-
* VỊ ĐẠI TƯỚNG DƯỢC-XOA / DẠ-XOA Tỳ-Yết-La ( VIKARALA, hay VIKALA / VIKARA ): THIÊN-NHẤT là VỊ ĐẠI TƯỚNG thứ 12 trong KINH DƯỢC SƯ :
ヴィカラーラVikaralaこれヴィカラーラ なればドゥルガーなり。ヴィカーラ であればハーリーティーなり。また 婆迦羅と書ける場合はこれヴィバー カラVibhakara光を作るの義にして太陽 月の義なり。
また畢婆迦羅と書ける場合はこれヴ バーカラVibhakara光を作るの義にして 陽や月の義なり。
. Đại tướng VIÊN TÁC / CẦN-NỘ Đại Tướng = CẦN-NHẪN Đại Tướng
. VIÊN-TÁC Dược Xoa
. VIÊN-TÁC-Ý Dạ Xoa Đại Tướng
. VIÊN-MÃN Dược Xoa Đại Tướng
. VIÊN-TÁC ( tạo làm tròn trịa ), nghĩa là THIỆN-THỆ ( Nghề khéo ), hoặc TẦM-TỨ
. Tỳ-Khư-La là THẦN-HẬU, tức TÝ Thần
http://mahavidyanilasaraswati.blogsp...st_13.html?m=1
https://daitangkinh.net/?f=Kinh-Duoc...guyen-Cong-Duc
-
【天地真言】NAMO SAMANTA,BUDDHANAM,PILITIVEYI SVAHA
【吉祥天真言】OM MAHA SRIYA SVAHA.
【龙神神咒】NAMO SAMANTA,BUDDHANAJAYA-JAYA SVAHA.
【大随求陀罗尼】OM VAJRA PARASU PASA KHARGA CAKRA TRISULA CINTAMANI MAHAVIDYA DHARANI SVAHA HUM.M,NAGA SRIYA SVAHA.
https://www.angelfire.com/ky/pohk/
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ge82&styleid=3
-
CHƠN NGÔN TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG
( Nổi bật là Chơn Ngôn TỲ-SA-MÔN THIÊN VƯƠNG )
https://books.google.com.vn/books?id... svaha&f=false
-
Hibakara (畢婆 迦羅).
Viên Tác (圓作)
Viên Tác Đại Tướng: 圓作大將
========
我遣畢婆伽羅王。
( 千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大 心陀羅尼經 )
藥師琉璃光如來本願功德經]
Hibakara (畢婆 迦羅 / 鞞婆伽羅 ).
Hibakara (畢婆 迦羅).
我遣畢婆伽羅王。
Hibakara 鞞婆訶羅
「Ka」intended to Garuda and Hibakara reconciled with Eikadasya- Sahasrabhuja.
=) NAMO RATNATRAYAYA: OM HIBAKARA SVAHA
https://religion-eikyou.wixsite.com/...study-s-step-4
https://www.butsuzou.com/jiten/8busyu.html
http://www.buddhism-dict.net/ddb/ind...ead-ja-hb.html
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...-Pháp/page78
-
Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng
(十二藥叉大將): 12 vị Dược Xoa Đại Tướng, còn gọi là Dược Sư Thập Nhị Thần Tướng (藥師十二神將), Thập Nhị Thần Vương (十二神王), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將), là quyến thuộc của đức Phật Dược Sư, những vị phát nguyện hộ trì người nào trì tụng Dược Sư Kinh. Đôi khi họ cũng được xem như là phân thân của Phật Dược Sư để hộ trì 12 lời nguyện của Ngài. Như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師瑠璃光如來本願功德經) có nêu rõ tên của 12 vị Đại Tướng này, gồm:
(1) Cung Tỳ La (s: Kumbhīra, 宮毘羅), còn gọi là Kim Tỳ La (金毘羅), ý dịch là Cực Úy (極畏); thân màu vàng, tay cầm cây chày báu, thuộc chi Hợi, lấy Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) làm bản địa.
(2) Phạt Chiết La (s: Vajra, 伐折羅), còn gọi là Bạt Chiết La (跋折羅), Hòa Kì La (和耆羅), ý dịch là Kim Cang (金剛), thân màu trắng, tay cầm kiếm báu, chi Tuất, lấy Bồ Tát Đại Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 大勢至) làm bản địa.
(3) Mê Xí La (s: Mihira, 迷企羅), còn gọi là Di Khư La (彌佉羅), ý dịch là Chấp Nghiêm (執嚴), thân màu vàng, tay cầm cây gậy báu hay Độc Cô (獨鈷), chi Dậu, lấy Phật A Di Đà (s: Amitābha; 阿彌陀佛) làm bản địa.
(4) An Để La (s: Aṇḍīra, 安底羅), còn gọi là Át Nễ La (頞儞羅), An Nại La (安捺羅), An Đà La (安陀羅); ý dịch là Chấp Tinh (執星), thân màu xanh, tay cầm chùy hay hạt châu báu, chi Thân, lấy Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) làm bản địa.
(5) Ngạch Nễ La (s: Anila, 額儞羅), còn gọi là Mạt Nhĩ La (末爾羅), Ma Ni La (摩尼羅), ý dịch là Chấp Phong (執風), thân màu hồng, tay cầm cây xoa báu hay cái nỏ, chi Mùi, lấy Bồ Tát Ma Lợi Chi (摩利支) làm bản địa.
(6) San Để La (s: Śaṇḍila, 珊底羅), còn gọi là Ta Nễ La (娑儞羅), Tố Lam La (素藍羅); ý dịch là Cư Xứ (居處); thân màu khói lam, tay cầm bảo kiếm hay vỏ sò; chi Ngọ, lấy Bồ Tát Hư Không Tạng (s: Ākāśagarbha, 虛空藏) làm bản địa.
(7) Nhân Đạt La (s: Indra, 因達羅), còn gọi là Nhân Đà La (因陀羅); ý dịch là Chấp Lực (執力), thân màu hồng, tay cầm côn báu hay cái mâu, chi Tỵ, lấy Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) làm bản địa.
(8) Ba Di La (s: Pajra, 波夷羅), còn gọi là Bà Da La (婆耶羅); ý dịch là Chấp Ẩm (執飲); thân màu hồng, tay cầm chùy báu hay cung tên, chi Thìn, lấy Bồ Tát Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊) làm bản địa.
(9) Ma Hổ La (s: Mahoraga, 摩虎羅), còn gọi là Bạc Hô La (薄呼羅), Ma Hưu La (摩休羅); ý dịch là Chấp Ngôn (執言); thân màu trắng, tay cầm búa báu, chi Mão; lấy Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師) làm bản địa.
