi là trống lấp. Ngày nay, thành ngữ này thường dùng để chỉ việc kể lể lôi thôi nhằm lấp liếm câu chuyện chính hoặc che đậy lỗi lầm của mình.
49. Đánh trống qua cửa nhà sấm:
Đây là một thành ngữ bắt nguồn từ điển tích Trung Quốc với nghĩa là : người kém tài chớ qua cửa người giỏi, gần giống thành ngữ “Đừng thi bơi với giải’ (giải là một loài bò sát lớn thường sống ở đầm nước, bơi rất nhanh). Theo điển tích xưa, Ngô Phù Sai đóng đô ở Cô Tô, xây thành có đặt tên cửa là Xà môn (cửa Rắn) để trấn áp nước Việt. Người Việt làm cửa Lôi môn (cửa Sấm) để chống lại. Hễ đánh trống lớn ở cửa Lôi môn thì cửa Xà môn lập tức mở ra để dò xem động tĩnh.
50. Đèo heo hút gió:
Thành ngữ này dùng để chỉ nơi hoang vắng (đi vào nơi đèo heo hút gió). Sinh thời, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã giải thích cho tôi như sau :
Chính là “đèo Neo hút gió” bị nói chệch đi. Ngày trước, đường quốc lộ đi từ Thăng Long lên ải Nam quan phải đi qua đèo Neo (một cái đèo ở gần thị xã Bắc Giang bây giờ). Tiễn những người đi sứ sang Trung Quốc, bạn bè dù thân thiết cũng chỉ đi tiễn đến đèo Neo, đặt rượu tiễn hành rồi quay về. Người đi sứ phải đi vào đoạn đường rừng hoang vắng để lên cửa ải.
Cũng nhân từ đèo Neo (một danh từ riêng) nhà văn Nguyễn Công Hoan còn nói : Lưu Đồn trong bài ca dao : “Ba năm trấn thủ Lưu Đồn” cũng là một danh từ riêng. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh cho đóng một đồn binh lớn ở phía bắc sông Gianh để canh phòng. Lưu Đồn là một địa danh nay thuộc tỉnh Quảng bình.
51. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn:
Câu tục ngữ này khuyên ta nên tìm học trong thực tế cuộc sống. Lời khuyên này rất quý và sâu sắc.
Ngày là nói về thời gian, đàng (đường) là nói về không gian . Ngày đàng kết hợp tạo nên một nghĩa bao quát là đi vào cuộc sống để học hỏi những tri thức của cuộc sống để nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản thân mình.
Tại sao lại nói một sàng khôn, mà không nói một thúng khôn, một bị khôn. Nếu suy nghĩ đơn giản thì sàng vần với đàng. Nhưng phải hiểu sàng là gì ? Sàng là một dụng cụ đan bằng tre, hình tròn như cái mâm, nông và thưa. Ở nông thôn, nhà nào cũng có sàng để khi xay thóc xong, dùng sàng để làm sạch trấu và cám, chỉ giữ lại gạo.
Vì vậy, đi trong cuộc sống, không phải thấy điều gì cũng học vì có điều hay điều dở. Chúng ta phải sàng lọc, chỉ học điều hay, điều khôn mà thôi.
52. Đổi thay nhạn yến:
Thành ngữ này để chỉ thời gian một năm. Về mùa đông, chim nhạn (tức hồng nhạn) thường di cư về phía nam để tránh rét (hồng nhạn còn gọi là chim sếu). Về mùa xuân, chim yến (én) bay về. Thành ngữ này giống thành ngữ đông qua xuân tới.
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
(Truyện Kiều)
53. Đồng không mông quạnh:
Thành ngữ này được dùng để chỉ một nơi trống trải, vắng lặng gây cho ta cảm giác cô đơn (không là trống trải, quạnh là vắng vẻ).
Trong thành ngữ trên, đồng là danh từ (cánh đồng) thì mông cũng là danh từ mới đối xứng theo cách kết cấu phổ biến của thành ngữ. Tiếng Việt cổ, mông là một bãi trống. (ở vùng nghệ tĩnh còn giữ từ này trong phương ngữ)..
54. Đố ai gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng:
Câu này có 3 thành ngữ : gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng. 3 thành ngữ này đều nói những điều không thể làm được. Không ai gánh đá vá trời được như nhân vật Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc. (Thuở sơ khai), bầu trời còn thủng lỗ chỗ, bà Nữ Oa đã luyện đá ngũ sắc vá lại bầu trời. (Trích theo sách của Hoài Nam Tử). Nhiều như nước biển mà dùng gàu để tát thì tát sao cạn. Người cung Trăng chỉ Hằng Nga thì sao mà ghẹo được.
