Thấy bộ này là hay nhất và chân thực nhất , không biết mọi người có ai tìm hiểu qua chưa , có sở đắc gì không đem ra luận bàn cho vui :)
Printable View
Thấy bộ này là hay nhất và chân thực nhất , không biết mọi người có ai tìm hiểu qua chưa , có sở đắc gì không đem ra luận bàn cho vui :)
天 心
Tổ Sư (1) nói : Thiên Tâm là tâm chung của "Tam tài" (Thiên ,Ðịa ,Nhân) là Huyền khiếu (2) mà trong các kinh sách dưỡng sinh vẫn thường nói đến, là nhịp Vũ trụ phổ quát cho muôn vật trong Trời Ðất .
Con người ta sinh ra ai cũng có Thiên Tâm, chỉ có điều ở những nhà Hiền triết, trải qua một quá trình tu luyện nhất định, thì Thiên tâm khai mở, còn ở những người bình thường thì cả đời không hề hay biết rằng có nó.
Thiên Tâm khai mở có thể trường sinh, còn đóng kín thì đoản mệnh.
Người đời thường nghĩ, con người ta sống chết đều có số, đó là ý nghĩ tầm thường, không đáng để ta lưu ý. Ai mà chẳng mong sống lâu, nhưng thực tế lại đi dần vào cõi chết. Ðó có phải là do người ta có những gan ruột khác nhau không ? Không ! ấy là do "lục căn" mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý , lôi cuốn con người, do "lục trần" sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp , làm cho con người tham dục, tâm không lúc nào thanh tịnh. Chính vì vậy mà nhiều người tuổi còn trẻ chớp mắt đã già nua, chết yểu. Cho nên, các Ðạo sĩ nói chúng đều đồng tình với nhận xét trên đây, thường chủ động truyền dạy Ðại Ðạo cho người đời. Tiếc thay, người truyền dạy thường hay "nói thật mất lòng", còn người nghe thì không biết nắm lấy những điều mấu chốt. Vì sao vậy ? Bởi vì mọi người không hiểu "Bản thể" và "Công dụng" của Ðại Ðạo, chỉ biết làm cho cái nọ phương hại đến cái kia. Dưỡng sinh theo cách đó, chẳng khác nào trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, vĩnh viển không bao giờ đi tới đích !
Mọi người đâu có hiểu , Ðại Ðạo lại lấy hư vô làm "bản thể", lấy hiển hóa làm "công dụng" vì thế trong quá trình học đạo không thể dừng ở những "vật hữu hình", mà cũng chẳng thể rơi vào "hư không" được. Ðiều quan trọng nhất là làm cho sự vận động của chân khí thông suốt khắp trong cơ thể.
Công pháp tu luyện của học phái chúng tôi chỉ lấy "Khí tiên thiên" (3) làm bản thể, "Kim đan" (4) làm công dụng, khiến cho bản thể và công dụng phối hợp, ăn khớp với nhau, để đạt đích trường sinh bất lão.
Phương pháp này các bậc thánh nhân và hiền triết thường dùng lối "tâm truyền tâm" , từ thế hệ nọ truyền tới thế hệ kia, bắt đầu từ Lão Tử cho mãi tới Ðông Hoa đế quân, rồi về sau chia thành hai tông Nam Bắc (6).
Ðại Ðạo vốn không thần bí, nhưng tâm truyền cực kỳ bí hiểm, đó không phải là do cố làm cho huyền bí, mà là vì công pháp này không thể nào tiếp thu được nếu như không dùng lối tâm truyền tâm.
Ngoài cách đó ra cũng không thể nào truyền bá và tu học được. Cố nhiên, dùng ngôn ngữ truyền thụ mặt đối mặt cũng có thể được, nhưng vẫn còn rất nhiều người nghe Ðạo có trình độ lĩnh hội khác nhau, huống chi viết ra thành lời để phổ biến thì lại còn kém xa một bậc .
Chính vì vậy mà nói. Ðại Ðạo do Lão Tử truyền thừa đặc biệt chú trọng tâm truyền. Dạy và học công pháp này đều được lĩnh hội, trở nên sáng rõ qua bước "Tâm lĩnh thần hội". Ở đây sư phụ không thể đảm bảo truyền thụ toàn bộ Ðại Ðạo cho đệ tử, còn đệ tử cũng không thể đảm bảo đã học được tất cả ở sư phụ . Chỉ có dựa vào niềm tin chân thành trong sáng mà một ngày nào đó có được thời cơ thích hợp, Tâm Thần hòa quyện, ý nghĩa của sư phụ bộc bạch rõ ràng, đệ tử lĩnh hội rạch ròi từng lời từng chữ. Thầy trò hoặc đối diện nhìn nhau mỉm cười tâm ý cùng thông , hoặc cảm động đến rơi nước mắt.
Phàm những người nhập Ðạo và ngộ Ðạo đều có cùng trải nghiệm chung này. Ở đây các đệ tử thường ngộ Ðạo trước rồi sau nhập Ðạo, cũng có người nhập Ðạo trước rồi sau ngộ Ðạo, nhưng quyết không có ai tâm tư không tập trung, niềm tin không kiên định mà nhập Ðạo và ngộ Ðạo cả. Bởi lẽ, tâm tư không tập trung tất nhiên sẽ tán loạn; niềm tin không kiên định tất nhiên sẽ hời hợt, chàng màng. Mà đã tán loạn thì không thể nào làm cho ánh sáng tụ hợp, hời hợt thì không thể nào làm cho ánh sáng ngưng kết . Mà đã vậy thì ngay tâm của mình cũng không cách nào hiểu nổi, nói chi đến chuyện hòa đồng với Tâm mà Lão Tử giải truyền.
Chính vì thế mà Nho gia chủ trương nội tỉnh , Ðạo gia chủ trương nội thị. Trong "Kinh bốn mươi hai chương (9) của Phật gia cũng nói : định Tâm vào một nơi thì còn có việc gì mà chẳng làm được ?". Ở đây ý muốn nói, Ðại Ðạo tối thượng chẳng qua chỉ là làm cho tấc Tâm ấy cùng chỉnh thể của nó hoàn thiện mà thôi. Vậy chỉnh thể ấy là gì ? Ðó là cảnh giới trong sáng không vẩn đục - "Tông chỉ" mà ta truyền thụ, nội dung huyền diệu nhất chính là ở điểm này.
Khéo bận dụng "Tông chỉ", then chốt là ở năm chữ "Ðịnh tâm vào một nơi". Quyết pháp của "Ðịnh tâm vào một nơi" là nội quan, đó chính là bí chỉ của tâm truyền đã nói ở trên. Công pháp này chẳng những có thể dạy bằng lời, mà còn có thể viết trên giấy trắng mực đen. Có điều khi công phu tu luyện đến chổ cao thâm, đạt tới giai đoạn tâm không vắng lặng, cuối cùng lặng lẽ xem ngắm ý cảnh diệu huyền nhất thì lúc này bút không sao tả nổi, mà cũng chẳng thể truyền dạy bằng lời. Lúc này quả đúng là hư vô, đúng là tĩnh lặng, đúng là sáng láng, đúng là tịch mịch, hệt như một hạt huyền châu (10) tâm tâm tương ấn. Ðây thật quả là vô cùng
huyền diệu !
Sau khi đã tới giai đoạn đắc Ðạo, ngộ Ðạo, hết thảy mọi điều đều sáng rõ .
Ở đây không còn có Ðạo lý nào khác, đó chẳng qua chỉ là vì Thiên Tâm đã khai mở.
Những người cầu Ðạo ngày nay cũng giống như đi qua một con sông. Nước sông mênh mang chẳng biết làm thế nào qua được. Cho tới lúc đã sang tới bờ bên kia an toàn, thì ngay đến cả chiếc bè qua sông kia ta cũng chẳng cần; chuyện này cũng hệt như sau khi đã đắc Ðạo, phương pháp tu Ðạo cũng có thể xếp lại chẳng cần đến làm gì. Thế nhưng, khi chưa biết xử trí ra sao, thì hãy cho họ một chiếc bè là đắc sách . Tôi giờ đây may mắn được đảm nhận sứ mạng người thầy dẫn dắt, tốt nhất trước tiên nên giao chiếc bè đó cho mọi người.
Thiên Tâm là một khiếu. Nhưng khiếu này không ở trên thân mình, mà cũng không ở ngoài thân. Không thể sờ nắn để nó khai mở, chỉ có yên lặng tập trung bền bỉ đợi chờ . Nếu muốn nhận thức sự tồn tại của Thiên Tâm thì không ngoài cách lần tìm "Sắc (11) tức Không (12) Không tức Sắc nói trong "Tâm Kinh" (13) của nhà Phật "là cái này, lại vừa không phải là cái này; không phải là cái này lại vừa là cái này" nói đến trong các Ðan thư (14) của Ðạo gia. Một khi tới được cảnh giới đó sẽ ung dung tự tại, tự nhiên nhi nhiên, Thiên Tâm khai mở. Và, Thiên Tâm hễ đã khai mở sẽ khai mở vĩnh viễn.
Công pháp tu luyện ở đây gói ghém trong hai chữ "Tồn thành" (15).
Khi các vị dùng phương pháp Tồn thành để luyện công, cần biết cách vận dụng khéo léo phương pháp này, đó chính là khẩu quyết tu luyện. Trong khẩu quyết tu luyện còn có khẩu quyết đưa lại hiệu quả nhanh hơn : khi gạt bỏ tạp niệm để nhập tĩnh, cần tham khảo hình dáng của chữ "Y" trong tiếng Phạn , đem điểm ở giữa đặt vào giữa hai lông mày, còn hai điểm dưới thì điểm bên trái đặt vào mắt trái, điểm bên phải đặt vào mắt phải, thế là thần quang của hai mắt tự nhiên sẽ hội tụ ở tâm hai lông mày. Tâm hai lông mày chính là thiên mục, là cửa ngõ tam quang hội tụ, vào ra (17).