(10) Chơn Đạt La (s: Kinnara, 眞達羅), còn gọi là Chơn Trì La (眞持羅); ý dịch là Chấp Tưởng (執想); thân màu vàng, tay cầm cây Quyên Sách (羂索) hay gậy báu, chi Dần; lấy Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) làm bản địa.
(11) Chiêu Đỗ La (s: Catura, 招杜羅), còn gọi là Chiêu Độ La (招度羅), Châu Đỗ La (朱杜羅), Chiếu Đầu La (照頭羅); ý dịch là Chấp Động (執動); thân màu xanh, tay cầm chùy báu; chi Sửu, lấy Bồ Tát Kim Cang Thủ (金剛手) làm bản địa.
(12) Tỳ Yết La (s: Vikarāla, 毘羯羅), còn gọi là Tỳ Già La (毘伽羅); ý dịch là Viên Tác (圓作), thân màu hồng; tay cầm vòng tròn báu; chi Tý, lấy Phật Thích Ca Mâu Ni (s: Śākyamuni, p: Sakyamuni, 釋迦牟尼) làm bản địa.
Cho nên, 12 vị Thần Tướng này cũng là tên gọi của Kinh Dược Sư như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh cho biết rằng: “Thử pháp môn danh thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, diệc danh thuyết Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, diệc danh Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng (此法門名說藥師琉璃光如來本願功德 亦名說十二神將饒益有情結願神咒、 亦名拔除一切業障, pháp môn này có tên là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, cũng gọi là Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, cũng gọi là Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng).”
http://anphat.org/dictionary/detail/...oa-dai-tuong/1
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...17.html?keys=t
-
( 千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大 心陀羅尼經 )
我遣畢婆伽羅王。
我遣毕婆伽罗王。
畢婆伽羅王 / 毕婆伽罗王
畢婆伽羅 / 毕婆伽罗
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI ( KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI )
Ta sai Tất Bà Dà La Vương (41), / Ta sai Tất-bà Già-la Vương / Ta sai Tất Bà Già La Vương
(41) Tất bà già la vương: tức là thọ thần vương, vị thần làm chủ các loài cây.
畢婆伽羅王 / 毕婆伽罗王 ( Markada-raja ) : Tất Bà Dà La Vương / Tất-bà Già-la Vương / Tất Bà Già La Vương
畢婆伽羅 / 毕婆伽罗 ( BHIPAGARA / VIBHAKARA / HIBAKARA )
=) THỤ-THẦN VƯƠNG CHƠN NGÔN / THỌ-THẦN VƯƠNG CHƠN NGÔN ( 樹神王真言 / 树神王真言 ) = VUA THẦN-CÂY CHƠN NGÔN / THẦN CHÚ CỦA VUA CÁC LOÀI CÂY :
NAMO RATNATRAYAYA: OM HIBAKARA SVAHA
http://www.drbachinese.org/online_re...araniSutra.htm
http://xhsr.fosss.org/sutra_explanat...araniSutra.htm
https://www.niemphat.vn/kinh-dai-bi-tam-da-ra-ni/
https://daitangkinh.net/?f=Kinh-Thie...i-Tam-Tong-Tri
https://tangthuphathoc.net/kinh-thie...i-huyen-thanh/
https://www.niemphat.com/kinhdien/en...ranisutra.html
http://mahavidyanilasaraswati.blogsp...st_13.html?m=1
https://books.google.com.vn/books?id... svaha&f=false
https://www.butsuzou.com/jiten/8busyu.html
http://www.buddhism-dict.net/ddb/ind...ead-ja-hb.html
https://religion-eikyou.wixsite.com/...study-s-step-4
https://kinhsach.chuakhainguyen.com/...Loc-2&m=awviet
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...-Pháp/page12
-
-
南無樹神王。
NA MÔ THỌ-THẦN VƯƠNG / NA MÔ THỤ-THẦN VƯƠNG
南無樹神王尊天。
NA MÔ THỌ-THẦN VƯƠNG TÔN THIÊN / NA MÔ THỤ-THẦN VƯƠNG TÔN THIÊN
南無樹神王尊菩薩。
NA MÔ THỌ-THẦN VƯƠNG TÔN BỒ TÁT / NA MÔ THỤ-THẦN VƯƠNG TÔN BỒ TÁT
南無樹神王尊天菩薩。
NA MÔ THỌ-THẦN VƯƠNG TÔN THIÊN BỒ TÁT / NA MÔ THỤ-THẦN VƯƠNG TÔN THIÊN BỒ TÁT
https://m.facebook.com/Hoihoangphapg...&locale2=vi_VN
-
-
kim cương thủ bồ tát
(金剛手菩薩) Kim cương thủ, Phạm: Vajra-pani. Hán âm: Phạt chiết la bá ni, hoặcVajradhara (Hán âm: Phạt chiết la đà la). Tạng:Lag-na rdo-rje. Cũng gọi: Chấp kim cương bồ tát, Bí mật chủ bồ tát, Kim cương chủ dược xoa tướng. Chỉ cho các vị Bồ tát cầm chày kim cương trong viện Kim cương thủ thuộc Mạn đồ la Thai tạng giới Mật giáo. Vị Bồ tát náy cũng đặc biệt được dùng để gọi Lực sĩ Kim cương mật tích, như kinh Tăng nhất a hàm quyển 22 nói, Lực sĩ Kim cương mật tích cầm chày kim cương đứng ở phía sau đức Như lai. Đại nhật kinh sớ quyển 1 thì nói, Kim cương thủ theo nghĩa nông cạn là chỉ cho Dạ xoa cầm chày kim cương, thường theo hầu đức Phật; còn theo nghĩa sâu xa thì chỉ cho Kim cương tát đỏa, biểu thị cho tam mật thân, ngữ, ý của đức Đại nhật Như lai. Lí thú thích quyển thượng thì cho rằng vị Bồ tát này chính là bồ tát Phổ hiền, vì ngài Phổ hiền đích thân tiếp nhận chày kim cương từ tay đức Phật Tì lô giá na. Nhưng trong kinh Bát đại bồ tát mạn đồ la do ngài Bất Không dịch, thì trong 8 vị Bồ tát có 2 bồ tát Phổ hiền và Kim cương thủ khác nhau; bồ tát Kim cương thủ thân mầu xanh, ngồi bán già, đầu đội mũ Ngũ Phật, tay phải cầm chày kim cương, tay trái để ở chỗ thắt lưng; chân ngôn là: Án tông ra phạ sa phạ ha. [X. kinh Nhập lăng già Q.8; kinh Đại giáo vương Q.1 (ngài Thí hộ dịch); kinh Sư tử trang nghiêm vương bồ tát thỉnh vấn; kinh Đại thừa bát đại mạn noa la].
http://anphat.org/dictionary/detail/...t/19?key=tạt
=======
( 千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大 心陀羅尼經 )
我遣密跡金剛士。
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI ( KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI )
Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ (32)
(32) Mật tích Kim cang sĩ ( Guhyapada / Guhyapāda vajrah ): thiên thần cầm kim cang xử theo ủng hộ Phật. GọI là mật tích vì thần này thường theo Phật nghe những sự tích bản thệ bí mật, hoặc các vị này do Phật, Bồ Tát thị hiện làm thần, tung tích rất bí mật, chúng sanh không biết.