Các thành ngữ này khuyên ta đừng có làm điều viển vông, không tưởng. Muốn thành công ở đời cần có óc thực tế.
55. Đơn thương độc mã:
Thương là ngọn giáo, mã là ngựa. Thành ngữ này nghĩa gốc là một giáo một ngựa dùng để chỉ sự đơn độc, lẻ loi trong khi chiến đấu với khó khăn nguy hiểm, không có sự hỗ trợ của người khác.
56. Đơm đó ngọn tre:
Đó là đồ dùng đánh cá hình thon dài, miệng có hom, cá chui vào nhưng không chui ra được. Đơm đó phải đơm chỗ có nước chảy. Đơm đó ở ngọn tre thì làm gì có cá.
Câu này chế giễu người nào mong đợi những điều viển vông.
57. Đứng mũi chịu sào:
Khi con thuyền vượt qua ghềnh thác, người đứng ở mũi thuyền, cầm sào chèo chống có vai trò quan trọng và phải chịu gian khổ nguy hiểm.
Từ nghĩa này, thành ngữ đứng mũi chịu sào chỉ công việc quan trọng, gánh vác nhiệm vụ nặng nề, đương đầu với gian khổ vì lợi ích chung.
Ca dao có câu :
Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.
(phải hiểu là vợ và chồng cùng đứng mũi chịu sào, cùng chung gian khổ, cùng đồng tâm hiệp lực để vượt khó khăn, không nên hiểu là chồng trút khó khăn cho vợ).
58. Đường vòng hay tối, nói dối hay cùng:
Đi đường vòng thì xa có khi trời tối mà chưa đến nơi. Nói dối thường gặp chỗ cùng, bế tắc không dối ai được nữa.
Câu này khuyên ta nên đi đường thẳng, không đi ngang về tắt ý khuyên làm những việc quang minh và nói lời ngay thật.
59. Cạn tàu ráo máng:
Máng là dụng cụ đựng thức ăn cho lợn và gia súc (máng phải kín xung quanh để đổ thức ăn loãng không chảy ra ngoài). Tàu cũng là dụng cụ dùng đựng cỏ cho ngựa, voi (về sau tàu được mở rộng nghĩa, chỉ chuồng nhốt voi, ngựa).
Thành ngữ này lúc đầu chỉ sự chăm sóc thiếu chu đáo đối với vật nuôi vì tàu và máng không có thức ăn. Về sau, thành ngữ này chỉ sự đối sử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người (ăn ở với nhau cạn tàu ráo máng)
60. Cầu toàn trách bị:
Thành ngữ này có nghĩa mong muốn được hoàn toàn, được đầy đủ, không còn thiếu thứ gì.. Điều mong muốn này rất khó đạt được trong thực tế. Vì vậy, mọi người thường nói “đừng nên cầu toàn trách bị nữa”.
Cầu : mong, muốn ; trách : đòi hỏi ; toàn, bị : vẹn toàn, trọn vẹn (Ví dụ : Ông ấy làm việc gì cũng cầu toàn trách bị).
61. Chạy như cờ lông công:
Ngày trước, trên đường thiên lí có các trạm, các cung. Ở đây, các phu trạm phải chuyển công văn từ trạm này tới trạm khác. Nếu công văn khẩn (hỏa tốc) thì người phu trạm phải mang theo một sợi lông đuôi của con công và phải chạy thật nhanh (về sau, thiếu lông công, phải thay bằng lông gà có buộc cục than).
Nhân dân thấy trên đường, các phu trạm chạy từ cung này đến cung kia nên có thành ngữ này để diễn đạt ý “chạy rối rít, chạy loạn xạ”.
62. Chín chữ cù lao:
Thành ngữ này thường dùng để chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. (Cù là siêng năng, lao là khó nhọc). Chín chữ cù lao ấy là :
Sinh : đẻ, cúc : nâng đỡ, phủ : vuốt ve, súc : cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng: nuôi cho lớn, dục : dạy dỗ, cố : trông nom săn sóc, phục : xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, phúc : giữ gìn.
Trong Truyện Kiều có câu :
– Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.