Người ta nếu biết sử dụng ba con Mắt giống như chữ Y tiếng Phạn ấy, nhất là lại biết nhẹ nhàng dùng ý nghĩ làm cho chúng chuyển động, hệt như khe khẽ mài sáng gương vậy, tức thì tam quang sẽ hội tụ ở tâm hai lông mày, lóe sáng tựa hồ như Mặt Trời hiển hiện ở ngay trước mắt. Giờ đây, ta lại tiếp tục dùng ý nghĩ dẫn ánh sáng tới sau tâm, trước song quan (18)
tức là tới bộ vị mà ta vẫn quen gọi là "Cửa Huyền Tẫn" (19).
Chỉ cần ta khéo biết dùng ý nghĩ dắt dẫn, ánh sáng kia sẽ đến được cửa này. Lúc này ta chớ nên quên hàm ý diệu huyền của hai chữ "tựa hồ" nói đến ở trên. Và, dĩ nhiên, Thiên Tâm sẽ tự động khai mở.
Còn công pháp tiếp tục ra sao sau này sẽ trình bày rõ . Ðiều cần nhắc nhở ở đây là khi luyện công, trước sau không được để Tâm bị những cảnh tượng hiển hiện do nguyên khí được phát động làm cho mê hoặc, nếu bị mê hoặc rất có thể Tẩu hỏa Nhập ma (20).
Các vị hãy tu luyện theo công pháp mà tôi truyền đạt, ngoài ra không có phương pháp nào khác hay hơn. Nói đi nói lại, chỉ có thuần nghĩ đến Thiên Tâm. "Kinh Lăng Nghiêm" (21)
của nhà Phật cũng từng nói : thuần nghĩ sẽ bay bổng, ắt sinh Thiên thượng" .
Thiên nói đến ở đây không phải là Trời xanh, mà là chỉ Pháp thân (22)
sinh thành ở cung Càn (23)
(tức ở đỉnh đầu) . Càn tức là Thiên. Tự nhiên lâu ngày sẽ thân ngoại hữu thân, Thiên ngoại hữu Thiên.
Bởi lẽ, thể xác con người có thể so sánh với một quốc gia. "Thái nhất" tập trung lại chính là vua của quốc gia ấy, còn ánh sáng chính là ý chí hoặc mệnh lệnh của đức vua đó. Vì vậy, hễ có ánh sáng rọi tới thì khí trong khẩu cơ thể đều quay hướng về, đỉnh đầu, tựa như thể đức vua định đô lập quốc tất cả các chư hầu đều về triều cống lễ tung hô, cũng giống như vua tôi trên dưới một lòng, quân dân đồng tâm hiệp lực, tất cả mọi người đều lo làm tròn bổn phận của mình.
Trở về, các vị chỉ cần chuyên tâm tập luyện hồi quang, đó chính là diệu đế tối thượng. Tập luyện hồi quang lâu ngày, ánh sáng sẽ ngưng kết lại, tự nhiên hình thành pháp thân, ngày một mở rộng, vươn dài. Ðó chính là cái mà Ðạo gia chúng ta vẫn gọi là "ngân ngạc", Phật pháp Tây phương gọi là "Pháp vương thành". Ðức vua được các hiền thần phò tá, thế là tinh khí ngày một sinh sôi, nguyên thần ngày một vượng thịnh, rồi một ngày Thân Tâm hòa hợp, biến hóa đó chẳng phải là vấn đề Thiên ngoại hữu Thiên, Thân ngoại hữu Thân đó sao ?
Còn cần nói thêm một câu nữa : Kim Hoa, đó chính là Kim Ðan. Sự biến hóa khôn lường của nó chính. là do Tâm người luyện công quyết định . Diệu quyết ở đây , tuy không có chút gì là xa lạ, nhưng vô cùng linh hoạt. Tất cả đều dựa vào trí thông minh và tính" trầm tĩnh bởi vì, .nếu không phải người thông minh nhất thì không thể thực hành được, cũng như nếu không phải người trầm tĩnh nhất thì cũng không thể theo đuổi đến cùng !
Thiên Tâm (dịch từ Phụ bản Bắc Kinh)
Lã Tổ nói rằng :
Thiên Nhiên tức là Ðạo. Ðạo không có tên, không có hình tướng, chỉ là một Tính, một Nguyên Thần mà thôi. Tính mệnh không nhìn thấy, không sờ thấy được, chỉ gửi gắm ở Thiên Quang. Thiên Quang cũng không nhìn thấy được không sờ thấy được, chỉ gửi gắm ở hai mắt mà thôi.
Từ xưa tới nay, các chư Tiên truyền đạo thường chỉ dạy truyền khẩu, dạy thế hệ nào thành công thế hệ ấy. Kể từ khi Thái Thượng hiện hóa ở Ðông Hoa, rồi truyền thừa mãi cho tới Lã tôi, rồi tới các tín đồ hai tông Nam Bắc, có thể nói Ðạo giáo Toàn Chân đạt tới điểm cực thịnh. Có điều, nói là thịnh, thịnh là ở chổ đông người, nhưng thật ra là đang suy, suy ở chỗ dứt bỏ tâm truyền. Cho tới lúc này thì phù phiếm đến tột cùng, ngao ngán đến cực điểm ! Mà "Vật đã đến bước tột cùng ắt sẽ đi ngược lại". Thế là Hứa Tổ phái Tịnh Minh đứng ra từ bi phổ độ, đề xuất nguyên tắc "Giáo ngoại biệt truyền" để thu nạp những người có căn khí khác thường. Những người nghe Ðạo thì họa hoằn mới gặp , những người học Ðạo lại càng hiếm thấy, mọi người đều thể hội nổi khổ tâm giúp người của Hứa Tổ, đều phải vững vàng trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong cách đối nhân xử thế, rồi sau mới bàn đến chuyện tu chân ngộ tính. Tôi giờ đây rất vinh hạnh được làm thầy dạy, trước tiên hãy trình bày rõ về: "Thái ất Kim Hoa Tông Chỉ", rồi sau mới giới thiệu tỷ mỉ từng chương.
Cái gọi là "Thái ất" tức là một đại từ thượng thừa . Hết thảy những pháp quyết luyện công nói chung đều phải dùng thuật hữu vi để đạt tới cảnh giới vô vi, vì vậy không phải là công pháp một tấc đến Trời. "Tông chỉ" truyền thụ ở đây có khác, mới đầu sẽ trực tiếp đề xuất tính công, không hề thua pháp môn thứ hai, vì vậy lại càng huyền diệu.
Cái gọi là "Kim Hoa" - đó là ánh sáng. Ánh sáng đó có màu gì ? Y hệt như bông hoa bằng vàng, trong đó có bao hàm chữ "ánh sáng" vậy. Ðó chính là chân khí Thái ất tiên thiên. Cái gọi là "Thủy hương diên , chỉ nhất vị" nói đến trong "Nhập dược kính" chính là muốn chỉ chân khí ấy.
Công phu hồi quang toàn dùng nghịch pháp - tập trung ý nghĩ vào Thiên Tâm.
Thiên Tâm ở vào giữa Mặt Trời và Mặt Trăng (mắt phải và mắt trái). "Hoàng Ðình Kinh" có câu : "Thôn điền xích trạch khả trị sinh", xích trạch nói đây là chỉ phần mặt của con người, ở phần mặt có một khoảnh điền vuông vức, đó chẳng phải chỉ Thiên Tâm, thì còn là cái gì ? Trong tấc vuông này có danh lam thắng cảnh có vạn cổ kỳ quan là nơi thần tối hư tối linh cư ngụ . Nho gia gọi nó là "Hư Trung", Phật gia gọi là "Linh Ðài", Ðạo gia gọi nó nào là "Tổ Thổ", "Hoàng Ðình", nào là "Huyền Quan"; Tiên Thiên Khiếu v.v... Thì ra Thiên Tâm kia giống như một tòa nhà, còn ánh sáng là người , chủ của ngôi nhà đó.
Vì vậy hễ hồi quang thì khí khắp trong cơ thể sẽ hướng về đỉnh đầu, tựa như thánh vương định đô kiến triều, vạn quốc dâng biểu qui thuận, hoặc như người chủ anh minh, nô tỳ tự nhiên phụng mệnh, người nào việc nấy.
Các vị chỉ cần thực hành hồi quang, đó là diệu đế tối thượng. Có điều cần chú ý, loại ánh sáng này dễ động nhưng lại khó định. Hồi quang lâu ngày, loại ánh sáng này dần dần ngưng kết thành pháp thân tự nhiên, cuối cùng có thể ngưng thần ở trên Cửu Tiêu vậy. Mặc triều và "bay bổng" nói đến trong "Tâm ấn Kinh" chính là chuyện đó vậy.
Thực hành "Tông chỉ" không còn công pháp nào hơn, chỉ ở chỗ thuần nghĩ về Thiên Tâm. "Kinh Lăng Nghiêm" nói : "Thuần nghĩ sẽ bay bổng, ắt sinh Thiên thượng". Thiên nói đây không phải là Trời xanh, mà là ám chỉ Pháp thân sinh ra ở cung Càn (ở đầu) vậy. Càn được xem là Trời. Lâu ngày sẽ "thân ngoại hữu thân".
Kim Hoa chính là Kim Ðan. Sự biến hóa thần minh của nó khác nhau tùy tâm của mỗi người. Diệu quyết ở đây tuy không có gì khác lạ, nhưng vô cùng linh hoạt. Tất cả dựa vào trí thông minh cũng như dựa vào tính trầm tĩnh. Nếu không phải là người trầm tĩnh nhất thì không thể kiên trì .
Chú Thích
1 Tổ Sư :
Trong bản Bắc Kinh viết Lã Tổ chỉ Lã Ðồng Tân .
2. Huyền khiếu :
Huyền chỉ Trời, tức Tự Nhiên. Huyền khiếu, đôi khi còn gọi là Diệu khiếu, tức là khiếu tiên thiên, phân biệt với thất khiếu hậu thiên như: tai, mắt, miệng, mũi v.v .. Những người tu luyện công phu thâm hậu, đạt tới giai đoạn cực tĩnh, Huyền khiếu tự nhiên xuất hiện. .Lúc này Khí tiên thiên vào ra qua huyền khiếu.