Lực sĩ Kim cương mật tích
-
Kim Cang Mật Tích có nghĩa là:
(s: Guhyapāda-vajra, 金剛密跡): còn gọi là Mật Tích Kim Cang (密跡金剛), Mật Tích Lực Sĩ (密跡力士), Kim Cang Thủ Dược Xoa (金剛手藥叉), Kim Cang Lực Sĩ (金剛力士), Kim Cang Mật Tích Đại Quỷ Thần Vương (金剛密跡大鬼神王); là loại quỷ thần có thần lực, thuộc thần thủ hộ của Phật Giáo, là một trong 20 vị trời, do Tỳ Sa Môn Thiên (s: Vaiśravaṇa, p: Vessavaṇa, 毘沙門天) thống quản. Nguyên lai vị này là thị giả của Tỳ Nữu Thiên (s: Viṣṇu, 毘紐天). Vị trí của Mật Tích Kim Cang thấp hơn Đế Thích Thiên và Tỳ Sa Môn Thiên, hiện hình tướng giận dữ, tay cầm Chày Kim Cang (s: vajra, 金剛杵, Kim Cang Chử); thống lãnh 500 Kim Cang Lực Sĩ (s: Vajradhāra, 金剛力士, thần Dạ Xoa), chủ yếu phòng thủ cửa ra vào cõi trời. Vị này cư trú tại Khoáng Dã Thành (曠野城, tức A La Tỳ Quốc [s: Alāvī, p: Ālavī, 阿羅毗國]); sau khi đức Thích Tôn thành đạo, thường theo hầu bên Ngài, chịu trách nhiệm bảo vệ Phật, hàng phục ngoại đạo cũng như quỷ thần. Phật Giáo Đại Thừa tôn thờ Mật Tích Kim Cang như là Bồ Tát hóa thân. Tương truyền, trong thời quá khứ, vị này có tên là Thái Tử Pháp Ý (法意), từng thệ nguyện bảo vệ cho ngàn vị huynh trưởng, cho đến khi nào những người này thành Phật mới thôi. Một trong những huynh trưởng đó là Thái Tử Pháp Niệm (法念), tức là Phạm Thiên. Nhân vì bảo hộ cho đức Phật lâu dài, Phật Giáo thời kỳ đầu cũng tín phụng, Mật Tích Kim Cang đã lãnh thọ nhiều giáo pháp từ Ngài. Mật Tông kính ngưỡng Mật Tích Kim Cang là hóa thân của Bồ Tát Kim Cang Thủ (s: Vajra-pāṇi, Vajra-dhara, 金剛手). Hình tượng vị này thường đứng thủ hộ hai bên phải trái ngay cổng tự viện Phật Giáo, vị mở miệng (dạng A [阿]) và vị ngậm miệng (dạng Hồng [吽]), ở trần với gân cốt rắn chắc nỗi cộm, hung dữ. Trong Thiên Thủ Quan Âm Tạo Thứ Đệ Pháp Nghi Quỹ (千手觀音造次第法儀軌, Taishō Vol. 20, No. 1068) có đoạn rằng: “Mật Tích Kim Cang Sĩ, xích hồng sắc cụ tam nhãn, hữu trì Kim Cang Chử, tả thủ quyền an yêu (密跡金剛士、赤紅色具三眼、右持金 杵、左手拳安腰, Mật Tích Kim Cang Sĩ, màu đỏ hồng đủ ba mắt, tay phải cầm Chày Kim Cang, tay trái nắm chặt để ngang lưng).” Hay trong Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến Kinh (佛入涅槃密跡金剛力士哀戀經, Taishō Vol. 12, No. 394) lại có đoạn rằng: “Mâu Ni Thế Tôn tại Câu Thi Na Thành Ta La lâm gian, Bắc thủ nhi ngọa, sơ nhập Niết Bàn thời, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, kiến Phật diệt độ bi ai áo não (牟尼世尊在拘尸那城娑羅林間、北首 臥、初入涅槃時、密跡金剛力士、見 佛滅度悲哀懊惱, đức Mâu Ni Thế Tôn tại Thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La, nằm xoay mặt về hướng Bắc, khi mới nhập Niết Bàn, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, thấy Phật diệt độ thì buồn rầu áo não).”
LỰC SĨ KIM CANG và MẬT TÍCH KIM CANG
------
LỰC SĨ KIM CANG và MẬT TÍCH KIM CANG
1. Sơ lược Lực Sĩ Kim Cang:
Kim Cang Lực Sĩ hay còn gọi Na La Diên Kim Cang, một vị thần bảo hộ Phật giáo trong Thiên bộ, được miêu tả để trần phần thân trên, lộ cơ bắp cuồn cuộn thể hiện tướng phẫn nộ, một tay cầm pháp khí hay kiết ấn, một tay để ngang hông sẳn sàng bảo hộ giáo pháp và người con Phật. Ngài mở miệng tượng trưng cho sự khởi đầu, khai mở, với ý nghĩa “sinh thiện” (mang điều tốt lành). Trong Phật giáo ngài hiện thân ở nhiều hình tướng khác nhau để tùy duyên hóa độ, phù trợ chúng sanh chống lại mối tiêu cực, có nơi ghi chép ngài hiện thân Đại Phạm Thiên , Dược Xoa Tướng. Những hình tướng này không hề là biểu tượng cho cái ác ,mà thay vào đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người nói riêng.
2. Sơ lược Mật Tích Kim Cang:
Mật Tích Kim Cang thân hình màu đỏ hồng săn chắc, tay phải cầm Chày Kim Cang hiện hình tướng giận dữ, tay trái nắm chặt để ngang lưng, ngài ngậm miệng không hở tượng trưng cho sự kết mạc, thể hiện vẻ ẩn kín cơn thịnh nộ vào bên trong với ý nghĩa “đoạn ác” (tiêu tan điều ác), ngài thuộc kim cang thần thủ hộ có thần lực oai mạnh của Phật Giáo, là một trong 20 vị trời, do Tỳ Sa Môn Thiên Vương thống quản. Phật Giáo Đại Thừa cũng như Mật Tông tôn thờ Mật Tích Kim Cang là hóa thân của Bồ Tát Kim Cang Thủ. Thời đức Phật Thích Ca khi ngài đi giáo hóa, vị thủ hộ này thường âm thầm theo hầu bên cạnh, chịu trách nhiệm bảo vệ Phật, hàng phục ngoại đạo cũng như quỷ thần..