– Nhớ ơn chin chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
63. Chân ướt chân ráo:
Thành ngữ này do phong tục rước dâu ngày trước tạo nên. Khi cô dâu bước chân về nhà chồng, mẹ chồng ra đỡ nón cho cô dâu, nhúng chân cô dâu vào một chậu nước để rửa làm phép (trong chậu có bỏ mấy đồng tiền ngầm chúc tiền của sẽ vào như nước). Sau đó, cô dâu phải bước qua một chậu than hồng (để trừ ma quỷ) trước khi vào buồng.
Vì vậy, thành ngữ này có nghĩa là : thời gian chưa lâu (cô ấy mới chân ướt chân ráo về nhà chồng).
64. Chân le chân vịt:
Le là giống biết bay, vịt là giống không biết bay chỉ lạch bạch đứng một chỗ. Câu này ý nói nửa muốn đi, nửa muốn ở.
65. Chim ra rang:
Ràng là từ cổ, có nghĩa là chuồng : Một số nơi còn dùng từ ràng trâu để chỉ chuồng trâu. Chim ra rang là chim đã đủ lông đủ cánh, mới ra khỏi chuồng (tức chim non). Hiện nay, ta dùng từ ràng buộc nghĩa gốc là nhốt vào chuồng và cột chặt.
66. Cho bạc cho tiền không bằng cho nghiên cho bút:
Câu tục ngữ này nói lên truyền thống hiếu học của dân ta. Nghiên bút dùng để chỉ việc học hành. Nuôi con học hành đến nơi đến chốn để tạo cho con thành người hữu ích, có đạo đức còn hơn cho con tiền bạc. Tiền bạc dù nhiều thì tiêu cũng hết (miệng ăn núi lở). Nếu cho con tri thức thì không bao giờ hết vì tri thức gắn liền với nghề nghiệp.
Trong thời đại hiện nay, câu này càng có giá trị vì thế kỉ XXI là thế kinh tế tri thức.
67. Con rồng cháu tiên:
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là giống rồng, Âu Cơ là giống tiên, sinh ra một trăm người con. Sau đó, Lạc Long Quân đem 50 con xuống vùng biển, Âu Cơ đem 50 con lên núi. Số người này đã lập nghiệp tạo nên các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thành ngữ này nói lên nguồn gốc và lòng tự hào dân tộc.
68. Con cà con kê:
Nông dân ta thường reo hạt cà, hạt kê thành từng đám. Khi đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó từng bó nhỏ gọi là con, rồi mới đem cấy ở ruộng. Công việc trồng cà, trồng kê rất lâu, rề rà, vì phải tách ra từng cây giống trước khi cấy vào luống. Vì vậy thành ngữ này thường dùng với từ “kể lể con cà con kê suốt cả buổi” để chỉ thói quen nói dai, kể lể dài dòng, hết chuyện này đến chuyện khác.
69. Có công mài sắt có ngày nên kim:
Đây là một câu tục ngữ rất phổ biến, khuyên mọi người phải có ý chí bền bỉ, kiên nhẫn thì dù việc khó đến đâu cũng thành công.
Chuyện xưa kể rằng Lí Bạch thuở nhỏ hay ham chơi, ít chịu khó học hành. Một hôm, cậu thấy một bà già đang ngồi bên tảng đá để mài một thanh sắt. Cậu hỏi thì bà trả lời : “Mài thanh sắt để làm thành cái kim khâu cháu ạ !” Cậu hỏi : “Liệu hôm nay có xong không hả cụ ?” Bà già trả lời : “Hôm nay không xong thì ngày mai mài tiếp. Tháng này không xong thì tháng sau mài tiếp”.
Thấy vậy, Lí Bạch chợt hiểu ra và từ đó dốc tâm học tập. Về sau, Lí Bạch học giỏi, trở thành một nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc.
70. Công dã tràng:
Dã tràng là một con vật nhỏ, giống hình con cáy, chạy rất nhanh, sống ở bãi cát ven biển. Dã tràng thường dùng hai càng để xe cát và ăn các chất hữu cơ có trong cát. Cát bị xe thành từng viên nhỏ như hạt đu đủ, mỗi khi có sóng biển tràn lên thì tan ra hết. Vì vậy mọi người cho rằng dã tràng làm một việc vô ích. Ca dao có câu :
Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Từ đó, thành ngữ này dùng để chỉ một việc làm phí công sức mà không có ích lợi.
Cổ tích của ta cũng có chuyện Dã Tràng có viên ngọc nghe được tiếng nói của chim. Sau viên ngọc bị Long vương lấy mất nên Dã Tràng cứ ở ven biển đào cát để tìm lại viên ngọc.