Huyền khiếu là then chốt tất cả các khiếu trong cơ thể, nó nằm ở chính giữa hai lông mày . Huyền khiếu khai mở cho hay giai đoạn tu luyện Tiên thuật Nội Ðan đã thành vậy.
3. Khí tiên thiên :
Còn gọi là Thái Nhất. Trong Ðạo học, Thái Nhất là một tên khác của Ðạo. Vì thế mới nói : Khí tiên thiên là Bản thể, là gốc .
4. Kim đan :
Hay còn gọi là Kim Hoa, Ðan quang, Tính quang. Sau khi tụ tập tĩnh công tới cảnh giới nhất định thì Kim đan tự nhiên xuất hiện, người tu luyện đạt Ðạo, tâm thanh tịnh.
5. Ðông Hoa đế quân :
Tức Vương Huyền Phủ, một Ðạo sĩ đời Ðông Tấn, thường được người đời mệnh danh là "Trung Nhạc Chân nhân".
6. Hai Tông Nam Bắc :
Hai Tông Nam Bắc hình thành vào đời Tống.
Giáo chủ Nam tông là Trương Bá Ðoạn, thường gọi là Tử Dương Chân nhân , còn giáo chủ Bắc Tông là Vương Trùng Dương, thường gọi là Trùng Dương Chân nhân.
Sự khác biệt giữa hai Tông này là : Nam Tông lấy cách thức tu luyện "trước tu mệnh, sau tu tính", còn Bắc Tông thì ngược lại : "trước tu tính, sau tu mệnh". Cả hai Tông đều tôn hai vị Tiên. Chung Ly Quyền và Lã Ðồng Tân làm tổ sư .
7. Nội tỉnh :
Phương pháp tu dưỡng của Nho gia, soi xét xem hành vi của mình có chỗ nào không hợp Ðạo .
Tăng Sâm nói : "Ngô nhật tam tỉnh ngộ thân" (Ta một ngày, soi lại mình ba lần) .
8. Nội thị :
Còn gọi là nội quan, phương pháp tu dưỡng của Ðạo gia. Tập theo phương pháp này có thể tập trung nhìn dõi vào bên trong, ý nghĩ tới đâu thì khí tới đó, khí thông suốt khắp cơ thể, không có gì ngăn trở.
9. Kinh bốn mươi hai chương :
Bộ kinh Phật giáo được phiên dịch sớm nhất ở Trung Hoa. Vào khoảng năm Vĩnh Bình Minh Ðế đời Ðông Hán tức khoảng năm 58 - 75, bộ Kinh này do Kasyapamatanga, người Ấn Ðộ dịch lần đầu tiên sang tiếng Hán, rồi dùng ngựa trắng chở đến chùa Bạch Mã ở Lạc Dương.
10 Huyền châu.tức Huyền đan.chỉ cái thần của tâm
11 Sắc :
Thuật ngữ Phật học, chỉ thế giới những hiện tượng nhìn thấy, hiện tượng vật chất.
12. Không :
Thuật ngữ phật học, chỉ pháp giới hư vô, cảnh giới chân không diệu hữu. Phật giáo cho thế giới hiện tượng do duyên sinh ra, sinh hủy trong thoáng chớp, giả mà không thật, vì vậy cho là không.
13. Tâm kinh :
Viết tắt của "Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh", đôi khi còn gọi là "Bát Nhã tâm Kinh", một bộ Kinh chủ yếu của Phật giáo, trình bày rõ quan niệm về "Không", quan niệm về "Không phân biệt", phương pháp tư duy phủ định hình thái , tư tưởng "Trung đạo" v.v... Kinh này do Huyền Trang vâng chiếu chỉ vua Ðường dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Hán.
14. Ðan thư :
Hay còn gọi là "Ðan kinh", chỉ các Kinh sánh ghi chép về thuật luyện đan như Nội đan,
Ngoại đan, Âm đan, Cửu đỉnh thần đan v.v...
15. Tồn thành :
Tập trung, một lòng một dạ, tin tưởng, không do dự, không phân tán.
16. Tam quang :
Chỉ Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao.
17. Tam quang hội tụ, vào ra :
Trong các Ðan thư gọi là "Nhật Nguyệt hợp bích".
18. Song quan :
Chỉ đốt sóng thứ hai mươi bốn, kẹp giữa hai thận.
19. Cửa Huyền Tẫn :
Thuật ngữ luyện nội công, chỉ một bí khiếu lớn nằm giữa hai thận.
20. Tẩu hỏa Nhập ma :
Thuật ngữ luyện nội công, gồm hai quá trình tách biệt là Tẩu hỏa và Nhập ma.
Trong luyện nội công ta cũng phải dùng tới lửa. Lửa ở đây chính là ý, là Thần. Nếu ý và Thần huy động quá mức, nội khí sẽ tán loạn, chệch khỏi quỹ đạo kinh mạch, nhẹ thì khó điều khiển, mà nặng thì không thể điều khiển nổi, mất tự chủ, hành động hỗn loạn, không kìm hãm được, tổn hại đến sức khỏe cả tâm thần lẫn thể chất , đó là Tẩu hỏa .
Còn như trong lúc luyện nội công, ở giai đoạn "cực động" dẫn đưa tới "tĩnh", tùy tâm trạng của mỗi người, có thể xuất hiện những ảo giác dị thường, ví như một cảnh đẹp mê hồn, một đàn mãnh thú hung dữ, một cảnh chém giết rùng rợn, một thế giới thần thánh, ma quỷ quái đản... Ðó chính là phản ứng do nội khí kích động những tế bào thuộc hệ thống trí nhớ trong não bộ và xảy ra hiện tượng trong khoa học gọi là "sự tái hiện tiềm thức". Lúc này, nếu người tập lại tin những ảo giác đó là thật, tâm trí sẽ rối loạn, hãi hùng, mất tự chủ có thể dẫn tới điên loạn, mất trí. Ðó chính là hiện tượng "Nhập ma".
21. Kinh Lăng Nghiêm :
Bộ kinh Phật giáo, gồm mười cuốn, do Pramiti, một cao tăng người Trung Ấn, dịch ra tiếng Hán tại Quảng Châu, vào đời Ðường, trình bày về bản chất của Tâm và Tính.
22. Pháp thân :
Tiếng Phạn Dharnlakaya , chỉ thể tích thực tướng của chư pháp mà đức Phật đã chứng ngộ, ở đây chỉ "Phép quán Phật thân" của Phật giáo Ðại thừa.
23. Cung Càn :
Chỉ Thượng Ðan Ðiền, ở vào huyệt Nê hoàn. Trong "Kinh dịch. Thuyết quái truyện" nói : "Càn là đầu", lại nói "Càn là Trời vậy". Ở đây "Càn" là tượng trưng cho Trời .
Thái ất kim hoa là sách đầu tiên về tiên gia mà chị có được. luyện pháp trong đó rất tốt, luyện phần nào thì chứng phần đó. chỉ tiếc lúc đó chị ngại mình là nữ nên chỉ dám dừng ở hồi quang chứ không dám đụng đến luyện đan.
em luyện thử đi. rất tốt đó.
Vô Danh huynh, chữ Y trong tiếng Phạn như thế nào ?
bộ công pháp này VDK xem nó giống như là kim chỉ nam trong tu luyện . Muốn tìm hiểu về đạo Tu Tiên trước hết phải có một thế giới quan phù hợp với các đan kinh .
Luận Thiên Tâm :
Theo Tiên Đạo , vạn vật hữu linh . cái mà trường tồn bất biến , và tồn tại ở tất cả vạn vật gọi là Đạo , biểu hiện của Đạo là Đức . Vật chất cơ bản nhất , tạm gọi là " Linh Khí ". Thứ này nó vĩnh viễn tồn tại , chỉ có hao tán đi nhưng không hề mất đi .Trời đất dù có hủy diệt , thì "Linh khí " này vẫn còn . Nó ở trong cây cỏ , thì cây cỏ có sức sống , ở trong động vật thì động vật có trí khôn , ở trong con người , thì nó giúp cho con người có ý thức và tiềm thức .Linh lực này có thể miễn cưỡng tạm gọi là " bổn lai diện mục " của ta vậy .Thiên Tâm , chính là cửa ngõ của Linh Lực , bởi thế mới gọi là Tâm chung của tam tài Thiên Địa Nhân , vì vạn vật vì nó mà sinh sôi , Thiên Địa vì nó mà tuần hoàn ...Lấy hữu hình mà xét , trái tim ta là nơi vận chuyển máu lưu thông khắp cơ thể .Thì Thiên Tâm cũng là trái tim vô hình vận chuyển linh lực khiến cho ta cảm giác được Trời , Đất và Con Người .Máu ra khỏi cơ thể thì đến lúc nào đó sẽ cạn kiệt , ta sẽ chết đi . Linh lực không ở trong thân ta , mà rơi vãi ở ngoài thân thì đến một lúc nào đó ta sẽ chết vì Linh Lực không còn đủ sức tụ hợp tấm thân tứ đại nữa . Chỉ còn lại Linh Lực mơ hồ trong thiên địa , mạnh thì có thể đoạt xá làm người , yếu thì làm hồn ma vất vưởng , bám vào động vật mà lay lắt sống cho qua ngày , nếu cơ duyên xảo hợp , từ thân động vật , tu tập , tích công đức để có thêm được linh khí , thì sẽ tranh đoạt lại làm người , còn yếu thì lại sống cuộc sống động vật , mà tệ hại hơn , thì sẽ phải nương nhờ vào cây cỏ mà sống...
