minh đài vô đối
Printable View
minh đài vô đối
ê bà già kia, tui nói câu này hồi nào, ở đâu mà bà nói bậy thế hả? trả lời không nổi thì nói không nổi, đổ thừa bậy bạ là người có suy nghĩ không ngay thẳng nhé !Trích dẫn:
HS nói với vophap là căn cơ ngang MINH ĐÀI ,VÀ LINH TINH ,hơn cả MIH ĐÀI nữa thì sao không nói luôn đi tại sao lại chấn vấn MINH ĐÀI .
- càng nói càng ngu ngơ, Minh Đài giải thích cho rõ đi. Hoa Sen hỏi trước, Thánh nhân là người (đắc) Có Hữu Trí, Súc sanh là người Không đắc Trí nên Vô Trí, vậy thử nói xem ở đây ai là Vô Sở đắc ? Nên hiểu 'người' có nghĩa là 1 chúng sanh chứ không phải người hiểu theo người cõi nhân loại. Minh Đài phải trả lời cho rõ để ko tạo hoài nghi cho người khác.Trích dẫn:
Hữu trí đồng vô trí
đắc ,vô sở đắc
Chúng tôi xin bà bà nên thận trọng, những gì không thuộc topic thiền định và thiền quán, xin đừng đưa vào đây, gây tranh cải vô ích, vì sao vô ích? vì không đem lại sự giải thoát.
Lý luận cũng chỉ là lý luận và không bao giờ ngừng cả. Còn 500 vị A ra han là minh chứng hùng hồn nhất, có phải không?
Phật nói thành tựu những việc lành , quán sát thân tâm mình từng giây từng phút, để có được Thiện Ý, mà không bao giờ hành ác nghiệp hay khẩu nghiệp, còn cái ác nó ở đâu Phật chẳng cần quan tâm đến, vì nó chẳng ở trong thân tâm hành giả.
Khi đã hội đủ căn cơ, thì dù người khác có thấy bạn làm việc ác, nhưng mục đích của bạn là thiện nghiệp ( thí dụ tích Lưu Bình- Dương Lễ)
Đó chính là con đường Trung đạo phi thiện phi ác.
- Minh Đài giảng kinh Bát nhã lọt vào Không biên kiến, lệch tà kiến rồi. Minh Đài không hiểu ý nghĩa chữ KHÔNG trong nhà Thiền nên diễn thành cái Không có. Vừa giảng sai, vừa xuyên tạc thần chú của Phật nữa chứ, bà giảng kiểu này thì không phải tu thành Phật mà tu thành Cục Đá hoặc tu thành Phạm Thiên Vô Tưởng !!! rõ là ngớ ngẩn ! Sai rồi đó bà già ơi ! nhờ ông Linh tinh 85 giảng lại cho nghe đi.Trích dẫn:
Của cư SĨ DIỆU ĐỊNH
Trong tâm quán của bồ tát là quán tự tại ,muốn đi muốn đứng đều không vướn mắc,trong thân tâm thấy năm uẩn không có.
Sắc trần có đó nó cũng như ko,khi tham thiền đến cảnh ko hề nhiễm ,sắc có như ko,,sắc ở trong tâm do tưởng, do thấy mà có , sắc nhiễm rồi tâm nào khác sắc trần, thấy cảnh trần, tâm hiện cảnh , lảnh thọ khổ bởi do tâm ,mà qua hành ,nó như vậy đúng như vậy, trần cho có nó như vậy.
Thấy mọi pháp đều ko thật tướng ,ko gì tự sanh, ko gì tự diệt,nó cũng ko phải tự nhiên kết cấu mà thành ,nó như vậy ko tăng ko giảm,
Nếu không có danh sắc ,thì đâu có thọ khổ ,thọ cảm,nếu không có thọ cảm thì đâu sanh ra suy nghỉ , tư tưởng,không có tư tưởng đâu sanh ra hành vi,.
Nếu ta ko thấy ,ko nghe,ko nếm không suy nghỉ không sanh tư tưởng thì đâu khổ ,nếu ta nhìn cảnh đừng nhìn bằng nhãn trần tục ,và đừng suy nghỉ theo cái suy nghỉ của trần tục thì sự vô minh sẽ bị diệt tận ,ko già ,ko khổ và thấy không chi là đắc .Không cho đó là thiệt là có
Nếu tâm đã không cho gì là có thì đâu có làm mình lo lắng,điên đảo ,vọng niệm,đây chính là niết bàn an lạc ,
Quả là đại thần chú , thật là minh chú thật là vô thượng chú , thật là đẳng đẳng chú trừ mọi khổ ách ,quả là ko sai
- dạ, hahahaa... nhưng con nghĩ Chú cũng nên nói khái lược chứ ạ, không thui bà già này làm Đạo sư cho ma quỷ thì khổ cho người ít học ạ !Trích dẫn:
Tôi đã nói khi HS mà găp bà bà thì cũng gây như LT thôi hè!
ha ha
HOASEN với LINH TINH
Người tu học luôn lấy có để làm nền tảng chứ không phải lấy không đâu,mọi thứ khổ mọi thứ cảnh trần mọi cái tác động đều là có ,có người ,có tôi ,có mọi thứ ,có thức có uẩn ,có cái này có cái kia ,Mới có sanh ra sanh ,TÂM sanh cái này sẽ sanh ra nghiệp kia .
Khi TÂM thiền THẤY mọi thứ do sanh mà có ,có chấp mới sanh khổ ,chính tại cho có mới tham đắm ,cho có mới bị nhiễm .
