Xin thầy, anh chị và các bạn cho ept được hỏi.
Một nguoi tu theo pháp môn Tinh Độ moi ngày có thế danh khoảng 30' ngồi thiên được không ạ? Vi dụ như thiền vipassana.
Ept xin cảm ơn.
Printable View
Xin thầy, anh chị và các bạn cho ept được hỏi.
Một nguoi tu theo pháp môn Tinh Độ moi ngày có thế danh khoảng 30' ngồi thiên được không ạ? Vi dụ như thiền vipassana.
Ept xin cảm ơn.
Ngồi thiền được thì rất tốt bạn nhé . Nhưng lưu ý là không vừa ngồi thiền vừa niệm Phật cùng một lúc , tốt nhất để bắt đầu thiền thì nên thiền hơi thở để định tâm trước khi chuyển sang giai đoạn thiềm vipassana !
Thiền tịnh song tu ...
Thiển là dừng mọi suy nghĩ... niệm phật hoài sao dừng được....?
Ept xin cảm on anh chị ạ.
Vâng. TD thì chọn cách niệm Phật lúc ngồi thiền để giúp quy mọi tư tưởng, ý niệm về 1 câu Phật hiệu. Đó là cách mà nhiều Sư, Thầy đã khuyên và TD thấy phù hợp với mình.
TD đọc thấy Huynh đạt được nhiều thành tựu trong thiền định. Nếu ko có gì bí mật có thể chia xẻ cho TD được biết được ko ah.
Đâu có gì là bí mật...
Cái tâm con người bình thường cứ lăng xăng lộn xộn nên không sáng suốt... vì thế cần phải thiền để lắng đọng cái tâm lại...
Ban đầu chưa định tâm được thì niệm phật để cái tâm trụ vào câu niệm phật mà khỏi lăng xăng...
Tuy nhiên khi đã trụ niệm được rồi thì cần phải dứt luôn niệm... Tâm im bặt mới dần vào các cảnh giới của thiền định....
Có người thì trụ vào hơi thở.... nhưng sau đó cũng phải dứt luôn hơi thở... đi vào định gọi là nhập định....
Nhập định cũng chưa hẵn là dứt hoàn toàn đâu... nhưng nó đã vào cảnh giới im lặng rồi...
Thiền mà còn niệm phật nghĩa là chưa bao giờ nhập định.... chưa biết dc cảnh giới gì thì chưa có thành tựu gì cả....
Trong giới hạn của một comment thì khó có thể nói được toàn bộ tiến trình thực tập thiền căn bản. Nếu có duyên, các đạo hữu có thể tìm đến những chùa có tổ chức khóa tu thiền Vipassana (tầm 10 ngày) để được hướng dẫn những điều cơ bản nhất. Trong 3-4 ngày đầu như là một cực hình và đôi khi còn bị thoái tâm, muốn từ bỏ. Cố gắng thêm một chút, vào ngày thứ 9-10 tự bản thân sẽ thấy sự khác biệt rất rõ rệt.
Sự khác biệt lớn nhất của Thiền Phật Giáo mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khám phá ra với Thiền của các vị Tu Sĩ lúc bấy giờ (đặc biệt là 2 vị Tiên nhân Alara Kalama và Uddaka Ramaputta dạy đạo cho đức Bồ Tát lúc Ngài chưa thành Đạo) là lấy Giới - hạnh làm nền, lấy ý thức làm chủ, dùng sức tỉnh thức xả tâm, diệt tưởng. Thiền Phật Giáo là pháp môn Thiền duy nhất sử dụng Thất Giác Chi và Tứ Thần Túc, cũng là pháp môn Thiền duy nhất sử dụng Như Lý Tác Ý và Hướng Tâm. Đây là độc lộ để hành giả thực hiện Tam Minh, liễu sanh, thoát tử.
Đối với Thiền ngoại đạo mà đức Bồ Tát đã học qua gồm có 8 định, 4 định đầu thuộc thiền chỉ định (tứ thiền định), 4 định sau thuộc "tứ không định" gồm: không vô biên xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định và phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Khác hoàn toàn "Tứ Thánh Định" trong Thiền hữu sắc của Phật Thích Ca đã tự khám phá ra và chứng ngộ.
Tuy nói là ngoại đạo (không phải do đức Phật khám phá ra), nhưng cũng là một bước lớn và vững chắc để hành giả tiến sâu hơn vào các cấp Thiền sâu xa hơn.