"Thiên Địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu " . Con người xem động vật , cây cỏ làm thức ăn cho mình thì Trời Đất xem phàm nhân như nguồn cung cấp thực phẩm cho mình .Thân bất do kỷ , ai có thể bẻ nạng chống trời đây ...
trong sách ghi chú thì chữ Y trong tiếng Phạn giống như hình 3 dấu chấm hình tam giác , 2 dấu chấm ứng với 2 mắt , dấu chấm còn lại ứng với ấn đường . Đôi mắt rất được coi trọng trong tu luyện Đạo Gia , Vì nó chính là nơi ra vào của Linh Quang . Thường có câu "Thâu Thị Phản Thính " , đó chính là " Nhìn mà Không Thấy " , "Nghe mà Không Biết ". Sâu xa hơn , đó là đối cảnh vong tâm , nhìn mà không nảy sinh tâm nhị nguyên , cái đó gọi là Bất Nhị , mà không phải là Nhất Tâm , Nó Không phải 2 mà chẳng là 1.peace
Chương 2 Nguyên Thần (1) , Thức Thần (2)
Tổ Sư nói :
Trời Ðất xem con người như kiếp phù du sớm sinh chiều diệt, còn Ðại Ðạo lại xem Trời Ðất mong manh như bèo bọt, thời gian sống còn chỉ trong thoáng chớp. Duy chỉ có chân tính Nguyên Thần của loài người là có thể tồn tại lâu dài, vượt qua tháng năm Nguyên hội (3) bền lâu. Thế nhưng Tinh và Khí của con người lại nát tan thối rữa cùng Trời Ðất, chẳng thể tồn tại vĩnh hằng. May thay còn có Nguyên Thần tồn tại, đó chính, là cái mà ta gọi là "Vô Cực", Trời Ðất cũng từ đó sinh ra.
Vì thế, người học Ðạo chỉ cần nắm giữ được Nguyên Thần, không để nó hư hao thất thoát, là có thể sống ngoài Âm Dương (4), không trong Tam giới (5).
Có điều, muốn thế phải nhìn thấy được chân tính của Nguyên Thần. Chân tính ở đây thật ra là cái ta vẫn gọi là "Bộ mặt chân thực" của con người.
Con người, ngay từ khi còn là bào thai nằm trong bụng mẹ, Nguyên Thần kia đã nằm ở tấc vuông giữa hai lông mày trên trán (6) , còn Thức Thần lại nằm ở trái tim phía dưới.
Trái tim máu thịt phía dưới có dáng hình giống quả đào to, có phổi che phủ phía trên, sát cạnh có gan, phía dưới tiếp giáp đại trường, tiểu trường.
Ví phỏng con người một ngày không ăn thì trái tim bồn chồn, không yên. Khi trái tim ấy nghe thấy những tin đáng sợ liền đập liên hồi, nghe thấy tin buồn thì lặng lẽ âu sầu , nhìn thấy cảnh tang tóc thì cảm thấy đau thương, nhìn thiếu nữ dung nhan chim sa cá lặn thì mê mẩn bàng hoàng.
Thế nhưng tại sao đầu óc lại rung động chỉ trong thoáng chớp ?
Nếu như đặt câu hỏi : chẳng lẽ Thiên Tâm không rung động hay sao ?
Xin trả lời : Chân ý ở tấc vuông giữa hai lông mày ấy sao có thể rung động được ? Nếu như quả nó rung động thật thì sự việc chẳng hay ho gì lắm, nhưng đồng thời cũng lại là tuyệt diệu nhất. Những người bình thường chỉ khi chết Thiên Tâm mới rung động, cho nên nói là "chẳng hay ho gì lắm". Còn "tuyệt diệu nhất" là chỉ thần quang kia đã ngưng kết thành Pháp Thân, dần dần linh thông và rung động. Ðây là một bí mật giữ kín hàng nghìn năm nay chẳng truyền thụ cho ai !
Thức Thần của người ta cũng giống như những chư hầu và bọn quân phiệt hoành hành lũng đoạn, dối vua , xưng hùng xưng bá cô lập ngoài biên. Lâu ngày, địa vị vua tôi đảo ngược, xảy ra chuyện tiếm quyền đoạt vị. Bây giờ nếu như ngưng tụ thần quang chiếu rọi Nguyên cung (Thiên Tâm), tựa như đức vua anh minh , lại được các hiền thần như Y Doãn (7), Chu Công (8) dốc lòng phò tá. Hồi quang (9) hai mắt cũng ví như đại thần tả hữu hết lòng tham chính, kết quả chính trị ngời ngời tỏa sáng , lúc này, tất thảy bọn gian thần nghịch tặc chẳng đánh cũng tan.
Ðại đạo dưỡng sinh xem ba yếu tố Tinh (thuộc Thủy), Thần (thuộc Hỏa), Ý (thuộc Thổ) là ba báu vật tối thượng.
Thế "Tinh Thủy" (10) là gì vậy ? Nó là Khí Chân Nhất tiên thiên, đã tồn tại trong vũ trụ khi chưa sinh Trời Ðất! Thần Hỏa (11) tức ánh sáng hay Linh Quang. Ý Thổ (12) tức là Thiên Tâm ở Trung cung. Ở đây lấy Thần Hỏa làm công dụng, lấy Thổ làm chủ thể, lấy Tình Thủy làm gốc .
Phàm con người ta lấy Ý (13) sản sinh ra Thân. "Thân" nói đây không đơn giản chỉ là tấm thân, máu thịt bảy thước , bởi lẻ trong Thân còn có "Hồn" và "Phách".
Phávh sản sinh tác dụng gắn với Thức . Thức đựa vào Phách để tồn tại. "Phách" là âm tính, là cụ thể hóa của Thức .
Nếu như "Thức" không đoạn tuyệt thì tùy theo các vị nằm trong vòng sinh tử luân hồi bao nhiêu lần, "Phách" vẫn luôn luôn tồn tại, chỉ có thay đổi hình dáng, chuyển chổ mà thôi. Duy chỉ có "Hồn," là nơi chứa "Thần". Ban ngày, "Hồn" ngự trong mắt , ban đêm, khi ngủ "Hồn" sẽ nằm trong gan ruột.
Khi ở trong mắt, "Hồn" sẽ làm cho con người có thể nhìn thấy được, khi ở trong gan ruột sẽ làm cho con người nằm mơ . Nằm mơ, đó là lúc hồn phiêu diêu đây đó. Cho dù là Trời cao Ðất dày, "Hồn" chỉ lướt đi trong thoáng chớp. Nhưng sau khi tỉnh lại thì chẳng nhớ được gì, đó là vì bị hình thể chi phối, tức là bị "phách" chế ước. Vì thế, hồi quang là nhằm mục đích luyện "Hồn" giữ Thần, chế "Phách dứt "Thức". Cổ nhân tu Ðạo chủ trương luyện cho hết cặn âm tính, trở về cảnh giới thuần dương, thực chất chẳng qua chỉ là tiêu "Phách" giữ "Hồn" mà thôi.
Công pháp hồi quang mà ta nêu ra chính là mật quyết nhằm tiêu âm, chế Phách. trong đó tuy không có công pháp làm cho "Càn Dương" trở về, nhưng kỳ thực quả đã có khẩu quyết hồi quang tiềm ẩn. Thật vậy, gọi là "Quang", đó chính là "Càn Dương", còn "Hồi" có nghĩa là "trở về". Chỉ cần bền bỉ tu luyện côngpháp này là "Tinh Thủy" sẽ tự nhiên sung mãn, "Thần hỏa" sẽ tự nhiên nảy sinh, "Ý Thổ" sẽ tự nhiên ngưng kết, cuối cùng có thể kết thành "Thánh Thai" (18). Xin hãy xem chú bọ hung suốt ngày đẩy lăn những viên đất. Trong viên đất quả đã sản ra một chất màu trắng, có thể nói đây đúng là một thần công kỳ diệu. Thì ra ngay trong viên phân nhơ nhớp vẫn có thể sản sinh, thụ thai, ấp trứng, nở con (17) huống hồ ở Thiên Tâm, chỗ đất thánh có Nguyên Thần cư ngụ ấy, nếu ta tập trung Ý Nghĩ há lại chẳng thể sản sinh ra được Pháp thân sao ?
Chân Tính linh diệu đó của con người, sau khi đã cư ngụ ở Càn Cung trên đầu, liền phân ra thành Hồn và Phách .
"Hồn" trụ ở Thiên Tâm, thuộc Dương, là một loại khí thanh khiết, từ Thái hư (18) đưa tới, cùng với nguyên thủy đồng hình.Còn "Phách" thuộc âm, là một loại khí vẩn đục, bám vào phàm tâm hữu hình. "Hồn" dắt dẫn con người đi tìm cái sống, còn "Phách" ngược lại đưa đẩy con người đi đến tử vong. Hết thảy những thói hư tật xấu như đam mê tửu sắc nóng nảy làm liều đều do "Phách" xui khiến, đây chính là "Thức Thần".
Sau khi người ta qua đời, "Phách" có thể hưởng thụ những đồ cúng tế, nhưng khi sống thì "Phách" vô cùng cực khổ. Vậy thì vì sao sau khi chết người ta vui hơn ? Ðó là vì từ Âm trở về với Âm, vật cùng loại thì tụ vậy.
Người học Ðạo nếu có thể luyện cho hết Âm Phách này tất nhiên sẽ trở thành đấng Thuần Dương vậy.
Chú Thích :
1. Nguyên Thần : là Thần Khí hay Vô Thức tiên thiên do cha mẹ truyền cho, một trạng thái tinh thần tiềm ẩn, sáng láng. Nguyên Thần trong nhiều kinh sách còn được gọi là Nguyên Tính .
Ðổng Trọng Thư đời Tây Hán xem "Nguyên" là cái gì nguyên thủy nhất trong Vũ Trụ . Trong "Xuân Thu phồn lộ", Ðổng Trọng Thư trình bày rõ về tầm quan trọng của Nguyên Khí . Ông viết : Nguyên tức là nguồn . Vì thế Nguyên là gốc của Vạn Vật . Nguyên Thần vốn không phải là hoạt động tư duy, hoạt động ý niệm, mà nó thể hiện như trạng thái không hay không biết của trẻ thơ, song lại rất linh hoạt và có cảm giác rõ ràng . Như vậy "Thần" ở đây không có nghĩa là qui thần, mà là chỉ ý thức người .