3. Ý Nghĩa Hóa Thân Phẩn Nộ:
Một điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng phẫn nộ, khủng khiếp…Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này lại hợp với tinh thần Phật Giáo. Phải chăng đó là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người, và đồng thời mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Thật ra các thân tướng phẫn nộ được xem là những biểu tượng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại những điều xấu xa, bảo vệ chánh pháp được trường tồn mãi ở thế gian.
4. Công Hạnh Nhiệm Mầu:
Hộ Pháp : Các ngài dùng các phương tiện tùy theo sức mình mà ủng hộ nền Chánh Pháp của Phật, cung cấp và che chở cho chư Tăng bậc chúng Trung Tôn đại diện cho Phật hoằng dương giáo Pháp. Được như vậy Chánh Pháp dễ bề truyền bá lưu thông trong nhân gian và tất cả chúng sanh sẽ thường được an lạc.
Thúc Đẩy Các Thiện Hạnh: Nhờ sự ẩn hình bảo hộ của Kim Cang Lực Sĩ và Mật Tích, những thiện hạnh như giúp đỡ Phật sự, thực hành lời Phật dạy, thuyết giới, thuyết pháp, trì giới, thọ giới, trì tụng kinh chú, biên chép ấn tống kinh điển, v.v…tất cả việc lành, công việc mình tạo ra đều được thuận duyên, khiến cho Phật Pháp duy trì trường tồn.
Bảo Hộ Tu Hành : Các ngài đã thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại, mọi công việc của các ngài đều luôn sẳn sàng hộ pháp, thường gia hộ, và hộ niệm cho các thiện nam tín nữ thọ trì Phật Pháp.
Nhiếp Phục Phiền Não : Tâm chúng sanh luôn thường còn sự chấp nhiễm, nên các tai họa cứ tiếp diễn, tai ương đang chờ đợi mà không báo trước, bởi các ác nghiệp quá sâu dầy. Các ngài có thể nhìn thấu suốt tâm cang của chúng sanh để hóa giải và đoạn trừ phần nào nghiệp chướng, phiền não.
Tai Qua Nạn Khỏi : Hết thảy ác quỷ, dạ xoa, la sát đều chẳng hại được; rắn độc, thuốc độc thảy đều chẳng làm hại nổi, cũng như mắc nạn nước, lửa, oán tặc, đao, tên, gông cùm, thậm chí là chết ngang. Nếu người đó một lòng có niềm tin vào tam bảo vào quý ngài, thì dù có xảy ra chuyện gì, đều sẳn sàng can ngăn.
Phước Lành Tăng Trưởng : Tâm thường hoan hỉ, nhan sắc tươi nhuận, khí lực sung mãn, việc làm tốt lành, đây là phúc báu sinh ra từ việc cung kính quý ngài.
Công Việc Thuận Lợi : Nhờ vào Bồ Đề Tâm của các vị chân chính tu hành , tất nhiên hết thảy chư thiên, đại lực thần tướng ẩn hình thủ hộ, mà thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, các ngài luôn phóng quang minh gia trì cho tất cả các công việc mà vị đó đang và sắp thực hiện.
Gia Trì Pháp Đàn : Một gian thờ hay một đàn thành kim cang không thể thiếu một bên tả bên hữu 2 vị hộ pháp, để nhanh chóng thành tựu các pháp thiện xảo mà không bị tác động bởi nội ngoại cảnh, thật thích hợp khi đặt các ngài trấn đàn và kết giới gia trì.
====
KIM CANG LỰC SĨ ( Niō )
Nhân vương (âm Nhật: Niō, "nì ô" với chữ "ô" kéo dài) là tên gọi thân mật, phổ biến ở Nhật Bản đối với Kim cang (đọc âm khác là kim cương) lực sĩ, một vị thần bảo hộ Phật giáo (hộ pháp) trong Thiên bộ.
Nhân vương được viết chữ Hán là 仁王 (nhân trong nhân đức, nhân từ, nghĩa là có lòng trắc ẩn của con người) hoặc cũng có khi ghi là 二王 (nhị vương). Kim cang lực sĩ, đọc âm Nhật là Kongō Rikishi (Côn gồ rì ki si) trong tiếng Phạn là Vajradhara (वज्रधर). Từ "Vajra" trong tiếng Phạn nghĩa là kim cang (cương), vật chất được cho là cứng rắn nhất ở cõi đời trần thế. Các tượng Kim cang lực sĩ (Nhân vương, Niō) ở Nhật thường được an trí thành cặp ở cổng trước chùa chiền. Trong đó, một tượng mở miệng được gọi là Agyō (A hình) còn tượng ngậm miệng được gọi là Ungyō (hồng hình).
Tượng Agyō và Ungyō tại Hưng Phúc tự
"A" là chữ cái đầu tiên trong tiếng Nhật, khi phát âm phải mở miệng ra và tượng Agyō tượng trưng cho sự khởi đầu, khai mở. Còn "Un" là chữ cái cuối cùng trong bảng 50 âm tiết tiếng Nhật, khi phát âm phải khép miệng lại và tượng Ungyō tượng trưng cho sự kết mạc.
Tượng Niō tại Nhật
Tại Nhật, thường thấy tượng Niō đứng hai bên cổng tự viện. Tượng thường được miêu tả để trần phần thân trên, lộ cơ bắp cuồn cuộn. Tượng Agyō (A hình) thể hiện tướng phẫn nộ, còn tượng Ungyō (Hồng hình) thể hiện vẻ ẩn kín cơn thịnh nộ vào bên trong. Sở dĩ có tạo hình như vầy là do việc tính cách hóa thần bảo hộ để ngăn không cho Phật địch vào bên trong chùa. Nơi an trí tượng Niō ở Nhật thường là nơi phơi sương dãi nắng dầm mưa nên hiện không còn mấy tượng từ trước thời Trung cổ ở trạng thái tốt.
Tượng Niō cổ nhất Nhật Bản là tượng đất sét ở cổng giữa của Pháp Long tự (Hōryū-ji) nhưng được các đời sau tu bổ nhiều, phần thân của tượng Ungyō đã chuyển sang vật liệu gỗ.
Ngoài hai bên tả hữu ở cổng chùa, tượng Niō còn được an trí bên trong Phật đường. Điển hình cho việc này là tượng ở Hưng Phúc tự (Kōfuku-ji) ở Nara được an trí bên trong Phật đường và được xếp vào hàng quốc bảo (tạo tác từ thời Kamakura).