Qua bài TỨ diệu đế TÔI ko cần nói thêm ,BIẾT ĐÓ DO tâm SANH ,quán sát xem TÂM sanh do đâu ?nó hiện lên và biến theo từng đợt sóng của cảnh trần ,TÔI nghỉ cảnh trần như gió thổi ,tác động đến rồi đi qua ,chỉ khi TÂM chấp mới sanh vọng ,vậy TÔI thấy cảnh đó đến đi chỉ bình thường nên ko vọng theo cảnh ,chính là diệt được TÂM SANH ,khi TÂM sanh được diệt mọi vọng TÂM đã biến ,6 thức đồng 6 căn cũng Biến theo,thấy có trụ nhưng không trụ ,6 căn 6 thức đều không có bị tác động ,TÂM sanh cũng không khởi ,
KHÔNG KHÔNG ,nhưng không phải là không có nhưng nó không tác động thâm nhiễm được trong TÂM ,
nÊN MỚI VIẾT VÀ HIỂU QUA BÀI BÁT NHÃ
Tâm biến chuyển từ không qua có ,từ không biết qua biết ,từ phàm qua thánh ,thì có cái gì là có sở đắc Tôi không VỌNG theo cái sở đắc mà HS và LINH TINH nói ,chỉ làm tôi vướn mắc ,hà tất phải tham cầu
Em gái Puca, Em Nhất Niệm còn trẻ mà còn biết bà bà nầy đạo hạnh ra sao, tu theo đạo gì, Con LT tui, hể có bà bà GIÁNG ở đâu là có mặt tui ở đó, vì phát nguyện hộ trì chánh pháp.
Tui nói bà bà tu theo đạo TRẬT mà bà bà không tin, cứ tưởng mình tu theo Phật, bi giờ chỉ có ai võ công tới mức thượng thừa cách không phế bỏ hêt công phu của bà bà , tẩy não mới giúp bả re-education .
Còn đi tới đâu bà bà miệng cũng nói bát nhã, mà ăn xong rồi không chịu "nhả bát", ngoài miệng nói tôi tu bát nhã , nhưng tâm thân không có "bát nhã" ,mà cũng chẳng biết bát nhã là chi, khi nào thì đạt được bát nhã toàn trí, thì chẳng thà đừng tu cho nó nhàn nhã.
Trích bài tụng Vô Tướng - 6 TổTrích dẫn:
. Đại sư nói: “Này các thiện tri thức, nghe tôi nói bài tụng vô tướng đây, để cho những ai còn mê mờ trừ diệt được các tội chướng. Đây cũng gọi là bài “Diệt tội tụng”. Tụng rằng:
Kẻ ngu tu phước không tu đạo
Bảo rằng tu phước chính là “đạo”
Bố thí cúng dường phước vô biên
Trong tâm tam nghiệp vẫn tạo tác
Nếu mong tu phước để diệt tội
Đời sau được phước, tội vẫn còn
Trừ được nguồn tội trong tâm mình
Là chơn sám hối nơi tự tánh
Nếu ngộ Đại thừa chơn sám hối
Trừ tà, hành chánh, tạo vô tội
Nếu người học đạo biết tự quán
Lập tức ngang hàng với người ngộ
Tôi xin trao truyền pháp đốn này
Người học cùng tôi đồng một thể
Muốn tìm bổn thân trong tương lai
Phải rửa nguồn tam độc trong tâm
Nỗ lực tu đạo đừng buông lung
Hốt nhiên qua một đời vô ích
Nếu gặp pháp Đại thừa đốn giáo
Chơn thành chắp tay chí tâm cầu
....................................
Đại sư nói: “Này các thiện tri thức, để Huệ Năng tôi làm một bài Vô tướng tụng cho chư vị, Tăng cũng như tục. Nếu như chư vị đều trì tụng rồi theo đó mà tu hành, thì các vị lúc nào cũng như ở cùng một chỗ với Huệ Năng. Tụng rằng:
“Thuyết thông và tâm thông
Như mặt trời trên không
Chỉ truyền pháp đốn giáo
Xuất thế phá tà tông
Giáo vốn không đốn tiệm
Mê ngộ, có nhanh chậm
Học pháp đốn giáo này
Kẻ ngu không hiểu nổi
Cách giảng tuy vạn loại
Hợp lý lại quy nhất
Trong nhà phiền não tối,
Mặt trời tuệ thường mọc
Tà đến vì phiền não
Chánh đến phiền não trừ
Tà chánh đều không dụng
Thanh tịnh đến Niết bàn
Bồ đề vốn thanh tịnh
Khởi tâm tức là vọng
Tịnh tánh ở trong vọng
Chánh trí trừ tam chướng
Thế gian nếu tu đạo
Không gì ngăn ngại được
Nếu thường tỏ lỗi mình
Tức tương đương với đạo
Chúng sanh sở hữu đạo
Lìa đạo mà tìm đạo
Rốt cuộc tâm ảo não
Nếu muốn tìm kiếm đạo
Chánh hành tức là đạo
Nếu không có chánh tâm
Tối ám không thấy đạo
Người thật tâm tu đạo
Không thấy lỗi người đời
Nếu thấy thế gian sai
Chính mình sai và tà
Người sai mình có lỗi
Mình sai mình có lỗi
Chỉ cần khử tâm sai
Đập nát tan phiền não
Nếu muốn hóa người ngu
Cần phải có phương tiện
Đừng để họ nghi tâm
Thì Bồ đề mới hiện
Pháp vốn ở thế gian
Đồng thời xuất thế gian
Chớ nên lìa thế gian
Cầu xuất thế bên ngoài
Tà kiến là thế gian
Chánh kiến xuất thế gian
Đả phá tà lẫn chánh
Bồ đề tánh hiện rõ
Đây chính là đốn giáo
Cũng gọi là Đại thừa
Mê mờ từ muôn kiếp
Giác ngộ chỉ sát na”.