Thiền Chỉ Định:
- Ban đầu, theo dõi hơi thở, sau đó, bám sát, dính chặt vào hơi thở một cách liên tục, không gián đoạn. Khi đã an trú được rồi thì tất cả mọi tạp niệm lao xao đều lắng dứt. Theo đó, hơi thở càng lúc càng nhẹ nhàng, chỉ còn như làn khí mỏng manh tới lui. Kiên định theo dõi làn khí ấy thì thấy nó càng lúc càng trong và sáng ra. Cứ chú mục mãi vào cái trong và cái sáng ấy thì lát sau, ngoại giới vong bặt, cái “tướng sáng” của hơi thở càng lúc càng trong. Trú tâm, an trú tâm vào cái tướng sáng trong ấy, giây khắc sau, cảm nhận một trạng thái tịnh định với phúc lạc chưa từng có trong đời. Ta có thể ngồi một giờ, hai giờ với niềm tịnh định, phúc lạc ấy.
- Đấy là tầng thiền định thứ nhất.
Rồi Ta muốn trú vào phúc lạc, tức khắc có ngay phúc lạc và giữ nguyên trạng thái an tĩnh thâm sâu ấy đôi khi cả đêm. Sáng ngày, tinh thần phơi phới, an lành, như qua một giấc ngủ ngon không mộng mị.
- Đó là tầng thiền thứ hai, tầng thứ ba của thiền định.
Trạng thái phúc lạc của định tam thiền, đã rất thâm sâu, nhưng vẫn còn thô tháo, Ta hãy bỏ nó để bước lên một cảnh giới cao hơn: ấy là thấm sâu vào trạng thái thanh tịnh, yên ổn, trầm lặng cùng sự quân bình tâm hồn một cách tuyệt hảo.
- Đó là tầng thiền định thứ bốn.
(4 Chỉ Định này không đưa đến Tuệ Giải Thoát)
SMC chỉ đang dừng lại tại việc thực hành Thiền Chỉ Định này nên không lạm bàn đến 4 định sau (Tứ Không Định). Và rõ ràng, khi ở trong định ấy thì ta an ổn, vắng lặng, trong sáng, vô nhiễm, nhưng khi rời nó, trong ta, vẫn ray rứt những câu hỏi, những nhức đau về lẽ tử sinh, về sự giới hạn của đời người. Trong ta, xung quanh ta, vạn hữu vẫn tồn tại sự bất toàn, đổ vỡ, trống không... chẳng có cách gì vượt qua, giải thoát chúng được.
Đối với Thiền Phật Giáo, SMC chưa thực hành mà chỉ đang hoàn thiện những hành trang cần thiết. Qua việc đọc và tham khảo với các vị Thầy cũng như các bạn tu học khác, tạm thời đưa ra "dàn bài tu tập" để thực hiện từng bước một, dựa vào Tạng Kinh Nikaya do HT. Thích Minh Châu dịch Việt, như sau: (chủ yếu dựa vào 2 bản kinh: Sa Môn Quả và Đại Kinh Phương Quảng)
Bước 1: Phải đắc giới luật cụ túc (tiểu trung đại giới bổn).
Bước 2: Hạnh độc cư phòng hộ 6 căn không phóng dật.
Bước 3: Thành Tựu 4 Định Tu Tập trợ Thánh Đạo Chi Chánh Niệm.
+ Định niệm hơi thở (thân hành niệm nội)
+ Định niệm minh mẫn (thân hành niệm ngoại)
+ Định chánh niệm tỉnh giác (ý thức lực xung mãn để dẫn tâm hướng tâm nhu nhuyến - như lý tác ý)
+ Định vô lậu (Sống quán bốn niệm xứ Nghiêm mật)
Bước 4: Hoàn Toàn xả ly được 5 triền cái (ngăn ác diệt ác pháp)
Bước 5: Thành Tựu 4 Thánh Định Hữu Sắc
Tóm Tắt Tứ Thánh Định, (đừng lầm lẫm với Tứ Thiền Định)
Khi Giới luật Trọn vẹn, Chánh Niệm nơi 4 trụ xứ, tâm trở nên thanh tịnh ---> tâm nhập sơ thiền, gồm 5 chi:
1- Tầm
2- Tứ
3- Hỷ
4- Lạc
5- Nhất tâm
Thiền định này do ly dục, ly ác pháp mà nhập được. Tâm do giới mà thanh tịnh, tâm thanh tịnh là nhờ tâm biết lìa lòng ham muốn và các ác pháp nên tâm có đủ lực đạo, do có đủ đạo lực nên tâm dẫn tâm tịnh chỉ khẩu hành, tức là diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, Nhị Thiền có bốn chi:
1- Nội tỉnh
2- Hỷ
3- Lạc
4- Nhất tâm
Hỷ lạc này do định sanh không phải do lìa lòng ham muốn mà có được, nhưng tâm không thanh tịnh thì chẳng bao giờ diệt tầm, tứ được, có nghĩa là không bao giờ nhập được Nhị Thiền.