Như đã nói, tượng Niō thường được bài trí thành cặp Agyō và Ungyō, nhưng cũng có khi chỉ đứng một mình. Trong trường hợp này được gọi là "chấp Kim cang thần" (Shu Kongō-shin) hay còn gọi là "Kim cang thủ", "Trì Kim cang" mang nghĩa là vị thần cầm chày Kim cang. Chẳng hạn như tượng đất sét an trí phía sau tượng bổn tôn trong Pháp Hoa đường (Hokke-dō) ở Đông Đại tự (Tōdai-ji) được xếp vào hàng quốc bảo, hình dong tướng mạo giống với các tượng Niō khác nhưng cũng có điểm khác biệt là mình mặc giáp trụ chứ không để trần.
Tượng Chấp Kim cang ở Pháp Hoa đường, Đông Đại tự
Bên trong Pháp Hoa đường ở Đông Đại tự còn có một cặp tượng Niō khác, tượng Agyō được gọi là "Kim cang lực sĩ" (Kongō Rikishi) và tượng Ungyō được gọi là "Mật tích lực sĩ" (Misshaku Rikishi) và đều mặc giáp trụ.
Trong số Nhị thập bát bộ chúng trong quyến thuộc của Thiên thủ Quan Âm cũng có tượng Niō. Trường hợp này thì tượng Agyō được gọi là "Na la diên kiên cố vương" (那羅延堅固王 - Nhật: Nara-en-ken-go-ō) với ý nghĩa "sinh thiện" (làm cho có điều tốt lành) còn tượng Ungyō được gọi là "Mật tích Kim cang lực sĩ" (密迹金剛力士 - Nhật: Misshaku Kongō Rikishi) với ý nghĩa "đoạn ác" (làm cho mất điều ác). Na la diên kiên cố hàm nghĩa Kim cang, kim cương, cứng rắn không thể bị hủy hoại.
Hai tượng Kim cang Lực sĩ ở Đông Đại tự Nam Đại môn
Trong số các tượng cổ còn tồn tại đến nay, nổi bật nhất phải kể đến tượng Kim cang Lực sĩ (Nhân vương - Niō) ở Đông Đại tự Nam Đại môn. Tượng đứng này cao 8m, là kiệt tác để đời của Phật sư Unkei (Vận Khánh) năm Kennin thứ 3 (1203). Vào những năm Heisei, sau khi giải phẫu tượng thì người ta phát hiện ra văn thư được cho vào bên trong tượng. Theo đó thì các Phật sư Unkei, Kaikei (Khoái Khánh), Jōkaku (Định Giác), Tankei (Trạm Khánh) đã chỉ huy các Phật sư khác dựng tượng này trong 2 tháng ròng.
Danh sách các chùa an trí tượng Niō
+ Tối Thắng viện (Saishō-in) ở thành phố Hirosaki, tỉnh Aomori
+ Viên Giác tự (Engaku-ji) ở Tây Tsugaru, tỉnh Aomori
+ Khủng Sơn Bồ Đề tự (Osorezan Bodai-ji) ở thành phố Mutsu, tỉnh Aomori
+ Thường Kiên tự (Jōken-ji) ở tỉnh Iwate
+ Thiên Đức tự (Tentoku-ji) ở tỉnh Akita
+ Tây Phương tự (Saihō-ji) ở thành phố Sendai, tỉnh Miyagi
+ Lập Thạch tự (Risshaku-ji) ở tỉnh Yamagata
+ Huệ Long tự (Eryū-ji) ở tỉnh Fukushima
+ Quan Âm Giáo tự (Kannon-kyō-ji) ở tỉnh Chiba
+ Thiển Thảo tự (Sensō-ji) ở Tōkyō
+ Quan Âm tự (Kannon-ji) ở Tōkyō
+ Bổn Môn tự (Honmon-ji) ở Tōkyō
+ Tổng Trì tự (Sōji-ji) ở tỉnh Kanagawa
+ Cửu Viễn tự (Kuon-ji) ở tỉnh Yamanashi
+ Thiện Quang tự (Zenkō-ji) ở tỉnh Nagano
+ Nhược Trạch tự (Nyakutaku-ji) ở tỉnh Nagano
+ Phụng Lai tự (Hōrai-ji) ở tỉnh Aichi
+ Tài Hạ tự (Zaika-ji) ở tỉnh Aichi
+ Quan Âm tự (Kannon-ji) ở thành phố Nagoya, tỉnh Aichi
+ Nguyện Thành tự (Ganjō-ji) ở tỉnh Gifu
+ Viên Kính tự (Enkyō-ji) ở tỉnh Gifu
+ Hoa Nghiêm tự (Kegon-ji) ở tỉnh Gifu
+ Ất Bảo tự (Oppō-ji) ở tỉnh Niigata
+ Liên Hoa Phong tự (Rengebu-ji) ở tỉnh Niigata
+ Thụy Long tự (Zuiryū-ji) ở tỉnh Toyama
+ Thiên Quang tự (Senkō-ji) ở tỉnh Toyama
+ Diệu Thành tự (Myōjō-ji) ở tỉnh Ishikawa
+ Na Cốc tự (Nata-dera) ở tỉnh Ishikawa
+ Minh Thông tự (Myōtsū-ji) ở tỉnh Fukui
+ Thần Cung tự (Jingū-ji) ở tỉnh Fukui
+ Trung Sơn tự (Nakayama-dera) ở tỉnh Fukui
+ Ân Thành tự (Onjō-ji) ở tỉnh Shiga
+ Tây Minh tự (Saimyō-ji) ở tỉnh Shiga