Trích dẫn:
“Chơn như tự tánh là chơn Phật
Tà kiến tam độc là chơn ma
Người vướng tà kiến, ma trong nhà
Người có chánh kiến, Phật đến thăm
Tà kiến trong tánh tam độc sanh
Tức là ma vương đến ở nhà
Nếu chánh kiến trừ tam độc tâm
Ma biến thành Phật thật không giả
Hóa thân, Báo thân và Pháp thân
Ba thân vốn gốc là một thân
Nếu tự tìm thấy trong tánh mình
Đó là nhân thành Phật Bồ đề
Tịnh tánh thường ở trong Hóa thân
Tánh khiến Hóa thân thành chánh đạo
Tương lai viên mãn thật vô cùng
Dâm tánh là nhân của thanh tịnh
Ngoài dâm nào có thanh tịnh tánh
Trong tánh nếu tự lìa ngũ dục
Sát na kiến tánh tức là chơn
Đời này nếu ngộ pháp đốn giáo
Ngộ tức trước mắt thấy Thế Tôn
Nếu muốn tu hành và kiến Phật
Biết phải tìm chơn ở chỗ não
Nếu biết trong mình đã có chơn
Có chơn tức là nhân thành Phật
Không tự cầu chơn, tìm Phật ngoài
Tìm kiếm khác gì kẻ ngu si
Đốn giáo pháp môn từ Tây đến
Muốn độ người đời phải tự tu
Báo với các người đời học dạo
Không theo pháp này, sống như không”.
khi biết TÂM sanh diệt không và có thì như người không còn vướn bận chấp có chấp không nữa ,TÔI xã luôn TÂM vọng chấp có và KHÔNG ,
Thì lập tức TÔI không trụ mọi thứ gọi là không trụ nhưng có trụ nghĩa là không bị vướn mắc với các pháp cho là có hoặc là là không nữa ,TÂM TÔI thoải mái đi mà chẳng vướn mắc ,TÔI nói vậy hai người cảm thấy đúng hay sai .
Riêng tôi thậm chí đúng sai cũng chẳng còn ,không còn phân biệt hai bờ lề nghiêng mé nữa
hic hic viết văn tràn trề cái ta và ngoài ta thế kìa thì chẳng ra sao cả hic hic
CÂU NÀY CỦA LINH TINH
Còn đi tới đâu bà bà miệng cũng nói bát nhã, mà ăn xong rồi không chịu "nhả bát", ngoài miệng nói tôi tu bát nhã , nhưng tâm thân không có "bát nhã" ,mà cũng chẳng biết bát nhã là chi, khi nào thì đạt được bát nhã toàn trí, thì chẳng thà đừng tu cho nó nhàn nhã
--------------------------------------------------------------------------
Câu này là chính sát nè ,TÔI tu bát nhã nhưng trong tôi không còn thấy đâu là bát nhã nữa ,hành trì mà không cần hai chữ bát nhã đâu
Vạn pháp đều là KHÔNG ,
Hữu pháp đồng vô pháp
Ngộ đồng không ngộ
Trích dẫn:
trong 3 tên đang tranh luận hoasenngancanh, linh tinh 85, minh đài, nếu so về căn cơ thì được xếp như sau:
1. hoasenngancach.
2. linh tinh.
3. minh đài
- này Vô Pháp, ông chỉ là tên khờ khạo vì không hiểu biết gì hơn cái đáy giếng của ông, Linh-tinh-85 và Minh Đài đều lớn hơn ông rất nhiều, nên thời gian tu tập và trải nghiệm của họ nhiều hơn ông. Tôi có chỉ trích 2 người này thì tôi cũng không dùng những cách hạ phẩm giá của họ.
Vậy là HS giỏi đúng ko?:thumbs_up:Nhưng MINH ĐÀI không buồn hay có ý gì , cũng thường khen HS trước các huynh đệ ,là HS có một kiến thức giỏi mà
hãy xem cái gì đang chuyển ... hic hic
DỊCH: ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG
Phật bảo Tu-bồ-đề : Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.
GIẢNG:
- Chín loài chúng sanh chỉ trùm tất cả chúng sanh.
- Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có hữu dư y Niết-bàn và vô dư y Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng thì gọi là hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh sau khi không còn thân tướng thì gọi là vô dư Niết-bàn.
- Bốn tướng:
Tướng ngã: Thấy có mình thật.
Tướng nhân: Thấy có người thật.
Tướng chúng sanh: Thấy tất cả loài có thật.
Tướng thọ giả: Thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian.
Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy: Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp: Tại sao thế? Vì nếu Bồ-tát còn một tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát.
Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chính yếu nhưng vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được. Tôi không nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến hóa, những loài có sắc, không sắc v.v… mà chỉ nói những loài thai sanh và trong loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ tất cả loài người vào vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật. Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào vô dư Niết-bàn, chừng đó mình mới hàng phục được tâm. Vậy đến bao giờ chúng ta mới làm được việc đó? Chỗ mình chưa đạt tới mà Phật bảo mình độ người đạt được chỗ đó, làm sao chúng ta làm được? Cũng như chúng ta còn dốt mà bảo dạy tất cả người đậu tiến sĩ hết, chừng đó mới được làm quan thì thật là vô lý. Thế nên nếu học kinh Phật, nhất là kinh Đại thừa, mà hiểu theo chữ, theo lời thì không làm sao giải thích được.
Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả thập pháp giới, đó là tứ thánh và lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm, con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cả những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng… dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là vô dư Niết-bàn. Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật.
Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược, chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng… theo tất cả hình tướng bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào vô dư Niết-bàn, vào chỗ lặng lẽ không sanh diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình thì độ được ai?
Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó quy về mình rồi chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói rằng: Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm? Phật dạy: Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là hàng phục tâm. Đây là tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau. Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không còn thấy tướng mạo, đó là vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn tướng mạo là vô dư . Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó, khó ngay ở buổi đầu.
Thế nên Phật nói tiếp: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? Bởi vì một niệm dấy lên tức là có chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh, thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào vô dư Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói: Đó là Bồ-tát độ chúng sanh.
Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng hữu tình giác ngộ và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật v.v… muôn ngàn hình tướng đều cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm. Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo: "Thôi tôi xả thân, tôi không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng không kể", nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho nên còn một niệm là còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo: Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? Vì nếu Bồ-tát còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả… Có dấy niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở v.v… nếu không dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính trong việc tu hành. Hiểu được rồi chúng ta thấy rõ ràng vừa bước vào đoạn thứ nhất là đã biết được phương pháp tu hành.