Tâm do giới thanh tịnh nên có đủ đạo lực hướng tâm tịnh chỉ tưởng hành tức là lìa hỷ tưởng mà nhập Tam Thiền, Tam Thiền có năm chi hiện ra rõ ràng:
1- Xả
2- Niệm
3- Huệ
4- Lạc
5- Nhất tâm
Niệm Lạc này do định mà có, không phải do ly dục như ở Sơ Thiền, nhưng thiếu tâm ly dục của sơ thiền thì niệm lạc của định này cũng chẳng có.
Tâm do giới thanh tịnh nên có đủ đạo lực hướng tâm tịnh chỉ thân hành, tức là tịnh chỉ hơi thở, nói như trong kinh là xả lạc, xả khổ (xả thọ) xả niệm thanh tịnh có 4 chi:
1- không khổ, không vui
2- Xả
3- Niệm
4- Nhất tâm
TỨ THẦN TÚC
Khi ly dục ly ác pháp trọn vẹn thì tâm nhập sơ thiền (đây là tầng thiền thấp nhất nhưng lại là tiền đề cho các tầng thiền còn lại), ----> tâm luôn định trên thân <--- kéo dài Liên tục trạng Thái tâm sơ thiền ---> xuất hiện bảy giác chi ---> xuất hiện Tứ thần túc
TỨ THẦN TÚC phải do từ BẢY GIÁC CHI xuất trên tâm VÔ LẬU. Vậy TỨ THẦN TÚC là gì?
TỨ THẦN TÚC là bốn sức mạnh như thần dùng để thực hiện nhập Bốn Thiền, năm định và trí tuệ Tam Minh. TỨ THẦN TÚC gồm có:
1- Dục Như Ý Túc, có nghĩa là ý muốn cái gì thì thân tâm làm theo cái nấy.
2- Tinh Tấn Như Ý Túc, có nghĩa là thân tâm siêng năng theo ý muốn của mình không còn biếng trễ.
3- Định Như Ý Túc, có nghĩa là thân tâm muốn nhập định nào thì thân tâm nhập ngay định ấy.
4- Tuệ Như Ý Túc, có nghĩa là ý muốn hiểu biết một điều gì dù bất cứ ở thời gian nào, không gian nào tâm liền biết ngay. Trí tuệ hiểu biết như vậy thì chỉ có những tâm VÔ LẬU hoàn toàn, chứ tâm phàm phu thì không thể có được trí tuệ như vậy. Cơ bản nhất của sự tu hành theo Phật giáo là tâm VÔ LẬU.
Bước 6: Thành Tựu 4 Tâm Vô Lượng Chân Chánh Bước Vào Thắng Tri Pháp:
- Vượt mọi sắc tưởng - không vô biên xứ
- Vượt mọi thức tưởng - thức vô biên xứ
- Vượt mọi Hữu tưởng - vô sở hữu xứ
- Vượt mọi chướng ngại tưởng - phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Bước 7: Lúc này hành giả tịnh chỉ thân hành (tịnh chỉ hơi thở), tịnh chỉ khẩu hành (tịnh chỉ tầm tứ), tịnh chỉ tâm hành (tác ý hướng tâm). Chứng đạt diệt tận định.
Diệt Thọ Tưởng là cách "Đi Ngủ" trong "Minh Kiến" của Bậc Thắng Giả khi còn hữu dư y. Khác với "Đi Ngủ" trong "Si Ám" hiện tướng ở Phàm Phu. Nó không liên quan đến "Tuệ Giải Thoát"
Nói về Thiền, Tịnh song tu, TD xin gửi thông tin về cuộc đời Sư Thích Giác Khang để mọi người tham khảo.