+ Quảng Long tự (Kōryū-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Thắng Trì tự (Shōji-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Thiện Phong tự (Yoshimine-dera) ở cổ đô Kyōto
+ Vạn Thọ tự (Manju-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Ái Đãng Niệm Phật tự (Otagi Nembutsu-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Viên Long tự (Enryū-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Kim cang viện (Kongō-in) ở cổ đô Kyōto
+ Đa Nễ tự (Tane-ji) ở cổ đô Kyōto
+ Tứ Thiên Vương tự (Shitennō-ji) ở phủ Ōsaka
+ Duệ Phúc tự (Eifuku-ji) ở phủ Ōsaka
+ Đông Đại tự (Tōdai-ji) ở tỉnh Nara
+ Hưng Phúc tự (Kōfuku-ji) ở tỉnh Nara
+ Pháp Long tự (Hōryū-ji) ở tỉnh Nara
+ Kim Phong Sơn tự (Kimpusen-ji) ở tỉnh Nara
+ Núi Cao Dã (Kōya) ở tỉnh Wakayama
+ Căn Lai tự (Negoro-ji) ở tỉnh Wakayama
+ Trường Bảo tự (Chōhō-ji) ở tỉnh Wakayama
+ Như Ý tự (Nyoi-ji) ở tỉnh Hyōgo
+ Già Da viện (Gaya-in) ở tỉnh Hyōgo
+ Phật Giáo Chi Vương Đường (Bukkyō-no-ō-dō) ở tỉnh Hyōgo
+ Ma Ny tự (Mani-ji) ở tỉnh Tottori
+ Trường Cốc tự (Chōkoku-ji) ở tỉnh Tottori
+ Kim Sơn tự (Kinzan-ji) ở tỉnh Okayama
+ Chơn Quang tự (Shinkō-ji) ở tỉnh Okayama
+ Tây Quốc tự (Saikoku-ji) ở tỉnh Hiroshima
+ A Di Đà tự (Amida-ji) ở tỉnh Yamaguchi
+ Thái Long tự (Tairyū-ji) ở tỉnh Tokushima
+ Linh Sơn tự (Ryōzen-ji) ở tỉnh Tokushima
+ Thiện Thông tự (Zentsū-ji) ở tỉnh Kagawa
+ Chí Độ tự (Shido-ji) ở tỉnh Kagawa
+ Thạch Thủ tự (Ishite-ji) ở tỉnh Ehime
+ Quán Tự Tại tự (Kanjizai-ji) ở tỉnh Ehime
+ Trúc Lâm tự (Chikurin-ji) ở tỉnh Kōchi
+ Thanh Long tự (Seiryū-ji) ở tỉnh Kōchi
+ Như Pháp tự (Nehō-ji) ở tỉnh Fukuoka
+ Lưỡng Tử tự (Futago-ji) ở tỉnh Ōita
+ Cảm Ứng tự (Kannō-ji) ở thành phố Izumi, tỉnh Kagoshima
+ Đào Lâm tự (Tōrin-ji) ở Okinawa
https://www.niemphat.vn/kinh-dai-bi-tam-da-ra-ni/
http://www.drbachinese.org/online_re...araniSutra.htm
https://tangthuphathoc.net/kinh-thie...i-huyen-thanh/
https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...15.html?keys=m
https://ngocmani.com/luc-si-kim-cang...-tich-kim-cang
https://gokuraku-shujo.blogspot.com/...kishi.html?m=1
-
九、Vibakararaja毘婆迦羅王。畢婆伽羅 この場合おそらくパールヴァティー り。山神部。
畢婆伽羅王 / 毕婆伽罗王 / 毘婆迦羅王 ( Vibhakara-raja / Vibhakararaja ) : Tất Bà Dà La Vương / Tất-bà Già-la Vương / Tất Bà Già La Vương / Hoa Bà Ca La Vương: là Nhĩ Hầu Vương ( Markada Raja ) - 1 Vị Sơn Thần trấn ngự ở Ngọn Núi to lớn Makara【 Sơn Thần Bộ là Trụ Núi ( tức đứng yên ): TRỤ ĐỊA 】
畢婆伽羅 / 毕婆伽罗 / 毘婆迦羅 ( BHIPAGARA / VIBHAKARA / HIBAKARA )
THỤ-THẦN VƯƠNG CHƠN NGÔN / THỌ-THẦN VƯƠNG CHƠN NGÔN ( 樹神王真言 / 树神王真言 ) = VUA THẦN-CÂY CHƠN NGÔN / THẦN CHÚ CỦA VUA CÁC LOÀI CÂY :
NAMO RATNA-TRAYĀYA: OṂ VIBHĀKARA SVĀHĀ
http://mahavidyanilasaraswati.blogsp...st_13.html?m=1
https://books.google.com.vn/books?id... svaha&f=false
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page148
-
Thành Hoàng
Thành Hoàng đương cảnh trấn trung gian,
Trú dạ tuần vô lẫm lẫm hoàng.
Pháp giới chúng sanh vô phân biệt
Thử (nhật, dạ) kim thời lai phú hội
Nam mô Phước Đức Chánh Thần Bồ Tát.
南無福德正神菩薩。
-
-
-
JRI
http://echo-lab.ddo.jp › 学位...PDF
平成 27 年度 学位請求論文 中期密教に至る灌頂儀礼の発展過程 - ECHO-LAB
viết bởi 駒井信勝 · Trích dẫn 5 bài viết — は,『陀羅尼集経』に (1)仏・(2)観世音(菩薩を含む)・(3) 剛・(4)諸天という尊格 ... から,「曼荼羅に入って灌頂を受け →真言念誦,成就法の実践により, 地を獲得する→ ... (oM padmodbhavAya svAhA ).