2. Thức Thần : hay còn gọi là Dục Thần . Thần hậu thiên , chỉ ý thức thông thường, tức năng lực nhận thức sự vật, có sự suy luận , phán đoán, thông qua hoạt động tư duy, đối lập với "Nguyên Thần" .
3. Nguyên Hội : đơn vị tính năm, do Thiệu Ung Bắc Tống dùng trong sách "Hoàng Cực Kinh Thế"
Một Hội bằng 30 Vận
Một Vận bằng 12 Thế
Một Thế bằng 30 năm
Như vậy một Hội bằng 10.800 năm.
Mạt Nguyên bằng 12 Hội, do đó một Nguyên tương đương bằng 129600 năm.
Người ta thường nói : Trời khai mở vào Tý Hội, đóng lại vào Hợi Hội .
Như vậy là cứ khoảng 12 Hội, tức một Nguyên thì Trời Ðất lại đóng .
Nếu tu luyện thành Chân Tính thì có thể vượt ra ngoài vòng Trời Ðất luân hồi .
Ðây cũng chính là "Phép quán Tâm Tính" của nhà Phật, bởi lẽ Tính là Thần, mà Thần thì không sinh không hủy .
4. Âm Dương: Khái quát của người xưa đối với hai loại sự vật đối lập trong giới .Tự Nhiên, như Trời và Ðất, Ngày và Ðêm, Ðàn ông và Ðàn bà, cương và nhu, mạnh và yếu , thiện và ác, tốt và xấu, thành và bại v.v..
. Những cái đầu là Dương, những cái sau là Âm.
Âm Dương biến hóa tạo ra muôn vật.
5. Tam giới : Tam giới nói chung chỉ Trên Trời, Dưới Ðất và Ðịa Ngục.
Thuật ngữ Phật giáo xem Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
6. Tấc vuông giữa hai lông mày trên trán : đây còn gọi là Cung Nê Hoàn,
Thượng Ðan Ðiền hay quyền khiếu, là nơi tụ họp của bách Thần.
7. Y Doãn : Chính tên là Y, Doãn là một chức quan.
Ông là đại thần nhà Thương, truyền thuyết nói ông xuất thân nô lệ, đã có công lớn giúp vua Thang diệt vua Kiệt nhà Hạ.
8. Chu Công : em vua Vũ nhà Chu, tên là Ðán, vì thế người đời gọi là Chu Công Ðán. Ông là nhà chính trị và nhà tư tưởng kiệt xuất của nhà Chu. Sau khi vua Vũ băng hà, ông đã giúp Thái tử tuổi còn nhỏ trông coi việc nước, trong thì chế Lễ tác Nhạc, xây dựng chế độ điển chương, ngoài thì đẹp giặc yên dân, xứng đáng là Công thần khai quốc nhà Chu.
9. Hồi quang : thuật ngữ luyện nội công, còn gọi là "hồi quang phản chiếu" hay "nội chiếu phản quán", quang ở đây là ánh mắt, là cái nhìn của đôi mắt. Hướng cái nhìn của đôi mắt vào trong mình là hồi quang, còn tập trung Thần vào bên trong là phản chiếu.
10. Tinh Thủy : trong sách "Hoàng Ðế Nội Kinh", bộ sách y học cổ truyền lâu đời của Phương Ðông và là tài sản riêng của y thuật Cổ Trung Hoa, trình bày một cách sâu sắc hệ thống lý luận Ðông y , vận dụng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành giải thích cơ chế sinh lý , bệnh lý của con người, các nguyên tắc chẩn đoán, chữa trị của Ðông y cũng như dùng quan niệm chỉnh thể "Thiên Nhẩn tương ứng" nêu lên tính thống nhất giữa môi trường bên trong và bên ngoài cơ thể, có nói rõ "Thận chứa Tinh", mà trong Ngũ Hành thì Thận thuộc Thủy, vì vậy trong sách gọi Tinh Thủy. Trong bài Tinh Thủy chỉ Khí chân nhất tiên thiên. Sách "Ðạo Ðức Kinh" của Lão Tử viết : "Ðạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". "Nhất" ở đây chính là Khí chân nhất tiên thiên, vạn vật sinh ra từ Khí tiên thiên ấy. Tinh trong cơ thể người phân ra thành Tinh tiên thiên vô hình và Tinh sinh dục hậu thiên hữu hình. Mục đích của pháp tu luyện là hóa tinh hữu hình thành tinh vô hình, khiến hậu thiên quay trở về tiên thiên .
11. Thần Hỏa : trong bài nói thức Thần nằm ở tim, ở Tâm, mà trong Ngũ Hành thì Tâm thuộc Hỏa, vì vậy gọi là Thần Hỏa. Trong các bài sau Thần Hỏa cầm ánh sáng, Nguyên Thần tiên thiên chính là Chân Tính của con người, Tính quang và quay hướng vào trong, ngưng kết với Chân Tinh tức là "Hồi Quang phản chiếu" .
12. Ý Thổ : Sách "Hoàng Ðế Nội Kinh" nói : "Tỳ chủ Ý" tức là Chân ý , trong Ngũ Hành thì Tỳ thuộc thổ, vì vậy gọi là Ý Thổ .
13. Ý : chỉ dục vọng, theo Kinh Phật, cơ thể con người sinh ra do Ý Dục .
14: Hồn : Sách Hoàng Ðế Nội Kinh; nói "Can (gan) chứa Hồn", trong Ngũ Hành, Can thuộc Mộc, Dương tính .
15. Phách : Sách "Hoàng Ðế Nội Kinh" nói "Phế (phổi) chủ Phách", trong Ngũ Hành , Phế thuộc Kim, Âm tính .
16. Thánh Thai : còn gọi là Huyền Thai, tức Nội Ðan đã kết thành trong công pháp Nội Ðan . Trong "Thai tức kinh" do Ảo Chân tiên sinh chú thích có nói : "Thai kết thông qua phục khí, khi đã kết Thai sẽ sinh thai tức, khí tự nhiên sẽ đi vào cơ thể . Khí đi vào cơ thể là sống, thần rời khỏi hình là chết. Hiểu rõ về thần khí có thể trường sinh, hãy giữ ở trạng thái hư vô để dưỡng thần khí. Thần hoạt động Khí sẽ hoạt động theo, Thần ngừng, Khí cũng sẽ ngừng. Nếu muốn trường sinh,
Thần Khí phải hòa hợp, không tách rời nhau .
17. Trong viên phân nhơ nhớp vẫn có thể sản sinh, thụ thai, ấp trứng, nở con , trước khi bọ hung đẩy lăn những viên phân, chúng đã đẻ trứng vào trong đó. Trong lúc đẩy các viên phân, bọ hung tập trung toàn bộ tinh lực để ấp trứng. Hiện tượng trong viên phân ngả màu trắng cho hay ở đây đã có sự tập trung năng lượng. Sau một khoảng thời gian, chú bọ hung con sỡ dĩ có thể đẩy vỡ vỏ trứng chui ra là do bọ hung mẹ đã đẻ trứng, rồi sau tập trung toàn bộ tinh thần ấp trứng. Tương tự như vậy, con người nếu tập trung toàn bộ tinh thần vào Thiên Tâm, nhất định sẽ sản sinh ra pháp thân tự nhiên.
18. Thái Hư : khái niệm triết học cổ đại , chỉ bầu Trời bao la, không bờ không bến. Sách Hoàng Ðế Nội Kinh: viết "Ðất ở dưới chân con người, ở trong Thái Hư" , ý muốn nói , Trời Ðất trôi nổi trong bầu trời mênh mang vô tận.
Nguyên Thần ,Thức Thần
Có người nói , Thức Thần chết đi thì Nguyên Thần mới sống .VDK trộm nghĩ rằng,Thức Thần chính là Nguyên Thần , nó chỉ khác nhau ở chỗ là Thanh hay Trọc thôi .Ví như nước trong thì sẽ nhìn rõ mọi thứ , nước đục thì không thể thấy được những gì bên trong.
Ðại đạo dưỡng sinh xem ba yếu tố Tinh (thuộc Thủy), Thần (thuộc Hỏa), Ý (thuộc Thổ) là ba báu vật tối thượng.
Thế "Tinh Thủy" (10) là gì vậy ? Nó là Khí Chân Nhất tiên thiên, đã tồn tại trong vũ trụ khi chưa sinh Trời Ðất! Thần Hỏa (11) tức ánh sáng hay Linh Quang. Ý Thổ (12) tức là Thiên Tâm ở Trung cung. Ở đây lấy Thần Hỏa làm công dụng, lấy Thổ làm chủ thể, lấy Tình Thủy làm gốc .
Phàm con người ta lấy Ý (13) sản sinh ra Thân. "Thân" nói đây không đơn giản chỉ là tấm thân, máu thịt bảy thước , bởi lẻ trong Thân còn có "Hồn" và "Phách".
Phávh sản sinh tác dụng gắn với Thức . Thức đựa vào Phách để tồn tại. "Phách" là âm tính, là cụ thể hóa của Thức .
Nếu như "Thức" không đoạn tuyệt thì tùy theo các vị nằm trong vòng sinh tử luân hồi bao nhiêu lần, "Phách" vẫn luôn luôn tồn tại, chỉ có thay đổi hình dáng, chuyển chổ mà thôi. Duy chỉ có "Hồn," là nơi chứa "Thần". Ban ngày, "Hồn" ngự trong mắt , ban đêm, khi ngủ "Hồn" sẽ nằm trong gan ruột.
Khi ở trong mắt, "Hồn" sẽ làm cho con người có thể nhìn thấy được, khi ở trong gan ruột sẽ làm cho con người nằm mơ . Nằm mơ, đó là lúc hồn phiêu diêu đây đó. Cho dù là Trời cao Ðất dày, "Hồn" chỉ lướt đi trong thoáng chớp. Nhưng sau khi tỉnh lại thì chẳng nhớ được gì, đó là vì bị hình thể chi phối, tức là bị "phách" chế ước. Vì thế, hồi quang là nhằm mục đích luyện "Hồn" giữ Thần, chế "Phách dứt "Thức". Cổ nhân tu Ðạo chủ trương luyện cho hết cặn âm tính, trở về cảnh giới thuần dương, thực chất chẳng qua chỉ là tiêu "Phách" giữ "Hồn" mà thôi.