Vài nét ghi nhận về cuộc đời tu học và giảng pháp
của SƯ THÍCH GIÁC KHANG
(qua những lời kể của các vị sống gần Sư)
----------------
CHIA RA 4 THỜI KỲ.
- Thời kỳ đầu tu học: Năm 1966, Ngài xuất gia theo hệ Khất sĩ tại Tịnh xá Ngọc Vân tỉnh Trà Vinh. Ngài có 2 Bổn Sư là Đức Trị sự Giác Như và Nhị Tổ Giác Chánh. Và Y Chỉ Sư là Sư Giác Thức. Năm 1968 đến năm 1983, Ngài theo Nhị Tổ Giác Chánh đi hành đạo khắp nơi ở miền Tây Nam bộ. Học “Chơn lý” và hành trì “Trú dạ lục thời” theo giáo lý Khất sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.
Vào thời này Ngài thường xuyên nhập vào định tam thiền, do đó sau khi đi bát, độ ngọ xong là Ngài thường tìm chỗ vắng vẻ nhập vào thiền định từ 7-9 tiếng đồng hồ nghiền ngẫm thuần thục bộ Chơn lý. Nhưng trong quá trình tu học, Ngài thấy bế tắc về Bát nhã, về con đường giải thoát, Ngài thất vọng vô cùng. Trong lúc chán nản đến cùng tột, chợt nhìn trên kệ kinh thấy quyển “Đường vào hiện sinh” của Kisnamurti do Trúc Thiện dịch, Ngài đọc và ngộ được Chân lý Bát nhã. Bắt đầu từ đây, Ngài tìm đọc những quyển do Trúc Thiên, do cụ Mai Thọ Truyền dịch, quyển Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần,, Duy thức học của Giáo sư Thạc Đức,…
Đến năm 1983, vì thời thế, Ngài trở về Tịnh xá Ngọc Vân. Đến năm 1985, Đức Trị sự Giác Như viên tịch, giao nhiệm vụ trụ trì lại cho Ngài. Khi trở về Tịnh xá Ngọc Vân, trong các buổi cúng hội, Ngài giảng chuyên về Chơn lý và dạy tu thiền định. Qua sự giảng dạy thu hút chư phật tử rất đông.
Ngài lấy “Giới-Định-Tuệ” và “Trú dạ lục thời” làm gốc trên con đường tu của mình. Một hôm trong thiền định, Ngài ngấm ngộ Tứ Diệu Đế. Và ngay sau khi xả định, trong alaya tuôn trào, Ngài viết không ngừng nghỉ cuốn “Tứ Diệu Đế” trong vòng 15 phút. Cuốn “Tứ Diệu Đế” này vẫn còn lưu truyền cho đến ngày hôm nay, và chư phật tử lấy đó làm cẩm nang gối đầu giường.
- Thời kỳ thứ hai: Qua thời gian giảng dạy, Ngài lâm trọng bệnh. Sau những ngày mê man, tỉnh dậy Ngài suy nghĩ, đối với Ngài, trong thời buổi này tu pháp môn Thiền tông khó mà đắc Thánh quả. Do đó Ngài nghĩ rằng pháp môn Tịnh độ nếu hành đúng sẽ được vãng sanh về thế giới Cực lạc thì một đời sẽ thành Phật. Lúc đó Ngài nhờ phật tử thỉnh quyển kinh A Di Đà của Tri Húc Đại Sư. Ngài đọc được câu thơ của Đại Sư Vĩnh Minh “có thiền, có tịnh như cọp mọc thêm sừng”. Từ đó Ngài quyết định “Thiền-Tịnh song tu”. Ngài bắt đầu nghiên cứu các kinh sách về Tịnh độ tông như : pháp môn Tịnh độ của Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Lá thư Tịnh độ của Ngài Quang Đại Sư, Niệm phật tập yếu của Ngài Thiền Tâm,…
Từ đó, Ngài giảng dạy thiền tông phối hợp với Tịnh độ tông cho phật tử. Qua giảng dạy, Ngài đặt ra 6 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ, phật tử từng bước trả lời các câu hỏi đó. Nhưng sau này khi nhiều chùa thỉnh Ngài giảng trong các ngày Phật thất, Ngài thêm một câu hỏi nữa, đến nay là 7 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ.
