-
Chuyên tu Niệm Phật
Đại Sư Thượng Ấn Hạ Quang
Ðại sư Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thánh Lượng là Tổ thứ mười ba của Liên Tông. Ngài họ Triệu, là người huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ học Nho, từng bài xích Phật, mắc bịnh mắt mấy lượt suýt mù, mới biết lỗi trước.
Năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Ðọc cuốn Long Thư Tịnh Ðộ Văn, biết được Niệm Phật chính là đạo trọng yếu để liễu sanh thoát tử, ngài liền chuyên niệm Phật hiệu. Trong lúc làm lụng, tâm chẳng rời niệm Phật. Sau ngài trụ tại chùa Tư Phước ở núi Hồng Loa, chuyên tu Tịnh Ðộ và thâm nhập Kinh tạng, diệu khế Phật tâm.
Ngài triều bái Ngũ Ðài, đến kinh đô, theo hòa thượng Hóa Văn thỉnh Ðại Tạng về Phổ Ðà, trụ tại chùa Pháp Vũ, dốc chí tinh tu, bế quan suốt sáu năm, lấy đó làm kỳ hạn, ngày đêm niệm Phật hòng sớm đắc Niệm Phật Tam Muội. Các vị như cư sĩ Từ Úy Như v.v… đem in bộ Văn Sao của ngài khiến cho sự giáo hóa của ngài càng được rộng rãi. Ngài tự hành và dạy người, một lòng lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy hướng, chẳng lìa nhân quả, chẳng lạm bàn huyền luận diệu. Người quy y ngài hơn hai mươi vạn, kẻ y giáo phụng hành được sanh Tây Phương cũng rất nhiều.
Ngài còn hóa độ cả những tù nhân và dị loại, thường trì chú Ðại Bi vào nước và gạo để chữa các bịnh. Về sau, ngài bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Ngoài những lúc hành trì thời khóa lại lo hiệu đính, bổ cứu những bản tự chí của các núi Phổ Ðà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa v.v…
Xưa kia ngài đã nguyện chẳng làm trụ trì, chẳng thâu đồ chúng; nhân vì Tăng, tục theo về quá đông, ngài mới khai sáng Tịnh Tông Ðạo Tràng ở núi Linh Nham để đại chúng cùng tu. Ngài sáng lập Hoằng Hóa Xã (nhà xuất bản Hoằng Hóa), in tặng năm trăm vạn bộ kinh sách Phật, hơn trăm vạn bức hình Phật. Ngài bảo vệ pháp môn, trung hưng Tịnh Tông, cứu tế kẻ đói nghèo, quyên góp trợ giúp kẻ túng ngặt, công chẳng thể nghĩ bàn nổi.
Về sau, ngài về lại Linh Nham , biết trước đã đến lúc, dạy đại chúng:
- Niệm Phật thấy Phật, quyết định sanh Tây. Ðược Phật tiếp dẫn, ta đi đây!
Ngài hướng về Tây niệm Phật, tọa hóa, thọ tám mươi tuổi. Lúc trà tỳ, hàm răng còn nguyên, xá lợi ngũ sắc thu được mấy ngàn hạt.
(theo Ấn Quang Ðại Sư Hạnh Nghiệp Ký)
Nhận định:
Tổ Sư là Ðại Thế Chí Bồ Tát lai thế nhằm trung hưng Tịnh Tông mà vẫn còn thường bế quan tinh tu, ngày đêm niệm Di Ðà! Bọn phàm phu ta há nên qua loa biếng nhác chẳng chịu dũng mãnh tinh tấn sao?
-
Đại Sư Thượng Quảng Hạ Khâm
Ðại sư Quảng Khâm Chiếu Kính thời Dân Quốc, họ Hoàng, người huyện Huệ An tỉnh Phước Kiến. Năm ngài mới bốn tuổi, vì nhà nghèo nên phải bán vào nhà họ Lý ở Tấn Giang làm con nuôi.
Ngài thể chất yếu đuối, lắm bịnh, theo mẹ nuôi thờ Phật, ăn chay. Năm mười một tuổi, vì cha mẹ nuôi đều mất cả, ngài bèn xin xuất gia tại chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu. Nhà chùa sai làm các việc bên ngoài như trồng rau, nhổ cỏ… Sau ngài qua Nam Dương, đến năm ba mươi sáu tuổi mới trở về chùa Thừa Thiên chính thức thế phát. Thế phát xong, ngài chuyên chí tu khổ hạnh, thường nằm chẳng ngồi, nhất tâm niệm Phật.