Thái ất kim hoa cùng với lữ tổ sư tam ni y thế là một công phu. Có điều trong thái ất kim hoa thiếu mất phần đầu, thứ hai lúc dịch lại cho rằng song quan là giữa 2 thận nên sai. Công phu này dành cho thượng thượng căn, nhiếp tam tài qui nhất.
VoDanhKhach hay phicach có đầy đủ bộ thái ất kim hoa cùng Lữ tổ tam ni y thế thuyết thuật cùng công quyết không, cho mình xin 1 bản nhé.
p/s: Gần đây ngộ tính có tăng lên một tí nên muốn tìm hiểu công phu này.
Bạn nào có kính mong cho mình xin một bản(hán việt càng tốt), mình biết ơn lắm.
Bạn search là ra, đọc sách để gieo duyên chứ nếu tu đạo dễ như thế thì thần tiên đầy đường rồi:D
hì, rõ mà bác phi canh ạ, đọc chơi xem thử mấy ông ấy viết về công phu gì thôi.Mình chỉ chú trọng dưỡng sinh cho xuân tình phơi phới. Vậy là vui và mãn nguyện rồi.
bộ này ông dịch giả viết lung tung quá, làm mình đọc có cảm giác ko phải do lữ tổ để lại, đọc bản này đi
http://www.alchemylab.com/golden_flower.htm
cảm ơn bác nhaply nhiều, nhìn mấy đồ hình thì thấy rõ thứ tự công phu rồi, trước khi bắt đầu tập theo phải hoán mạch về trẻ thơ trước, chắc là lô nha đây mà, mà không có khẩu quyết thì cũng chịu thua. (đồ hình đầu tiên có nói rõ)
Tuyệt đối không có khả năng một người có thể trực tiếp tu tập công phu này được cho dù là Thái Thượng Lão Quân giáng phàm cũng không có khả năng ấy.(xin lỗi nhaply, mình nói cho hết ý ấy mà, chứ cũng không dám đụng tới Lão gia gia đâu.)
A` bác nhaply ơi, sao mình viết bài tới mấy tiến- nữa ngày sau bài viết mới xuất hiện vậy?.
Chương ba
Hồi Quan Thủ Trung
Tổ Sư nói :
Danh từ "Hồi quang" xuất xứ từ đâu ?
Danh từ này bắt nguồn từ Văn Thủy chân nhân Quan Doãn Tử (1).
Thực hành công pháp "Hồi quang", Khí Âm Dương trong Trời Ðất không gì là không ngưng tụ.
Chuyện "Tinh tư" (2), chuyện "Thuần khí" (3) mà mọi người thường hay nói tới , thực chất là chỉ công pháp "Hồi quang" .
Khi bắt đầu thực hành công pháp này , ta phải làm sao cho "trong có tựa như không" ,
nghĩa là tập trung tư tưởng nhưng không gượng ép.
Tập luyện lâu ngày Ánh sáng tự nhiên ngưng tụ , đạt tới bước từ Thân sản sinh ra một Pháp Thân , như vậy là "từ không sinh có", tức là ánh sáng từ trạng thái phân tán chuyển sang trạng thái ngưng tụ.
Nếu như chuyên tâm luyện công một trăm ngày thì Ánh sáng kia sẽ từ ảo trở thành thực, từ Ảo quang trở thành Chân quang .
Chân quang ấy chính là Thần Hỏa.
Sau một trăm ngày, ánh sáng tự nhiên có thể ngưng tụ .
"Hồi quang" lâu ngày , cực tĩnh sẽ sinh động , Dương khí trong người nảy sinh , một chút Chân dương trong cơ thể bỗng nhiên sản sinh ra một viên ánh sáng màu vàng bằng hạt gạo nếp, y hệt như đàn bà sau khi lấy chồng có thai vậy .
Lúc này cần bình tĩnh đợi chờ đừng bao giờ nóng vội.
Mức độ và liều lượng "Hồi quang" đó chính là "Hỏa hậu" (5) mà mọi người thường bàn tới.
Trong Trời Ðất mênh mang có Dương quang tồn tại.
Nhờ có Dương quang , với danh nghĩa là sức mạnh toàn năng , nên đã làrn cho vạn vật bộc lộ sức sống dồi dào.
Trong các Thiên thể , Mặt Trời là nguồn gốc của Dương quang.
Trong mỗi con người , đôi mắt là nơi Thần quang lui tới , vào ra.
Thông qua đôi mắt để cho Thần quang lọt ra là thuận chiều , là dễ nhất.
Chính vì thế , nguyên lý "Hồi quang", nói một cách tổng quát , nằm ở phương pháp biến cơ chế lọt ra ,
thuận chiều thành quay về , ngược chiều.
Cần nhớ rằng : mục đích của Hồi Quang không phải chỉ là phản hồi Khí tinh hoa vào trong cơ thể người , mà còn đi ngược về cội nguồn , phản hồi Khí Chân Nhất tạo dựng nên Trời Ðất .
Không phải chỉ là trừ bỏ những vọng tưởng nhất thời , mà còn là luyện cho hết cặn Âm , phục hồi Dương thể , giải thoát khỏi vòng Luân hồi nghìn kiếp (6).
Vì thế , xem thời gian một hơi thở là một năm , ý muốn nói con người , thông qua tu luyện , kéo dài cuộc sống của mình , xem thời gian một hơi thở là một trăm năm , ý muốn nói thông qua tu luyện con người đã làm trì hoãn nhịp bước Luân hồi.
Con người , kể từ lúc nằm trong bụng mẹ cất tiếng khóc chào đời , từ đó cứ chìm nổi thuận theo thời cuộc cho tới lúc đầu bạc răng long , chẳng hề bao giờ hồi quang nhìn ngược vào trong , giảm mức tiêu hao tinh khí , Dương khí dần dà suy kiệt , đó chính là từng bước đi dần tới tử vong.
Vì vậy Kinh Lăng Nghiêm nói : "Thuần tưởng tức phi , thuần tình tức đọa".
Người học Ðạo mà chính niệm ít , tình dục nhiều thì Âm Dương mất cân bằng , sẽ luôn trầm luân trong kiếp người hèn kém.
Chỉ có nghiêm túc thực hành nội quán , hơi thở tự nhiên , gạt bỏ mọi tạp niệm , tâm thanh tịnh , mới có cơ giác ngộ ,
tu thành chính quả.
Chính vì thế mới nói phương pháp hồi quang nội thị là phương pháp duy nhất giúp hành giả tu thành chính quả.
"Kinh âm phù nói : "Mấu chốt của phép tu luyện là ở đôi mắt".
Trong "Hoàng Ðế Nội Kinh Tố vấn" nói : "Khí vi diệu trong cơ thể người bốc lên trên nuôi dưỡng các khiếu ngũ quan" chính cũng đã chỉ cho thấy nguyên lý của hồi quang.
Hiểu được những điều cốt lõi trình bày trong chương này , các vị chẳng những có thể kéo dài tuổi thọ , mà còn có thể thoát khỏi sự trói buộc của vòng sinh tử.
Ðây chính là nguyên lý chung của phép dưỡng sinh của Tam giáo: Nho, Thích, Ðạo.
Ánh sáng không ở trong cơ thể , nhưng cũng không ở ngoài cơ thể.
Xin hãy nhìn Ðất Trời sông núi , ánh sáng mặt Trời , mặt Trăng chiếu rọi tất thảy,
cho nên nói ánh sáng không phải chỉ riêng ở trong cơ thể.
Thông minh tài trí, nhất cử nhất động của con người không một cái gì là không dựa vào Ánh Sáng ấy , vì thế nó cũng không ở ngoài thân , ánh sáng của Ðất Trời che phủ khắp Ðại thiên Thế giới (8).
Ánh Sáng của cơ thể hòa hợp với ánh sáng của Ðất Trời , vì vậy cũng có thể nói được là soi rọi khắp Ðất Trời.
Vì thế chỉ cần các vị thực hành công phu Hồi quang thì Ðất Trời sông núi kia cùng tất thảy mọi sự vật cũng sẽ Hồi Quang , trở về với bản chất của chính mình theo ngay tức khắc .
Mọi tinh hoa của con người đều hướng thượng ngưng tụ ở hai con mắt.
Mắt là nhân tố then chốt quyết định thành quả của tập luyện.
Các vị thử nghĩ , nếu như một ngày không tĩnh tọa "Hồi quang", Ánh Sáng kia theo thị giác tuôn chảy vung vãi khắp chốn khắp nơi , đến một lúc nào đó có thể không cạn kiệt được chăng ?
Nếu biết sắp xếp cho dù chỉ một chút thời gian tĩnh tọa thì cảnh sinh ly tử biệt, mọi nỗi buồn phiền sẽ theo đó mà giảm bớt đi ,
rồi dứt hẳn.
Tất thảy mọi phương pháp tập luyện cuối cùng đều qui về một chữ " Tĩnh" .
Ðây đúng thực là chuyện thần kỳ , một:chân lý không ai chối cãi được !
Ðề cập đến công phu tĩnh tọa và phương pháp nhập môn , trước hết vẫn phải đi dần từng bước , từ nông đến sâu, từ thô đến tinh .
Ðiều quan trọng nhất là công phu không được gián đoạn , phải tập luyện thường xuyên , như vậy sẽ ngày càng minh tiến, càng cảm thấy nhiều điều kỳ diệu .
Tĩnh tọa trước sau phải thật "tĩnh", tư mình trải nghiệm các cảm giác và cảnh tượng , giống như khi ta uống nước , nóng lạnh thế nào tự mình , mình biết , mình hay .