-
-
CHƠN NGÔN 42 THỦ NHÃN QUÁN ÂM
( Hán Tự )
2017年3月23日
千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼
此本經大悲咒內容就是廣泛流通版本 �出處
編寫出來不代表此本經沒問題
只是要讓大家知道平常念的大悲咒出 �何處
也是略版 ( 略漏版 )
直接跳到咒語內容
( 2017.03.23 校對修正 )
---------------------------------------
(大唐三藏不空 譯 )
若為一切飢渴有情及諸餓鬼得清 �者。當於甘露手真言。
唵(引)素嚕素嚕鉢羅(二合)素嚕鉢 ��(二合)素嚕素嚕素嚕野薩嚩(二合)
若為一切時一切處怖畏不安者。 �於施無畏手。真言。
唵(引)嚩日羅(二合)曩野吽泮吒
若為眼暗無光明者。當於日精摩 �手。真言。
唵(引)度比迦野度比鉢囉(二合)嚩 ��儜薩嚩(二合)賀
若為患熱毒病求清涼者。當於月 �摩尼手。真言。
唵(引)蘇悉地揭哩(二合)薩嚩(二合 )賀
若為榮官益職求仕官者。當於寶 �手真言。
唵(引)阿左尾㘑薩嚩(二合)賀
若為諸善朋友早相逢遇者。當於 �箭手。真言。
唵(引)迦摩攞薩嚩(二合)賀
若為求生諸梵天上者。當於軍持 �。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)勢佉囉嚕吒𤚥 吒
若為身上種種病難者。當於楊柳 �手。真言。
唵(引)蘇悉地迦哩嚩哩哆喃哆目哆 曳嚩日囉(二合)嚩日囉(二合)畔馱賀曩 ��曩吽泮吒
若為除滅一切惡障難者。當於白 �手。真言。
唵(引)鉢娜弭儜婆誐嚩帝謨賀野惹 誐謨賀儜薩嚩(二合)賀
若為一切善和眷屬者。當於寶瓶 �。真言。
唵(引)揭㘑(二合)糝滿焰薩嚩(二合 )賀
若為辟除一切虎狼諸惡獸者。當 �傍牌手。真言。
唵(引)藥葛釤曩那野戰捺羅(二合) ��耨播哩野(二合)跛舍跛舍薩嚩(二 )� �
若為一切時一切處離官難者。當 �鉞斧手。真言。
唵(引)味囉野味囉野薩嚩(二合)賀
若為使令一切鬼神不相違拒者。 �於髑髏寶杖手。真言。
唵(引)度曩嚩日囉(二合)[口*郝]
若為十方諸佛速來授手者。當於 �珠手。真言。
曩謨(引)囉怛曩(二合)怛囉(二合) �野唵(引)阿那婆帝尼惹曳悉地悉馱㗚 � �薩嚩(二合)賀
若為降伏一切魍魎鬼神者。當於 �劍手。真言。
唵(引)帝勢帝惹覩尾儜覩提婆馱野 吽泮吒
若為摧伏一切怨敵者。當於金剛 �手。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)祇儜鉢囉(二合 )儞鉢多野薩嚩(二合)賀
若為善神龍王常來擁護者。當於 �尸鐵鉤手。真言。
唵(引)阿嗗嚕(二合)哆囉迦囉毘沙 ��曩謨(引)薩嚩(二合)賀
若為慈悲覆護一切眾生者。當於 �杖手。真言。
唵(引)那㗚智那㗚智那㗚吒鉢底那 㗚帝娜夜鉢儜吽泮吒
若為種種功德者。當於白蓮華手 �真言。
唵(引)嚩日囉(二合)味囉野薩嚩(二 合)賀
若為求生十方淨土者。當於青蓮 �手。真言。
唵(引)枳哩枳哩嚩日囉(二合)部囉 ��馱吽泮吒
若為面見一切十方諸佛者。當於 �蓮華手。真言。
唵(引)薩囉薩囉嚩日囉(二合)迦囉 ��泮吒
若為求生諸天宮者。當於紅蓮華 �。真言。
唵(引)商揭㘑(二合)薩嚩(二合)賀
若為成就廣大智惠者。當於寶鏡 �。真言。
唵(引)尾薩普囉那囉葛叉嚩日囉( �合)曼荼(攞)吽泮吒
若為成就口辯言辭巧妙者。當於 �印手。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)儜擔惹曳薩嚩( 二合)賀
若為十方諸佛速來摩頂授記者。 �於頂上化佛手。真言。
唵(引)嚩曰哩(二合)尾嚩曰藍(二合 )藝薩嚩(二合)賀
若為令一切鬼神龍蛇虎狼師子人 �非人常相恭敬愛念者。當於合掌手 � ��言。
唵(引)尾薩囉尾薩囉吽泮吒
若為求地中種種伏藏者。當於寶 �手。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)播設迦哩揭曩 ���囉吽
若為速成就佛道者。當於五色雲 �。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)迦哩囉吒𤚥吒
若為辟除他方逆賊怨敵者。當於 �戟手。真言。
唵(引)糝昧野祇儜賀哩吽泮吒
若為呼召一切諸天善神者。當於 �螺手。真言。
唵(引)商揭㘑(二合)摩賀糝滿焰薩 ��(二合)賀
若為富饒種種功德資具者。當於 �意寶珠手。真言。
唵(引)嚩日囉(二合)嚩哆囉吽泮吒
若為種種不安求安隱者。當於羂 �手。真言。
唵(引)枳哩攞囉謨捺囉(二合)吽泮 ��
若為腹中諸病苦者。當於寶鉢手 �真言。
唵(引)枳哩枳哩嚩日囉(二合)吽泮 ��
若為男女及諸僕使者。當於玉環 �。真言。
唵(引)鉢娜𤚥味囉野薩嚩(二合)賀
若為成就一切上妙梵音聲者。當 �寶鐸手。真言。
曩謨(引)鉢娜𤚥播拏曳唵(引)阿密 㗚擔儼陛室哩曳寶哩𪉜哩儜薩嚩(二合 )賀
若為降伏一切天魔外道者。當於 �折羅手。真言。
唵(引)儞陛儞陛儞跛野摩訶室哩曳 薩嚩(二合)賀
若為生生之處不離諸佛邊者。當 �化佛手。真言。
唵(引)戰娜囉婆𤚥吒哩迦哩娜祇 �娜祇哩柅吽泮吒
若為生生世世常在佛宮殿中不處 �藏中受身者。當於化宮殿手。真言
唵(引)微薩囉微薩囉吽泮吒
若為聰明多聞廣學不忘者。當於 �經手。真言。
唵(引)阿賀囉薩囉嚩尾儞野馱囉布 儞帝薩嚩(二合)賀
若為從今身至佛身菩提心當不退 �者。當於不退轉金輪手。真言。
唵(引)設那弭左薩嚩(二合)賀
若為果蓏諸穀稼者。當於蒲桃手 �真言。
唵(引)阿摩攞劍帝儞儜薩嚩(二合) ��
觀世音菩薩說此呪已。大地六變 �動。天雨寶華繽紛而下。十方諸佛 � ��歡喜。天魔外道恐怖毛竪。一切 會 皆獲果證。或得須陀洹果。或得斯陀 �果。或得阿那含果。或得阿羅漢果 � ��或得一地二地三四五地乃至十地 。 無量眾生發菩提心。
大悲心陀羅尼經并呪(終)
-----------------------------------------
八家祕錄云。千手千眼觀世音廣大圓 �無礙大悲心大陀羅尼神妙章句一卷( )雖名有具略。然應是此經。此中云說 ��大圓滿無礙大悲心陀羅尼神妙章 故 。今年索洛陽智積慈順僧正之御本。 �整加國訓鑄梓。時享和改元辛酉秋 � ��。
豐山妙音院小池坊寓學沙門快道 �
一校加筆畢
右寫本者在上品蓮臺寺寶庫
慈 順
於 3月 23, 2017
https://yogabuddha.blogspot.com/2017...t_813.html?m=1
-
-
Puja
Oṃ, dṛḍhā-pṛthivī-devatā prabhūta ratna bhoga sasyā-karavat ā-dhāyika svāhā.