Trích đoạn kinh kim cang )
Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có nói pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói. Vì cớ sao? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.
GIẢNG:
Chắc hẳn quí vị đều thắc mắc tự hỏi tại sao Phật nói kinh mình học mà nói không nói, còn tu là cốt được đắc quả mà ở đây Phật nói không đắc là tu làm sao? Trong đoạn trước, quí vị nhớ đức Phật phá pháp và phi pháp. Phải và quấy đã phá rồi, đến đây cái chúng ta quí kính nhất là pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức pháp chứng quả thành Phật, pháp đó có thật hay không? Phải và quấy không thật chúng ta đồng ý rồi, còn pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Phật chứng có thật hay không? Nhiều khi những cái tầm thường thì thấy giả, nhưng đến cái cao quí hơn thì thấy thật. Thí dụ như chì, kẽm… chúng ta nói là giả, đến vàng lại thấy là thật. Nhưng nếu thấy vàng là thật thì cũng còn thấy thật, vì một cái thật thì những cái khác cũng thật luôn, cho nên pháp và phi pháp là giả rồi nhưng đến pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu chúng ta thấy thật thì cũng là bệnh. Vì thế đức Phật mới hỏi: Vậy Như Lai có được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay không? Và Như Lai có nói pháp hay không? Đó là hai câu hỏi Phật đặt ra để ngài Tu-bồ-đề trả lời. Ngài Tu-bồ-đề thưa: "Như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói", đây là ngài Tu-bồ-đề dè dặt, những gì Ngài biết thì nói biết, những gì học được nơi Phật thì nói con học của Phật. Thế nên Ngài thưa: Con biết theo nghĩa của Phật nói, chớ không phải con biết theo ý riêng của con, không có pháp nhất định tên Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai nói. Ngài trả lời dứt khoát như vậy. Tiếp theo Ngài mới giải thích lý do. Vì cớ sao? Như Lai nói pháp đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt. Câu này thật là khó! Quí vị thấy khi chúng ta chấp pháp thấp thì đức Phật phá pháp thấp không thật, đến khi pháp thấp phá rồi, chúng ta lại chấp pháp cao nên ở đây đức Phật phá luôn cả pháp cao. Thường ai tu cũng mong chứng quả thành Phật. Thành Phật rồi mới nói pháp, cũng như Phật chứng quả rồi Ngài nói pháp vậy. Như thế Ngài có chứng đắc và có nói pháp hay không?
Trong đoạn trước Phật đã dạy: Phàm có tướng đều là hư vọng, và nếu còn thấy có pháp thật là cũng còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vậy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là pháp thành Phật có thật không? Nếu thấy pháp đó thật thì cũng còn tướng ngã, tướng nhân… Tại sao? Vì nói thành Phật thì hỏi ai thành? Ta thành phải không? Thấy có pháp thành Phật thật thì phải có người thành Phật, đó là còn ngã, còn ngã thì còn nhân, còn chúng sanh, thọ giả. Nếu thế Phật là phàm phu mất rồi! Cho là Phật có nói pháp thật cũng không được, vì phàm những gì nói ra đều là tướng hư giả.
Như vậy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay nói gọn là Phật, là đối với chúng sanh. Chúng sanh là mê nên Phật là giác, giác đối với mê, hết mê rồi còn nói giác làm gì. Giác là đối đãi với mê, mê không thật thì giác cũng không thật; và nếu mê giác đều không thật thì có thành Phật hay không? Nếu không còn thấy có mê thật, giác thật thì tâm không còn chấp hai bên mà tâm không chấp hai bên, đó là như như, đó là Phật pháp thân hiện, không thấy được thành Phật mà đã thành Phật. Hiện giờ chúng ta mơ ước thành Phật mà không thành Phật được, vì mơ ước là vọng tưởng, mà vọng tưởng còn thì Phật pháp thân đâu có hiện, thế nên cầu mà không được. Trái lại, không thấy có pháp để cầu thành Phật, nên tâm thể lặng lẽ không còn hai bên mê giác đối đãi, do đó tâm hoàn toàn thanh tịnh, tâm thể thanh tịnh tức là pháp thân Phật, là Như Lai. Không được mà được, đó là điều không thể nói cho thế gian hiểu, vì thế gian nói hoặc là được, hoặc là không, chớ không bao giờ nói không được mà được. Nhưng ở đây không đắc mà đắc, không chứng mà chứng, đó mới là khó khăn, bởi vì nếu thấy chứng đắc là còn có ngã tức là có pháp. Nếu phá được ngã pháp rồi thì đâu còn nói chứng nói đắc, mà không chứng đắc thì đó là Phật. Nhưng hễ nói Phật tức là có chứng có đắc rồi. Vì vậy Phật pháp vượt ngôn ngữ của thế gian. Ngôn ngữ thế gian luôn rơi vào hai bên hoặc được, hoặc mất, hoặc có, hoặc không. Ở đây phá hết những chấp ngã và pháp, khi ngã và pháp hết rồi thì đó là Phật. Nếu còn thấy có pháp để đắc là còn pháp, còn thấy mình chứng là còn ngã thì đâu phải là Phật, ngã pháp còn làm sao gọi là Phật được. Dẹp hết ngã pháp đó là Phật mà không có chứng, có đắc, đó mới thật là lạ. Cho nên không chứng mà chứng, không đắc mà đắc, chớ không phải một bề nói không đắc là không đắc. Như trong kinh Bát-nhã quí vị đọc "vô đắc v.v…" đừng nói như vậy là không ngơ; có nhiều người nói Bát-nhã nói cái gì cũng không, tất cả đều không. Không phải thế, khi không còn những chấp ngã pháp thì pháp thân mới hiện tiền. Cũng như tôi đã nói không dính vào tất cả thì tâm mới an trụ, an trụ đó mới là an trụ thật. Ở đây cũng vậy, nếu tâm niệm còn dính còn chấp thì tâm niệm đó là tâm niệm cuồng loạn, là tướng sanh diệt. Không còn dính chấp vào cái hư giả đó mới là vô sanh, mới là chân thật, cho nên thật tướng là vô tướng, cái chỗ không tướng là tướng chân thật. Thật rất lạ, vì vậy người học Phật nếu không tu thì không bao giờ hiểu nổi, mình có tu rồi khi hết vọng tưởng thì thấy cái chân thật hiện tiền, còn nếu không tu thì nghe rất lạ, ngôn từ quá khó hiểu. Thế nên ngài Tu-bồ-đề mới nói rằng: Không có pháp cố định tên A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, cũng không có pháp cố định để Phật nói. Vì cớ sao? Vì Như Lai nói pháp đều không nên chấp, cả pháp và phi pháp cũng đều không chấp, vì không chấp nên nói tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.