Trong 7 câu hỏi, nhưng đặc biệt là câu hỏi cuối cùng “Tu Tịnh độ có chắc chắn vãng sanh không?” Sau thời gian trả lời hết, cuối cùng Ngài kết luận câu này như sau: “Tu Tịnh độ, có đầy đủ Tín-Hạnh-Nguyện và Nguyện lực chí thành thì chắc chắn vãng sanh 101%. Nhưng không vãng sanh là ngoài ý muốn. Nếu gặp trường hợp này, người chết thức còn trong sáng liền về báo mộng cho bạn sen nhờ thỉnh quý Sư Trai tăng thì người này sẽ được vãng sanh.”
- Thời kỳ thứ ba: Qua kinh Trung Bộ, Ngài đọc được bài kinh Sáu Sáu, thấy Đức Phật giảng thực tế đi vào trong cuộc sống, sau khi Đức Phật giảng xong có 60 vị Tỳ kheo đắc quả Alahán. Và từ đây, mỗi ngày Ngài phối hợp Duy thức giảng bài kinh Sáu Sáu. Ngài đặt ra 6 câu hỏi. Sau khi phật tử trả lời hết 6 câu hỏi, khóa giảng kết thúc có nhiều phật tử xuất gia cầu giải thoát. Còn riêng Ngài thấy lối giảng này chưa được sáng tỏ, Ngài tìm chỗ ẩn tu để suy gẫm vào chiều sâu. Ngài tìm đến Sư Thức đang tu tịnh ở tỉnh Sa Đéc. Sư Thức là vị Sư được Nhị Tổ quan tâm, cũng là vị Sư mà Ngài thường hay nhắc đến trong lúc giảng pháp.
Trong thời gian tịnh tu, Ngài đặt thêm 4 câu hỏi nữa, tổng cộng là 10 câu hỏi của bài kinh Sáu Sáu. Song song đó, Ngài nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch. Ngài rất tâm đắc đoạn kinh Đức Phật chỉ dạy Ngài Anan nhận lại Bát nhã qua 6 căn ngay trong lúc đánh chuông,…
Phật tử thỉnh Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu lần 2. Lần này Ngài giảng tư tưởng lòng vào Bát nhã. Sau khi kết thúc khóa giảng lần 2, Ngài thấy chưa vừa ý. Ngài đi tịnh tu tại Đà Lạt, do phật tử Tịnh Giới cất cái cốc dưới thung lũng xa thành phố cho Ngài tịnh tu. Trong thời gian này, Ngài thường đi vào rừng sâu, suối, thác để nương cảnh tạo tâm.
Và nhân duyên trong ngày tự tứ năm Phật lịch 2539, có một phật tử cúng dường quyển Lăng kính đại thừa của cụ Nghiêm Xuân Hồng. Sau vài tháng dược sĩ Trí con một phật tử cúng dường quyển Lăng nghiêm ảnh hiện, Tánh không và kinh Kim cang, Ma chướng trên đường tu,…của cụ Nghiêm Xuân Hồng. Ngài nghiên cứu đồng thời photo cho phật tử cùng nghiên cứu. Trong quyển Lăng nghiêm ảnh hiện, Ngài tâm đắc nhất là “24 bất tương ưng hành pháp” mà cụ trình bày về Duy thức.
Năm 2007, phật tử thỉnh Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu lần 3. Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu phối hợp giữa kinh Nguyên thủy, Tiểu thừa, Đại thừa. Ngài chọn kinh Thủ Lăng Nghiêm, Duy thức và bộ sách của cụ Nghiêm Xuân Hồng và pháp môn Tịnh độ lồng vào bài giảng kinh Sáu Sáu. Lần này Ngài giảng đi vào chiều sâu của Bát nhã ứng dụng ngay trong thực tế cuộc sống. Sau 3 năm, kết thúc khóa giảng.
- Thời kỳ thứ tư: Thời gian này sức khỏe Ngài kém, Ngài định an trí, Ngài thường nói cho một ít phật tử thuần thành là Ngài chọn Sư Minh Hiệp kế thừa Ngài, sau khi Ngài viên tịch Sư Minh Hiệp hướng dẫn Tăng chúng.