71. Công như công cốc:
Cốc là một loài chim mình đen như quạ, có tài lặn dưới nước để bắt cá. Nhiều người dân chài đã thuần dưỡng cốc để kiếm cá cho chủ. Học cho Cốc đeo một chiếc vòng bằng ddoongfowr cổ. Hễ mò được cá nhỏ, cốc có thể nuốt được. Nhưng nếu bắt được cá to , cốc đành chịu. Chủ nuôi sẽ được cá to đem bán. Thành ngữ này nói lên ý tốn công sức mà không được hưởng thành quả.
72. Của người bồ tát, của mình lạt buộc:
Vế thứ hai “của mình lạt buộc” thì ai cũng hiểu và giữ khư khư, không chịu rời cho ai đồng nào. Nhưng còn vế đầu “của người bồ tát” thì bồ tát nghĩa là gì ? Có nhiều cách giải thích khác nhau.
1. Theo trong kinh Phật, bồ tát là bậc tu hành đã đắc đạo, có thể lên ngôi như Phật nhưng vẫn náu lại nơi hạ giới để cứu nhân độ thế. Ông Bồ Tát rất phóng tay cứu giúp mọi người.
2. Có người cho rằng bồ tát là nói chệch của từ bố tát. Bố từ Hán có nghĩa là tung ra (như trong bố thí). Tát từ Hán có nghĩa là buông thả (bố tát là tháo tung ra). Dù giải thích cách nào thì nghĩa của vế đầu vẫn là : “của người thì phung phí rộng rãi” để đối lập với vế sau là bo bo giữ cảu mình.
73. Cữ gió tuần mưa:
Theo cách chia thời gian ngày trước, một cữ là 7 ngày, một tuần là 10 ngày. Ngày nay vẫn còn nói “Chị ấy mới ở cữ”, tức mới sinh con được một vài cữ. Một tháng chia ra ba tuần : thượng thần (10 ngày đầu tháng), trung tuần (10 ngày giữa tháng), hạ tuần (10 ngày cuối tháng).
Câu này nói ý nhớ người thân đi xa vất vả.
Não người cữ gió tuần mưa
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày
(Truyện Kiều)
74. Cười như nắc nẻ:
Nắc nẻ là loại côn trùng hình như con bướm, ban đêm hay bay vào nơi thắp đèn, luôn đập cánh, xè xè trên vách. Thành ngữ này ý nói cười liên tiếp không dứt. (Có sách giải nghĩa cười giòn giã là không chính xác).
75. Cưỡi ngựa xem hoa:
Câu này có nghĩa là qua loa, đại khái, không tìm hiểu kĩ. Sở dĩ có thành ngữ này cũng là do câu chuyện sau : Một chàng công tử chân bị què muốn đi xem mặt vợ. Không ngờ cô vợ tuy đẹp nhưng bị sứt môi. Người làm mối cho chàng công tử cưới ngựa đi qua cổng và dặn cô gái đứng ở cổng, tay cầm bong ho ache miệng. Hai bên đồng ý kết hôn. Khi cưới mới biết các tật của nhau.
76. Ba voi không được bát nước xáo:
Trong nhiều từ điển đều giải thíchnghĩa là “nói khoác, không đúng sự thật”, hoặc “huênh hoang, hứa nhiều nhưng không làm đúng như lời đã hứa”.
Cơ sở cho cách hiểu trên là sự tương phản về khối lượng. Một bên là voi, một loài thú rất lớn (thậm chí là ba voi, hoặc mười voi để tăng về khối lượng) và một bên là bát nước xáo, một lượng rất ít. Đó là nghĩa bóng của thành ngữ này.
Không một người Việt nào hiểu sai thành ngữ trên (ví dụ hiểu thịt voi không ngon cho nên nước xáo nhạt). Nhưng về nghĩa thực (nghĩa đen) thì ít người hiểu rõ. Trong bài “Kể chuyện về loài voi” của Bá Thành (Tuần tin tức số 15-1993) có một thông tin rất đáng chú ý : “Thịt voi là loại thịt săn, chắc, đặc biệt là thịt ở vòi. Khi nấu thịt voi dù có đổ nhiều nước, thịt nở ra vẫn hút hết nước”. có lẽ nhờ tính chất hút rất nhiều nước của thịt voi mà chúng ta hiểu rõ thêm về nghĩa đen của thành ngữ này vì đã mấy ai được ăn thịt voi, luộc thịt voi mà biết rõ.
(Theo Hà Quang Năng)
77. Bán chỗ nằm, mua chỗ ngồi:
Câu này cũng gần nghĩa với câu “Bán gia tài mua danh phận”. ngày trước, ở nông thôn, người ta chuộng chỗ ngồi ở chốn đình trung khi hợp làng. Nhiều người bỏ tiền mua một chức Nhiêu, chức Xã để có một chỗ ngồi, rồi lại phải khao vọng tốn kém. Vì thế có người phải bán cả nhà, đất để có một danh vị hão. Chỗ nằm tức là nơi nhà ở, chỗ ngồi tức là góc chiếu nơi đình trung.
78. Bạn tri âm:
Tri âm nghĩa là hiểu được tiếng đàn , nghĩa rộng là hiểu được long mình. Tong truyện “Kim cổ kì quan” của Trung Quốc có ghi lại một tình bạn hiếm có giữa Bá Nha và Chung Tử Kì. Bá Nha làm quan, một lần đi thuyền về quê, ghé đậu vào một bến sông. Trong đêm trăng, Bá Nha đem đàn ra gảy.Vừa lúc đó, Tử Kì đi qua, nghe tiếng đàn liền dừng lại. Thấy có người mải mê nghe tiếng đàn, Bá Nha liền mời xuống thuyền. Tử Kì là người sành nghe đàn. Khi Bá Nha nghe đến núi cao thì Tử Kì khên. “Cao vòi vọi như núi Thái Sơn”. Khi Bá Nha nghe đến sông nước thì Tử Kì khen “mênh mông như Trường Giang, Hoàng Hà”.
Thấy có người hiểu sâu được tiếng đàn của mình, Bá Nha liền kết làm an hem và hỏi về gia cảnh. Tử Kì thưa còn có mẹ già nên hàng ngày phải đi đốn củi để bán lấy tiền nuôi mẹ. Bá Nha từ biệt Tử Kì để xuôi thuyền về quê và hẹn một tháng sau, khi trở lại nhiệm sở sẽ nghé thăm. Đến hẹn, Bá Nha tìm đến thì Tử Kì đã qua đời, chỉ còn mẹ già. Bá Nha mời mẹ Tử Kì về ở với gia đình mình và phụng dưỡng rất chu đáo. Từ ngày Tử Kì mất, Bá Nha treo đàn vì mất bạn tri âm.
Thành ngữ của ta còn có các câu nói về tình bạn như “bạn cố tri” (bạn hiểu nhau từ lâu), “bạn nối khố” (bạn từ thuở hàn vi chia nhau cả cái khố vải).
79. Bầu dục chấm nước cáy (chấm mắm cáy):
Bàu dục là món ăn ngon và bổ trong bộ lòng lơn. Nước cáy là thứ nước mắm ướp bằng con cáy, thường nặng mùi, có sắc đục, chấm không ngon. Bầu dục mà đem chấm nước cáy thì phí mất cả chất ngon của bầu dục.
Đại ý câu này nói lên hai đối tượng không phù hợp, không cân xứng. Cũng còn có ý chê người có miếng ngon mà không biết cách ăn.
Câu này thường bị nói lầm là “dùi đục chấm nước cáy”.
80. Bạo hổ bằng hà:
Thực ra phải nói là bạo hổ băng hà. Bạo hổ là tay không bắt hổ, băng hà là không có thuyền mà dám vượt qua sông lớn. Thành ngữ này ý nói táo bạo nhưng mạo hiểm.
81. Bằng cái sẩy nẩy cái ung:
Sẩy là nốt rôm nhỏ nổi trên da. Nếu không biết giữ gìn thì có thể trở thành cục to nguy hiểm (cái ung, cái nhọt). Câu này khuyên ta đừng có coi thường việc nhỏ hoặc để chỉ một tai nạn lớn từ việc nhỏ gây nên.
82. Bĩ cực thái lai:
Kinh dịch có 64 quẻ, trong đó có quẻ bĩ và quẻ thái. Quẻ bĩ tượng trưng cho sự bế tắc, không thuận lợi, quẻ thái tượng trưng cho sự thuận lợi, hanh thông. Đây cũng là một quan điểm biện chứng, lạc quan. Khi nào sự bế tắc đến cùng cực (bĩ cực) thì sự hanh thông, thuận lợi sẽ tới (thái lai). Câu này nói ý hết khổ đến sướng, giống như câu “khổ tận cam lai” (khổ là đắng, cam là ngọt, hết thời cay đắng thì đến thời ngọt bùi).
83. Bố vợ là vớ cọc chèo:
Trong tiếng Việt hiện đại, vớ là danh từ có nghĩa là bít tất (miền Nam vẫn dùng), vớ là động từ có nghĩa là tóm được, níu lấy. (chết đuối vớ được cọc, nạ dòng vớ được trai tơ).
Cả hai nghĩa trên đều không khớp với câu tục ngữ này. Vớ trong câu tục ngữ là từ cổ, hiện nay chỉ một số vùng còn dùng như ở Tam Kì (Quảng Nam). Vớ là một vật kết bằng thừng, giống hình số 8, một nửa lồng vào mái chèo còn nửa kia lồng vào khấc ở đầu cọc chèo. Nếu không có cái vớ thì không chèo được, nếu buộc chặt mái chèo vào cọc chèo cũng không chèo được. Câu này có nghĩa là : tình cảm giữa bố vợ và chàng rể dù có buộc nhưng không chặt chẽ, khăng khít như con đẻ. Ý này rất hợp với câu thứ hai “Mẹ vợ là bèo trôi sông”.
Bèo trôi sông cũng kết thành mảng nhưng kết không chặt, sóng to gió cả cũng dễ tan.
Từ câu tục ngữ trên nên mới có từ “bạn cọc chèo” để chỉ hai anh rể lấy hai chị em ruột (bạn đồng hao).
84. Bợm già mắc bẫy cò ke:
Bẫy cò ke là loại bẫy thô sơ dùng để bẫy chim. Bẫy bằng tre, có cần và lẫy. Mồi gắn với lẫy. Hễ chim ăn mồi thì lẫy bật ra và cần tre sẽ sập xuống.
Bợm già là những tay lọc lõi trong nghề lừa đảo, thế mà có khi còn mắc bẫy, mắc những mưu lừa tầm thường vì thiếu cảnh giác.
(Cò ke có nhiều cách giải thích. Cò ke là một loại quả dùng làm mồi. Cò ke là chiếc cò có lẫy).
85. Vén tay áo sô đốt nhà tang giấy
Áo sô là áo của người có đại tang (tang bố mẹ), nhà tang giấy là nhà làm bằng giấy có khung bằng nứa để đậy trên quan tài khi làm lễ tang. Khi ra đến huyệt, sau khi chôn cất xong, người ta thường đốt nhà tang giấy. Vén tay áo sô thì không khó gì vì áp sô bằng vải mỏng và rộng tay. Đốt nhà tang giấy cũng rất dễ. Câu này ý nói làm một việc rấ dễ dàng chóng xong. (Thời xưa, chỉ nhà giàu mới làm nhà tang giấy. Các nhà thường dân dùng chung nhà tang bằng gỗ của phe giáp).
86. Vênh váo như khố rợ phải lấm
Câu này thường bị nói nhầm thành “Vênh váo như bố vợ phải đấm”.
Ngày trước, nhiều người nghèo đến mức không có vải để đóng khố, phải dùng vỏ một loại cây, ngâm nước rồi đập thành mảng cho mềm để đóng khố (chăn sui khố rợ). Đóng khố có yêu cầu là kín hai bên nhưng khố rợ khi lấm bùn thì không mêm fnhuw vải mà cứng lại, tạo nên sự vênh váo.
Trong một cuộc tọa đàm ở Viện khoa học Giáo dục (1965), nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng tán thành cách giải thích này nhưng ông còn nói thêm câu “Vênh váo như bố vợ cậu ấm”. Cậu ấm là con quan, người được thông gia với quan cũng dễ lên mặt, dễ vênh váo với thiên hạ lắm chứ. Chúng tôi xin nêu để bạn đọc tham khảo thêm.
87. Vung tay quá chán
Vung là động từ chỉ hoạt động nhanh, mạnh khi ném một vật gì. Vung còn đi với các từ vung vãi, vung phí.
Quá chỉ ý vượt quá hơn mức bình thường như thái quá, quá trớn. Thành ngữ này nói lên sự vung phí tiền của thái quá so với mức cần thiết và có nhiều đặc điểm chung với thành ngữ “Ném tiền qua cửa sổ”. Song thành ngữ Vung tay quá chán có ý nghĩa và cách dùng rộng hơn nghĩa là không chỉ nói về chi tiêu hoang phí mà còn nói về bất kì sự chi dùng hoang phí nào.