Thế nào là Hiền Thánh? Thí dụ như trong tứ quả Thanh văn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán thì ba quả vị đầu còn ở bậc Hiền. Tại sao? Vì ba quả vị này còn ở trong vòng sanh. Tu-đà-hoàn còn bảy phen sanh, Tư-đà-hàm còn một phen sanh, A-na-hàm thì sanh trong cõi trời. Đến A-la-hán mới hoàn toàn vô sanh, mới là vô lậu hoàn toàn nên gọi là Thánh. Đối với hàng Bồ-tát thì từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là bậc Hiền, từ Sơ địa trở lên đến Thập địa mới gọi là Thánh. Như vậy các bậc Hiền Thánh sai biệt nhau tại điểm nào? Chính tại pháp vô vi, tức là do cái pháp thân bất sanh bất diệt đó. Người sống được với nó viên mãn là Thánh, người sống được một phần nhỏ là Hiền bậc thấp, người sống được một phần lớn hơn, là bậc Hiền cao hơn. Như thế chúng ta thấy do pháp vô vi, bất sanh bất diệt mà có chư Hiền Thánh sai biệt, chớ không phải căn cứ trên quyền lực gì ở bên ngoài. Cũng như hiện giờ quí vị tu, có người mới tu ngồi trong một giờ đồng hồ, có thể có một trăm lần vọng tưởng, có người tu khá hơn, ngồi trong một giờ chỉ còn tám mươi lần vọng tưởng, đối với phàm phu người đó khá hơn, nếu người nào ngồi trong một giờ mà chỉ có hai mươi lần vọng tưởng thì đó là khá lắm. Đến khi trong một giờ mà không có một vọng tưởng nào, đó là đã bước vào địa vị Hiền rồi. Song suốt một ngày một đêm đến hai mươi bốn giờ mà chỉ được một giờ không vọng tưởng, đó mới được một phần nhỏ xíu trong thời gian một ngày một đêm; nếu chúng ta thêm hai giờ rồi đến bốn giờ không vọng tưởng… thì chỗ không vọng tưởng đó là pháp vô vi bất sanh bất diệt. Nếu chúng ta được một ngày không vọng tưởng, sánh với người được mười ngày không vọng tưởng thì người được mười ngày đó tiến bộ hơn mình, mình được một năm không vọng tưởng mà người được mười năm không vọng tưởng thì người đó cao hơn mình. Vì vậy khi nói cao thấp là căn cứ trên pháp vô vi mình sống được trọn vẹn hay được từng phần.
Thập tín là mới tin được mình có cái bất sanh bất diệt thôi, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là mới được lóe thấy, đến Thập địa mới được từng phần rõ ràng. Thế nên nói sai biệt nhau là căn cứ trên pháp vô vi, chớ không phải căn cứ trên cái gì bên ngoài, không phải vị Thầy thọ ký cho người này chứng cái gì, người kia chứng cái gì v.v… Mà chính trên pháp vô vi bất sanh bất diệt, ai sống được với cái đó nhiều là cao, ai sống được với cái đó ít là thấp. Còn chưa sống được với cái đó là phàm phu. Hiểu như vậy, chúng ta thấy người tu sở dĩ khác hơn người thế gian là ở chỗ đó. Quí vị thử kiểm lại nếu mình biết tu chút ít thì có khác hơn người thế gian không? Người thế gian cứ tha hồ nghĩ, cả đến khi ngủ, nằm xuống cũng chưa chịu ngủ, vẫn nghĩ hết chuyện này đến việc kia, chừng nào ngủ quên mới thôi. Còn chúng ta vừa khởi nghĩ là đã rầy nó rồi. Đấy là chỗ khác nhau. Mình rầy lần lần nó cũng giảm bớt, đến bao giờ mình vừa nhìn nó liền mất như trâu thuần thục, rồi từ từ cho đến hết nghĩ, lúc đó mình mới sống với cái chân thật. Sự thật cái nghĩ không phải là mình. Khi không nghĩ mình vẫn hiện tiền chớ không có mất, nếu cái nghĩ là mình thì hết nghĩ mình mất phải không? Không phải, hết nghĩ mình vẫn hiện tiền, mình vẫn sờ sờ, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy. Thế nên khi nào hết nghĩ thì lúc đó pháp vô vi hiện tiền. Pháp vô vi còn gọi là pháp thân hay là chân tâm. Sở dĩ chúng ta sai biệt nhau trên phương diện tu hành là sai biệt ở điểm đó, chớ đừng tính năm tu, như tôi tu mười năm, người kia tu bảy năm, vậy người đó thua tôi ba năm hay là người khác mới tu hai năm, thua tôi đến tám năm v.v… Ngay nơi pháp vô vi đó, chúng ta được sâu hoặc được cạn mới là khác nhau.
(trích đoạn kinh kim cang)do ngài THÍCH THANH TỪ giảng
Bà bà ơi, tụi con muốn hỏi bà bà hiểu như thế nào! chứ không phải hỏi Thầy Thanh Từ hiểu như thế nào, vì nếu ông Thích Duy Lực sẽ giảng khác à nha.