-
Sau thời Tống, với sự thoái trào của Phật giáo kinh viện, người ta có nhiều cách thế lựa chọn nhằm giúp đỡ những người thân quá vãng. Những tăng sĩ chuyên môn về nghi lễ cúng tế đã không còn giữ độc quyền, bộ Thập Vương Kinh và những hình thức nghi lễ vì thế đã cho người ta một chọn lựa khác. Như độc giả từng đọc tác phẩm Bông Sen Vàng thời Minh mạt đều biết, việc tụng đọc bảo quyển cũng là một phương cách khá phổ biến khác để tạo công đức. Chúng đưa ra những nhận thức khác về thế giới bên kia cũng như những cách thế giúp đỡ những linh hồn tội lỗi đang bị đau khổ ở đó. Như vậy phải chăng đến đây chúng ta đi đến kết luận rằng những nghi lễ dân gian đã thay thế cho những nghi lễ truyền thống Phật giáo? Không hẵn thế, nếu đọc một chứng từ thế kỷ thứ mười lăm của một người đã chết đi và sống lại thì ngay cả thập vương cũng muốn có một sự liên hệ gắn bó với truyền thống Phật giáo thủ cựu. Tôi muốn mượn câu chuyện thích thú sau đây được bổ sung vào phần cuối của bộ Thái San Thập Vương Bảo Quyển để kết thúc phần này :
Trước đây tại quận Ling ch’ing, huyện Chi-nan, Sơn Đông có một người nho sinh tên là Lý Thanh. Vào ngày 3 tháng 8 năm Trinh Thái thứ sáu (1455), y bị đột tử. Khi trình diện trước mặt Diêm Vương, y được hỏi đã làm được những điều thiện gì khi còn sống ở dương gian. Lý trả lời rằng vào ngày đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là ngày 8 tháng 4, y đã ăn chay và niệm 10,000 lần danh hiệu Phật. Khi Diêm Vương nghe chuyện này thì liền đứng dậy và ca ngợi Lý cho rằng y đã làm được điều tốt và tích lũy được nhiều công đức. Rồi Diêm Vương hỏi tiếp, “Tại sao không có ai ăn chay và trì tụng danh hiệu Phật vào những ngày đản sanh của Thập Vương ?” Lý trả lời là những người trên dương thế không có ai biết ngày đản sanh của Thập Vương cả. Thế rồi vua Diêm Vương bảo rằng ông ta sẽ cho phép Lý được hoàn hồn sống lại nếu Lý chịu phổ biến ngày sinh nhật của Thập Vương và dạy cho người đời cử hành những ngày lễ vía này bằng cách ăn chay và tụng niệm danh hiệu Phật. Nếu làm như thế, họ sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và khi chết sẽ được tái sanh về những cảnh giới tốt lành. Thế rồi Diêm Vương ra lệnh cho một con qũy dẫn hồn Lý trở lại dương thế. Khi Lý sống lại, y đã viết ra ngày sinh nhật của Thập Vương trên một mảnh giấy và kêu gọi mọi người làm lễ kỹ niệm Thập Vương vào những ngày này. Trong những ngày này, nếu người ta đốt nhang đèn, giấy tiền vàng bạc như là những phẩm vật cúng dường đến Thập Vương, họ sẽ không bao giờ bị rơi xuống địa ngục mà sẽ được tái sanh vào cõi thiên đàng. Sau đây là những ngày đản sanh của thập vương :
Ngày 8 tháng giêng là ngày đản sanh của vị vua thứ tư có họ là Shih. Trong ngày này, trì tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng 1000 lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Cắt Lưỡi.
Ngày mồng 1 tháng 2 là ngày đản sanh của vị vua thứ nhất, có họ là Hsiao. Trong ngày này niệm danh hiệu Phật Định Quang một ngàn lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Núi Đao.
Ngày 27 tháng 2 là ngày đản sanh của vị vua thứ sáu có họ là Pi. Niệm danh hiệu Bồ Tát Đại Thế Chí 1000 lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào ngục Rắn Độc.
Ngày 28 tháng 2 là ngày đản sanh của vị vua thứ ba có họ là Yu. Niệm danh hiệu Phật Bhadra kalpa một ngàn lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Băng Giá.
Ngày mồng 1 tháng 3 là ngày đản sanh của vị vua thứ hai, có họ là Ma. Trong ngày này niệm danh hiệu Phật Dược Sư một ngàn lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Vạc Dầu.
Ngày 7 tháng 3 là ngày đản sanh của vị vua thứ bảy có họ là Tung. Trong ngày này, trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Âm 1000 lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Cối Giả.
Ngày 8 tháng 3 là ngày đản sanh của vị vua thứ năm có họ là Han. Trong ngày này, trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà 1000 lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Rừng Kiếm.
Ngày mồng 1 tháng 4 là ngày đản sanh của vị vua thứ tám, có họ là Huang. Trong ngày này niệm danh hiệu Phật Tỳ Lô Xá Na một ngàn lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Cưa Xác.
Ngày 7 tháng 4 là ngày đản sanh của vị vua thứ chín có họ là Hsueh. Trong ngày này, trì tụng danh hiệu Bồ Tát Dược Vương 1000 lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Giường Lửa Nóng.
Ngày mồng 22 tháng 4 là ngày đản sanh của vị vua thứ mười, có họ là Hsueh (cùng họ với vị vua thứ chín). Trong ngày này niệm danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni một ngàn lần thì sẽ không bao giờ bị rơi vào Ngục Hắc Ám.
Như vậy ở đây ta thấy Thập Vương không những đã được cho mang những họ đẹp đẽ của người Trung Hoa, mà đồng thời cũng đã được làm cho biến thành những người đi xiễn dương phương pháp thực hành của môn phái Tịnh Độ chính thống. Mặc dầu ngày tháng khác biệt nhưng bản thời khoá này tương tự với mười ngày thập trai của một người Phật tử thuần thành (17). Hơn thế nữa, việc khuyến khích mọi người trì tụng danh hiệu của một vị Phật hay Bồ Tát đặc biệt nào đó trong những ngày sinh nhật của thập vương, bản văn này đã quảng bá cho một phiên bản Trung quốc của một bản kinh Nhật Bản, honji suijaku. Cũng giống như bản kinh “Địa Tang và Thập Vương Kinh” (Jizo juo kyo) của Nhật Bản được viết bởi những tác giả vô danh của Nhật Bản trong khoảng từ năm 1000 đến 1300 C.E., trong đó thập vương đã được ghép chung với mười vị đầu tiên trong số mười ba vị linh thần Phật giáo, bản văn này cũng làm công việc tương tự, tuy nhiên đã có sự khác biệt tên tuổi trong hai bản văn Trung hoa và Nhật Bản (Teiser 1994 :60,237). Khuynh hướng của những tác giả sáng tác bảo quyển là cố gắng tổng hợp những yếu tố đa dạng vào trong một thể thống nhất, đó là điều mà tôi đã từng nhấn mạnh trước đây và đây được xem như là một thí dụ có tính thuyết phục.
http://lecongda.20fr.com/BoTatQuanTheAm8.htm