Phải làm sao đạt được cảnh giới tâm vắng lặng , không vương vấn điều gì , chỉ thấy Trời Ðất mênh mông , Vạn pháp như như (9), mới xem là nắm được yên tĩnh của tĩnh tọa .
Phương pháp mà các bậc thánh hiền truyền dạy từ đời này qua đời khác không bao giờ rời xa pháp "Phản chiếu ", "Tri chỉ" mà Khổng Tử nói tới , "Quán tâm" mà đức Thích Ca nêu ra , "Nội thị" mà Lão Tử khởi xướng.
Tất cả đều là phương pháp "Phản chiếu" .
Thế nhưng , từ "Phản chiếu" ai cũng có thể nói được , nhưng không hành được ,không biết cách áp dụng vào thực tiển và đạt hiệu quả thực tế .
Nguyên nhân chính là do không hiểu được ý nghĩa sâu xa của từ nầy.
"Phản" có nghĩa là làm cho Tâm từ trạng thái có tri giác phản hồi trở lại trạng thái tiên thiên khi tinh thần là thể xác chưa phân , nghĩa là từ trong cơ thể sáu thước của mình mong muốn đi ngược trở lại tìm kiếm cái bản thể trước lúc Trời Ðất hình thành ,tức là trạng thái hư vô tiên thiên.
Những người học Ðạo ngày nay chỉ biết mỗi ngày ngồi tĩnh tọa một hay tiếng , lòng vẫn vương vấn bao nhiêu tạp niệm , không thể dứt bỏ , rồi nói là đã "Phản chiếu" rồi , như vậy thử hỏi sẽ đạt được điều gì ?
Giáo Tổ Phật giáo và Ðạo giáo dạy các đệ tử lúc tĩnh tọa nhìn vào chóp mũi .
Ðiều đó không có nghĩa là khuyên các vị tập trung ý nghĩ vào chóp mũi , cũng không phải là nhắc các vị mắt nhìn vào chóp mũi , còn ý niệm thì tập trung ở bộ vị Trung Hoàng (11).
Bởi lẽ , mắt nhìn tới đâu thì tâm ý cũng theo tới đó , tâm tới đâu , khí cũng theo tới đó.
Vậy thì làm sao có thể một ở trên một ở dưới , một ở chỗ này , một ở chỗ khác được ?
Theo cách hiểu như vậy , y hệt như một ví dụ tuyệt hay "Nhìn ngón tay ngỡ là Mặt Trăng" (12) , nêu ra trong "Kinh Lăng Nghiêm" .
Vậy thì rút cục nên làm như thế nào là phải ?
Tôi nói rằng từ "chóp mũi" là vô cùng tuyệt diệu !
Ở đây chẳng qua là mượn "chóp mũi" làm tiêu chuẩn cho mắt nhìn , chứ thực ra mấu chốt không phải là mũi .
Bởi lẽ, khi tĩnh tọa , nếu mắt mở quá to tất sẽ nhìn quá xa , như thế sẽ không nhìn thấy mũi , còn nếu mắt nhắm nghiền thì cũng như khép mắt lại , cũng sẽ không nhìn thấy mũi .
Khuyết điểm của mắt mở to là ánh sáng rọi ra ngoài , rất dễ xảy ra hiện tượng phân tán tư tưởng
Khuyết điểm của nhắm mắt nghiền là ánh sáng chiếu vào trong , rất dễ xảy ra hiện tương mê man không tĩnh .
Duy chỉ có khép mắt lim dim vừa vặn , còn nhìn thấy chóp mũi là thích hợp nhất.
Vì thế nên lấy chóp mũi làm chuẩn.
Làm như thế là nhằm gíúp các vị khi lim dim mắt vừa mức , ánh sáng sẽ tự nhiên từ hai mắt rọi vào trong cơ thể , chẳng cần các vị chủ động chăm chú nhìn hoặc không chăm chú nhìn .
Sở dĩ nêu ra qui tắc mắt nhìn chóp mũi là chỉ nhằm nói lên hoạt động của con mắt ở bước đầu , lúc sắp nhập tĩnh , còn về sau các vị chẳng cần để tâm tới nữa , cũng giống như khi xây tường, người thợ xây treo quả rọi vậy. Anh ta treo quả rọi , rồi cứ thế xây lên theo dây rọi , không nhất thiết lúc nào cũng phải vừa xây vừa chăm chú nhìn vào dây .
Công pháp "Chỉ quán" nguyên là của Phật gia , không có gì bí mật cả.
Nội dung của công pháp này là : hai mắt nhìn kỹ chóp mũi , ngồi ngay ngắn , không gò bó ,
tập trung ý nghĩ vào bộ vị "Duyên Trung ".
"Duyên Trung" mà Phật gia nói tới chính là "Trung Hoàng" nói trong kinh sách của Ðạo gia , tuy hai mà một.
Ở đây người mới học không nhất thiết phải tập trung ý nghĩ ở trong đầu ,
chỉ cần gắn liền ý nghĩ với điểm nằm giữa hai con mắt là được.
Ánh sáng là thứ vô cùng linh động, khi gắn liền ý nghĩ với điểm nằm giữa hai con mắt, thì ánh sáng tự khắc sẽ rọi vào, chẳng cần phải tập trung ý nghĩ vào bộ vị Trung Hoàng.
Mấy câu trên của tôi đã khái quát toàn bộ yếu lĩnh của công pháp Phật gia.
Còn những điểm cần lưu ý trước và sau nhập tĩnh , xin các vị tham khảo cuốn "Tiểu Chỉ Quán" của Ðại sư Trí Khải đời Tùy (13) .
Hai chữ "Duyên Trung" thật tuyệt !
"Trung" , theo qui ước tồn tại trong vạn sự vạn vật , là cơ sở tồn tại của mọi sự vật nói rộng ra ,
tất cả Ðại thiên thế giới không ngoại sự biểu hiện của "Trung".
"Trung" nói lên nhân lõi của giới Tự nhiên.
Còn "Duyên" có nghĩa là thuận theo , là bắt đầu , là manh nha từ điểm khởi đầu đó.
Các vị chẳng đã lần lần từng bước đi theo điểm khởi đầu đó đấy ư ?
Ý nghĩa của hai chữ đó thật sinh động , thật tuyệt diệu !
Hai chữ "chỉ" và "quán" vốn không tách rời nhau , đó cũng là "Ðịnh" và "Huệ".
Sau này , khi các vị ngồi tĩnh tọa , nếu như xuất hiện tạp niệm , không nên cứ khư khư ngồi yên chỗ cũ , có thể tìm xem ý nghĩ đó xuất hiện ở chỗ nào ? Dấy lên ở đâu và mất đi ở đâu ?
Cứ thế tìm mãi , tìm mãi cho tới khi tìm không ra kết quả , đó chính là chỗ ý nghĩ nảy sinh.
Ở đây các vị không nên cứ khăng khăng , cố tìm cho ra chỗ tạp niệm nảy sinh , mà cách hay nhất là đạt tới trình độ : "Tìm Tâm chẳng thấy đâu , như thế là ta đã an tâm cho người rồi đó!" (14).
Như vậy mới đúng gọi là "Chỉ quán", còn làm khác đi là "Tà quán".
Sau khi tìm ý nghĩ mà không sao tìm được , vẫn có thể nảy sinh ý nghĩ mới , lúc này ta lại phải cắt đứt nó , rồi tiếp đến quán tưởng nó , quán tới mức độ phù hợp , rồi lại cắt đứt ý nghĩ mà ta quán tưởng , công pháp này được gọi là "Ðịnh Huệ song tu".
Ðây cũng chính là "Phương pháp hồi quang" mà ta đã giảng giải ở trên.
"Hồi" tức là "Chỉ" , "Quang" tức là "Quán".
"Chỉ" mà không "Quán" gọi là "Hồi" mà không có "Quang".
Còn "Quán" mà không "Chỉ" gọi là có "Quang" mà không "Hồi".
Xin các vị nhớ kỹ cho điều đó.
Chú Thích
1. Văn Thủy Chân nhân : tức Quan Doãn Tử, người cùng thời với Lão Tử.
Tương truyền , khi qua cửa Hàm Cốc , Lão Tử đã tặng sách "Ðạo Ðức Kinh" cho Quan Doãn Tử ,
hiện đương làm một chức quan , trông coi tại đó .
Trong sách "Quan Doãn Tử. Ngũ giám" có viết : "Ví dụ , đôi con mắt có thể nhìn Trời Ðất , Vạn Vật , giờ tạm thời "Hồi quang", không nhìn thấy nữa". Ở đây lần đầu tiên Quan Doãn Tử dùng từ "Hồi quang".
2. Tinh tư : thuật ngữ luyện nội , chỉ phương pháp tu tâm , dưỡng tính, tập trung tư tưởng, hướng nội.
3. Thuần khí : thuật ngữ luyện nội , chỉ phương pháp tập trung tư tưởng , dẫn khí đi theo các kinh mạch.
4. Ðạo Ðạo : ở đây muốn chỉ con đường giải thoát khỏi mọi mối ưu phiền , căng thẳng , sống thanh thản , ung ung , tự tại , hòa đồng với Ðất Trời , Vạn Vật...
5. Hỏa Hậu : các nhà Nội Ðan ví Hỏa (Lửa) với Thần.
Trình độ kết hợp Thần và Khí trong thuật Luyện Ðan gọi là Hỏa Hậu.
Hậu chỉ các giai đoạn luyện Nội Ðan.
Mỗi giai đoạn tu luyện đều có yếu quyết về Hỏa Hậu.
Trong thuật Luyện Ðan , nắm được bí mật của Hỏa Hậu chính là nắm được thiên cơ.
Trong sách "Ngộ Chân trực chỉ", Lựu Nhất Minh đời Thanh viết : "Luyện được Kim Ðan hoàn toàn dựa vào hỏa Hậu.
"Hỏa" xem như công lực tu luyện , còn "Hậu" là trình tự tu luyện.
Hái thuốc cần biết sớm trưa , luyện thuốc cần biết thời tiết .