Còn Lục tổ giảng còn khác luôn nữa he!
-Vậy kinh vô tự là ở đâu?có phải ở tâm mình mà ra , mỗi người có một ý thức giác ngộ ,mỗi người đều hiểu được chữ THIỆN của riêng mình ,tùy theo hoàng cảnh tùy theo nhân duyên mà hiện ,vì không ai giống ai nên khi đọc kinh sẽ có nhiều ý kiến ,vì tâm mỗi người có kinh vô tự riêng của mình.
Tại sao? kinh vô tự là thật mà kinh viết là giả ,vì một đề tài như sau hãy tả con voi ,mỗi người sẽ đứng một góc độ mà viết ,mỗi người sẽ giác ngộ từ hướng mình nên mỗi bài văn đều khác nhau ,.
KINH là hiển thị thực nhất họ thấy sao viết vậy ,họ miêu tả đúng ở cái nhìn của mình ,nói cái biết của mình ,nên người tả cái vòi trước , người tả cái đuôi trước , người tả cái lưng trước , nhưng cuối cùng chỉ là con voi,.
NÊN người đọc thấy không có bài kinh nào chính sát ,vì kinh người viết theo giác ngộ riêng ,chỉ đúng ở họ sai ở tâm mình ,
Vấn đề là chúng ta phải biết tiếp nhận cái nào la chân lý, và biết vận dụng trong tu hành.
Kinh là chuyện của kinh, pháp là chuyện của pháp.
Phật nói về vô ngã, là nói về cái tự ngã, tức là cái mà người phàm như bà bà cho là "chính ta" , còn bồ tát thì đã dư biết cái "chính ta" là không có thực, mà chỉ là "tạm gọi là ta", khi thọ nhận nhân quả , họ sẳn sàng kham nhẫn mà nhận lảnh, vì hiện giờ tôi tu hành, đời trước tôi không khéo tu nên gieo nhân xấu , bây giờ phải nhận cái quả xấu đó thôi......Cái tôi hiện nay không làm , nhưng cái tôi quá khứ đã làm.....
Như vậy phải hiểu Vô ngã không phải là không có ngã, không phải là cục đất cục gạch, mà nó có ý nghĩa như vậy.
Nói chung là đừng có y kinh mà diễn nghĩa thì oan ba đời chư Phật, mà phải y kinh liễu nghĩa đó mới là tu theo Phật.
Chính vì vậy TÔI thường không chấp pháp ,trụ nhưng không trụ ,Pháp có nhưng mình biết dụng như thế nào chứ không phải bám chấp cho của mình đúng của người khác là sai ,cái suy nghỉ TÔI còn chưa bảo thủ cho mình đúng nhưng cũng tôn trọng cái suy nghỉ của người khác .Không áp đặt.
vì hiện giờ tôi tu hành, đời trước tôi không khéo tu nên gieo nhân xấu , bây giờ phải nhận cái quả xấu đó thôi..
Hình như câu này TÔI chưa bao giờ nghỉ ,vì quá khứ TÔI ko biết ko nhớ ,hiện tại TÔI chỉ biết đừng sanh TÂM tầm bậy ,còn tương lai wa cái này chưa tới
Hình như trong tôi ko chấp cái nhân ,khi sự việc xảy ra tức cái nhân đặt xuống ,Tôi không bao giờ chấp cái nhân này hay cái nhân kia mà chỉ xem TÂM mình có khởi theo cái nhân mà mọi người gieo cho tôi không .
Tâm không sanh nhân nào mọc .
niết bàn vô trụ là pháp bình đẳng , hum biết pháp của các vị là gì nhỉ
tội nghiệp cho Vô Định / Minh Đài, sai ngày càng trầm trọng... khổ tâm !
Minh Đài không nên lấy kinh ra dẫn nữa, đó không phải là thực lực của Minh Đài, ngày xưa chê Linh tinh thế nào thì ngày nay Minh Đài lặp lại y như vậy, đấy là quả báo nhãn tiền của cái mà Minh Đài tự cho mình là vô sở trụ vô sở đắc, bởi lẽ chính Minh Đài không có căn bản Pháp Học nên tu hành chỉ tới mức đó là đứng ì ra đó. Giống như người ăn cơm bị chướng bụng ăn nữa không vô, mà nuốt vào cũng không đặng.
Hoa Sen trả lời cho Minh Đài thế này, rất ngắn gọn dễ hiểu, không mắc công Minh Đài mượn lời của chư Tổ sư làm bình phong che chắn cho Minh Đài làm gì cho nặng nề, như vậy là Minh Đài chưa được tự tại như trong bài giảng kinh Bát nhã chứ không phải Tứ Diệu Đế nha Minh Đài.
Hữu trí đồng vô trí chỉ có ý nghĩa khi người nói là Bậc Thánh Vô Lậu, trong cái hiểu biết của bậc đã liễu tri nguyên nhân khổ, thế nào là giải thoát khổ thì việc Có Trí hay Không có trí đều có chung một ý nghĩa là như nhau, các ngài đã thực chứng Sự thật tối hậu là Niết bàn Vô vi nên Trí tuệ của các ngài là không cần tu chứng cũng không đắc chứng, còn Minh Đài chỉ mượn câu nói của các ngài mà làm biện minh cho mình thì thật sự Minh Đài chưa tới nên cách cư xử, ngôn từ và thể hiện trong cuộc sống của Minh Đài rất là thiếu sót, vụng về, gượng gạo... ai cũng hiểu chỉ có mỗi Minh Đài không hiểu...
Nhưng MINH ĐÀI có trả lời trên rồi.Tâm biến chuyển từ không qua có ,từ không biết qua biết ,từ phàm qua thánh ,cũng giống như người đang bị bệnh nhờ uống thuốc nên được hết binh mạnh khỏe ,thì thấy có cái gì là có đắc .
Trong khi tu mình mới thấy có phân biệt có đắc ,có thành tựu ,khi đã biết rõ rồi thì đâu thấy có đắc hay có thành tựu .