Năm bốn mươi hai tuổi, sau khi thọ Cụ Túc Giới, ngài càng quyết chí tiềm tu, qua thạch động bên sườn núi Thanh Nguyên ở Tuyền Châu để tọa Thiền niệm Phật, chỉ dùng các loài khoai rừng, quả dại để đỡ lòng. Trong núi có nhiều hổ, vượn. Từ đó, khỉ, vượn đến dâng quả, mãnh hổ đến quy y nên ngài được xưng tặng nhã hiệu là Phục Hổ Sư (vị thầy hàng phục hổ). Sư thường nhập định, từng có lần nhập định cả mấy tháng chẳng ăn uống, chẳng động đậy.
Tháng Sáu năm Dân Quốc thứ 36 (1947), lúc đã năm mươi sáu tuổi, ngài vượt biển đến Ðài Loan, khoét thạch động Quảng Minh ở phía sau núi Tân Ðiếm thuộc Ðài Bắc để ẩn cư tiềm tu. Chỗ ấy về sau khuếch trương thành chùa Quảng Minh. Mặt sau phía bên phải động có vách đá lớn, ngài bèn chạm khắc thành tượng Phật A Di Ðà lớn bằng đá. Phía dưới, về bên trái lại khoét thành thạch động; sau được mở rộng thành chùa Quảng Chiếu.
Sau này, ngài tìm được thạch động thiên nhiên ở Thổ Thành, đột nhiên có suối nước trong từ đá phun ra, mãng xà quy y. Ngài lại khuếch trương nơi ấy thành chùa Thừa Thiên, tiếp dẫn đệ tử đồng tu. Năm Dân Quốc 58 (1969), sư khai sáng Quảng Thừa Nham ở trấn Thổ Thành.
Ðáp lời cầu thỉnh nhiều lượt của tín chúng, sư đến các địa phương Hoa Liên, Ðài Trung, Nam Ðầu, Gia Nghĩa, Cao Hùng v.v… hoằng pháp độ chúng. Kế đó, ngài kiến lập chùa Tường Ðức ở Thiên Tường, chùa Quảng Long ở núi Long Tỉnh v.v… thâu nạp đông đảo đồ chúng.
Ngài thường ngồi xếp bằng niệm Phật, từng nhập định ba lần, mỗi lần ước chừng cả tuần trở lên. Hằng ngày, sư chỉ ăn trái cây, uống nước để sống nên lại được tặng nhã hiệu là Thủy Quả Sư. Sau cùng, ngài hoạch định việc tạo dựng chùa Diệu Thông ở làng Lục Quy thuộc thành phố Cao Hùng, truyền thọ tam đàn thành công viên mãn. Tứ chúng đệ tử cầu giới nơi ngài nhiều đến cả mấy ngàn. Ðệ tử quy y nhiều hơn nữa. Ngài có những tác phẩm Khai Thị Lục, Truyền Kỳ Sự Tích… được ấn hành lưu truyền trong đời.
Sư thân gầy gò nhưng thể chất mạnh khỏe, hành động mẫn tiệp. Ngày hai mươi sáu tháng Chạp năm Dân Quốc bảy mươi bốn (1985), sư cấp tốc trở về chùa Thừa Thiên. Ngày mồng Một tháng Giêng năm sau, vào lúc sáng sớm, sư triệu tập đệ tử phụ trách các phân viện và đại chúng chùa Thừa Thiên, nhất nhất phó chúc hậu sự xong, liền trở về chùa Diệu Thông, suất lãnh đại chúng ngày đêm niệm Phật, tinh thần càng mạnh mẽ, tinh tường.
Hai giờ chiều ngày mồng Năm, sư chợt bảo đại chúng:
- Chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng có việc gì!
Ngài hướng về đại chúng gật đầu, mỉm cười, an tường tọa hóa, thọ chín mươi lăm tuổi. Trà tỳ, lưu lại xá lợi rất nhiều.
(theo Quảng Khâm Hòa Thượng Niên Phổ và Lược Sử)
Nhận định:
Ðại Sư tuy chưa từng đọc sách, lúc nhỏ tuổi, thể chất yếu đuối lắm bịnh, theo dưỡng mẫu thờ Phật, ăn chay. Sau khi xuất gia chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật. Sau khi đến Ðài Loan, tuy Ðại Sư tiềm tu, chỉ dùng trái cây và nước lã để sống, nhưng thân nhẹ nhàng, mạnh khỏe, lại sống rất thọ.
Dựng chùa, truyền giới, hoằng pháp độ chúng. Ðột nhiên, sư suất lãnh đại chúng niệm Phật, mỉm cười, tọa hóa thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.