Chú Đại Bi Giảng Giải ( HT Tuyên Hóa )
TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC
1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi.
2. Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.
3. Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình, chê bai người khác.
4. Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp
người khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.
5. Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
6. Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phán xét đâu là chân lý.
7. Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương
chứng minh cho bản dịch.
8. Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh,
Luật, Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.
Hòa Thượng Tuyên Hóa
* ƯỚC NGUYỆN PHIÊN DỊCH TAM TẠNG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO.
Từ hồi còn trẻ, Hòa thượng đã có ước nguyện truyền bá Phật pháp rộng khắp
thế giới. Muốn vậy, Ngài phát nguyện tổ chức phiên dịch Tam Tạng Kinh điển
Phật giáo sang các thứ tiếng trên thế giới. Đây là công trình sự nghiệp ngàn năm.
Ngài nói:“Phiên dịch Tam Tạng còn quan trọng hơn vãng sanh Tịnh độ”.
Hòa thượng là người đầu tiên trên thế giới dùng Trung văn để giảng Kinh, trước
hết, Ngài đọc một đoạn Kinh từ trí nhớ, rồi liên tiếp giảng câu này sang câu khác
mà không cần nhìn vào Kinh văn. Ngài chẳng cần ghi chép điều gì, Ngài giảng
hoàn toàn lưu xuất tự tự tánh khiến ai ai cũng hiểu được. Ngài sử dụng tiếng bạch
thoại thông dụng để giảng giải những ý nghĩa sâu rộng nhất của Kinh văn, bằng
những ví dụ rất thực tế khiến mọi tầng lớp đều hiểu được. Hòa thượng nói: “Tôi
chỉ biết cách đưa ra những ví dụ rất đơn sơ để chuyển ý Kinh do tôi giảng, gọi là
“Bản dịch đơn giản”. Cũng như rau cải được luộc chín bằng nước sôi, trông có vẻ
thanh đạm nhưng rất tốt cho sức khỏe”.
DỊCH SANG NHỮNG NGÔN NGỮ KHÁC:
Có hàng trăm bộ Kinh dịch xong đã được ấn hành. Nhiều nhất là tiếng Anh.
Sau này sẽ in Kinh song ngữ Hoa Pháp, Hoa Việt …
Bên cạnh việc xuất bản Kinh sách, băng từ và băng video cũng được phát hành
song ngữ. Hiện nay băng từ song ngữ cũng rất thông dụng để ghi và truyền các dữ
liệu bằng tiếng Hoa và tiếng Anh.
THÀNH LẬP VIỆN PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN QUỐC TẾ:
Năm 1973, Viện Phiên dịch Tam Tạng Kinh Phật giáo Quốc tế đã được
thành lập.
Năm 1992, thành lập Ban quản trị Hội Phật giáo Pháp giới. Chư Tăng cùng Cư sĩ
từ khắp nơi đều tình nguyện đến đây để cộng tác dịch và ấn hành Tam Tạng Kinh
mà không nhận bất cứ khoản thù lao nào.
TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT:
Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu danh lợi.
Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.
Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình nhưng lại chê bai người
khác.
Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp người
khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.
Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phân xét đâu là chân lý.
Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương chứng minh
cho bản dịch.
Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh, Luật,
Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.
KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUYÊN HÓA.
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề
CÚ GIẢI ( Giảng Giải Từng Câu )
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư
Thích – ca Mâu – ni Phật. Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không?
Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong
một pháp hội nhưng chưa một người nào có đƣợc câu trả lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô, phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng
dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của
con về nương tựa vào chƣ Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà
con xin dâng trọn vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống
thì con sống; bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là
“Quy mạng”.
Còn “Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý
nghĩa của Nam – mô.
Còn “Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của
mình trở về nương tựa vào đức Phật.
Nói tổng quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo
vô biên vô tận trong khắp mười phương”.
Đó chính là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì
niệm. Mặc dù đó là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là
quy y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại
vị lai. Khi quí vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với
Tam Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất
cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ
mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị
nên biết rằng, trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và
Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà
còn cao quý đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi
tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp
nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần
phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên
cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y
Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y
Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi
quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là
những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành,
tương ứng với lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn
còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục,
nói dối, nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị
không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì
trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói: “Tôi đã quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…”
Quí vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành
những việc thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn
tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm
tin. Nếu có niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn
ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi
vào hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa
vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước
thiện thì quí vị vẫn đƣợc lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con
người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.”
Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí
vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục
như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa
đổi mọi lỗi lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm
thuần túy những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt
được lợi ích thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
có nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương
Khi quí vị trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí
vị. Lúc gặp tai chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ
da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và
nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai
pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da cũng còn đƣợc gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là
từ trƣớc đến nay quí vị đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng
chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không
kể xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.
Quí vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này
thôi: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn
điều gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí
vị không có con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá
ra dạ da sẽ sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành, không
phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm.
Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm
được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ
bàn.
Câu chú này cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có
thể hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu chú này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu
chú thuộc trong “Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều
đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
Vậy nên, câu chú Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh,
không thể suy lường được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại, trong câu Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy
mạng kính đầu”. Hắc ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là
“Lễ”.
Nghĩa toàn câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ
Tam Bảo vô tận vô biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta
phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận.
Chư Phật trong thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng
vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được
dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh
Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát”
nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là
ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.