Ví dụ :khi đi học thấy có chức vụ kỷ sư bác sĩ ,nhưng đậu vào bác sĩ ,chỉ hành nghề của mình theo khả năng nghiệp vụ đâu còn tự hào hay nghỉ mình là kỷ sư hay bác sỉ nữa .
Nên chỉ cần hành trì TÂM tới tiêu chuẩn đó ,nếu nghỉ mình đã được đã đắc là thấy TÂM bản ngã của mình ,sẽ bị giới hạn ,vướn mắc nó ,TÂM như vậy ỷ lại ko tu tiến được .
một ý nữa, Minh Đài đọc tiếng Việt còn chưa rành nên đọc bài Hoa Sen nói với Vô Pháp về việc không nên đặt thứ bậc cho Minh Đài, Linh Tinh và Hoa Sen trong chuyện tranh luận mà Vô Pháp cho là hơn thua, ý Hoa Sen hỏi Vô Pháp tu tới đâu, bề dày trải nghiệm có bằng Minh Đài và Linh Tinh hay không mà dám nói này nọ, còn cớ sao Minh Đài suy diễn ra HS khen Vô Pháp tu cao tu giỏi ? Minh Đài ơi là Minh Đài, tên thì Sáng mà dạ thì u Tối, vậy là sao hả ??? Bí lù quá không biết trả lời cho HS ra sao nên mới bịa chuyện ra để né đạn phải không ? Bây giờ thì trả lời cho HS biết cách nào để nhập Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ đi. Nhớ, chỉ trả lời cái mà Minh Đài có, không cần copy kinh điển ra khè HS nhé. Đã mở lớp dạy thiền ở nhà, tự nói đã vào Tứ Không, Diệt Định mà Minh Đài không trả lời nổi câu hỏi này thì chứng tỏ Minh Đài là thùng rỗng kêu to !
Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ đi. Nhớ, chỉ trả lời cái mà Minh Đài có, không cần copy kinh điển ra khè HS nhé. Đã mở lớp dạy thiền ở nhà, tự nói đã vào Tứ Không, Diệt Định mà Minh Đài không trả lời nổi câu hỏi này thì chứng tỏ Minh Đài là thùng rỗng kêu to !
cÂU NÀY MINH ĐÀI cũng trả lời rồi để MINH ĐÀI lục lại post qua,sở dĩ MINH ĐÀI ko trả lời được là ko rành tiếng chuyên môn của nhà PHẬT nên chưa biết trả lời
D = hư không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ : những cái này là 4 bậc Thiền Vô Sắc.
Đệ hỏi cái này đúng ko?
Hư không vô biên xứ là quán hư không ,thả TÂM vào hư không ,lúc đầu vẫn còn niệm PHẬT hay NIỆM CHÚ để vào đề mục hư không ,nhưng TÂM vẫn biết mình đang quán hư không ,ấn tướng hư không đã thâm nhập ở trong đầu rồi .
Khi tham thiền sắc hư không vẫn có sau dần dần loại bỏ sắc hư không vẫn biết mình quán hư không ,không có sắc đây gọi là thức vô biên ,tức nghĩa còn biết ,còn ý thức hư không ,sau bỏ luôn thức nghĩa là không nghỉ hư không đó ,không lệ thuộc nó xã luôn thức biết hư không này .
Bắt đầu thả TÂM ,không niệm ,không có thức biết hư không ,như người trong vô thức gọi là ngủ giống như vậy đó ,nhưng là ngủ ngồi trong vô thức ,thân cố định ,nhưng TÂM thả rỗng lặng trong vô niệm .
Mọi thứ diễn hoạt như phim thôi
Hôm nay Hoa Sen sẽ nói rộng cho Bà Đạo Sư Minh Đài những ý của bà nhé. Thấy bà ngày càng vớ vẩn rồi đó.
- chả cần biết Minh Đài nghĩ cái gì nhưng hễ có Tâm ở đâu ở đó có Cảnh mà có biết hay không mới quan trọng, Biết là Trí còn Không Biết là Si mê. Chả có gì hay mà khoe ! Bà nghĩ sao khi tôi nói Tâm là nhân, nhân cũng là Tâm ? Làm gì có chuyện ngược ngạo như bà nói Tâm không sanh nhân nào mọc .Trích dẫn:
* Hình như trong tôi ko chấp cái nhân ,khi sự việc xảy ra tức cái nhân đặt xuống ,Tôi không bao giờ chấp cái nhân này hay cái nhân kia mà chỉ xem TÂM mình có khởi theo cái nhân mà mọi người gieo cho tôi không .
Tâm không sanh nhân nào mọc .
* Chính vì vậy TÔI thường không chấp pháp ,trụ nhưng không trụ ,Pháp có nhưng mình biết dụng như thế nào chứ không phải bám chấp cho của mình đúng của người khác là sai ,cái suy nghỉ TÔI còn chưa bảo thủ cho mình đúng nhưng cũng tôn trọng cái suy nghỉ của người khác .Không áp đặt.
>>> Tôi nói 6 căn không mất, 6 thức vẫn có tác động, có trụ chẳng phải không trụ, tâm cũng sanh chứ chẳng phải chẳng sanh. Vậy bà nói xem, trạng thái ấy là gì ? Hoặc nếu lý giải như bà nhưng tôi nói tâm ô nhiễm vẫn sanh, bà nghĩ sao?Trích dẫn:
* 6 thức đồng 6 căn cũng Biến theo,thấy có trụ nhưng không trụ ,6 căn 6 thức đều không có bị tác động ,TÂM sanh cũng không khởi.
- câu này là tà kiến, bởi vì không phải chuyện gì xảy ra trong hiện tại cũng đổ cho quá khứ. Minh Đài nên biết, nếu có nhân mà không có duyên thì quả không sanh, nếu có duyên mà không nhân thì cũng không cho quả. Người nào cũng có nhân tốt xấu lẫn lộn, nên chuyện nhận quả xấu là chuyện bình thường, xin chớ đổ lỗi cho nhân đời trước. Minh Đài nói câu này chứng tỏ Minh Đài học chưa thông, hành chưa tới, vẫn còn chưa ra khỏi lưới Mê.Trích dẫn:
vì hiện giờ tôi tu hành, đời trước tôi không khéo tu nên gieo nhân xấu , bây giờ phải nhận cái quả xấu đó thôi..
- Nếu đã nói ra được bằng Lời tức đã có Ngôn ngữ, tức là Hữu tự. Ngày xưa Đức Phật có thuyết kinh Vô tự thiệt, nhưng ngài không hề hé môi, không có một văn bản nào ghi lại những lời 'kinh Vô tự' mà Ngài thuyết trong Đại Định và đối tượng 'nghe' là chư Thánh Vô Lậu cũng nhập Đại Định tương ứng với Ngài. Tâm tương ứng với Tâm, cho nên không có chuyện như Minh Đài nói mỗi người giác ngộ theo kiểu riêng, như vậy là không có sự thống nhất giác ngộ tức là cái thấy biết còn bị hạn chế, tức là còn Phàm phu Hiệp thế. Đây là điểm tế nhị để khẳng định Minh Đài tu còn chưa tới, nếu thật đã Vô tự thì hành vi và ngôn ngữ sẽ là Vô tác. Xin lỗi, Minh Đài hiểu chữ 'Vô tác' không ? đừng giải là Vô = không, Tác = làm, tức là không làm thì không có nghe chưa ! Kinh Vô tự được biểu hiện sinh động nhất là bức hình Đức Phật giơ cành hoa sen còn Đức Đại Ca Diếp mỉm cười.... Hiểu hông ?Trích dẫn:
* Vậy kinh vô tự là ở đâu? có phải ở tâm mình mà ra , mỗi người có một ý thức giác ngộ ,mỗi người đều hiểu được chữ THIỆN của riêng mình ,tùy theo hoàng cảnh tùy theo nhân duyên mà hiện ,vì không ai giống ai nên khi đọc kinh sẽ có nhiều ý kiến ,vì tâm mỗi người có kinh vô tự riêng của mình. Tại sao? kinh vô tự là thật mà kinh viết là giả ,vì một đề tài như sau hãy tả con voi ,mỗi người sẽ đứng một góc độ mà viết ,mỗi người sẽ giác ngộ từ hướng mình nên mỗi bài văn đều khác nhau ,.KINH là hiển thị thực nhất họ thấy sao viết vậy ,họ miêu tả đúng ở cái nhìn của mình ,nói cái biết của mình ,nên người tả cái vòi trước , người tả cái đuôi trước , người tả cái lưng trước , nhưng cuối cùng chỉ là con voi,.
NÊN người đọc thấy không có bài kinh nào chính sát ,vì kinh người viết theo giác ngộ riêng ,chỉ đúng ở họ sai ở tâm mình.
* Vậy LINH TINH thừa biết mỗi người đều giảng khác VẬY ai đúng ?TÔI đúng hay LINH TINH đúng .
Tôi nghỉ không có một cái thuyết nào đúng ,vì mỗi người ngộ mỗi hướng khác nhau như KINH VÔ TỰ tôi từng nói đó sao.
- Biết thì nói, không biết thì ngậm mồm lại người ta không bảo mình câm ! Ai nói bà tâm chuyển biến từ không qua có, bà có bị mê sảng không ? bà không hiểu à, hay bà bị ngộ độc kinh Kim Cang, hay bị chư hộ pháp quýnh bà mấy gậy kim cang mà bị tưng tửng ? bà nói xem nếu bà không Đắc thì ai Đằc ? nếu bà không Thành thì ai Thành ? nếu Bồ tát Sĩ đạt ta không Thành Phật thì ai thành Phật cho bà lạy mỗi ngày? Còn khi đã thành tựu thì đó chỉ là cách nói, chứ không phải là ý phủ định cái Đắc và cái Không Đắc !Trích dẫn:
Nhưng MINH ĐÀI có trả lời trên rồi.Tâm biến chuyển từ không qua có ,từ không biết qua biết ,từ phàm qua thánh ,cũng giống như người đang bị bệnh nhờ uống thuốc nên được hết binh mạnh khỏe ,thì thấy có cái gì là có đắc .
Trong khi tu mình mới thấy có phân biệt có đắc ,có thành tựu ,khi đã biết rõ rồi thì đâu thấy có đắc hay có thành tựu .
- Vậy mới thấy lòi cái dốt của bà ra.... Về học lại đi, kinh sách Hoa Sen cho bà thuở trước còn giữ không hay cân ký bán hết rồi ???Trích dẫn:
cÂU NÀY MINH ĐÀI cũng trả lời rồi để MINH ĐÀI lục lại post qua,sở dĩ MINH ĐÀI ko trả lời được là ko rành tiếng chuyên môn của nhà PHẬT nên chưa biết trả lời
Trích dẫn:
vì hiện giờ tôi tu hành, đời trước tôi không khéo tu nên gieo nhân xấu , bây giờ phải nhận cái quả xấu đó thôi..
- câu này là tà kiến, bởi vì không phải chuyện gì xảy ra trong hiện tại cũng đổ cho quá khứ. Minh Đài nên biết, nếu có nhân mà không có duyên thì quả không sanh, nếu có duyên mà không nhân thì cũng không cho quả. Người nào cũng có nhân tốt xấu lẫn lộn, nên chuyện nhận quả xấu là chuyện bình thường, xin chớ đổ lỗi cho nhân đời trước. Minh Đài nói câu này chứng tỏ Minh Đài học chưa thông, hành chưa tới, vẫn còn chưa ra khỏi lưới Mê.
---------------------------------------------------------------------------
Câu này là của LINH TINH
thời mạt pháp
chúng sanh mê đắm
nói pháp nhiều hơn là thực hành
Câu này là của LINH TINH >> vậy bà chớ HỌC THEO !