Hỏa Hậu được xem là bí mật của công pháp Nội Ðan ,
vì thế trong Ðạo giáo có thuyết cho rằng : "Thánh nhân truyền Dược không truyền Hỏa".
Ðiều đó đủ nói lên rằng , Hỏa Hậu là then chốt của phép tu luyện Nội Ðan.
6. Luân hồi : thuật ngữ Phật học , cho rằng chúng sinh bắt đầu kể từ không , luôn luôn luân chuyển sống chết trong Tam giới như bánh xe quay , không sao thoát ra được.
7. Kinh Âm Phù : bộ kinh chính của Ðạo giáo , tên gọi đầy đủ là "Kinh Hoàng Ðế Âm Phù.
"Âm" có nghĩa là bí mật , kín đáo , không ai biết , "Phù" có nghĩa là "hợp".
"Âm Phù" là cách thức hành động phù hợp với thiên cơ , hiểu rõ Ðạo Trời và Ðạo của con người.
Thời gian ra đời của bộ Kinh này hiện nay không rõ , tương truyền do Hoàng Ðế ,
người khai sáng ra nền văn hóa Trung Hoa truyền lại.
Kinh Âm Phù: do Lý Thuyên đời Ðường phát hiện thấy ở vách núi Tung Sơn. Từ xưa tới nay đã có nhiều nhà nghiên cứu chú giải Kinh Âm Phù.
Bộ kinh gồm cả thảy ba phần.
Phần một chủ yếu trình bày cơ sở lý luận của học thuyết âm Dương Ngũ Hành , nói rõ người học Ðạo phải thừa hành Thiên Ðạo , Thiên Nhân tương ứng , trong sạch lương tâm , có như thế mới đạt được cảnh giới tối cao của phép Dưỡng sinh.
Phần hai trình bày sự biến hóa động tĩnh của Âm Dương Ngũ Hành, nhằm minh họa mối quan hệ,
giữa con người với Trời Ðất và Vạn Vật.
Phần ba khuyên người học Ðạo phải biết ngăn giữ đôi mắt , tu tĩnh lương tâm , gạt bỏ những ý nghĩ xấu xa ,
không được vi phạm Ðạo Trời .
8. Ðại thiên Thế giới : chỉ Thế giới bao la không bờ không bến.
9. Vạn pháp như như : vạn pháp đều lấy "Tĩnh" làm gốc , đều trở về trạng thái "Tĩnh". Như biểu thị trạng thái thanh tịnh, tự nhiên.
10. Tri chỉ : xem "Lễ ký. Ðại học" : "Ðại học chi Ðạo tại minh minh đức tại thân dân , tại chỉ ư chí thiện . Tri chỉ nhi hậu hữu định , định nhi hậu năng tĩnh , tĩnh nhi hậu năng an , an nhi hậu năng lự , lự nhi hậu năng đắc".
Dịch nghĩa : "Ðạo của Ðại học là ở chỗ làm sáng tỏ Ðức sáng , ở chỗ làm mới dân và ở chỗ đứng vào nơi chí thiện. Biết dứt bõ rồi sau mới có thể định , định rồi sau mới có thể tĩnh , tĩnh rồi sau mới có thể yên , yên rồi sau mới có thể nghĩ ,
nghĩ rồi sau mới có thể thu hoạch được".
11. Trung Hoàng : trong các Ðan thư, Trung Hoàng chỉ trung Ðan Ðiền.
Nhưng ở đây chỉ Thiên Tâm giữa hai lông mày.
12. Nhìn ngón tay ngỡ là Mặt Trăng : trong "Kinh Lăng Nghiêm" có đưa ra một ví dụ : một người lấy ngón tay chỉ mặt Trăng cho người khác ngắm.
Người này chẳng để ý gì đến Mặt Trăng , mà chỉ ngắm ngón tay của người kia , xem ngón tay là Mặt Trăng , như vậy chẳng những mất Mặt Trăng mà còn mất cả ngón tay nữa.
13. Tiểu Chỉ Quán : còn có tên là "Ðồng mông chỉ quán" hay "Pháp yếu tu tập tọa thiền chỉ quán" do Ðại sư Trí Khải đời Tùy trụ trì ở chùa Tu Thiền núi Thiên Ðài Sơn thuật.
Toàn bộ cuốn sách gồm mười chương.
Qua các chương này , Ðại sư Trí Khải , người đầu tiên trình bày về các yếu lĩnh điều thân , điều tức , điều tâm.
Trong sách còn mô tả cụ thể các tư thế trong điều thân ; khí và hơi thở trong điều tức ; nhập định , trú định , xuất định trong điều tâm. Có thể nói , đây là cuốn sách đặc biệt cần thiết đối với những người muốn đi sâu nghiên cứu khí công Phật gia.
14. Truyền thuyết Phật giáo Thiền tông kể rằng , Sư tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chín năm diện bích tại chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn. Một hôm Thần Quang đến , quỳ trước Tổ bạch :
- "Tâm" con không an, xin Tổ dạy cho phép an "Tâm".
Vậy ngươi hãy đem "Tâm" ra đây ta an cho.
Thần Quang sửng sốt tìm lại không thấy "Tâm", thưa :
- Bạch Tổ , con kiếm "Tâm" mãi mà không thấy .
Thế là ta đã an "Tâm" cho ngươi rồi đó.
Nghe Tổ dạy , Thần Quang bỗng nhiên giác ngộ và được Tổ đổi tên thành Tuệ Khả.
Ðúng như lời Tổ dạy , trong mỗi con người những tạp niệm luôn luôn trỗi dậy , thúc bách , giằng xé rối bời , làm ta xao xuyến không yên. Thế nhưng chúng ta lại thường ngộ nhận , lầm chấp những tạp niệm đó là "Tâm" mình ,
cho nên chẳng lúc nào thấy "Tâm" an.
Bởi "Tâm" không an , nên con người bôn tẩu khắp nơi tìm phép an Tâm .
Diệu thuật của của Tổ Ðạt Ma buộc ta nhìn thẳng lại xem "Tâm" là gì , thử xem nó có thật hay không mà cầu an.
Khi đã vỡ lẽ nó không thật , nó tự lặng lẽ tan biến , đó là an "Tâm".
Khi "Tâm" đã dứt bỏ hết tạp niệm gọi là "vô niệm" hay "không tâm".
Lúc này không còn hình tướng gì nữa nên gọi là "không".
Tu luyện đạt đến chỗ "không tâm" hay "vô niệm" sẽ nhận ra cảnh giới "không" ấy là chân thực. Và cũng chính vì vậy cửa Thiền trượng gọi là cửa "Không".
An thần tổ khiếu hấp tụ tiên thiên
http://nhantu.net/TonGiao/HuynhDinhK...hantokhieu.jpg
Tóm tắt công pháp hồi quang qua ba chương :
Vạn vật hữu linh , linh quang là thứ bao trùm tam tài thiên địa nhân , có nó thì đắt đạo thành tiên , mất nó thì vong thân làm quỷ.
Con người sống trong trời đất ,bị trời đất chi phối ," thiên địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu " , khiến cho trầm luân trong cõi luân hồi , chỉ làm " thực phẩm " cho thiên địa , chưa một ngày được tiêu dao. Biết như thế mới quyết tâm " khử trọc lưu thanh " thoát ly luân hồi đắc đạo thành tiên.
Cụ thể hơn Nguyên Thần chính là " bổn lai diện mục " của ta ,chính là ta chân chính không bị trời đất câu thúc ,Thức Thần , chính là cái mà Thiên Địa Quỷ Thần tạo ra để hãm con người trong cái vòng luẩn quẩn của Luân Hồi , đời đời kiếp kiếp làm kẻ hồ đồ.Rõ ràng hơn chính là những thứ mà xã hội nhồi nhét vào trong đầu chúng ta . Có một câu nói rất hay " Trời Đất vận hành theo một quy luật tự nhiên và vi diệu , con người tự cho mình là thông minh , phế bỏ đi cái quy luật đó , rồi lại tự mình lập ra quy luật và tuân theo " , chả khác nào
"Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu "
"Nhân Pháp Địa , Địa Pháp Thiên , Thiên Pháp Đạo , Đạo Pháp Tự Nhiên "
Biết như thế nhưng muốn thoát ly luân hồi phải làm sao ? "Hồi Quang " Chính là cứu cánh.
1.Bước thứ nhất : Phản Chiếu
từ "Phản chiếu" ai cũng có thể nói được , nhưng không hành được ,không biết cách áp dụng vào thực tiển và đạt hiệu quả thực tế .
Nguyên nhân chính là do không hiểu được ý nghĩa sâu xa của từ nầy.
"Phản" có nghĩa là làm cho Tâm từ trạng thái có tri giác phản hồi trở lại trạng thái tiên thiên khi tinh thần là thể xác chưa phân , nghĩa là từ trong cơ thể sáu thước của mình mong muốn đi ngược trở lại tìm kiếm cái bản thể trước lúc Trời Ðất hình thành ,tức là trạng thái hư vô tiên thiên.
Những người học Ðạo ngày nay chỉ biết mỗi ngày ngồi tĩnh tọa một hay tiếng , lòng vẫn vương vấn bao nhiêu tạp niệm , không thể dứt bỏ , rồi nói là đã "Phản chiếu" rồi , như vậy thử hỏi sẽ đạt được điều gì ?
2.Duyên Trung
Hai chữ "Duyên Trung" thật tuyệt !
"Trung" , theo qui ước tồn tại trong vạn sự vạn vật , là cơ sở tồn tại của mọi sự vật nói rộng ra ,
tất cả Ðại thiên thế giới không ngoại sự biểu hiện của "Trung".
"Trung" nói lên nhân lõi của giới Tự nhiên.
Còn "Duyên" có nghĩa là thuận theo , là bắt đầu , là manh nha từ điểm khởi đầu đó.
Đó là bước đầu tiên trên con đường đi tìm chân lý.
chĩ có 4 chữ ...hic hic ....nhìn lại chính mình ...
quan trọng là trong lúc tu học
hic hic