88. Xắn tay quai cồng
Cồng là một loại chiêng nhỏ dùng để làm hiệu lệnh. Quai cồng thường là loại dây thừng to và bề. Khi đánh, một tay xách quai, một tay dùng để gõ vào mặt cồng. Người phụ nữ xưa mặc váy dài. Khi làm việc, họ phải buộc một dây thừng vào bụng và giắt cặp váy vào dây cho váy cao lên khoảng đầu gối để đỡ vướng.
Thành ngữ này dùng để chỉ những người phụ nữ tháo vát, lam lũ. Cũng có khi dùng chỉ những người phụ nữ đanh đá.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến trong câu đối khóc vợ cũng có hình ảnh này : “Nhớ bà xưa, xắn tay quai cồng, chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc”.
89. Xấu như ma lem
Ở Trung Quốc ngày xưa có 4 người đẹp và 5 người xấu được ghi trong sử sách và truyền vào nước ta.
Bốn người đẹp là : Tây Thi (đòi Xuân Thu), Chiêu Quân (đời Hán), Điêu Thuyền (đời Tam Quốc), Dương Quý Phi (đời Đường).
Năm người xấu nhất nước là : Mô Mẫu (vợ hoàng đế Trung Hoa cổ đại)
Chung Vô Diệm (vợ vua Tề Tuyên Vương thời Chiến Quốc).
Mạnh Quang (vợ danh sĩ Lương Hồng đời Hậu Hán)
Nguyên nữ (vợ danh sĩ Hứa Doãn đời Đông Tấn).
Hoàng Thi (vợ Khổng Minh Gia Cát Lượng).
Trong số này, Chung Vô Diệm là xấu nhất. Bà chính họ là Chung Li, tên là Xuân, người đất Vô Diệm, tỉnh Sơn Đông (chính bà này được người đời gọi xấu như ma lem).Sách xưa ghi lại hình dáng bà như sau : tóc đỏ, mắt xanh, môi dày, miệng rông, bụng phệ, lưng gù, da sạm.
Tại sao Tề Tuyên Vương lại lấy bà này làm chính phi ? Bà rất tài trí tinh thông văn võ. Năm 40 tuổi, bà xin gặp mặt vua. Chỉ trong một buổi đối thoại, Tề Tuyên Vương đã bị thuyết phục. Khi nhà vua hỏi về việc nước ba fthuwa “Nước Tề bị nước Tấn uy hiếp ở phía tây, nước Sở uy hiếp ở phía nam, đó là nguy cơ thứ nhất. Nhà vua làm nhọc sức dân, hao tiền tốn của, đó là nguy cơ thứ hai/ Trong triều hiếm người hiền, trọng kẻ nịnh, đó là nguy cơ thứ ba. Đấng quân vương ham mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là nguy cơ thứ tư”.
Trước những lời thẳng thắn, cương trực của Chung Li, Tề Tuyên Vương đã bừng tỉnh và nói : “Nếu không có lời nói của nhà ngươi thì quả nhân không bao giờ biết được lỗi lầm của mình”. Vua liền lập Chung Vô Diện làm chính phi để giúp mình trông coi việc nước.
Câu chuyện này nhập vào nước ta cũng có ý sâu xa, vì bà này tuy nhung nhan xấu nhưng công, ngôn, hạnh lại nổi bật.
90. Xập xí xập ngầu
Đây là một thành ngữ gốc Hán, do Hoa kiều ở Quảng Đông, Phúc Kiến dùng và đã nhập vào kho thành ngữ tiếng Việt.
Hoa Kiều phát âm là “xập xí xập ngầu” nhưng nếu đọc theo âm Hán Việt là “tập tứ thập ngũ” (mười bốn mười lăm). Nghĩa của thành ngữ này là : mười bốn nói là mười lăm, mười lăm nói là mười bốn, không minh bạch rõ ràng. Tiếng Việt có từ “ù xịa” cũng dùng để chỉ khái niệm này.
Từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Quảng Đông có khá nhiều.
Ví dụ :
– Lục tàu sá (lục đậu sa = chè đậu xanh).
– Mì chính (vị tinh = một loại tinh chất dùng làm gia vị).
– Bát bảo lường xà (bát bảo lương trà = một loại trà chế bằng 8 vị thuốc quý).
Hình ảnh loài vật trong thành ngữ
Trong tiếng Việt, nhân dân ta thường mượn hình tượng các con vật để tả vẻ xấu, đẹp, tính lành dữ của con người. Lối so sánh này giàu tính nghệ thuật và trí tưởng tượng là cho tiếng Việt thêm giàu, thêm đẹp.
1. Muốn thể hiện vẻ xấu đẹp về diện mạo, ta thường nói : mắt bồ câu, mày ngài mắt phượng, ti hí mắt lươn, trơ mắt éch, tròn xoe như mắt ốc nhồi, trắng dã như mắt lợn luộc, đỏ hoe như mắt cá chày, lông mày sâu róm, mũi sư tử, dô như trán khỉ, mồm cá ngão, mồm loa mép giải, nhăn như khỉ ăn gừng, mặt dài như mặt ngựa…
2. Muốn thể hiện hình dáng, ta thường nói : gầy như xác ve, béo như lợn ỉ, thắt đáy lưng ong, mình cá trắm, gù lưng tôm, đùi dế, cổ cò, chân dài như chân sếu, to như chân voi, tay dài như vượn, đen như quạ, béo như cun cút…
3. Muốn thể hiện tính nết, phong cách, ta thường nói : nhanh như sóc, chậm như rùa, yếu như sên, khỏe như trâu, mạnh như hổ, hôi như cũ, hôi như chuột chù, dốt như bò, chữ như gà bới, lủi như cuốc, ngu như lợn, học như cuốc kêu mùa hè, thẳng như ruột ngựa, dai như đỉa đói, ngang như cua…
4. Hình ảnh loài vật còn được dùng để thể hiện hoàn cảnh đời sống
Được đăng bởi d.khanh42@gmail.com vào lúc 04:58
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
Chia sẻ lên Pinterest
7 nhận xét:
Unknown06:49 19 tháng 8, 2018
NO
Trả lời
Unknown04:34 7 tháng 11, 2018
Những câu thành ngữ này rất là hay
Trả lời
Unknown05:52 22 tháng 11, 2018
như cứt ngu như chó
Trả lời
Unknown05:52 22 tháng 11, 2018
như cứt ngu như chó
Trả lời
Unknown05:17 23 tháng 11, 2018
I LOVE IT
Trả lời
Unknown02:15 5 tháng 12, 2018
em cần câu vt về ngày tết!!!
Trả lời
Unknown06:17 19 tháng 12, 2018
Giúp lời không ai giúp của;Giúp đũa không ai giúp cơm
Trả lời
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)
Giới thiệu bản thân
d.khanh42@gmail.com
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi
Lưu trữ Blog
► 2019 (44)
► 2018 (1053)
▼ 2017 (404)
▼ tháng mười hai (24)
Quốc ngữ, chữ nước ta
Bỏ Rơi Hay Phản Bội VNCH
90 CÂU THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ
Viện Đại Học Cao Đài
Hoa Kỳ và Chủ Nghĩa Độc Tài Mềm Do Thái Trị
Google, Facebook, SpaceX sắp cung cấp Wifi Miễn Ph...
NGUYEN TIEN HUNG :Giải mã toàn bộ chiến lược của B...
Lịch sử 33 năm cuối cùng của VƯƠNG QUỐC CHAMPA ...
XH - đau lòng của người dân Việt ngày nay
TÀ QUYỀN KHIẾP NHƯỢC
Lô – trình Giai-thê CS Hanoi !!!
Tình báo Hải ngoại MOSSAD của Isreal :
LỮONG KỲ TƯONG - TRANH !
PHÚC ĐỨC TẠI MẪU - ĐỌC ĐỂ SUY NGẪM
Nhân tướng học: Nếu không bị ám sát, Donald Trump...
Cảnh sống ở VN : xa hoa tương phản với nghèo nàn
Mỹ đang hình thành chiến lược mới đối với Châu Á
GD Nghệ thuật dạy con ‘Made in Nhật Bản’: Đâu là c...
Hang Đá Bê Lem / Grotto of Bethlehem
Mỹ: Vô hiệu hóa tên lửa CS Triều Tiên chuyện quá đ...
Luật HỎI NGÃ
Con người cần điều gì ?- cần đôi mắt sáng, cần có ...
Bitcoin : đồng tiền của tự do ?
TRAN NGOC BAU :Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng ...
► tháng mười một (24)
► tháng mười (53)
► tháng chín (28)
► tháng tám (54)
► tháng bảy (51)
► tháng sáu (36)
► tháng năm (37)
► tháng tư (44)
► tháng ba (13)
► tháng hai (30)
► tháng một (10)
► 2016 (333)
Chủ đề Đơn giản. Được tạo bởi Blogger.
http://khanh3721.blogspot.com/2017/1...u-tuc-ngu.html