Ngài nhận định, giáo lý Bát nhã khó giảng, khó tiếp thu, sợ phật tử trong quá trình tu học rơi vào ngũ ấm ma. Từ đó Ngài gọi vài phật tử kết tập lại bài giảng của Ngài qua 5 chuyên đề: Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Phật A Di Đà có mấy điều kiện, Nhận thức về Tái sanh - Chứng ngộ - Vãng sanh, Khổ Đế về Vũ trụ quan, Khổ Đế về nhân sinh quan, Nhân quả và nghiệp, được Ngài giám sát chặt chẽ lối hành văn có diễn đạt sáng tỏ giữa tư tưởng và Bát nhã hay không, có rơi vào ngũ ấm ma hay không. Bên cạnh đó lo về thân để phật tử tu thiền định dễ dàng, đồng thời giúp đỡ người nghèo khó, Ngài lập ra quán cơm gạo lức từ thiện. Song song đó lo về tâm, Ngài lập Ban Hộ niệm giúp đở người sắp lâm chung được vãng sanh về thế giới Cực lạc. Kết quả được nhiều người vãng sanh lưu lại xá lợi.
Sau thời gian được phật tử chăm sóc, sức khỏe Ngài đỡ hơn. Năm 2012, Phật tử thỉnh Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu lần 4. Đợt giảng này rất đông phật tử mới (vài trăm người). Lần này, những buổi giảng đầu tiên Ngài đưa ra 3 câu chuyện: Sư Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng, Tổ Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế, Bảy trạm xe để trắc nghiệm lại trình độ Phật pháp của phật tử. Ngài thường khuyên phật tử nên tổ chức đi đến sông lớn, biển Ba Động ngồi thiện định, để thấy được cảnh mông lung, bao la mà soi rọi lại tâm của mình. Sau khi trắc nghiệm xong, Ngài thấy cần phải quay trở lại giảng “Bài học vở lòng” đó là 4 đường ác và người trời dục giới cho đến lúc Ngài đi ́n Độ.
Năm 2013, tiết tháng 3 nắng nóng, Ngài định đi tịnh tu ở Đà Lạt, nhưng có những phật tử thỉnh Ngài đi chiêm bái Thánh tích của Đức Phật tại ́n Độ. Khi trở về, Ngài lâm trọng bệnh. Trong 5 ngày cuối, thân bệnh của Ngài diễn biến từng bước y như Ngài thường giảng pháp qua 3 thân đưa đến cảm giác, tư tưởng như thế nào. Ngài có cho mời Hòa Thượng Giác Giới là Trị Sự của Khất sĩ giáo đoàn 1 đến để Ngài trình bày rõ nguyện vọng của Ngài là “giao trụ trì lại cho Sư Minh Hiệp sau khi Ngài viên tịch”.
Trong thời gian này, các chư thiên mời Ngài giảng pháp. Lúc Ngài mở mắt ra, chư phật tử chăm sóc Ngài hỏi “Hồi nãy Sư nói gì mà chúng con nghe Sư giảng bài kinh Sáu Sáu rất rõ”. Ngài nói đang giảng kinh ở cõi Sắc. Thì phật tử đòi đi theo Ngài nghe giảng pháp ở cõi trời Sắc giới. Ngài nói mấy ông làm sao nhập định được mà đòi đi theo. Tối ngày 29 và qua ngày 30/3 âl, Ngài đi vào cõi mông lung, do đó các máy không đo được mạch và áp huyết của Ngài, nhưng mà Ngài rất là tỉnh táo. Sáng ngày 30/3, bác sĩ Tùng đến chăm sóc Ngài rồi lễ Ngài và nói “Bây giờ tùy Sư, Sư muốn chết thì chết, Sư muốn sống thì sống, chứ mạch và áp huyết như thế này thì người thường đã chết từ lâu rồi”. Ngài cười nói “cám ơn bác sĩ, làm phiền bác sĩ quá, không sao đâu.” Gần đến 3 giờ chiều, Ngài dặn dò quý Tăng và chư phật tử đôi điều rồi, và căn dặn tổ chức tang sự cho Ngài phải thật giản đơn để không hoang phí tiền bạc của chư phật tử. Ngài viên tịch lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 30/3/2013.
Ngài viên tịch đã để lại nhiều ấn chứng như bắt đầu châm ngọn lửa hỏa táng, hào quang rực rỡ tỏa sáng bao quanh kim quan, tỏa sáng trên tháp hỏa và hào quang tỏa sáng cả bầu trời, ngoài ra còn để lại vô số xá lợi đủ màu sắc. Ngài quá từ bi, cuối cùng, Ngài còn sách tấn phật tử niệm Phật A Di Đà và phát nguyện sẽ chắc chắn được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Chúng con nguyện sẽ tu học tinh tấn để được gặp Ngài ở Cực lạc quốc.
Tóm lại làm gì cũng phải có Thầy, bác SMC nhỉ :113: