-
Thất Chơn Nhơn Quả
THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Huỳnh-Vinh-Lượng
http://www.thienlybuutoa.org/images/...smallcover.jpg
Nguyên truyện Thất-Chơn nầy, xưa có bổn cũ, mà câu văn chẳng đặng rành rẽ, nghĩa lý chẳng đặng minh bạch, sợ người coi chẳng hiểu thấu, nghe chẳng đặng thông mà bỏ qua, và trong truyện chẳng đặng mở mang, nhiều câu vắn tắt, khó rõ diệu mầu, thấy tưởng như việc thường, chẳng hiểu chỗ báu trọng. Tôi rất muốn mở mang trong truyện báu mà chưa đặng y như lời nguyện.
May đâu năm nọ tôi ở tỉnh Vân-Nam rồi qua tỉnh Tứ Xuyên, đến nhà thờ của ông Thừa-Tướng ở nghỉ chơn. Nhớ tưởng lời lẽ trong bộ Thất-Chơn, thầm xét thấu nghĩa lý diệu mầu, trọn mấy ngày biên sắp thành thơ tên là “Thất-Chơn Nhơn-Quả truyện”. Hiệp theo lời tục mà bày tỏ chuyện xưa; do trong thế sự nhân tình đặng chỉ dẫn người lầm lỗi; đem việc tội phước mà tỉnh ngộ lòng người, lấy Đạo diệu mầu mà mở mang cho hậu thế. Thiệt lời khuyên lành răn dữ, có ích xiết bao!
Khi đó có ông Vương-Đạo-Hội coi thấy đặng vui mừng, biểu tôi gắng sức ra công mà sửa cho trọn bộ. Tôi thấy ông có ý khắc bản ấn tống nên tôi hết lòng xét duyệt, xong đưa ông xem luôn chẳng nghỉ. Ông thường nói với tôi rằng:
- Sách nầy thật đáng đứng bậc nhất trong sách dạy tu hành chơn lý.
Tôi hỏi: “Xưa nay cũng có nhiều kinh sách nói việc tu chơn, sao chọn sách nầy làm bực nhứt?”
Ông đáp: “Kinh sách tu chơn tuy nhiều, mà lời nói vọng cũng rất nhiều. Hoặc lấy phép lực mà nói Đạo, hoặc mượn Tiên Phật mà làm cớ đặng dụ người không biết, lầm hiểu mà ham thành Tiên Phật. Không xét trong thâm tâm tánh mạng của mình thì tu làm sao cho thành đặng? Lấy xảo dối đời, nói việc cao xa, làm cho người khó mà minh biện. Sách nói tu hành như vậy thì dùng sao đặng? Vì vậy mà cho sách nầy là bậc nhứt. Vả lại, sách nầy từ đầu đến cuối đã không một lời dối, lại thêm khuyên nhủ lòng người bước nơi đường đất chắc cầu theo lẽ thiệt chơn, trong việc đời nhiều chỗ thế tục thường nghe, nên lẽ giả chơn chắc thiệt hiện bày, đáng để số một.
Tôi xét lại trong thiên hạ, ai mà gặp Thất-Chơn nầy là người hữu hạnh, rán xem tìm cho thấu nghĩa lý cùng chỗ cứu cánh diệu mầu. Sách nầy là sách của các vị Tiên Phật, trước kia cũng có lâm trần, mà biết hồi đầu tỉnh ngộ, thật là nẻo lương phương. Cũng như lấy kim vàng thử bịnh người, thấu trong gan phổi, há chẳng cho sách nầy là đứng bực nhứt sao?”
Ông lại biểu để thêm hai chữ Nhơn-Quả thật rất hay! Than ôi! Ông Vương-Đạo-Hội đặng biết sách nầy là chỗ tri âm ngàn đời. Người đời sau có ai đọc sách này mà hiểu biết như ông vậy chăng? Ông hiểu sách này của Thất-Chơn thì ông là tri âm ngàn đời của Thất-Chơn, lại muốn khắc bản in truyền cho đời sau, thì ông cũng là tri âm của tu chơn đời sau. Ông một mình mà đặng làm tri âm hai đời, đáng bậc đạo cả, thiệt là người chí chơn chẳng sai!
Huỳnh-Vinh-Lượng
Lời Giới Thiệu của Ông Lâm-Xương-Quang
XIN CHƯ HIỀN LƯU Ý
Lời tựa bên đây của ông Huỳnh-Vinh-Lượng làm ra. Ông khảo duyệt sách này làm nên truyện Thất-Chơn. Nay tôi hậu học Lâm-Xương-Quang kỉnh diễn. Nhơn tôi học ít đức hèn mà nhờ ơn trên cảm hóa giúp sức, ngày nọ tôi lấy bộ Thất Chơn ra coi từ thỉ chí chung, thấy nhiều chỗ nhiệm mầu và thấy bảy vị Thất-Chơn xét thấu việc đời đều giả mới kiếm nẻo thoát thân cho đến đặng thành Tiên, chịu lắm điều thiên tân vạn khổ cũng vì muốn ra khỏi lưới mê. Tôi nghĩ thấu đặng rồi, lụy sa tình cảm, thầm rằng: nay là đời văn minh, chư hiền hay xem truyện cùng tiểu thuyết là muốn cho mở mang trí hóa, biết chỗ quấy mà tránh, chỗ phải mà theo. Vì vậy, tôi rán lập chí giải bộ Thất-Chơn này, hiến cho chư hiền xem. Anh em chị em mình là gốc ở Kim-Bàn xuống đây (Xin xem Kinh “Ngọc-Lộ Kim-Bàn” cuốn nhì thì rõ tích nầy) hãy gắng chí xem cho kỹ, đặng tìm căn mà nhớ tích một khối chơn tánh hóa ra 96 ức nguyên nhơn, đồng lãnh mạng xuống trần, đã qua hết hai ngươn mà trở về có 4 ức, còn lại 92 ức chưa về, may gặp Thất-Chơn này có lẽ sẽ về đặng, chớ bấy lâu vì niệm sai một chút mà luân chuyển đến nay, là tại mê trong tù tửu sắc tài khí mà bỏ liều quên Mẹ. Nghĩ vậy tôi chua xót, không đành coi truyện này một mình, và e chữ Hán ít người hiểu đặng, lại trong đó có vua quan, dân dã, nghèo khó, điếm đàng, côn đồ, lãng tử đều đặng ăn năn tu thành chánh quả, nên tôi rán diễn quốc âm cho chư hiền dễ xem, mau hiểu. Bởi tôi siển bạc thiếu sức không dám điều biện, nên xin bảy vị Thất-Chơn ở trong không trung, xui lòng trên dưới, sớm thức tỉnh hồi đầu, tôi nguyện lấy lời thô tiếng kịch diễn ra, xin chư hiền coi học làm theo mấy lời vàng ngọc của bảy vị này, kịp giác ngộ ăn năn mà giải thoát vòng biển ái: suy nghĩ cuộc đời, nhiều việc ấm lạnh mới phấn chí ăn chay tu niệm, thì ắt có ngày sẽ đặng tiêu diêu phần tánh mạng. Sau đây, chư hiền coi có câu nào chưa êm, xin vui lòng miễn chấp.
Còn trong tựa trước có dùng chữ “TRI-ÂM” là chỉ người tu hành. Ai biết thấu chỗ diệu mầu, theo hạnh của Thất Chơn, bền lòng sắt đá mà làm, tuy người hậu học mặc dầu mà chẳng khác “TRI-ÂM” của đời trước.
Tựa này diễn năm Trung-Hoa dân quốc thứ 23, năm Giáp Tuất 1934 tháng 3 ngày mồng 1, tại chùa Quan-Âm đường.
LÂM-XƯƠNG-QUANG kính diễn.
-
HỒI THỨ NHỨT
* * * * * * *
Liên bần khốn, ngẫu thi trắc ẩn,
Nhập mộng mị, minh chỉ tiền trình.
Nghĩa là:
Thương người khó nghèo, liền ra lòng trắc ẩn,
Ðem vào chiêm bao, chỉ tỏ việc đường trước.
Có bài kệ rằng:
Làm lành phải giữ thiệt lòng cam,
Ðừng muốn lời khen giả chí ham,
Hư dối tiếng chê nào khá đặng,
Trở thành bị nói việc gian tham.
Mấy câu thi trên đây, ý nói việc làm lành phải giữ chắc thiệt, bằng làm chi muốn cho người biết mà khen, muốn đặng việc tốt cho mình, đó là hư dối; ham tiếng khen chẳng có lòng chơn thiệt, còn người nghèo khó cậy nhờ chẳng đặng, tuy có tiền bao nhiêu cũng khó nên việc lành thiệt. Ðã chẳng làm nên việc lành, trước mặt có chỗ lầm sai, sao lại đặng hưởng phước mà than thở?
Thuở đời Tống gần hết, tỉnh Xiểm-Tây, huyện Hàm Dương có một "Ðại-Ngụy-Thôn", trong thôn ở hơn mấy trăm nhà, hết nữa phần mang họ Vương là một tộc lớn.
Trong tộc họ Vương có một người đàn bà góa, hơn 40 tuổi sanh đặng một trai, một gái đều gã cưới rồi, bà ở tâm tánh từ hòa, lòng hay háo thiện, hễ thấy con ai cũng như con mình thường hay kêu con con, vì vậy trẻ nhỏ biết chừng, hễ khóc thì kêu Má Má, bà nghe liền ứng nói: Má đây con! Má đây con!
Người người kêu bà là "Vương Má Má". Trong nhà giàu có, bình sanh hay làm việc lành, thương người tu hành, thường hay trai tăng bố thí, bái Phật tụng Kinh, nên ai cũng biết bà là người lành.
Thường ngày thầy chùa hay tới quyên tiền, kẻ nghèo khổ hằng bữa xin ăn. Khi đó nhằm tiết mùa Ðông, trời mưa rất lớn, Vương Má Má ra đứng trước cửa, thấy hai người ăn mày đi đến xin bà trợ giúp, bà trách rằng: "Sao không đi làm mà ăn? Ðể đi xin cực khổ. Chắc làm biếng lắm, ham nhàn du hí, ai có cơm tiền dư mà cho bây?". Bà nói dứt lời có mấy thầy chùa đến quyên tiền, bà lật đật lấy tiền gạo đem cho.
Hai người ăn mày thấy vậy hỏi rằng: "Bà sao ham thí cho thầy chùa mà không giúp kẻ nghèo khó? Cớ sao vậy?".
Vương Má Má nói: "Chẳng phải ta ham thí cho thầy chùa, vì thầy biết tụng kinh, biết tu hành, ta bố thí tiền gạo cho người, người tụng kinh tiêu tai cầu thọ cho ta. Còn giúp đỡ cho bọn bây chẳng qua là ở trước nhà ta nói giỡn cho vui, nào có ích chi đâu?".
Hai người ăn mày nói: "Trong kinh có nói: làm ơn chẳng cầu trả, còn cầu trả chẳng phải làm ơn. Nay bà cho một chén gạo ít đồng tiền mà mong cầu cho tiêu tai thêm tuổi, như vậy sợ bà lầm chăng?". Nói rồi bỏ đi.
Có bài kệ rằng:
Bố thí chay tăng thiết việc lành,
Ðói nghèo khổ cực phải thương đành,
Chỉ cho tăng đạo, không thương khó,
Mất chỗ công lành trước tỏ rành.
Hai người ăn mày thấy bà chẳng chịu cho, nói rồi bỏ đi. Tới xóm trước thấy một cái cửa lầu sơn đỏ, liền kêu một tiếng lớn: "Gia gia cầu giúp!". Nhà ấy là nhà ông họ Vương tên là Hỷ, hiệu là Thanh-Ðức, mặt đỏ râu dài thần sắc hẳn hòi có chí lượng lớn, ước chừng 40 tuổi ngoài. Lúc nhỏ có học thi thơ, công danh chẳng đậu, bỏ văn tập võ, thi đậu Võ-Khôi, làm quan Hiếu Liêm.
Bữa nọ trời mưa lớn, Hiếu-Liêm cùng người vợ là Châu-Thị với con tên Thu-Lan, đang ngồi vây bếp lửa đốt hơ, vẳng nghe bên ngoài cửa: Gia gia cầu giúp! Ông nghe liền ra coi, thấy hai người ăn mày, ông hỏi rằng: "Việc cầu gia gia tế giúp, hay là gia gia cầu tế giúp?"
Hai người đáp rằng: Việc chẳng khá tỏ, nói rõ ắt sinh nghi.
Ông nghe nói chẳng nhằm lẽ rồi cũng chẳng hỏi nữa, lại thầm tưởng đương khi mưa lớn dãy đầy trời đất, núi khuất chim bay không thấy, đường không người đi, sao lại thấy hai người mặc áo mỏng chịu lạnh? Ông liền động lòng trắc ẩn, bèn nói: "Mưa lớn lạnh lắm hai người đi sao đặng? Thôi ở lại đây, bên cửa tôi có cái nhà trống, trong nhà có ván nhỏ nằm nghỉ cũng đặng, thỉnh hai anh vô nghỉ chơn, để hết mưa sẽ đi".
Hai người đáp rằng: "Như vậy tốt lắm!". Ông liền mở cửa cho hai người vô nghỉ, rồi trở vào nhà biểu tôi tớ dọn cơm cho hai người ăn.
Có bài kệ rằng:
Ít người trọng nghĩa đặng khinh tài,
Chịu rước khổ nghèo thỉnh đáo lai,
Chỉ có khi xưa Vương-Võ-Cử,
Bình sanh khẳng khái biết dồi mài.
Hai người ăn mày ở tại nhà Võ-Cử (Hiếu-Liêm) hai bữa mới hết mưa, ý muốn dời, liền thấy Võ-Cử đi đến, có đứa tớ gái tên Ngọc-Khuê bưng một mâm rượu. Ông nói rằng: "Mấy ngày rày tôi không rảnh cùng hai anh chuyện vãn, vậy xin mời hai anh uống chén rượu luận đàm việc ấm lạnh, chưa biết hai anh chịu không?"
Hai người đáp rằng: " Rất hay!"
Rồi ông kêu Ngọc-Khuê dọn tiệc mời ăn, hai người cũng không từ nhượng lễ, liền ngồi dùng hết hai bầu rượu. Tiệc đã vừa say, ông hỏi rằng: "Tôi chưa biết hai anh tên họ chi? Bình sanh làm nghề gì? Xin hai anh tỏ bày."
Ðáp rằng: "Anh em tôi từ bé đến nay chưa biết buôn bán nghề chi, cũng không muốn tạo việc bó buộc. Tôi tên là Vô Tâm-Xương, anh đây tên Kim-Trọng."
Võ-Cử hỏi: "Ý tôi muốn giúp chút tiền vốn cho hai anh làm sanh lợi qua ngày thì khá hơn đi xin ăn khó nhọc, không biết ý hai anh tính sao?"
Kim-Trọng nói: "Không đặng! Tôi bình sanh hay quen đạm bạc du nhàn, chẳng muốn việc ràng buộc tay chơn."
Ông nghe Kim-Trọng nói biết không chịu, lại hỏi Vô-Tâm Xương rằng: Anh Kim-Trọng không chịu sanh lợi, còn anh chịu chăng?
Vô-Tâm-Xương đáp: Tôi còn hơn anh đó nữa! Có nghe trong sách nói: "Gia kê hữu thực than qua cận. Giả hạc vô lương thiên địa khoan". Nghĩa là: Gà nhà tuy có lúa ăn mà chảo nước gần một bên, chẳng biết bữa nào vô đó. Con hạc tuy ở rừng không lương thực mà trời đất rộng rãi bay cao bay thấp tự lòng, khỏi ai ngăn đón. Như tôi thọ của này là cái mối ràng buộc mà nhục cầu lợi nhỏ, ắt thân này phải lao lực, sao đặng chỗ tiêu diêu?
Vương-Võ-Cử than rằng: Tỉnh thay! Nghe hai anh nói thật thanh nhàn, chí đủ cao xa. Tôi xem hết cuộc đời trong thiên hạ, nhiều người trọng việc quan tước, lấy chỗ tiền bạn ân ái mà làm vui. Như hai anh nay theo việc thanh nhàn, vui riêng đạo đức, nào ai biết đặng.
Vô-Tâm-Xương nói: Bạn tôi thật chẳng cầu ai biết, nguyện Trời Ðất hay mà thôi; như muốn cầu người biết thì chẳng vào chỗ xin ăn này.
Vương-Võ-Cử nghe nói lời siêu quần trên bực, chẳng dám khuyên nữa, rồi biểu Ngọc-Khuê dọn dẹp bàn tiệc, mời vào nhà trong.
Bữa sau hai người thưa đi, Vương-Võ-Cử đưa ra ngoài xóm cách một dặm đường, trong lòng còn mến chẳng đành trở lại, đưa thêm một đổi, liền thấy cái cầu giữa đường, ông thầm tưởng: xóm này chẳng có cầu, giống như cảnh lạ. Trong ý sanh nghi, ngó lại liền thấy Ðại-Ngụy-Thôn mù mù xa lắm, ông đương suy nghiệm, kế vẳng nghe Vô-Tâm-Xương kêu: Ông Hiếu-Liêm! mau lại đây nói chuyện. Hiếu-Liêm ngó lại thấy hai người ngồi tại đầu cầu, nghe Kim-Trọng vỗ tay ca, ấy là muốn mở rộng cái ý của Hiếu-Liêm.
Ca rằng:
Của tiền tụ tán hề; áo mão lâu cũng hoại!
Có ai như ta hề; gởi thân cho thế ngoại!
Chẳng thiếu tiền lương hề; khỏi mắc nợ oan trái!
Chẳng nói hơn thua hề; chẳng luận hưng cùng bại!
Chẳng giao việc tục hề; khỏi bị người chê dại!
Một áo bá nạp hề; năm năm thường mặc hoài!
Rách lại vá lành hề; dơ giặt phơi tự toại!
Ban ngày mặc lên hề; tối thay làm mền cái!
Chẳng sợ trộm tham hề; cũng không người quấy dại!
Thường giữ tiêu diêu hề; một lòng chơi thượng giới!
Ai biết ý ta hề; thời phải cúi đầu lại!
Phép ta vô cùng hề; khiến người ngàn năm toại!
Tiếc người chẳng biết hề; đem ơn trở làm hại!
Vương-Hiếu-Liêm nghe ca dứt rồi Vô-Tâm-Xương nói: Hiếu-Liêm có lòng đưa xa đáng đãi một chén rượu. Dứt lời, trong tay áo lấy ra bầu rượu rót một chén mời Hiếu-Liêm uống. Ông uống luôn ba chén, liền quì lạy tạ ơn dường như uống đặng linh đơn, cười luôn ba tiếng khí tượng hân hoan rồi nằm trên cầu mê man như ngủ. Xảy đâu Vô-Tâm-Xương chạy lại kêu: Ðừng ngủ! Ðừng ngủ! Ði chơi cùng ta xem coi cảnh lạ. Vương Hiếu-Liêm lúc đó say rồi, chiêm bao mơ màng đi theo Vô-Tâm Xương một đỗi, thấy có tòa núi cao cản lại giữa đường, Hiếu Liêm nói: Núi cao làm sao lên đặng? Trong lòng còn sợ khó. Kim-Trọng nói: Theo đường của ta tự nhiên lên đặng. Hiếu Liêm liền theo Kim-Trọng một khắc tới đảnh, rất xinh bằng phẳng, có một cái ao lớn, trong ao có bảy bông sen vàng, sinh tốt lạ thường.
Hiếu-Liêm thấy trong lòng ham muốn, khen rằng: Bông sen tốt quá! làm sao hái cho tôi một bông. Ông nói vừa rồi Vô-Tâm Xương nhảy xuống ao, bảy bông sen đều hái hết, đưa cho Vương-Hiếu-Liêm mà rằng: Giao hết cho ngươi, phải gìn giữ cẩn thận, bảy bông sen này có bảy vị chơn-nhơn là: Khưu, Lưu, Ðàm, Mã, Xích, Vương, Tôn. Bảy người cùng Hiếu-Liêm có duyên thầy trò, ắt có ngày gặp nhau đặng mở dạy đường Ðạo. Vậy phải nhớ hoài mới chẳng phụ lòng ta cho ngươi bảy bông sen này.
Hiếu-Liêm muốn trở về nhà bèn hỏi rằng: Chừng nào gặp hai anh nữa?
Vô-Tâm-Xương đáp: "Hội kỳ nguyên bất viễn, chỉ tại lưỡng cá tam. Nhưng tùng ly xứ ngộ, kiều biên liễu vạn viên."
Hiếu-Liêm nghe dứt liền bước chơn xuống núi, xảy bị bên đường cản sợi dây vấp té xuống núi.
Ðừng nói lên cao mà chẳng dễ,
Phải biết xuống thấp mới gian nan.
-
HỒI THỨ HAI
* * * * * * *
Vạn-Viên kiều, Lữ-Tổ thân truyền Ðạo,
Ðại-Ngụy thôn, Hiếu-Liêm giả trúng phong.
Nghĩa là:
Chỗ cầu Vạn-Viên, Lữ-Tổ truyền Ðạo cho Hiếu-Liêm,
Thôn Ðại-Ngụy, Hiếu-Liêm giả trúng phong (mà tu hành).
Có bài kệ rằng:
Rồi tỉnh cũng như đặng báu trân,
Không thông nhà kín sẽ sáng lần,
Thân này chẳng tính kiếp nay độ,
Còn đợi kiếp nào độ lấy thân?
Khi đó Vương-Hiếu-Liêm đem bảy bông sen ôm trong lòng dời chơn xuống núi bị dây vấp, giựt mình tỉnh sợ muôn việc đều không; thiệt là một giấc chiêm bao, mở mắt thấy ở tại nhà mình lại thấy con Thu-Lan đứng một bên. Ông ho một tiếng Thu-Lan nghe mừng kêu: Cha tỉnh rồi! Kinh động bà Châu-Thị lật đật hỏi thăm: Tướng công tỉnh say rồi chăng?
Hiếu-Liêm gật đầu nói rằng: Việc rất kỳ quái!
Bà nói: Việc này tại mình làm mê nào có chi kỳ quái?
Ông rằng: Tôi rõ ràng đưa khách ra đi, sao mà còn nằm trong nhà đây?
Châu-Thị đáp rằng: Tướng công thiệt quá! Bữa trước ông đưa hai người ăn mày hơn nữa ngày không về, tôi sai người đi kiếm mấy lần không thấy trong lòng không yên, mượn chú Vương-Mậu cùng con Ngọc-Khuê chạy kiếm nữa mới thấy ông nằm trên cầu, cách hơn hai chục dặm, mê man bất tỉnh, lấy xe chở ông về ngủ đến bữa nay gần hai ngày rồi. Xin ông từ đây đến sau phải giữ gìn bổn phận, rượu phải ít uống. Những người chẳng quen, ông chớ khá chơi bời, vì mình thọ tước triều đình xóm làng đều kỉnh. Nếu say sưa nằm bờ bụi còn gì thể diện? Thất chỗ oai nghi, bị thiên hạ chê cười mà hổ với người đồng bạn. Xin ông tự hối.
Hiếu-Liêm nghe bà nói lật đật ngồi dậy tạ ơn rằng: Nay tôi nghe lời bà khuyên cũng như thuốc hay mà cứu đặng người hết bịnh, tôi nào chẳng dám ghi lòng. Thiệt bữa trước tôi nghĩ hai người bạn khó chắc là hai vị Thần Tiên.
Bà nói: Thế ông chưa tỉnh! Hai người ăn mày rõ ràng sao ông lại nói Thần Tiên?
Ông đáp: Bởi nghe lời nói của người, hoặc việc làm, xét hạnh nết, nên biết chắc là Thần Tiên.
Bà hỏi: Y nói điều chi? Làm những việc gì mà chắc phải Thần Tiên?
Ông liền nhắc việc giúp tiền buôn bán sanh lợi, khỏi chỗ đi xin đặng làm ăn thong thả, hai người cũng không chịu, mà lại thuật chuyện con gà và con hạc. Qua bữa sau đưa có ít bước mà coi lại hơn mấy mươi dặm, ngâm mấy bài ca, cùng cho uống rượu, lên hái bông sen, chừng trở lại vấp dây té xuống. Thuật hết đầu đuôi cho bà nghe v.v... Uống có ba chén rượu mà say hết mấy ngày như vầy chẳng phải Thần Tiên có việc lạ hay sao?
Bà rằng: Tôi thường nghe người nói trong thế gian có nhiều người chẳng tốt, hoặc làm tà thuật thâu đường, mới khởi hơn mấy bước, mà xa cách mấy mươi dặm! Lại bỏ thuốc mê trong rượu, thấy người có tiền làm bộ đãi mời mình uống mê man đặng lấy tiền bạc quần áo của người. Như mình không giữ trước thì sau ắt phải bị họa.
Bà nói rồi, ông xét nghĩ rằng: Tánh ý đàn bà không có rộng, nếu biện nói hoài sợ gây ra nhiều chuyện, thà thuận ý đặng rãnh việc mình. Liền tùy theo lời bà, đáp rằng: Mấy lời của bà thiệt đáng vàng ngọc, tôi nào dám chẳng tuân. Châu-Thị nghe nói liền trở ra, rồi ông một mình ngồi trong thơ phòng tư tưởng lời nói của ông Kim-Trọng cùng Vô-Tâm-Xương chỉ dạy, suy nghĩ việc đó mấy ngày.
Có một lúc nọ đương ngủ, nữa đêm thinh không ngồi tỉnh ngộ rằng: Kim-Trọng hai chữ hiệp lại là chữ "Chung", còn Vô Tâm-Xương không có hai chấm ở trong thành chữ "Lữ", rõ ràng "Chung, Lữ" hai ông Tiên (trong Bát Tiên) tới mà độ mình!
Tôi nay thiệt không duyên phận, báu để trước mặt mà bỏ qua, tưởng đi xét lại thật chẳng sai, rõ ràng ông Hớn-Chung-Ly với ông Lữ-Ðộng-Tân. Thấy mình lầm rồi, than rằng: Tiếc thay! Tiếc thay! Lại nhớ khi từ biệt ông có nói mấy lời: "Hội kỳ nguyên bất viễn, chỉ tại lưỡng cá tam. Nhưng tùng ly xứ ngộ, kiều biên liễu vạn viên".
Nghĩa chữ "bất viễn" là chẳng xa, việc chỉ về gần. Chữ "lưỡng cá tam" nghĩa là 2 cái 3, chắc là mồng 3 tháng 3. Chữ "ly xứ ngộ" nghĩa là chỗ lìa mà đặng gặp, chắc là phải tầm chỗ khi mình ly biệt thì đặng gặp. Chữ "liễu vạn viên" nghĩa là rồi hết muôn việc chắc ý vậy.
Hiếu-Liêm xét nghĩ đặng rồi trong lòng vui mừng. Ngày tháng như thoi đưa, máy quang-âm như tên bắn, chẳng bao lâu hết mùa Ðông, rồi Xuân đến.
Có bài kệ rằng:
Một năm khí tượng một năm dài,
Muôn việc tranh đua thiệt rất sai,
Trẻ nhỏ nhi đồng mau lẹ lớn,
Coi rồi lại thấy bạc đầu hoài.
Ông Hiếu-Liêm đợi qua hết năm rồi đến ngày mùng 3 tháng 3, lén một mình ra khỏi nhà, y theo đường cũ, đi tới chỗ cầu, đợi hồi lâu chẳng thấy hai ông đến, đứng lại cầu ngó mong, xảy nghe sau lưng có người kêu rằng: Hiếu-Liêm đến sớm vậy? Ông nghe ngó lại thiệt thấy hai người khi trước rõ ràng, lật đật chạy lại nắm tay áo nói rằng: Từ khi hai vị Ðại-Tiên đi rồi đệ tử tưởng nhớ trông đợi không quên. Vô-Tâm-Xương cùng Kim Trọng nghe nói đi lại đầu cầu ngồi. Hiếu-Liêm quì trước thưa rằng: Ðệ tử thiệt mắt thịt thân phàm, chẳng biết được Tiên Chơn hạ giáng, tôi thiệt lầm lỗi, xin cầu xá tội. Ngày nay đặng thấy hai vị Ðại-Tiên, thiệt là tam sanh hữu hạnh; cầu nguyện chỉ dạy chỗ đường mê, đặng lên bờ giác ngộ, đệ tử cám ơn không cùng, xin thầy đừng bỏ. Nói rồi lạy hoài không thôi.
Hai ông thấy vậy cười lớn, trong miệng thấy hơi Kim-quang chiếu sáng cải đổi hình dung. Ông bên tả bới hai đầu tóc, bận áo dài, mặc như táo đỏ, mắt sáng tợ sao, râu dài tới bụng, tay cầm quạt lông. Bên hữu một ông bịt khăn cửu lương, bận áo bào vàng, mặt tròn như trăng, mắt sáng tợ đèn, râu năm chòm tới gối, tay cầm song kiếm. Quả thiệt là Hớn-Chung-Ly cùng Thuần-Dương Lữ-Tổ. Hiếu-Liêm lạy hoài chẳng dám ngó lên.
Lữ-Tổ nói rằng: Ðời thượng cổ lòng người chơn thiệt, phong tục thuần lương, trong việc học Ðạo trước dạy phép thuật đặng giữ mình, sau mới truyền huyền công tu dưỡng.
Còn đời nay thế tục suy đồi, lòng người chẳng giống như xưa, bằng trước truyền phép thuật, ắt phải trở hại mình. Nên trước truyền huyền công tu dưỡng, chẳng tranh phép thuật thân mới đặng an, không dùng biến hóa thì chỗ Ðạo thành; hễ Ðạo thành thì muôn việc đều thông, tuy chẳng cầu pháp thuật, mà pháp thuật đặng hiển. Thiệt là Ðạo toàn chơn.
Ông giảng dạy việc toàn chơn diệu lý nói rằng: Ðây gọi toàn chơn là trước sau trọn việc chơn, không có ý giả. Người đời ai mà không có lòng chơn? Như đặng chỗ chơn mà không giữ để nó đổi ý giả nhận làm việc chơn thì đó chẳng phải là chơn rồi. Còn ai mà chẳng có ý chơn? Nếu như chẳng giữ để xen tạp việc dối thì mất chỗ chơn. Ai lại không có tình chơn? Nếu chẳng giữ để nó tư niệm, các việc nhiễm lậu thì sai mất chỗ chơn. Bởi cái Tâm, Ý, Tánh, khi ban đầu thiệt chơn, vì tại chẳng tập sửa chế, để tán kế biến đổi việc huyễn mị thì thành ra chỗ giả, phải mất chỗ chơn. Ba việc ấy do tại chỗ: Thiên-Tánh, Lý-Tánh và Bổn-Tánh, ba cái tánh ấy thường hay bền tốt; hễ có phát ra thì tại chỗ Thiên-Lương (1) làm việc chi thường thấy tự nhiên như nguyện.
Vì cái lòng là chủ cái ý; tình là khách của ý. Hễ lòng có ý chơn, tình chơn, thì trong tình ý thấy đặng lòng chơn do lòng phát ra ý thiệt, do ý thiệt mới có tình ngay thì máy thiên cơ hiện đủ! Như vậy mà người chẳng chơn sao đặng? Vì tại người không có Tâm Chơn thì chẳng có ý thiệt, ý chẳng thiệt, tình chẳng ngay, làm chi cũng khó nên đặng.
Thường thấy người học Ðạo, khi vọng niệm tự dấy động, hay tưởng nhớ các việc: hễ có ý riêng thì lòng chẳng đặng chơn. Còn lúc Tình thì dục tưởng theo hoài, hễ có cái niệm thì lòng chẳng đặng thiệt, chỗ động tịnh cũng đều vọng, thì tư dục chẳng dứt. Như vậy làm sao đặng thành? Vì tại lòng chẳng chơn sanh mối nghi hoặc, hoặc trọn không chơn ý, nửa chơn nửa giả; đương khi việc chơn giả là trời người tương tiếp, người thú hai đường, nên hư tại đó, ý tình chẳng cho qua đặng, như mười mắt xem, mười tay chỉ. Cho nên người học Ðạo phải có 3 việc sợ, 4 việc biết (2) vì vậy mà nhà tối chẳng khá khinh.
Còn như mình muốn nghiệm xét chỗ Ðạo chơn, trước phải hỏi cái Tình, như Tình chơn thì khá biết Tâm Ý cũng đồng chơn; bằng như chưa đặng chơn, thì các việc đều còn giả. Nên việc tu chơn phải lấy Ý làm trước. Bởi cái Ý nó hay thông hiểu các việc, tưởng đâu thì nhiễm đó, hễ Ý thành, Lòng thành, Tình thiệt, thì tự nhiên chắc đặng chơn thiệt.
Còn như muốn biết việc chơn cùng chẳng chơn, thì trước xem lời nói, bằng lời nói không chắc thì chẳng phải lòng chơn. Xét việc làm, như việc làm chẳng tuân lãnh các lời trên dạy, cực khổ không cam, thì biết ý chẳng phải thiệt.
Bởi vậy việc tu là tu trừ cái Tâm ngoài Tâm; cái Ý ngoài Ý; Tình ngoài Tình; chẳng tham chẳng nhiễm, đều bỏ ra ngoài, quyết phải sửa bề trong làm nhứt. Ðương khi khởi muốn điều chi, nói quấy việc chi, không nhằm lẽ Ðạo thì phải thâu cái chí Thiên-Lương, bỏ dứt Tâm-Phàm, đừng cho nghi tưởng, hai lòng xen tạp tình ý chẳng cho rối loạn (Thí như mình muốn làm ruộng, thì phải cày bừa cho kỹ, cỏ đào cho sạch gốc thì tự nhiên không sanh lại). Như vậy mới gọi là thiệt, trong ngoài một mảy không giả, gọi là Toàn Chơn.
Lữ-Tổ đem lẽ Toàn Chơn dạy cho Hiếu-Liêm rồi biểu Hiếu Liêm quì day mặt hướng Nam. Lữ-Tổ lấy tay xỉ trong mặt lần thứ nhứt cũng không có sắc buồn. Lần thứ nhì xỉ một cái mạnh cũng để ý tự nhiên. Qua lần thứ ba, ông xỉ thiệt mạnh khiến Hiếu-Liêm trật chơn té ngửa mà Hiếu-Liêm cũng cười, liền đứng dậy lạy, thưa rằng: Thân khó đặng sanh mà may sanh; Ðạo khó đặng gặp mà may gặp. Nay nhờ Trời mở hội, đường Huỳnh Ðạo đặng nghe, nhờ phụ mẫu hiệp thành thân, ơn trọng thầy cứu mạng. Lữ-Tổ nghe nói dứt lời, biết Hiếu-Liêm thấu đặng huyền cơ, bèn chỉ qua việc tu: Luyện kỹ, trúc cơ, an lư, lập đảnh, thể dược hườn đơn, hỏa hầu, sưu thêm, các việc công phu dạy đủ. Vương-Hiếu-Liêm thọ giáo tu hành. Lữ-Tổ nói rằng: Như trò Ðạo thành rồi phải mau qua Sơn-Ðông độ bảy vị Thất Chơn. Bảy vị đó khi trước là 7 cái bông sen vàng đưa cho trò đó! Lữ-Tổ dặn dò xong rồi cùng Chung-Tổ sửa mình: Một ông cầm song kiếm, một ông cầm quạt lông, vụt một cái hóa ra hai con hạc, hai vị liền cỡi đi mất.
Vương-Hiếu-Liêm ngó theo trên không trung, quì lạy rồi trong lòng còn tư tưởng hai Tiên, lại thấy Vương-Mậu với Ngọc Khuê chạy tới nói rằng: Tôi vâng lệnh bà đến kiếm ông, định chắc ở đây, may quá đặng gặp, mau thỉnh ông về, sợ bà trông đợi. Hiếu-Liêm theo về, trong lòng thầm nhớ lời Lữ-Tổ dạy Ðạo, thâu thúc không rời. Về đến nhà vào phòng nằm nghỉ.
Bà Châu-Thị nghe nói ông về, vô hỏi thăm, hỏi đôi ba lần không thấy trả lời, dường như có ý tưởng nhớ việc chi, bà thấy vậy khuyên ông rằng: Mấy lần rồi không tiếc thân thể, cứ buông khơi ra ngoài, khiến cho tôi lo sợ, e có ngày thất hư phẩm hạnh. Hiếu-Liêm đương tư tưởng việc huyền công chẳng hề nghe tới. Bà lại khuyên nói một hồi lâu chừng đến câu thất hư phẩm hạnh, ông liền đáp theo: Thất hư phẩm hạnh? Thất hư phẩm hạnh? Bà nghe ông nói lời trái lý không nhằm, chắc trong mình có bịnh nên chẳng hỏi nữa, liền trở ra. Ông lại trong lòng tưởng rằng: Nghĩ việc khiên triền còn khuấy rối như vậy, tu sao đặng thành công? Khó đặng liễu Ðạo! Nếu chẳng lập phép đoạn dứt trần duyên này e trọn đời khó đặng giải thoát. Thầm tưởng hồi lâu, tính ra một kế: Hễ thấy ai tới thì trong miệng làm như nói không ra tiếng, việc nhà đều không ngó ngàng tới nữa, nằm tại thơ phòng làm như người mất trí.
Ăn mặc không cần, ngơ ngơ như người thất vọng. Bà thấy vậy lo rầu chẳng xiết, mỗi ngày hỏi thăm mấy lần, thấy ông bua lua ba-la nói nghe chẳng rõ, cứ ngẩn ngơ lắc đầu; bà không biết làm sao, liền sai Ngọc-Khuê đi thỉnh bạn hữu của ông đặng hỏi coi cớ sao vậy. Mấy người bạn cùng ông thường hay thương mến tin cậy, có việc thỉnh thì đến liền. Khi đó thấy người đến thơ phòng hỏi thăm rằng: Hiếu-Liêm nay khá bớt chăng? Hiếu Liêm nghe hỏi lắc đầu lấy tay khoác, nói nghe không đặng. Mấy người thấy vậy biết là có bệnh, mà chẳng hiểu bệnh chi. Có một người nói: Tôi coi bệnh của ông giống bệnh trúng phong bất-ngữ, chẳng biết phải không? Xóm bên đông có ông Trương-Hải-Thanh làm thuốc có tiếng, vậy thỉnh đến coi mạch thì biết căn bệnh. Châu-Thị nghe nói, sai Ngọc-Khuê đi thỉnh, hồi lâu thầy đến. Bạn hữu đứng dậy mời thầy uống nước rồi thuật lại chứng bệnh cho thầy nghe, thỉnh thầy coi mạch. Lúc thầy coi mạch rồi, biết mạch không bệnh, mà cũng y lời mấy ông nói rằng: Thiệt quả bệnh trúng phong bất-ngữ, để tôi hốt ít thang chắc mạnh. Nói rồi liền biên toa.
Vì ông Võ-Cử thiệt không bịnh,
Chẳng phải tiên-sanh trị chẳng minh.
Chú thích hồi thứ hai:
(1) Người có đạo mới biết chỗ Thiên-Lương, muốn biết phải tìm thầy học Ðạo.
(2) Ba việc sợ là: sợ mạng Trời, sợ người có đức, sợ lời Thánh nhơn.
Còn bốn việc biết là: Trời biết, Ðất biết, Người biết, Quỉ Thần biết.
Trên núi có Sơn Thần, dưới sông có Thủy Thần, ngoài đường có Lam-Lộ Thần Kỳ, trong nhà có Thần ốc lận ở tại chái nhà. Bởi vậy người tu phải hằng sợ một mình tuy chỗ không ai, nhưng chẳng dám làm điều quấy vì tuy không người biết nhưng Trời Ðất Quỉ Thần biết. Làm được vậy thì tự nhiên thể đồng Trời Ðất. Người không tu cũng vậy.
-
HỒI THỨ BA
* * * * * * *
Thọ Thiên triệu Sơn-Ðông độ thế,
Nhập địa đạo Chung-Nam tàng thân.
Nghĩa là:
Vưng lịnh Trời qua Sơn-Ðông độ đời,
Vào hang động ở núi Chung-Nam ẩn mình.
Có bài kệ rằng:
Ý đời nóng nguội thiệt thêm cười,
Ðoạt lợi tranh danh biết mấy mươi,
Dễ độ súc sanh người khó độ,
Nguyện độ súc sanh khó độ người.
Bởi ông Hiếu-Liêm nguyên thiệt không bệnh, chẳng qua là giả bịnh, muốn dứt việc khiên triền đặng học Ðạo. Trương-Hải Thanh nào biết được ẩn ý ông, nên xem mạch rồi khó hiểu đặng bệnh, cũng tùy ý mà nói là bịnh trúng phong bất-ngữ, cũng biên toa đưa cho chủ rồi lấy tiền lễ ra về, làm lấy có mà thôi.
Lúc nọ bạn hữu từ tạ ông ra về nói rằng: Xin ông rán bảo trọng, chúng tôi ít bữa đến thăm. Ông gật đầu, thảy đều về hết.
Châu-Thị thấy khách về rồi biểu Thu-Lan và Ngọc-Khuê đi hốt thuốc về sắc, rồi Thu-Lan bưng vào phòng mời cha uống, lại thấy ông trợn trắng, vùng té một cái, Thu-Lan hoảng liền để chén thuốc, lật đật chạy ra. Bà thấy vậy sai vô nữa, nó không dám vô, ông bưng chén thuốc đổ trong vách.
Từ đó đến sau, một mình Ngọc-Khuê ra vô, chẳng ai dám vào phòng ông hết. Hễ ông thấy mặt vợ con thì đấm họng dậm chơn. Qua bữa sau Châu-Thị niệm tình vợ chồng vào hỏi thăm lần nữa, ông cũng làm như vậy.
Còn từ khi ông giả trúng phong đến sau, trong ngoài đều giao cho bà toan liệu; bà con thân thích cũng không đến đặng; duy có bạn hữu thăm một hai lần, thấy ông làm như vậy không dám tới nữa, người người đều than tiếc. Bị đau bịnh nặng mà ở chỗ nhà vắng một mình, nào ai thấu đặng ý đó! Ấy là ông muốn thanh tịnh ở trong thơ phòng ngộ Ðạo mà giả chước như vậy; đặng bó buộc công phu, quên dứt việc trần, không không một niệm.
Ở đặng 12 năm, đại đơn đặng thành!
Có bài kệ rằng: (ca giọng trầm)
Vợ làm bằng hề, con làm bạn
Khát uống trà, rồi đói ngật phạn (ăn cơm)
Coi lại cùng người cũng không không
Nào hiểu y học Ðạo tình trạng
12 năm công thành viên mãn
Xuất dương thần trên đảnh hiện quang
Trên đời những mấy kẻ tu hành
Ai mà hiểu đặng làm bản dạng.
Ông tu xuất đặng dương thần biến hóa, đặt pháp danh là Trùng-Dương Tổ-Sư. Ðêm nọ ông nằm tại thơ phòng, đương công phu, một niệm chẳng sanh, vạn duyên đều tuyệt. Vẳng nghe trên hư không kêu rằng: Vương-Trùng-Dương mau lên đây tiếp triệu! Trùng-Dương lật đật bước lên hư không, thấy Thái-Bạch Kim-Tinh đứng trên mây nói: Ngọc-Chỉ đến! Trùng-Dương lại gần nghe đọc triệu rằng:
"Ta niệm người Trùng-Dương có công khổ chỉ tu 12 năm không sai thất lòng, lo độ người tu chơn. Nay đạo quả đủ đầy phong làm Khai-Hóa Chơn-Nhơn, mau qua tỉnh Sơn-Ðông mở đạo, như sớm độ đặng Thất-Chơn thành công sau gia tăng thêm nữa, ắt phải vưng lời."
Thái-Bạch đọc triệu vừa dứt, Trùng-Dương quì lạy tạ ơn, rồi Thái-Bạch biểu rằng: Chơn-Nhơn mau qua Sơn-Ðông, đừng sợ khó nhọc mà phụ lòng Thượng-Ðế, để ngày sau lên hội Bàn Ðào đặng gặp. Kim-Tinh nói dứt, đằng vân trở về Thiên-Cung, còn Trùng-Dương cũng trở về tịnh phòng công phu.
Bữa sớm mai nọ, Ngọc-Khuê đem nước rửa mặt, xô cửa không mở, lật đật thưa cho Châu-Thị hay, bà cùng hai đứa tớ kêu hoài không đặng, thầm chắc ông chết rồi, cạy cửa vô coi không thấy ai hết, lấy làm lo sợ liền sai đi bốn phía tìm kiếm, không nghe tin tức bèn khóc lớn kinh động trong xóm người người đều chạy đến hỏi thăm. Ngọc-Khuê thuật việc cho mọi người nghe.
Mấy người nói: Việc thiệt cũng lạ! Cửa còn đóng chặt mà người đi mất, hay là trổ trên nhà hoặc cạy vách mà ra chăng? Mấy người vô coi không có dấu gỡ cạy chỗ nào.
Có một người nói rằng: Thôi mấy người đừng kiếm nữa, tôi coi ông Hiếu-Liêm thể dạng chắc thành Thần Tiên rồi.
Hỏi rằng: Sao anh biết đặng?
Ðáp: Lúc ở phòng ngồi tịnh 12 năm, không động một bước, bỏ hết việc trần, lại giả làm bịnh trúng phong, tôi coi thiệt ông muốn tuyệt dứt cuộc thế. Hình dung tươi tốt mắt có thần quang, như vậy chẳng phải Thần Tiên sao?
Nghe nói ai nấy bán tín bán nghi nói rằng: Như vậy chắc ông thành Tiên đằng vân đi rồi.
Bà nghe mấy người bàn luận mới bớt lòng sầu, rồi mấy người về hết.
Lại nói về Trùng-Dương bữa đó ở trong tịnh phòng độn thổ ra khỏi Ðại-Ngụy-Thôn đi Sơn-Ðông hết mấy ngàn dặm mới tới, không thấy bảy vị thất chơn, chỉ thấy có hai hạng người: một vì danh, hai vì lợi mà thôi, chớ không có ai mộ Ðạo!
Trùng-Dương thấy vậy chắc không có người độ đặng bèn trở về Xiểm-Tây, đi đến núi Chung-Nam, thấy một núi đất dài hơn trăm dặm vắng vẻ thanh tịnh, trong lòng tưởng rằng: Thôi ở lại đây vô trong núi này tìm chỗ hang sâu mà tịnh dưỡng, đợi chừng nào trong thế gian có người tu, sẽ ra đi độ. Liền niệm chú "Tá-Thổ-Ðộn" ước chừng một khắc thấu tột hang sâu, gặp cái hang động lớn ông vô ẩn mình phục khí điều dưỡng mà tu tánh mạng.
Có bài kệ rằng:
Rộng lớn kiền khôn có dị nhơn,
Một danh một lợi tính thua hơn,
Thất-Chơn chưa biết về đâu độ?
Vào đất ẩn mình đợi Thất-Chơn.
Khi đó Trùng-Dương độn trong núi ẩn mình chẳng biết tháng ngày. Cách hơn nửa năm vẳng nghe một tiếng vang cũng như lở trời sụp đất, thấu đến trong hang, nứt ra một đường hào quang chiếu xuống. Trùng-Dương biết có thầy đến, trong lòng kinh sợ, lật đật nhảy ra, liền thấy thiệt Chung, Lữ, hai ông ngồi trên, Trùng-Dương đến trước quì lạy chẳng dám ngó lên. Lữ-Tổ cười trách rằng: Người ta tu hành lên Thiên-Ðường, còn ngươi tu hành vào địa ngục. Coi công của ngươi khác hơn người ta, trên trái lòng Trời, dưới bỏ ý Thầy, nào có phải Tiên bao giờ?
Trùng-Dương nghe thầy quở cúi đầu xin tội rằng: Chẳng phải đệ tử dám trái mạng Trời, nghịch ý Thầy, vâng lịnh Thầy qua Sơn-Ðông độ Thất-Chơn, mà kiếm cùng cũng không gặp, duy có hai hạng người lo việc danh lợi mà thôi. Nên đệ tử tạm vào đây ẩn mình đợi chừng nào có người tu hành sẽ ra đi độ.
Lữ-Tổ nói: Người tu xứ nào không có, tại ngươi chẳng chịu khó nhọc nên độ không đặng.
Thí như ngươi hồi ban đầu nào có lòng học Ðạo, ta cùng Tổ Sư mấy lần đi đến điều độ mới đặng. Nếu không thì ngươi trọn đời chỉ một chức Hiếu-Liêm mà thôi, nào có thành bực Ðại-La Kim-Tiên?
Nay ngươi ham thong thả chẳng chịu tinh tấn độ người, lại nói trong thiên hạ không có người tu, thiệt là sai lầm. Ngươi lấy cái lòng như hồi ta đi độ ngươi, mưa gió không nài cũng đến, nằm sương ngủ cỏ nào than, đặng mà ra độ người, thì trong thiên hạ chỗ nào mà độ không đặng?
Khi xưa ta có ba lần giả say ở núi Nhạc-Dương người chẳng biết, rồi ta kinh thân bay qua Ðộng-Ðình-Hồ, trong ý cũng gọi là đời không người độ, rồi trở về bên Bắc, qua tới Liêu-Dương thấy Kim-Quốc Thừa-Tướng bỏ chức về núi tu thành, thấu đặng huyền cơ, hiệu là Hải-Thiềm, rồi bắt chước ta đi Nam du độ đặng Trương-Tử-Lương. Trương-Tử-Lương độ Thạch-Hạnh-Lâm. Thạch-Hạnh-Lâm độ Tịch-Ðạo-Quang. Tịch-Ðạo-Quang độ Trần-Chí-Hư. Trần-Chí-Hư độ Bạch-Tử-Thanh. Bạch-Tử-Thanh độ Lưu-Vĩnh-Niên và Bành-Hạt-Linh.
Bảy người ấy sau đặng chứng quả, đó là "Nam-Thất-Chơn". Khi đó ta cũng tưởng không người độ đặng, ai dè y độ đặng mấy người. Trong thiên hạ bốn biển rộng lớn, diệu lý khôn cùng người chí chơn chẳng ít, lẽ nào không người ra tu?
Nay có "Bắc-Thất-Chơn" là Khưu, Lưu, Ðàm, Mã, Xích, Vương, Tôn, bảy người trước có căn, nên mấy lần dặn dò biểu ngươi, ngươi chẳng chịu đi. Sức ngươi chẳng bằng Lưu-Hải Thiềm sao? Vì ngươi sợ khó nên chẳng bằng người ta đó thôi!
Lữ-Tổ nói rồi Trùng-Dương mở thông huệ tánh, giựt mình sợ sai hồng-thệ, mồ hôi ướt mình, cúi đầu xin tội. Chung-Tổ thấy vậy kêu Trùng-Dương lại một bên dạy rằng: Chẳng phải thầy trách ngươi, nhơn vì hội Bàn-Ðào gần đến, kiếp nạn lâm đầu, rán điều độ trong thiên hạ, người tu hành Chơn-Tiên, đều đặng phó hội Bàn-Ðào, thế Thiên hành hóa, đại Phật Tiên ngôn trọn ổ thâu duyên, đặng về nơi thanh tịnh. (Vì đào tiên sanh tại núi Côn-Lôn, 1000 năm mới nở bông, 1000 năm kết trái, 1000 năm mới chín. Cộng là 3000 năm mới hội một kỳ.)
Bởi 96 ức Phật tử xuống trần đã lâu mà về chưa hết. Thượng Ngươn độ 2 ức, Trung-Ngươn độ 2 ức. Cộng là 4 ức. Nay còn lại 92 ức mê trần! Vì hội gần đến, đào chín rồi, Phật-Mẫu trông con về ăn cho đủ. Nếu đến kỳ hội mà về không hết thì Phật-Mẫu rất buồn! Nên mình phải rán lo điều độ đặng đến kỳ hội thâu duyên, Phật-Mẫu thưởng đào, ăn một trái sống đặng ngàn năm.
Vì Tây-Vương-Mẫu chẳng lòng hưởng một mình, muốn cùng các chơn linh đồng hưởng, nên thiết lập hội tên là "Huỳnh Tiên đại-hội". Mỗi lần hội phải có thêm Thần Tiên mới thì trên hội mới vui, bằng chỉ có mấy vị Tiên cũ chắc là trong thiên hạ không có người tu hành, thì bà Vương-Mẫu ắt buồn.
Thuở thượng-cổ mỗi kỳ hội, người tu thành Tiên về dư ngàn. Qua đời trung-cổ mỗi kỳ hội người Tiên mới hơn mấy trăm. Ðến đời hạ-ngươn chắc có ít. Nên thầy ngươi dặn dò phải sớm độ Thất-Chơn đặng lập hội kỳ, ấy là giúp thêm oai nghi, vậy phải vui mừng. Vì bàn đào gần chín, nếu để trể ngày giờ qua hết một viên hội, phải đợi 3000 năm nữa mới đặng phó hội, há chẳng tiếc sao?
Chung-Tổ giảng nói thấu lẽ, Trùng-Dương nghe đặng quì thưa rằng: Nay đệ tử nghe lời Tổ dạy thiệt như chiêm bao mới tỉnh, tôi nguyện đến Sơn-Ðông khai hóa. Xin cầu Tổ-Sư chỉ dạy cách điều độ trước sau.
Chung-Tổ nói rằng: Ngươi đến chỗ đất Tịnh. Người hiền nhiều, mà hỗn tục theo đời, hiện thân giảng Ðạo qui củ tinh nghiêm, hoặc tài lợi phân minh trước sau như một thì có người đến tìm ngươi. Việc trong đó mở dạy chắc đại công khá thành, hễ đi gặp Hải thì ở, gặp Mã thì hưng, gặp Khưu thì dứt. Chung Tổ nói rồi quạt một cái lên mây đi mất.
Trùng-Dương quì lạy Thầy, rồi trở qua Sơn-Ðông. Một bửa ông đi đến huyện Ninh-Hải, tại tỉnh Sơn-Ðông, phủ Ðăng-Châu ông nhớ lời Chung-Tổ dặn rằng gặp Hải thì ở, hay là tại đây chăng? Thôi, ở đây giả người đi xin, như khi trước hai ông độ mình, nay mình dụng cùng phương tiện độ người.
Hỗn tục theo đời để đợi thời,
Gặp duyên đạo quả đặng nên thành.
-
HỒI THỨ TƯ
* * * * * * *
Ðàm chơn không, Tôn-Thị hối phu chủ,
Cầu Ðại-Ðạo, Mã-Dương tầm minh sư.
Nghĩa là:
Nói việc chơn không, bà Tôn-Thị khuyên chồng,
Cầu học Ðại-Ðạo, Mã-Ngọc tầm minh sư.
Có bài kệ rằng:
Trời cũng không, Ðất lại cũng không,
Người đời phái phái ở nơi không.
Nhựt cũng không, rồi Nguyệt cũng không,
Ðông lên Tây lặn chẳng cần công.
Ruộng cũng không, hề đất cũng không,
Ðổi dời nhiều ít người chủ ông.
Vàng cũng không, rồi bạc cũng không,
Thác rồi nào đặng ở tay trong.
Vợ cũng không, con lại cũng không,
Huỳnh-Tuyền đường nọ chẳng tương phùng.
Sớm qua Tây rồi tối qua Ðông,
Người đời tỷ thí tợ con ong.
Thể đặng trăm bông nên mật đó,
Ðến đầu cực khổ cũng buông không.
Khi đó Trùng-Dương đi đến tỉnh Sơn-Ðông, huyện Ninh-Hải, giả người xin ăn, trong ý muốn tìm người tu hành. Huyện Ninh-Hải phía Tây có nhà họ Mã, làm chức viên ngoại, tên là Mã-Ngọc. Cha mẹ qua đời, lại không anh em, cưới người vợ họ Tôn tên là Huyên-Trinh, dung mạo đoan trang, tâm tánh thông thái. Bà là người có học thường coi Kinh sách thấu việc xưa nay, chẳng ham thêu dệt vá may. Tuy là nữ lưu mà khí chất trượng phu khó sánh. Hễ viên ngoại có việc chi tính chẳng đặng hỏi bà thì rõ thấu. Cho nên ông bà kỉnh nhau như thầy bạn, ngặt tuổi già mà lại không con nên có làm bài kệ rằng:
Quang âm mau lẹ chẳng đợi chờ,
Người người chỉnh thấy việc bơ thờ,
Chẳng tin soi thử trên mái tóc,
Khi trước mày xanh bạc trắng dờ.
Mấy câu kệ này ý nói: "Máy quang-âm lẹ như tên bắn, đưa người rất mau già, ngày tháng thắm thoát như thoi đưa, thúc trẻ nhỏ trở nên già rất lẹ". Khi đó vợ chồng Mã viên ngoại tuổi đã gần 40 mà không con. Một hôm viên ngoại nói cùng vợ rằng: Bạn mình mới nhỏ mà nay gần bốn chục rồi, chắc là vô hậu, vạn quán gia tài này chẳng biết về tay ai? Tôn-Huyên-Trinh rằng:
Xưa Tam-Hoàng trị thế, sau Ngũ-Ðế lập đại công.
Vua Nghiêu, Thuấn sau tiếp nối, Võ-Vương mở chín sông.
Thành-Thang rước Y-Doãn, Văn-Vương thỉnh Thái Công.
Ngũ-Bá bày mưu chước, Thất-Hùng khiến bụng lòng.
Vinh, Tần tranh sáu nước, Hớn, Sở lại tranh hùng.
Ngô, Ngụy giành nhà Hớn, Lưu-Bị thỉnh Ngọa-Long.
Ðông Tấn cùng Tây Tấn, sự nghiệp cũng không tông.
Nam Ngụy với Bắc Ngụy, giang san cũng long đong.
Ðường Tống lại đến đây, bao nhiêu phú quí ông.
Hỏi thử người còn mất, đều thiệt cũng tay không!!!
Xin coi từ xưa đến nay biết mấy muôn năm, Ðế Vương, quan, tướng, thành bại thạnh suy biết mấy ngàn người, vì danh lợi mà bỏ mình, việc đến đâu cũng tay không, nháy mắt đều tan hết. Nay bạn mình đem việc trước sau phú cho nơi không, như trong thiên hạ không gia sản này, cũng như cha mẹ chưa sanh bạn ta, thì có chi là vinh diệu.
Viên ngoại nghe nói cười rằng: Người ta tuy không còn có nhánh nhóc; bạn mình cái không này gốc rễ cũng dứt tuyệt.
Tôn-Huyên-Trinh nghe rồi nói rằng: Không nhánh không căn thiệt đại không.
Có bài kệ rằng:
Không đến tột rồi thiệt đại không,
Không kim không cổ tợ hồng mông,
Bằng người biết đặng hư không lý,
Thẳng đến Linh-Sơn thấy đại hùng.
Tôn-Huyên-Trinh nói: Xét có con cũng như không con, ngẫm lại có con cũng không, mà không con cũng không. Như vua Văn-Vương có 100 người con, đến nay coi lại có mấy người? Họ Cơ con cháu muôn đời của ông, có người nào cúng tế mộ phần ông bao giờ? Còn ông Trương-Công-Nghệ sanh chín trai hai gái, Quách-Tử-Nghi bảy trai tám rễ, Ðậu-Yên-Sơn năm trai đều đặng khoa, Lưu-Ngươn-Phổ sanh hai người con đều đậu cử-nhơn. Mấy người đó nhiều điều sang trọng, con cháu hiển vinh, mà nay có thấy ai con cháu nào đâu? Coi lại cũng mưa lạnh gió sầu, nhà hoang mồ lở, cỏ mọc dẫy đầy. Há chẳng phải "có" rồi cũng qui về nơi "không" chăng? Cô phòng lạnh lẽo nào phải những người không con? Còn ruộng nhà đồ sộ thì người có con mới đặng, người không con không đặng hay sao? Tôi tưởng người sanh ở đời trong mấy mươi năm mau như nháy mắt dường như đá lửa chớp nhoáng, thấy đó rồi mất đó, tợ chiêm bao bọt nước, nào thiệt nào chơn. Nhà lớn ngàn căn, chẳng qua đêm nằm tám thước. Ruộng nhiều muôn sở cũng ngày ăn ba bữa mà thôi. Bao nhiêu mùi ngon vật báu, uổng cho cuộc giàu sang như nháy mắt, quỉ vô thường theo đến thì muôn việc đều không. Dẫu bạc vàng đầy rương cũng khó chuộc đường sống thác. Hỡi ôi! Thiệt làm người ở đời mà chẳng tỉnh, thì cũng như một giấc chiêm bao!
Kệ rằng:
Kinh dinh thuở mấy uổng mang mang,
Lầm nhận đường mê gỗi xóm làng,
Nay lại xưa qua nào có ở,
Dường như mượn chỗ tựu rồi tan.
Tôn-Huyên-Trinh nói cùng viên ngoại rằng: Bạn ta ở chỗ "không", tầm cái Thiệt mà chắc Thiệt, đặng luyện chỗ bất sanh bất diệt, học phép trường sanh chẳng chết rất hay vậy.
Mã viên ngoại nói: Bà nói vọng rồi. Từ xưa đến nay, hễ có sống thì có thác, lẽ nào đặng trường sanh hoài? Việc làm có trước thì có sau, nào có việc hoài chẳng dứt?
Huyên-Trinh nói: Tôi thấy sách Ðạo thơ nói: Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư, khiến cái chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt, gọi là đạo trường sanh chẳng chết. Bằng như mình học đặng đạo ấy thì hơn người có con trăm phần.
Mã viên ngoại nói: Nói vậy chớ có lẽ nào tinh mà luyện đặng hóa khí, khí hóa đặng thần, còn thần hóa đặng huờn hư mà chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt?
Huyên-Trinh nói: Ông muốn biết phải cầu minh-sư mới học đặng diệu pháp.
Viên ngoại nói: Thôi tôi cầu bà làm thầy truyền cái công phu cho tôi học.
Huyên-Trinh nói: Tôi là nữ-lưu, chẳng qua biết ít chữ, coi thấy đạo thơ đôi câu nào giải thấu chỗ diệu lý. Nếu ông có lòng chơn tâm học Ðạo, phải cầu tầm người cao hiền chắc thấu đặng.
Viên ngoại rằng: Việc tầm thầy kiếm bạn, thật bình sanh chí tôi ham lắm, hễ người tu hành học phải có căn cơ, như không có căn thành Tiên chẳng đặng, làm Phật chẳng dễ. Nên tôi nghĩ phận căn cơ siển bạc, chẳng nói đến việc tu hành.
Huyên-Trinh nói: Nói như ông thì sai rồi. Hễ sanh đặng làm người đều có căn cơ phước đức sẵn trước, như nói không có căn sao đặng làm người? Có câu: Cỏ nào không gốc, người nào không phước? Chẳng qua là sâu cạn không đồng. Như người căn cạn là sáu căn chẳng trọn: hoặc mắt không sáng, hoặc tai không nghe, hoặc tay gãy chơn cùi, điếc ngây mờ tối, góa bụa không con, nghèo thấp hèn. Ðó là người cái căn siển cạn.
Còn người căn sâu: Sang như Thiên-Tử, giàu có bốn biển, cai quản muôn dân, hoặc làm quan có quyền danh tiếng vui hưởng ruộng vườn, sáu căn đều đủ, tai mắt thông minh, tánh tâm từ thiện, ý khí bình hòa, toàn thân đủ trọn. Ðó là người căn sâu phước lớn.
Trong đời trọng việc giàu sang: người giàu sang thì căn sâu hơn người thường. Như mà biết ăn ở hiền lành, thêm việc giúp người lợi vật: đó là đem cái căn dựng bồi thêm, trường trai giới sát tìm phép vô hình (tức là học Ðạo) thì sau đặng thành Phật thành Tiên, chứng đặng Thánh Hiền đều do nơi đó. Nên nói việc căn phận tại mình, thường ngày bồi bổ, đừng nói kiếp sau mang theo, hiện tại kiếp này cũng hưởng đặng. Như muốn hưởng bền, thường cần bồi bổ, dưỡng từ lời nói, tập từ đức hạnh, lo làm phương tiện, là những việc chi thuận lòng người thì làm, đừng chê việc lành nhỏ mà không làm, không vì việc dữ nhỏ mà làm, thì lo chi kiếp sau không nhờ. Tỷ như cái núi, lâu ngày càng cao lớn lên thêm. Ðừng nói bạn mình không căn mà thối chí. Như nói không căn thì làm sao hưởng gia nghiệp này? Lại đặng sai tớ khiến bạn, nhứt hô bá ứng. Thiệt không dám khoe mình, chớ xét ra cũng là người có căn lớn!
Bởi viên ngoại vốn người mộ Ðạo, chẳng qua là qua một hồi mê muội, nghe bà mở vạch rõ ràng, nghĩa lý đặng thấu như chiêm bao mới tỉnh, đứng dậy tạ ơn rằng: Nay tôi nghe lời bà chỉ dạy, khiến tôi mở thông đường Ðạo; chưa biết minh-sư đâu mà tìm, xin bà chỉ rõ.
Huyên-Trinh nói: Việc đó cũng không khó. Tôi thường thấy một ông già tay cầm gậy tre, vai mang bầu thiếc, tinh thần mạnh mẽ, mắt tỏ chiếu ngời, trên mặt đỏ như son, thường xin ăn tại xóm mình hơn mấy năm, chẳng thấy suy già, chắc là người có Ðạo. Vậy đợi ông đến, mời về nhà nuôi dưỡng, lần lần cầu học diệu lý chắc đặng.
Viên-ngoại rằng: Nay mình nhà cửa rộng lớn, cũng nên làm phương tiện kỉnh già thương khó, chẳng luận là có đạo hay không đạo, một mình ông ăn mặc là bao nhiêu. Ðể mai tôi hỏi ông chịu hay không.
Huyên-Trinh nói: Tu một ngày giải thoát đặng một ngày, việc chẳng khá trễ...
* * *
Lại nói qua Trùng-Dương, từ khi tới huyện Ninh-Hải ở mấy năm, luyện đặng tinh thục, biết đặng quá khứ vị lai, phép quỉ thần thấu hiểu, thần thông đều đủ, trí huệ thông minh, biết đặng việc độ Thất-Chơn thì phải tùng nơi vợ chồng Mã viên-ngoại khởi đầu mới hiệp theo lời của Chung-Tổ nói: Hễ gặp Mã thì hưng. Nên ông thường qua lại trong xóm đó xin ăn mấy năm. Nay gặp Mã viên-ngoại biết người đức lớn, và thấy Tôn-Huyên Trinh mấy lần biết người thông minh trí huệ, muốn chỉ dạy việc tu, nhưng lại nghĩ rằng: Thuốc chẳng kêu cho, Ðạo chẳng khinh truyền, phải đợi y cầu học mới chỉ. Vì ông ở đó xin ăn mấy năm người người đều gọi ông là Côi-lão xứ xa, nghèo khó đến xin ăn, nào hiểu ông là Thần Tiên! Có một mình Tôn-Huyên-Trinh khác người, tâm hiền mắt thánh, nhận đặng người nghèo khó là Thần Tiên đó thôi! Mới nói cùng chồng tiếp ông về nuôi dưỡng đặng cầu học Ðạo; khiến cho bảy vị chơn nhơn nối theo. Luận công bảy vị chơn nhơn tu hành, có bà Huyên-Trinh thứ nhứt!
Có bài kệ rằng:
Sanh thành trí-huệ thiệt phi thường,
Ðặng biết Thần Tiên biết thử phương,
Chẳng có Huyên-Trinh thần lực giỏi,
Thất-Chơn tông phái khó ra đường.
Khi đó Mã viên-ngoại nghe bà nói liền ra ngoài dặn người coi cửa như thấy ông già xách bầu thiếc tới, mau vô báo cho ông hay. Bữa đó, viên-ngoại ngồi trong nhà thấy người giữ cửa vô báo: Có ông già xách bầu thiếc đến! Viên-ngoại liền ra tiếp rước. (Ðó là Vương-Trùng-Dương đạo vận đến rồi, đúng theo lời của Chung-Tổ nói: Có người đến tầm ngươi!)
Thần Tiên còn phải đợi thời kỳ,
Thời vận chưa gần, đạo khó hành.
-
HỒI THỨ NĂM
* * * * * * *
Mã viên-ngoại cầu phụng dưỡng sư lễ,
Vương-Trùng-Dương kinh dinh hộ đạo tài.
Nghĩa là:
Mã viên ngoại cầu dưng lễ nuôi thầy,
Vương-Trùng-Dương sửa sang tiền hộ đạo.
Có bài kệ rằng:
Tiên Phật Thánh Hiền bởi tại tâm,
Nào tua đất lấp lại thành câm (kim vàng).
Người đời nhang khói cầu xin vái,
Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm.
Bốn câu nói việc thành Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại lòng người làm ra. Như lòng ngay thì mình cũng ngay, làm việc gì cũng thảy đều ngay. Còn lòng tà thì mình cũng tà, làm việc gì cũng thảy đều tà vậy. Nên người tu hành trước phải sửa lòng, sau thành cái ý: hễ lòng không chánh thì ý không thành, ý chẳng thành thì vọng niệm khởi ra trăm việc, phải mất chỗ đạo chơn. Cổ nhơn có bài kệ rằng:
Vọng niệm nhứt sanh thần tức thuyên,
Thần thuyên lục tặc loạn tâm điền.
Tâm điền nhứt loạn thân vô chủ,
Lục đạo luân hồi tại nhãn tiền.
Nghĩa là:
Hễ vọng niệm sanh ra thì thần dời ra ngoài rồi,
Thần ý dời thì sáu giặc rối loạn khiến tâm điền không tịnh.
Nếu tâm điền rối loạn thì thân này không có người làm chủ,
Vì vậy, sáu đường luân hồi ở tại trước mắt chẳng xa.
Có bài kệ rằng:
Lục đạo luân hồi, thuyết bất khoan,
Súc sanh, ngạ quỷ, khổ thiên ban.
Khuyên quân vật khởi vọng tham niệm,
Nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là: Sáu đường luân hồi nói không hết như người chẳng tỉnh xét, có ngày bị đọa vào trong chỗ súc sanh quỉ đói phải khổ sở ngàn việc, nên khuyên người đừng khởi việc tham tưởng lầm sai. Hễ làm mất cái thân này muôn kiếp khó trở lại đặng. Muốn ra khỏi chỗ luân hồi thì kiếp này phải tu mới hết việc khổ.
Vì Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại cái tâm, tâm phải chánh ý phải thành. Như tâm ý chánh thành để làm cốt Phật, nhang đèn cúng lạy, son vàng tô phết đó là vọng cầu. Nên nói: "Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm" là cười người không có lòng chánh thành, lo sửa mình để vọng cầu việc giả. Lại nói ra tu lấy chỗ nhang đèn cúng vái mà cầu cho thành Tiên thành Phật, tánh Phật chỗ nào? Nên nực cười cho người lầm sai mà không cải sửa.
Có câu: "Bất vị tế hưởng nhi giáng phước; bất vị thất lễ nhi giáng họa". Nghĩa là: "Chẳng vì cúng tế mà cho phước; chẳng vì thất lễ mà giáng họa". Trời Phật Thánh Thần trọng là trọng người chí thành cung kỉnh, tự hối ăn năn biết sợ nhà tối có Thần không dám làm quấy thì Ngài thương lắm, kỉnh lắm. Người ấy dẫu không cầu Ngài cũng cho phước lộc. Còn Ngài ghét kẻ bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, bất lương, ý độc hại người, lòng lang ở bạc. Những người như vậy dầu cho nhang đèn cúng lạy thế nào, Ngài không dung đặng.
Bởi Ngài dặn làm phước chớ đừng cầu phước, tự nhiên họa dứt phước thêm, chớ Ngài có tư vị, hay là thương ghét ai bao giờ? Có câu "Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả". Nghĩa là: "Mắc tội nơi trời thì không còn chỗ cầu vậy", như thế thì có ai biết mà tránh chăng?
Ðây việc khuyên tỉnh đã nói rồi, lại nói qua Mã-Ðơn-Dương nghe người xách bầu thiếc đến, lật đật ra tiếp rước, thỉnh vào nói chuyện. Ông già đi theo viên-ngoại vào ngồi tại ghế giữa lấy lời khẳng khái mà hỏi: Vậy kêu ta cầu hỏi việc chi?
Viên-ngoại đáp: Tôi thấy ông già cả tuổi tác hằng ngày xin ăn lao khổ, muốn cầm lại đây nuôi ông, chẳng biết ông chịu hay không?
Nói chưa dứt lời, ông già giận nói: Ta thiệt xin ăn quen rồi, chẳng chịu ăn những không công cực lộc của ai.
Viên-ngoại thấy ông giận chẳng dám nói nữa, liền vô nói với bà rằng: Ông xách bầu thiếc tôi thỉnh vô nhà nói việc nuôi dưỡng, ông nói chẳng chịu ăn những vô công thi thực, nên tôi hỏi bà tính làm sao?
Bà cười rằng: Ông nói chẳng nhằm việc, nên người không chịu. Chẳng nghe sách có nói: "Quân tử mưu đạo bất mưu thực, tiểu nhơn mưu thực bất mưu đạo". Nghĩa là: "Người quân tử ham đạo chẳng lo ăn, còn tiểu nhơn ham ăn chẳng lo đạo". Ông mới thấy mặt lại kể việc nuôi dưỡng, lấy chỗ ăn uống mà dụ, quân tử nào kể việc ăn uống, cầu chỗ Ðạo thì hơn. Tại ông nói thất lời, để tôi ra phân giải chắc ông an lòng chịu ở.
Có bài kệ rằng:
Không phải tiên-sanh chẳng chịu cầu,
Vì lời nói biện chẳng nhằm câu,
Huyên-Trinh ra giảng thông quyền biến,
Chắc định ông già phải gật đầu.
Rồi đó Huyên-Trinh đến nhà trước, thấy ông già chắp tay xá nói rằng: Ông đặng muôn phước?
Ông già cười rằng: Ta là người tu hành nào có đặng phước!
Huyên-Trinh rằng: Ông chẳng lo việc quấy, muôn sự đều không, tiêu diêu thong thả, chẳng tính chẳng sầu, đặng chỗ cao thấp tự lòng, chẳng phải là phước sao? Tôi coi trong trần này biết bao nhiêu nhà giàu sang danh lợi mà trọn ngày nhọc lòng lo tưởng, thương vợ mến con không dứt. Tuy nói có phước mà xét lại chưa đặng thong thả, duy có cam cái danh lợi giả dối mà thôi nào phải như ông chẳng nhiễm việc trần, đặng hưởng chỗ không tâm, như vậy thật là Thần Tiên tại thế.
Ông già nghe nói cười lớn rằng: Cô đã biết sự tiêu diêu tự toại là phước, thanh tịnh vô vi là vui, mà sao chẳng học tiêu diêu tự toại? Chẳng tìm thanh tịnh không không?
Huyên-Trinh rằng: Tôi chẳng phải không học, vì chưa đặng chỗ pháp, tuy muốn tiêu diêu mà chẳng đặng tiêu diêu, muốn thanh tịnh mà chưa đặng thanh tịnh đó thôi.
Ông già rằng: Như cô chịu học thì tôi chẳng tiếc công.
Huyên-Trinh nói: Như ông vui lòng từ bi dạy tôi, nhà tôi ở huê viên có cái "Kiểu-Nguyệt-Ðình" thiệt là thanh tịnh, thỉnh ông đến ở đó, bạn tôi mới đặng cầu học hỏi. Ông già liền gật đầu thuận ý.
Có bài kệ rằng:
Làm biện nhằm câu biết cổ kim,
Tiên-sanh nay đặng hội tri-âm,
Tri-âm nói biện tri-âm tỏ,
Ðây đó nguyên là một giống tâm.
Ông già nghe bà Huyên-Trinh nói nhằm đạo lý, trong lòng vui mừng liền chịu ở dạy. Mã viên-ngoại nghe nói lại kêu gia tướng dọn dẹp sau huê viên chỗ "Kiểu-Nguyệt-Ðình" sạch sẽ thỉnh ông vào đó an nghỉ, lại trí một người gia đồng là Trần Khuê hằng ngày đem trà dưng nước. Viên-ngoại nói cùng bà rằng: Bạn mình nói chuyện với ông hơn nữa ngày mà chưa biết ông tên họ chi, để tôi hỏi coi. Huyên-Trinh rằng: Sách có câu "Ðại ân bất tạ, đại đức bất danh", nghĩa là ơn lớn chẳng tạ, người đức lớn chẳng tên làm chi; thôi kêu lão Tiên-sanh cũng đặng. Viên-ngoại chẳng nghe cứ muốn hỏi, bà can không đặng phải để ông đi.
Viên-ngoại đến "Kiểu-Nguyệt-Ðình" thấy ông ngồi tịnh trên ghế. Viên-ngoại tới trước hỏi rằng: Xin hỏi ông cao tánh đại danh, nhà ở chỗ nào? Vì sao mà đến đây? Hỏi luôn mấy lần thấy ông ngó lên nói rằng: Ta là Vương-Trùng-Dương nhà ở tại Xiểm-Tây, ngàn dặm chẳng từ khó nhọc vì ngươi mà đến đây.
Mã viên-ngoại nghe nói giựt mình nói rằng: Tiên-sanh vì tôi mà đến đây? Ông vổ tay cười rằng: Thiệt, vì ngươi mới đến đây.
Viên-ngoại lại hỏi: Như Tiên-sanh vì tôi mà đến, ắt cũng có duyên cớ chi!
Trùng-Dương rằng: Ta đến đây vì cái vạn quán gia tài của ngươi mà đến.
Viên-ngoại nghe nói nửa cười nửa lo hỏi rằng: Ông vì vạn quán gia tài của tôi mà ông muốn lấy hay sao?
Trùng-Dương nói: Nếu tôi không muốn thì tới làm chi!
Viên-ngoại nghe nói mặt tái xanh, trở ra đi liền.
Có bài kệ rằng:
Tiên-sanh lời nói chọc người kỉnh,
Trên thế chưa nghe những sự tình,
Muốn lấy gia tài không chỗ cớ,
Lẽ trong đạo lý thiệt chưa minh.
Khi đó viên-ngoại ra khỏi Kiểu-Nguyệt-Ðình tính thầm trong bụng rằng: Ông này thiệt chưa hiểu mối việc, khi không mà muốn lấy gia tài của ta! Dám mở miệng như vậy! Con nít cũng chẳng dám nói lời đó, đường ấy mà làm sao có đạo đức kìa!
Chừng về phòng ngồi nghĩ, trong lòng buồn bực chẳng vui. Huyên-Trinh thấy viên-ngoại biến sắc, biết là bị ông già nói việc chi chẳng vui, liền cười nói rằng: Tôi đã nói trước, biểu đừng đi hỏi cũng không nghe, chắc ông bị điều chi chẳng vừa ý chăng? Hễ người quân tử phải có lượng lớn, dung người chế người, việc chi chẳng hiệp ý, xin đừng trách phiền, chớ học theo chí mọn chấp nhứt.
Viên-ngoại nghe bà nói mấy câu trong lòng mở giải, nói rằng: Tôi tưởng đâu ông già là người có đạo đức, ai dè ông thiệt người tham tài!
Bà hỏi: Sao mà biết tham tài?
Viên ngoại đem việc của ông thuật cho bà nghe: Nói muốn lấy gia tài của ta mới đến đây!
Bà nói: Tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của mình, chắc có duyên cớ chi, sao ông không hỏi cho minh bạch. Tôi thấy trong sách có câu: "Thiên niên điền địa bát bá chủ", nghĩa là "Ruộng đất ngàn năm thay đổi chủ có hơn tám trăm người". Trong đời tài sản thiệt là đồ chí công của Trời Ðất, chẳng qua là cho người mượn mà xài chung. Như người biết xài thì hưởng đặng ít chục năm, hoặc mấy đời. Sao gọi là biết xài? Như người có của mà biết xài là biết thi ân bố đức, giúp kẻ nghèo nàn, mua vật phóng sanh, tu kiều bồi lộ, chôn thây trôi nổi, làm các điều lành, chớ đừng cam một mình, gọi là xài chung một vốn.
Còn người không biết xài thì cũng như mưa dập bông tàn, gió thổi mây tan, hễ đến tay người này, thì liền trao cho người khác, hoặc không cần kiệm, xài phí, cờ bạc, rượu chè, cam để cho nhiều, làm điều trái lẽ. Hoặc cho vay ăn lời nặng mà tổn đức bình sanh. Như vậy làm sao mà hưởng đặng bền? Nên của ấy phải đổi dời. Ðó là chỗ chí công của Trời Ðất, luân phiên xoay trở không ngừng, nghèo đó rồi giàu, thạnh đó lại suy, nào có đặng làm chủ ngàn năm bao giờ? Vậy xin ông thức tỉnh.
Có bài kệ rằng:
Vạn quán gia tài chớ đủ khoe,
Ai mà giữ đặng trọn không dè,
Tài ba thiên hạ đồ công vật,
Há được ngàn năm được chở che.
Khi đó bà Huyên-Trinh khuyên chồng rằng: Tiên-sanh như muốn lấy cái gia tài của mình, ắt có duyên cớ. Như hỏi ông nói đặng hiệp lý, mình nên dưng cho ông, huống là bạn mình không con cháu, gia tài này ngày sau chưa biết về tay ai. Nói chưa dứt lời viên-ngoại cười rằng: Bà nói đâu việc dễ lắm! Ông bà tôi từ Xiểm-Tây dời qua đến đây, chịu hết thiên tân vạn khổ mới đặng sự nghiệp này. Dẫu ta chẳng muốn nữa cũng chẳng dám đem sự khó nhọc của ông bà mà đưa cho người khác. Huống nay bạn mình tuổi mới nửa đời, như đem gia tài cho người rồi, mình còn nửa đời sau lấy chi cho qua ngày tháng, há chẳng lầm việc lớn đó sao?
Bà Huyên-Trinh nói: Uổng cho ông là người chí trượng phu mà việc không tỏ thấy. Bạn mình đem gia tài giao cho tiên-sanh là muốn cầu cái đạo trường sanh, cứu đặng cửu-huyền thất-tổ. Bằng như đặng thông việc đạo thì ta thành Thần Tiên, còn giữ cái gia tài này làm gì? Sách có nói: Một người con tu thành Tiên Phật thì cửu huyền đặng bạt tộc siêu thăng. Như vậy đâu có lỗi với ông bà. Coi lại cái đạo siêu hết tông môn mà sánh chẳng bằng vạn quán gia tài này sao?
Có bài kệ rằng:
Của tiền vàng bạc có hằng hà,
Nào gặp đạo huyền đáng giá đa,
Của báu tuy nhiều sau cũng hết,
Ðạo công muôn thuở chẳng tiêu ma.
Viên-ngoại nghe bà giảng rồi nói rằng: Lời của bà chẳng phải không tốt, bằng như chẳng thành Thần Tiên, lời tục có nói: "Vẽ cọp chẳng thành trở lại giống chó" rồi làm sao?
Bà nói: Làm người phải có hằng tâm, như không có hằng tâm thì cũng chẳng khá làm đặng thầy bói, thầy thuốc, huống là học Thần Tiên. Như người có chí thì việc ắt thành, không chí thì ngày sau chẳng nên. Tại mình bền cùng chẳng bền. Sách có nói: Thần Tiên vốn thiệt người phàm tâm, chỉ sợ người lòng chẳng chuyên. Bởi tại người chuyên lòng chuyên chí phàm làm tới, có cầu chắc đặng. Có câu: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, là lẽ thường. Xưa nay Thần Tiên ông nào cũng nhờ thân phàm mà tu thành, nào có sanh ra tự nhiên không học mà đặng biết bao giờ?
Viên-ngoại nghe bà nói, gật đầu trả lời: Phải lắm! Phải lắm!
Ðến bữa sau, viên-ngoại tới Kiểu-Nguyệt-Ðình hỏi Vương Trùng-Dương rằng: Bữa trước tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của tôi, chẳng biết tiên-sanh muốn lấy đặng làm việc chi?
Trùng-Dương tiên-sanh lấy lời ngay nói rằng: Ý tôi muốn tiền đặng chiêu trong thiên hạ, những người tu hành học đạo ở tại đây đặng lập một cái đạo trường, cho kẻ tu hành biện đạo, tu tâm dưỡng tánh, có chỗ hộ đạo, trong ngoài không chỗ lụy; dứt đường ràng buộc thảy đặng vui mừng hoan hỉ, thoát nẻo luân hồi, và làm công đức giùm cho ông.
Tiên-sanh đem việc chơn thành tỏ cho Mã viên-ngoại nghe, chừng ấy viên-ngoại mới đem lòng vui phục.
Làm đặng việc xá mình theo người mới là siêu phàm nhập Thánh.
-
HỒI THỨ SÁU
* * * * * * *
Tôn-Huyên-Trinh khuyến phu xá tài,
Mã-Văn-Khôi thọ lộ thông quyền biến.
Nghĩa là:
Bà Tôn-Huyên-Trinh khuyên chồng xá gia tài,
Mã-Văn-Khôi ăn tiền thông quyền biến.
Có bài kệ rằng:
Muôn phép đều không chớ muốn cầu,
Mượn tài hộ đạo dưỡng công phu.
Lần đem việc đó thông quyền biến,
Ngày khác y nhiên cũng hết sầu.
Khi đó, Trùng-Dương tiên-sanh đem việc mượn tiền hộ đạo chiêu tập người tu hành nói cho Mã viên-ngoại nghe, viên-ngoại mới vui phục nói rằng: Như ông nói vậy thật người có đạo đức lớn, tôi cùng Tôn-Thị đều nguyện lạy ông làm thầy, chưa hiểu trong ý ông làm sao?
Trùng-Dương nói: Hai ông bà như có lòng chơn tâm học đạo tôi nào chẳng chịu! Nhưng mà trước phải xá gia tài rồi sau mới truyền cho chí đạo, một lòng một ý đặng khỏi chỗ lo nhớ.
Viên-ngoại nói: Thầy muốn dùng bao nhiêu tự ý, tôi không tham tiếc, hà tất phải xá?
Trùng-Dương nói: Như ngươi không xá, thì cũng còn của ngươi, tôi không đặng tự do xuất phát.
Viên-ngoại nói: Ruộng đất, tiền bạc cùng tờ giấy giao ước dưng hết cho ông cũng như tôi xá rồi.
Tiên-sanh rằng: Tờ giấy còn tên của ngươi, như muốn giao cho tôi phải thỉnh người trong tộc làm tờ xá ước mới có bằng cớ
Viên-ngoại nghe nói trở vui làm buồn, từ biệt tiên-sanh về nhà đem những lời Trùng-Dương thuật cho bà nghe, nói rằng: Theo ý tôi việc nầy chắc không thành.
Huyên-Trinh hỏi: Sao vậy?
Viên-ngoại nói: Bà chẳng hiểu trong tộc của tôi sao?
Bà nói: Người đều riêng lòng làm sao hiểu đặng!
Viên-ngoại nói: Người trong tộc tôi thấy vợ chồng mình không con, ai ai cũng thầm tính chia rồi, đợi vợ chồng mình chết thì gia tài nầy về họ, nào có chịu đem giao cho người khác, nên tôi biết chắc không thành.
Bà Huyên-Trinh nói: Việc đó cũng khó, ngày mai ông thỉnh tộc-trưởng có quyền thế đặng nghị luận. Như họ y lời thì thôi, bằng chẳng chịu thì ông làm như vầy...... chắc là họ bao ông đặng nên.
Viên-ngoại nghe liền nói: Thiệt bà có trí cao, làm như vậy chắc đặng thành. Liền kêu Mã-Hưng đi thỉnh bổn tộc định ngày mai giờ ngọ tới cho đủ.
Mã-Hưng y lời đi thỉnh. Qua ngày sau, anh em đồng bạn và trong tộc lớn nhỏ đều vào nhà giữa phân thứ tự mà ngồi.
Có một người trưởng-tộc tên là Mã-Long làm chức Cống-Sĩ hỏi viên-ngoại rằng: Cháu thỉnh trong tộc có việc chi?
Viên-ngoại thưa: Cháu mấy năm rồi thường hay bịnh hoạn, trong mình chẳng khỏe hay chóng mặt. Nay có một người ở bên Xiểm-Tây tên là Vương-Lão Tiên-Sanh, thiệt người trung hậu, cháu biểu người ấy ở tại nhà cháu đem hết gia tài ruộng đất giao cho ông lo liệu đặng vợ chồng cháu an rảnh mà dưỡng bịnh. Ông biểu cháu thỉnh người tộc-trưởng làm tờ giao ước ông mới chịu lãnh. Nên nay cháu thỉnh tộc-trưởng đến thương lượng đặng làm tờ giao lại cho ông.
Viên-ngoại nói vừa dứt lời, có người anh tên là Mã-Miên nghe nói giận dữ chỉ viên-ngoại nói rằng: Chú ngây rồi, hồ ngôn nói loạn, cơ nghiệp của ông bà không bảo giữ, có đâu nói xá cho người ta. Chú nghe lời dỗ gạt mà nói như vậy. Mã viên ngoại biết việc không hợp lý, chẳng dám nói nữa.
Lại có một người chú họ tên là Mã-Văn-Khôi, làm chức học sanh và một người anh họ là Mã-Chiêu, làm quan Tử-Giám đại học-sanh. Hai người có tước trong tộc họ Mã, tài giỏi hơn hết. Hễ có việc chi lớn nhỏ đều nhờ hai người tính toán thì xong việc.
Mã-Văn-Khôi thiệt người có quyền biến, thấy Mã-Miên nặng lời cùng viên-ngoại, lên tiếng nói: Thôi đừng trách oán, cũng việc anh em, bởi viên-ngoại là người thật thà, phải mời Vương-Lão Tiên-Sanh ra đây đặng tôi hỏi coi cớ sao mà dám nói như vậy? Liền sai Mã-Hưng đi thỉnh Vương-lão. Trùng Dương ra đến cũng không làm lễ, mấy người đều không hỏi tới ông. Mã-Miên thấy ông cười lớn rằng: Tôi tưởng lão tiên-sanh nào, ai dè người đi xin ở đây!
Mã-Văn-Khôi hỏi Trùng-Dương: Ông người cô-lão, thường hay ở xóm nầy xin ăn mấy năm, chưa nghe ông có tài chi, nay viên-ngoại của tôi coi trọng ông là một bực, tiếp về nuôi dưỡng đủ lễ thì thôi, phải an phận giữ mình, sao lại xúi cháu tôi biểu làm tờ xá gia tài cho ông? Ông là người năm sáu mươi tuổi, sao không biết lẽ? Trong thiên hạ nào có phép như vậy, mà dám nói ra không sợ chê cười?
Trùng-Dương đáp: Bình sanh tôi chẳng biết làm việc chi hết, vì nghèo sợ rồi, nên biểu y đem gia tài nhượng cho tôi đặng hưởng ít năm, nào sợ gì ai cười. Nói vừa dứt lời có Mã-Phú, Mã Quới nhảy lại chỉ trên mặt Trùng-Dương nạt một tiếng: Tao cho mấy thằng chẳng biết thể diện, con chim cú, con cú dại mà muốn đội mão phụng, chuột lang mà muốn ăn thịt khổng-tước, uổng cho mày sống mấy mươi tuổi, nói lời chẳng sợ xấu hổ, thiệt là đáng ghét!
Mã-Phú kêu Mã-Quới nói rằng: Bạn ta đuổi nó ra ngoài xóm, đừng cho ở đây. Nói rồi liền áp lại kéo Trùng-Dương.
Mã-Chiêu can rằng: Thôi đừng đuổi xô, thương người cô lão. Nay viên-ngoại rước ông tới, thôi để ông đi, đừng cho viên ngoại xá gia tài thì thôi.
Mã-Phú, Mã-Quới mới ngừng tay. Kế Mã-viên-ngoại kề miệng gần tai Mã-Long nói nhỏ việc chi chẳng biết, rồi Mã Long nói với mấy người: Thôi anh em bây đừng ngầy-ngà, thảy đều về hết, để tao ở lại định việc, tao không cho nó nào dám xá. Mấy người nghe lời Mã-Long thảy đều ra về. Viên-ngoại thỉnh Mã-Long và Mã-Văn-Khôi ở lại mời vào phòng đãi rượu. Mã Long với Mã-Văn-Khôi ngồi bên tả, viên-ngoại ngồi bên hữu.
Làm lễ đãi tiệc vừa xong, Mã-viên-ngoại thưa rằng: Thưa trước ông cùng chú còn ở lại đây, nay cháu muốn một việc, thưa ông cùng chú toan liệu.
Mã-Văn-Khôi hỏi: Vậy viên-ngoại có việc chi nói ra mới hiểu mà tính toán.
Viên-ngoại nói: Tôi chẳng phải đem gia tài mà xá cho Vương-Trùng-Dương, chẳng qua là tạm ông coi dùm ít năm, đặng cháu thong thả an dưỡng chứng bịnh.
Mã-Văn-Khôi hỏi: Biểu ông coi giữ không thì phải, sao lại biểu lập tờ xá ước chi vậy?
Viên-ngoại thưa: Không, đó là nhứt thời quyền biến, thấy ông chơn tâm thiệt ý, cậy ông giữ giùm tôi cũng đặng rảnh tâm an dưỡng một lúc, chớ không có điều chi.
Mã-Văn-Khôi nói: Lẽ của cháu, ta chưa minh đặng, chẫm rải nói lại ta nghe.
Viên-ngoại thưa rằng: Chú nghe cháu tỏ, vì cháu nhiều bịnh, còn cháu dâu hay chóng mặt khó coi sóc các việc. Bấy lâu cháu tầm người trung-hậu thật-thà thế tay săn sóc, may nhờ trời tùng người như nguyện nên gặp lão tiên-sanh, tôi muốn đem gia tài giao cho ông lo liệu thì gia tài nầy cũng như của tôi. Bởi ông nghe chẳng kịp biểu tôi phải giao dứt cho ông, tôi thấy nói lời quê mùa, tôi cũng liền đáp theo như lời ông nói xá dứt. Ấy rõ ràng là lời nói chơi, ông tin là thiệt, lại biểu thỉnh trong tộc làm tờ xá ước cho ông. Tôi nghĩ ông là người cô-lão ở xứ xa đến đây, không bà con thân thích, dẫu giao hết cho ông cũng không lẽ sang dời đâu đặng. Huống ông tuổi già sống có mấy năm nên lập tờ cho ông gìn giữ thế cho tôi đặng dưỡng bịnh một lúc, chừng ông mãn phần cũng qui về tôi, nào có tổn hại chi. Xin ông cùng chú vui lòng an việc nầy, cháu rất đội ơn.
Mã-Long nói: Trong tộc đông người, để hỏi lại coi.
Mã-Văn-Khôi lại hỏi Mã-Long, thấy Mã-Long gật đầu rồi nói: Chuyện nầy một mình tôi ắt cũng chưa đặng.
Viên-ngoại nghe nói mời hai người vào phòng kín, lấy một món báu lạ đem để trước mặt hai người, thấy chớp sáng lòa, coi ý ông nào cũng chịu.
Có bài kệ rằng:
Chiếu chớp hình ra thấy nhãn tiền,
Sáng ngời một đốm lại tròn viên,
Có y muôn việc đều an chuyện,
Chẳng đặng dầu sanh cũng lụy liền.
Khi đó viên-ngoại đem ra thảy đều ngó cười, miệng chẳng hở môi, rồi Mã-Long nói với Mã-Văn-Khôi rằng: Viên-ngoại hồi sớm nói việc ấy rõ ràng, thế không có điều chi hại, chẳng qua là mượn việc xá ước mà buộc lòng ông già lo lắng công việc, như vậy cũng không sao.
Mã-Văn-Khôi rằng: Phải ấy là quyền biến một hồi cho có người giúp sức, như chú chịu lãnh thì mấy người kia tự nhiên phải an.
Mã-Long nháy nháy kề miệng vào tai Mã-Văn-Khôi nói ít câu, coi bộ vui mừng rồi nói rằng: Viên-ngoại hãy an lòng, chắc việc nầy xong đặng. Thôi để tôi đi nói với mấy người kia, thì thế nào cũng xong.
Có đặng bạc tiền việc lớn xong,
Nào lo xá ước lập không thành.
-
HỒI THỨ BẢY
* * * * * * *
Ðổ tộc trưởng Mã-Ngọc lập xá ước,
Ðàm huyền-công, Trùng-Dương truyền toàn chơn.
Nghĩa là:
Lo tiền cho tộc trưởng, Mã-Ngọc lập tờ xá ước,
Giảng huyền-công, Trùng-Dương truyền pháp toàn chơn.
Có bài kệ rằng:
Quang-âm mau lẹ chớ dần dà,
Danh lợi buộc ràng tợ lưới sa,
Muôn trượng từng sâu dời chơn bước,
Một tơ chẳng dính mới không ma.
Lại nói Mã-viên-ngoại y theo lời bà Tôn-Huyên-Trinh lo tiền cho mấy người đương quyền trong tộc rồi thì việc chi cũng phải xong. Khi đó Mã-Văn-Khôi liền sai người đi nói cho trong tộc biết việc viên-ngoại xá gia tài đó chẳng qua là làm kế giả. Mấy người trong tộc hỏi: Sao gọi là kế giả?
Ðáp rằng: Lưu hổ thủ sơn chi kế!
Lại hỏi: Sao gọi là "Lưu hổ thủ sơn chi kế"?
Ðáp rằng: Nghĩa là bắt hùm giữ núi. Vì viên-ngoại muốn vui việc thanh nhàn thong thả, nên cầm ông già ở đó đặng làm người tớ giữ của chớ chi lạ.
Mấy người hỏi: Sao biết đặng cầm ông làm tớ giữ của?
Ðáp: Viên-ngoại vì thấy ông người trung hậu, nên muốn cầm coi sóc cửa nhà mà sợ ông không lòng cần mẫn nên mượn thế xá gia tài cho ông. Ông nhận tưởng là sự thiệt nên buộc phải làm tờ xá ước. Viên-ngoại nghĩ không lập tờ cho ông, sợ ông không hết lòng gìn giữ, nên thỉnh bạn mình làm chứng cho ông vui, chẳng phải cầm cọp giữ núi hay sao?
Mấy người trong tộc nói: Xá cho ông thì như của ông rồi, ông làm sao không đặng quyền coi giữ?
Ðáp: Phân hào cũng không dời đặng sao gọi của ông?
Mấy người hỏi: Sao biết phân hào không dời đặng?
Ðáp: Ông là người phương xa, thân cô-lão, không có thân quyến, tuổi đã già, ăn đặng bao nhiêu? Chừng hai con mắt nhắm rồi thì cũng tay không, của quí về mình, chẳng phải mọi giữ của hay sao?
Mấy người nghe đặng cười lớn nói rằng: Ông ấy chết rồi gia tài của viên-ngoại, phần không con, lo gì chẳng về anh em mình. Nay làm như nước thả ghe, lấy nghĩa đưa tình cho vui lòng viên-ngoại cùng ông già; hoặc ngày sau có thiếu chút ít cũng dễ mượn chác. Nên lời tục có nói:
"Ðương diện lưu nhứt tiếng, hóa hậu dị tương kiến"
Nghĩa là:
"Mình làm mặt chút tình, ngày sau dễ thấy nhau"
Mấy người nghe Mã-Khôi nói thảy đều vui chịu hết.
Có bài kệ rằng:
Lời hay chớ dụng nói ra nhiều,
Một tiếng đều nghi sóng gió tiêu,
Bằng chẳng chịu đưa đồ bửu-bối,
Lời hay có nói cũng không siêu.
Khi đó Mã-Khôi thấy mấy người chịu hết, nhứt định ngày hôm sau tề tựu. Bữa sau, trong tộc đều tới thấy Mã-Khôi cùng Mã-Long ngồi với Trùng-Dương tiên-sanh tại nhà giữa vừa nói vừa cười. Mã-Khôi biểu viên-ngoại làm thêm đồ tiệc đặng đãi anh em trong tộc. Hội đến đủ mặt ăn uống hồi lâu rồi Mã-Khôi nói: Nay viên-ngoại đem gia tài giao cho Trùng-Dương tiên sanh, vậy trong tộc có ai không chịu hay không?
Nói vừa dứt lời, thảy đều ứng thinh rằng: Anh em tôi y lời không có trở cách việc chi. Mã-Khôi biểu viên-ngoại đem tờ đọc cho trong tộc nghe. Viên-ngoại đem giao cho Mã-Khôi đọc rằng:
Tờ Xá Ước
"Người lập tờ xá ước là Mã-Viên-Ngoại. Nay đem gia tài điền sản, bạc tiền vật kiện của tổ-phụ để lại, cùng gia nhơn tôi tớ trong nhà, đành lòng xá giao cho Trùng-Dương tiên-sanh làm chủ quản xuất, đặng phép tự do. Trong bổn tộc họ Mã, lớn nhỏ không đặng trái lời. Mã-Viên-Ngoại từ xá gia tài đến sau cũng chẳng đặng đòi lại, e nói miệng không bằng, phải lập tờ làm cớ, như ngày sau có ai tranh tụng thì Trùng-Dương tiên-sanh đặng phép thỉnh làng phân xử.
Người trưởng tộc: Mã-Long, Mã-Khôi, Mã-Hiền, Mã-Ðức, Mã-Dương.
Người làm chứng: Mã-Chiêu, Mã-Miên, Mã-Giám, Mã-Trấn
Người lập tờ xá ước: Mã-Viên-Ngoại thị thiệt."
Mã-Khôi đọc rồi giao cho viên-ngoại mời Trùng-Dương tiên-sanh tiếp lấy, rồi biểu khai tiệc đãi ăn một lần nữa. Khi mãn tiệc rồi thảy đều về hết. Người sau coi tới chỗ nầy có làm một bài khen viên-ngoại xá gia-nghiệp dõng mãnh nên thành đạo cũng mau.
Bài thi tặng rằng:
Gia-tài xá hết mộ tu hành,
Một vật không còn, dục khó sanh,
Ngày nọ sớm đem lòng niệm hết,
Năm sau học Ðạo rất mau thành.
Lại nói Mã-viên-ngoại thấy người trong tộc về hết, bèn mới tạ ơn khen bà Tôn-Huyên-Trinh rằng: Nếu không có bà chỉ bảo chắc khó đặng thành sự.
Huyên-Trinh cười rằng: Phàm việc chi phải lẽ làm theo thì chắc đặng nên, gọi là tùy cơ ứng biến.
Viên-ngoại hỏi: Việc đã thành rồi, còn học Ðạo làm sao đi cầu?
Huyên-Trinh nói: Việc học Ðạo phải để chậm rãi, đợi thầy an dưỡng ít ngày, bọn mình đồng đến lạy thầy cầu Ðạo.
Viên-ngoại cười nói: Phải, như vậy thì ta rán làm phương tiện.
Lại nói qua Trùng-Dương tiên-sanh một lòng muốn rước trong thiên hạ tu hành, đến đây tu chơn dưỡng tánh, sợ e xóm làng đàm tiếu thị phi. Vậy trước phải thí làm ân huệ cho người vui phục mới đặng yên ổn. Rồi từ đó đến sau, ông ra tiền bạc giúp người nghèo khổ, côi góa tật nguyền. Trong bổn tộc họ Mã có việc khiếm khuyết nhiều ít, ông thường trợ giúp: hoặc trai không tiền cưới vợ, kẻ góa không chồng, bịnh hoạn, ông đều cấp dưỡng cho mượn không đòi. Thiệt ông người có nhơn nghĩa, trong ngoài đều đặng an tịnh, trên dưới đều nhờ, trộm cướp không có một người, ông muốn làm việc chi thì trong họ Mã không ai dám cãi; lại chiêu tập người ở đó học Ðạo giảng huyền, cũng không ai dám thị phi. Vì ông làm việc có lý, trọn trước trọn sau, ai cũng đều nhờ ông mà nên việc, bởi vậy không có một người bày việc chẳng phải với ông, hết lòng kính phục.
Nay trong thiên hạ những người có phước, hoặc giàu sang đừng ở khắc bạc, phải mở lòng rộng lượng mà thi ân bố đức cho người, thì cũng như ông đặng trọn lành, chẳng nên tham tiếc.
Người coi đến đây, dẫu kiên-lẫn bực nào cũng phải thể theo chút ít.
Có bài kệ rằng:
Khắc bạc làm sao việc đặng thành,
Thị-phi bày nói chắc liền sanh,
Bằng không Vương-lão thi ân sớm,
Sao đặng nhiều năm hưởng thái bình.
Lại nói Trùng-Dương tiên-sanh đã thi ân rồi lại còn sửa soạn ở trong, lập 12 cái mao-am (nhà tranh) ở sau huê viên cho người tu tịnh dưỡng, mọi việc đều xong.
Tiên-sanh dời ở tại mao-am công phu luyện đạo. Bữa nọ Mã viên-ngoại cùng Tôn-Huyên-Trinh đến mao-am cầu tiên-sanh học Ðạo.
Tiên-sanh nói: Ðạo là đường giác tỉnh, dẫn người qui về chỗ chánh mà ra khỏi đường mê. Nhưng mà phải do cạn tới sâu, do thấp mới đến cao, y theo thứ tự, sau mới đặng thành công. Phàm học Ðạo trước phải luyện Tánh tập sửa cho thuần hậu, vì cái Tánh gốc ở Tiên-Thiên, nên phải luyện cho tròn sáng mới có chỗ diệu dụng.
Nhơn cái Tánh nó liền với cái Tình. Tánh Tình động ra như cọp giao chiến, bằng chẳng luyện cho nó giáng phục, làm sao trừ đặng Tánh dữ mà qui về chỗ "Hư Không"? Người muốn luyện Tánh phải để cho lặng lẽ tự nhiên chẳng biết chẳng hay, không người không mình; tuy ngồi chớ không hiểu là ngồi tại đâu, cứ lo chăm-nom "Chủ-Nhơn-Ông" mà thôi, làm như vậy mới đặng vào chánh pháp.
Còn luyện giáng long phục hổ, thì phải khóa con Tâm-Viên, buộc con Ý-Mã; thường giữ không cho nó chạy ra, đem về chỗ thanh tịnh, đặng mà đoạt máy tạo hóa của Trời Ðất, lẽ diệu khí của âm dương. Hễ tịnh đặng thì các việc lo phiền đều tiêu, các mối trần phải dứt: một niệm chẳng sai. Nếu tùy ý nó thuận hành làm theo thì làm phàm; còn noi theo Thiên-lý lấy lẽ tự nhiên của Trời Ðất mà đoạt đặng khí âm dương, đem vào hiệp với thân mình, kêu là nghịch lý mà đặng thành Tiên thành Phật. Nên có câu:
"Sát sanh thăng thiên-đường, phóng sanh sa địa ngục".
Nghĩa: sát sanh là sát cái phàm tâm, chẳng cho vọng các điều quấy thì siêu về Thiên-đường. Còn phóng sanh là để cho cái phàm tâm làm chủ sai khiến, dẫn vào nẽo bất lương; sử tánh tung hoành bỏ đường đạo-đức, thì tự nhiên phải sa địa ngục, nên người tu phải sửa trong lòng không một mảy tạp niệm, đừng có một điểm ma chướng, chẳng dính một vật hư tệ, mờ mờ sáng, không có một chút bụi trần, gọi là nói đại lược chỗ Ðạo. Còn chỗ sâu nữa chẳng khá bày tên trạng, duy có: Tâm lãnh Thần hội mà thôi (chẳng khá tiết lậu), đợi hai người tấn bộ tôi sẽ chỉ điểm cho.
Bữa nọ hai người sắm lễ xin cầu Ðạo, viên-ngoại được đặt pháp danh là Ðơn-Dương; Tôn-Huyên-Trinh là Bất-Nhị, đều lạy tạ ơn thầy, rồi đồng trở về.
Tôn-Bất-Nhị nói cùng Mã-Ðơn-Dương rằng: Khi trước chưa cầu thầy học Ðạo thì mình là vợ chồng, nay đã đồng một thầy, học một Ðạo thì như anh em đạo hữu. Ðể tôi kỉnh anh bằng sư huynh, anh kêu tôi bằng đạo-hữu, cũng như em. Bổn phận người học Ðạo phải tuyệt tình dục ân ái, phân phòng ở riêng, sư huynh chẳng đến phòng tôi, tôi cũng chẳng vào phòng sư huynh hoặc có việc chi thương lượng phải sai tôi tớ đến thỉnh, hội tại công đường mà minh biện.
Mã-Ðơn-Dương nói rằng: Y lời đạo hữu,tôi nào chẳng nghe, đạo hữu có lòng chơn tôi cũng có ý thiệt. Hồi không biết, mê muội thì thôi, nay đã đến Phật-tiền đồng lập nguyện qui-y, là linh-sơn cốt nhục rồi, đâu còn dám vọng lòng tà. Tôi đặng nghe thầy nói: Mình hồi trước là thập-nhị lão-mẫu mà xuống đây, vì niệm tính sai lầm, sanh nam dục nữ, thiệt nhắc đến thôi càng hổ thẹn cho thân! Xin đạo hữu an lòng.
Ðơn-Dương nói dứt lời kêu Mã-Hưng dọn mùng mền trước phòng Tây-lang. Mã-Ðơn-Dương từ Tôn-Bất-Nhị ra trước an nghỉ. Người sau có bài kệ khen hai ông bà phân phòng dõng mãnh nên sau thành Ðạo cũng mau. Kệ rằng:
Ðại-Ðạo nguyên lai chẳng luyến tình,
Luyến tình đâu đặng Ðạo là minh,
Chỉnh coi Mã-Tổ đương khi đó,
Chồng vợ phân phòng ý phải tin.
Khi đó bà Tôn-Bất-Nhị cùng ông Mã-Ðơn-Dương đã phân phòng được hơn nữa tháng. Bữa nọ bà kêu tớ nữ thỉnh Mã-Ðơn Dương đồng đến mao-am học Ðạo. Ðơn-Dương nghe nói cùng Tôn-Bất-Nhị đến mao-am đồng xin cầu hỏi tiên-sanh rằng: Bữa trước thầy nói: Cái Tánh là gốc tại Tiên-thiên, xin thầy dạy cho trồng tại chỗ nào?
Trùng-Dương đáp: Tiên-thiên là khí hổn-độn chưa mở, không có Trời Ðất, người vật, không sắc, không thinh, chẳng hay chẳng biết. Có chỗ nào mà trồng đặng! Như nói trồng đó là chẳng phải Tiên-thiên việc có trồng thì nó mất chỗ mối hay, bằng nói Tiên-thiên có chỗ trồng là chỗ tướng về việc hữu hình, hễ theo tướng thì phải mất Tiên-thiên. Người nói Tiên thiên tại chỗ đó là không phải. Chỗ Tiên-thiên xét đi nghĩ lại thiệt không có vật chi hết. Nếu đem chữ nhứt mà nghĩ nghị đừng nói chữ nhứt là Tiên-thiên. Chữ nhứt nguyên cũng chẳng phải. Trò muốn biết lẽ Tiên-thiên, đem cây viết cùng ta biện rõ ràng. Tiên sanh lấy viết bày rõ mối Tiên-thiên.
Tánh là Tiên-Thiên vật rất linh,
Biết luyện Chơn-Tánh là Tiên-Thiên.
-
HỒI THỨ TÁM
* * * * * * *
Ðàm Tiên-thiên trinh nhứt diệu lý,
Trừ ma-căn bất nhị pháp môn.
Nghĩa là:
Nói việc Tiên-thiên tinh ròng lẽ diệu,
Trừ ma-căn pháp môn chẳng hai.
Có bài kệ rằng:
Ngoài ý cầu Tiên việc chẳng sai,
Bóng trăng trong nước, cảnh trong hoa,
Tiên-thiên diệu lý trò biết chớ,
Chỉnh tại một mình chớ khá khoe.
Khi đó Trùng-Dương tiên-sanh nói với Mã-Ðơn-Dương cùng Tôn-Bất-Nhị rằng: Vì Tánh là vật của Tiên-thiên, tròn huyền huyền, sáng rỡ rỡ, tuy có tên mà chẳng có hình, chẳng biết chẳng hay, khó vẽ khó họa, nào có chỗ trồng! Ta nay cùng trò gắng gượng mà vẽ cái hình tượng trò phải hiểu biết. Trùng-Dương nói rồi liền lấy cây viết lại ghế sơn đỏ vẽ một vòng rồi một vòng nữa, trong vòng sau chấm một điểm.
Vẽ rồi hỏi Ðơn-Dương cùng Bất-Nhị: Hai người có biết nghĩa đó chăng?
Ðơn-Dương và Bất-Nhị thưa: Ðệ tử tâm tánh ngu muội chẳng thấu, xin thầy chỉ dạy.
Trùng-Dương tiên-sanh nói: Ban đầu một vòng hỗn-hỗn độn độn, giống như Trời Ðất chưa phân, nhựt nguyệt chưa có, tên là "Vô-Cực". Rồi trong chỗ Vô lại sanh ra một điểm tên là "Thái-Cực", một điểm đó mà sanh ra Trời, sanh Ðất, sanh người, sanh muôn vật. Nên Tiên-thiên do Thái-Cực mà sanh một điểm, ấy là cái Khí, gọi là Tiên-thiên nhứt-khí, ai muốn khỏi luân-hồi phải tìm chỗ đó.
Nhơn cái Tánh tùng Tiên-thiên mà phát, phát ra trước khi chưa có cái thân cho đến cái thân mất. Bởi một điểm linh tánh là căn bất sanh bất diệt, kêu là "Linh-Tánh". Linh-Tánh ai cũng có, tại người phàm bỏ quên thì nó phải mê, mê thì bổn tánh khiến vọng niệm đều sanh, rồi tà khí niệm ma nhập vô trong.
Như bỏ không giữ gìn, ngoại ma tới phá, mất chỗ Tiên-thiên nó khiến không cho nghe đặng Ðạo, nó cướp quyền làm chủ, hễ ai bày việc danh lợi, tài sắc, tửu khí, thì nó đến mê-man không dứt. Than ôi! Người mộ Ðạo không mấy ai; còn người học Ðạo chẳng tin thiệt, không chịu nghe dạy. Bằng người tu Tiên-thiên bèn lập chí gia công chẳng mỏi thì tùy chỗ "Tâm lãnh thần hội" mà luyện lâu ngày ắt đặng hiệu nghiệm. Nếu lấy chỗ nhơn tâm mà hỏi Tiên-thiên thì Tiên-thiên chẳng khá đặng vậy! Phải dùng Ðạo-Tâm mà hỏi Tiên-thiên, thì Tiên-thiên ở tại trước mắt.
Còn cái nhơn-tâm nó hay ám muội tham cầu, kêu là: "Thức thần đương quyền". Ðạo-Tâm là Thiên-Lương phát hiện, kêu là: "Nguơn-Thần chủ sự". Như người tu đặng phát hiện cái "Tâm thiên-lương" thì chỗ Tiên-thiên chẳng cầu cũng đặng. Nhưng mà ban đầu phải trừ cái bịnh, trừ bịnh là chẳng phải trừ bịnh "Ngoại-cảm, phong-hàn, thử-thấp". Trừ là trừ cái bịnh Tham, Sân, Si, Ái. Mấy thứ bịnh đó trừ đặng thì trăm bịnh chẳng sanh, thêm tuổi sống lâu, đặng thành Tiên Phật, làm Thánh làm Hiền. Nay ta đem bộ công-phu truyền cho hai trò, phải gắng sức mà làm đó!
Còn việc Ðạo trừ bịnh, phải trừ chỗ bịnh căn, tìm cho đặng chỗ gốc thì cái bịnh chẳng khó trừ, vì cái bịnh phần nhiều bị trong chỗ tham muốn, giận hờn, ganh ghét, thương yêu, ái dục, mấy chứng mà ra. Lại thêm tửu, sắc, tài, khí, mà cảm vào trong ngũ-tạng hết mấy phần, nên người tu hành trước phải trừ tửu, sắc, tài, khí, khử trừ ngoại cảm cho sạch, sau tuyệt chỗ sân-si, ái dục cho hết bịnh nội thương. Hễ tầm đặng bịnh căn, các vật chất đều hết, rồi sau mới tu trường-sanh, tìm chỗ chẳng chết. Chẳng chết là Chơn-Linh chẳng chết, chớ không phải xác thân không chết, nếu không biết thì Tánh-Mạng cùng xác thân đều chịu trầm luân.
Còn ta nay chỉ việc rượu mà nói: nếu người biết rượu là hại cho đạo, phải thề mà trừ nó; bằng như thấy rượu còn thèm thì lấy chỗ giới luật mà giữ, hoặc người biểu uống, hoặc thấy người uống mà ý còn vọng tưởng, tuy là chưa uống mà ý muốn uống thì cũng như uống rồi, đó là bịnh căn rượu. Như muốn trừ bịnh rượu cho dứt thì khi mới khởi ý ra phải trừ liền, lẽ nào chẳng sạch cái căn rượu?
Còn việc sắc hay làm hư hại cho đạo hoặc tồi bại trong qui trình, hao mòn thân thể, lại hổ thẹn với đời. Như muốn trừ nó phải thệ mà trừ, bằng thấy sắc mà muốn tưởng, thì lấy chỗ giới luật mà giữ; hoặc nó lấy lời quyến-mị, yểu điệu đưa tình, trêu người giỡn cợt, mà trong ý muốn động, có tình thương mến, tuy là chưa thông với nhau mà cái ý tình khởi ra thì cũng như thông rồi. Ðó là bịnh căn chỗ sắc còn ẩn tại nơi trong! Như muốn trừ nó, khi mới khởi tình ra thì phải trừ liền, mới đặng sạch dứt căn ái-dục.
Còn tỏ cái căn chỗ Tửu-Sắc nó cũng hay ẩn trong chỗ Tâm Ý. Muốn học Ðạo mà khử cái bịnh căn các thứ ấy, trước phải chánh cái Tâm, sau thành cái Ý, thì bịnh căn tiêu dứt. Như bịnh căn chẳng dứt do nơi mình Tâm Ý chưa chánh vì chưa quyết thoát trần, nên Tâm Ý hay nương náu theo hoài, còn phát một niệm, tuy chưa uống mà ý muốn uống, tuy chưa thông mà tình muốn thông. Thiệt là trước khi không có tưởng, nhơn bị ngoại cảm sẵn trước nó động vô trong, ví như bóng trăng trong nước, lấy đá quăng động nước thì trăng cũng xao động. Tuy không phải thiệt mà hình ảnh giao-động, thì Chơn Ðạo chẳng đặng thành vậy.
Như nay ngươi muốn cầu dứt bịnh căn ấy thì Nho có dạy: Phi lễ vật thị, phi lễ vật động. Nghĩa là: Chẳng phải lễ chẳng ngó, chẳng phải lễ chẳng động. Thích có phép: Vong nhơn, vong ngã, vong chúng sanh. Là: Quên người, quên mình, quên chúng sanh. Còn Ðạo có phép: Thị chi bất kiến, thích chi bất văn. Là: Coi đó chẳng thấy, nghe đó chẳng hay. Ba lời ấy là thuốc trừ bịnh căn tửu sắc.
Lữ-Thuần-Dương (Lữ-Ðộng-Tân) nói: "Kiến sắc như đồng kiến hổ", là "Thấy nữ sắc sợ như thấy cọp", chẳng dám ngó lâu, hễ ngó lâu thì nó đoạt cái Linh-Tánh. Xưa nay từ vua đến dân, lắm kẻ vì sắc mà hư. Dân vì sắc mà lụy thân, quan vì sắc mà hư danh, giàu vì sắc mà hết nhà, vua vì sắc mà mất nước, không hạng nào đắm sắc mà khỏi hại. Vì vậy Thánh-nhơn đặt chữ sắc có chữ đao ở trên, đao ấy giết người không thấy máu.
Nói qua việc tiền của lại càng khó hơn nữa. Trong mấy người tu cũng có người đạo duyên chưa quyết mà vì nhà nghèo khó không thể đua tranh với đời trong việc ăn mặc tốt xấu sang hèn, nên đi tu là làm kế đỡ. Có người vì thất vọng mới nương vào cửa Phật, kỳ thật không hiểu, không minh cái Ðạo, vì không minh cái Ðạo mới có người tuy là tu mà còn trau giồi bản dạng, quần áo nhởn nha, lấy chỗ giàu sang mà khoe ruộng vườn nhà cửa; chơi bời lanh xảo, thường đứng trong trường danh lợi đua chen. Có người khắc bạc tính toán, giạ già cân non mà cầu lợi. Ðã muốn cầu danh lợi, tình dục, ruộng đất, tài sản, điểm trang son phấn, tranh việc thị phi mà lại muốn thành Phật thành Tiên! Những người ấy mà cũng tới học đạo, thật khá buồn thay!
Còn nói qua chữ Khí, người tu cũng phải có, mà lại nhiều người chưa bình đặng cái khí can, ít ai giữ cái khí chánh, ít ai biết dưỡng tính, chế cái khí giận, khí nóng hoặc lộ trên mặt mà sanh việc giận hờn; hoặc ưng theo trong lời nói mà sanh việc hơn thua, yếu mạnh, vì cái Khí chớ không phải vì Lý. Như vậy đâu có dưỡng đặng chỗ "Khí hạo-nhiên", thì làm sao mà siêu phàm nhập Thánh? Những người như vậy đã muốn các việc tranh đua chen lấn, một mảy cũng không chịu nhục chịu thiệt, mà lại cũng muốn học Ðạo, thành Phật, thành Tiên, há chẳng thương thay!
Nay như người muốn cầu cái phép dứt tuyệt đặng trở nên người đức hạnh, thì Nho có dạy: "Chẳng nghĩa mà giàu sang, ta coi như mây nổi". Còn nói giữ cái chí đừng có nóng cái khí. Hễ giận lễ nghĩa thì cũng giận, mà xuất lời ra cho nó nghi-tiết dùng qui-trình mà nói, đặng sửa chỗ quấy mà trở về chỗ chánh. Còn giận khí huyết thì chẳng nên giận. Giận khí huyết là không đáng chuyện giận cũng giận; hoặc việc nhỏ mọn cũng tìm ra mà giận nên người tu lấy chỗ bình hòa, nhẫn nhịn mà xử. Ðó là khinh tài dưỡng khí!
Ðạo Thích nói: "Chẳng chịu thọ phước đức của người; chẳng chịu dùng tiền bạc của người, đặng thành việc nhẫn, cũng là khinh tài dưỡng khí". Còn Ðạo Tiên nói: "Biết trừ tham lam, hiền lòng dằn khí, đó là trừ chỗ bịnh căn tài khí". Như người tu muốn trừ bốn vách ấy, thì trước phải quyết chí chặt đứt căn bịnh, phải chánh chỗ Ðạo-Tâm. Nên Nho tại chỗ Tỉnh ? Thích tại chỗ Giác ? Ðạo tại chỗ ngộ ? Nếu đặng tỉnh, giác, ngộ thì trong thiên hạ việc gì cũng coi thấu cả.
Trùng-Dương tiên-sanh giảng cái lý trừ bịnh rồi, Mã-Ðơn Dương cùng Tôn-Bất-Nhị lại hỏi việc công phu, tịnh dưỡng dùng phép làm sao?
Trùng-Dương nói: Trước phải ngồi Tịnh, các việc quên hết đặng niệm chỗ "Tổ khiếu". Hễ phàm tâm tử thì Ðạo-tâm sanh. Ngồi niệm cho dày, mở bớt dây lưng nút áo. Giờ Tý, ngồi ngó ngay hướng Ðông, 2 chơn kiết-già, sửa ngay thẳng, 2 tay chắp lại, khấu xỉ giáng cam lồ, bắc cầu lên trời, lỗ tai nghe vô trong, âm dương hội hiệp, để cái rèm xuống, đem thần quang trở soi đơn-điền, kêu là tịnh tọa công phu, phải đừng vọng niệm. Nếu như còn ý tán loạn thì chơn-thần chẳng thuần dương, mà việc công phu cũng khó thành.
Còn nói ngồi niệm cho dày, đặng rán ngồi lâu, cái thân không mỏi. Còn mở nút áo cùng dây lưng cho khí nó vận chuyển thông hành đều đủ. Chờ giờ Tý là lấy chỗ dương khí phát sanh. Ngồi ngó ngay hướng Ðông là đoạt chỗ thanh khí. Ngồi kiết-già là thâu dưỡng thần khí, tay ấn chỗ vô danh đặng quên các điều hình thể. Sửa mình cho ngay thẳng đặng các chỗ đều thông hơi không bít; môi răng khấu nhau cho chỗ trùng lầu không hao khí. Miệng là chỗ khí hơi, hễ miệng hở thì khí tan, nên phải bế lại. Lỗ tai nghe vô trong vì lỗ tai thuộc thận, nếu nghe tiếng nói thì hao tinh, nên phải nghe vô trong chẳng nghe ra ngoài.
Còn âm dương hội hiệp là chẳng cho mờ tối, con mắt là tổ khiếu của thần, hễ nhìn ngó sắc lâu thì thần theo sắc mà tán, như đặng quang minh thì thần đặng tròn sáng, còn nhắm lại thì thần phải mê muội. Còn bỏ cái rèm xuống là chẳng tối chỗ thần quang. Tự trên huyền cung trở chiếu chỗ đơn-điền, cũng như nhựt nguyệt trên trời sáng tỏ, mà soi thấu muôn vật, sanh đặng các loài. Còn ít nói cho khí tụ, thì hơi không lậu ra, bớt lời, bớt việc, là dưỡng đặng chỗ tinh. Như tinh không lậu ra lỗ tai, không điều sắc tướng, mà ngưng thần, thần không lậu nơi con mắt, các việc đều không, cho nên kêu là: "Vô-Lậu Chơn-Nhơn".
Tiên-sanh giảng Ðạo rồi nói: Việc đó là công phu rất hiệu. Như hai người muốn vào cửa Ðạo chẳng khá gọi việc đó là tầm thường! Phải gắng công kiên cố ngày giờ thì mới có hiệu nghiệm. Bằng như dãi đãi thì lầm chỗ đường đi. Tiên-sanh nói dứt lời liền ra ngoài chỉ việc công phu (ai có căn đi tìm mới biết việc công phu).
Lúc nọ Mã-Ðơn-Dương nghe hết mấy lời thấu đặng chỗ huyền-diệu liền quì lạy từ thầy trở về chỗ cũ, y phép làm theo lâu ngày đặng thấy ứng nghiệm, rồi cũng tưởng Ðạo có bao nhiêu mà thôi; chẳng đến mao-am học hỏi, cứ giữ một điểm công phu làm hoài.
Cách hơn một tháng, Mã-Ðơn-Dương ngồi tại phòng công phu, xảy đâu thấy Trùng-Dương tiên-sanh đến. Ðơn-Dương lật đật tiếp vào. Trùng-Dương ngồi xuống nói rằng: Ðại-Ðạo thiệt không cùng, lấy cũng chẳng hết, nói cũng chẳng xiết, phải sửa cho các chỗ đều không, chẳng khá chấp một mối, thành tâm theo Ðạo hết lòng cải đổi mới đặng có ích thân tâm. Ðạo chẳng tìm chẳng gặp, chẳng hỏi chẳng biết, học chẳng thấu chẳng thành. Hễ người có Ðạo thì một giờ một khắc chẳng rời thân mình, một bước một lời thường giữ trong lòng, tỉnh hoài chẳng muội, niệm niệm đều chơn. Sao gọi là chơn? Hễ người có Ðạo thì giờ khắc không quên, một mảy tư dục chẳng có, gọi là chơn. Như vậy mới thiệt là theo Ðạo. Nên thầy Nhan-Hồi có câu: "Ðắc nhứt thiện huyền huyền phụ ưng". Nghĩa là: Nghe đặng Ðạo giây phút không rời.
Còn việc lỗi phải cải phải trừ. Hoặc có bịnh tại chỗ tư (1) phải lấy chỗ công tâm mà trừ; hoặc bịnh chỗ ý dục (là chỗ muốn) phải lấy Ðạo-tâm mà trừ chỗ muốn đó. Bịnh chỗ tà vạy phải lấy chỗ lòng ngay mà trừ chỗ chẳng ngay. Còn bịnh kiêu ngạo phải lấy việc nhún-nhường mà trừ, hễ bịnh khởi chỗ nào thì phải hiện phát trừ trị, chẳng đặng dung chế. Nên cần việc công phu cũng vậy, hễ khởi đâu giác đó, giác đặng phải quét, quét liền cho sạch, thì tự nhiên trong lòng đặng vui vẻ. Tỷ như gió mùa Xuân, vạn vật đều phát vượng, sáng như trăng tỏ, tươi nhuận như trời đất, thanh tịnh cả núi non, lần lần khí đầy đủ, mặc niệm vận hành chừng một năm, đủ đầy trong tam-bửu! Như như chẳng biết chẳng hay thì đại-đạo đặng thành. (Mấy lời nói trên đây là Trùng-Dương tiên-sanh hóa thân vào phòng mà nói chuyện với Mã-Ðơn-Dương).
Lại nói bà Tôn-Bất-Nhị ngồi một mình trong phòng công phu, xảy thấy Trùng-Dương tiên-sanh giở màn ngoài cửa bước vô. Tôn-Bất-Nhị giựt mình đứng dậy, vừa muốn hỏi, lại thấy thầy cười nói rằng: Ðạo lý tinh vi, huyền-diệu không cùng trong mình thông đủ, muôn mạch chầu về một mối, phải tự nhiên làm đi, mới có công hiệu. Như trò ngồi cô đơn một mình thiệt là không ích! Há chẳng nghe một âm chẳng sanh, một dương chẳng trưởng. Nếu trò ngồi như chết thì âm dương chẳng đặng thông nhau, làm sao mà kết thai đặng? Ta nói cho trò biết: muốn âm chẳng lìa dương, dương chẳng lìa âm, đây chẳng lìa đó, đó chẳng xa kia...
Trùng-Dương mới nói mấy lời, Tôn-Bất-Nhị mặt đỏ phừng phừng, lật đật giở màn ra ngồi trước nhà, kêu tớ gái là Thu Hương đi thỉnh ông Ðơn-Dương nói chuyện. Thu-Hương thấy bà giận, chẳng dám chậm trễ, mau đến trước thỉnh ông.
Lúc ấy, Ðơn-Dương đang nghe tiên-sanh giảng Ðạo, xảy thấy Thu-Hương chạy tới thưa rằng: Không biết việc chi bà giận ngồi tại trước nhà, sai tôi mời ông cho bà nói chuyện. Ðơn Dương nghe nói thưa thầy rằng: Cho đệ tử đi một chút trở lại. Trùng-Dương tiên-sanh gật đầu.
Chẳng hiểu lý nầy cùng lẽ nọ,
Nên khởi lòng nọ với lòng kia.
_________________________________________________
(1) Chỗ tư là người tu ở chùa cũng như gởi thân cho Phật, ăn cơm chùa thì phải lo việc Phật, đặng đến ngày qui thiên mà về Phật lãnh công quả của mình làm ngày trước, chớ mình tu ở chùa mà lo làm việc riêng, thì chỗ nào là công? Dẫu không tu cũng vậy, hễ làm việc nhà nước thì lo việc nhà nước, chẳng đặng ăn lương mà lo việc nhà mình.
-
HỒI THỨ CHÍN
* * * * * * *
Vương-Trùng-Dương phân thân hóa độ,
Tôn-Bất-Nhị phẫn nộ thủ sư.
Nghĩa là:
Vương-Trùng-Dương biến thân mà hóa dạy,
Tôn-Bất-Nhị không hiểu chẳng phục thầy.
Có bài kệ rằng:
Ta độ chúng sanh học chơn truyền,
Không không có có khó trau liền,
Biết là Ðại-Ðạo không xa viễn,
Người chẳng lòng cầu tại thất duyên.
Khi đó Mã-Ðơn-Dương nghe Thu-Hương nói Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà giận hung, liền xin thầy ra đi, coi thử Tôn đạo hữu kêu việc chi. Mã-Ðơn-Dương đến nhà trước thấy bà ngồi giận đỏ mặt, liền cười mà nói rằng: Ðạo hữu giận việc chi? Hay là tôi tớ có phạm lỗi điều chi không vừa ý? Thôi, mình làm chủ phải cho có độ lượng, dung kẻ dưới tay, chẳng vì nó mà phiền giận!
Tôn-Bất-Nhị đáp rằng: Sư huynh không rõ, tôi tưởng Vương Trùng-Dương là người có đạo-đức, ai dè người không chánh, mới vào phòng tôi nói việc khó nghe, tôi không học nữa.
Ðơn-Dương cười rằng: Thầy đến phòng đạo hữu hồi nào?
Tôn-Bất-Nhị nói: Còn ở trong phòng!
Ðơn-Dương cười rằng: Ðạo hữu chắc là chiêm bao? Thầy từ sớm mai đến giờ giảng đạo-đức với tôi, giây phút không rời, còn đang tại phòng tôi. Lúc Thu-Hương đến mời cũng thấy. Ðạo hữu không tin hỏi Thu-Hương coi có hay không.
Tôn-Bất-Nhị chưa kịp hỏi, Thu-Hương liền nói: Hồi tôi thỉnh ông có nghe thầy đương giảng việc trời đất hay lắm. Ông ra đi với tôi thì thầy còn ở lại đó. Tôn-Bất-Nhị nghe nói cúi đầu làm thinh.
Mã-Ðơn-Dương sợ thầy đợi lâu trở ra không nói với bà nữa, chừng ấy Tôn-Bất-Nhị trong lòng phiền giận thầm rằng: Tưởng đi thỉnh sư huynh đặng bày tỏ việc thầy cho ông nghe, ai dè nói việc như không, bà buồn bực chẳng vui, liền trở vào phòng.
Cách hơn một tháng, Mã-Ðơn-Dương đến mao-am cùng thầy học Ðạo. Trùng-Dương tiên-sanh biểu trò ngồi rồi nói:
"Than ôi! Trên đời người tu hành học Ðạo, hoặc vì mặt mà tu, vì miệng mà tu, đều thất xa lắm. Ðối với Ðạo không có một hào ly chi hết. Lại có người tu tại con mắt, lỗ tai, miệng, bụng, các việc đều phép hữu vi, mất chỗ thể đạo chơn; lại có người theo bàng môn giả dối, tu luyện ham những phù huê (hữu hình) mà định tịnh chẳng biết. Lại có người tâm chí quyết tu mà sức độ lượng yếu, thảy đều có bịnh. Bởi bịnh ấy là tại nơi dung vị hoặc thái-quá bất-cập đều chưa đặng chỗ tự nhiên; hoặc vui chỗ nầy, vui chỗ kia, tới một tấc, trở lui một trượng. Vì phàm tâm chưa dứt, đạo tâm chưa minh, chưa ngán thấu chỗ tình tục, nên ăn mặc còn sợ tốt xấu, danh tiếng tài hay, cùng vàng bạc, cửa nhà, ruộng đất không người hay biết. Các điều ấy chưa đặng cách tục mà lại muốn học Ðạo cầu phước, thong thả an nhàn! Có khi than nghèo cực mà lại hay xài phí, tư dục không quên, vì coi chẳng thấu cuộc đời, để cho nó khiến như vậy thì chẳng khá gọi là Ðạo!
Xét lại, mỗi người đều có cái Tánh chơn, biết tu chỗ Ðạo thì thành đến bực Phật Tiên. Nhơn vì chẳng cách việc trần, không riêng thế tục, nên cái Ðạo chẳng tỏ, chẳng minh. Như muốn cầu theo về Thiên-Ðường thì phải món món đều khác, chẳng giống người thường, trong ngoài đều tu hết, mới gọi là có Ðạo-tâm".
Tiên-sanh cùng Ðơn-Dương giảng Ðạo, thầy trò nói tự thỉ chí chung, tâm đầu ý hiệp như vậy thì làm sao mà đạo không thành!
Lại nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà bị ông Mã-Ðơn Dương nói bà nằm chiêm bao mấy lời rồi làm thinh, trong lòng chẳng phục ý ông. Nếu nói mình chiêm bao thì không lẽ. Thiệt thấy rõ ràng thầy vô nói rành rẽ bên tai tôi, sao lại nói thầy ở tại phòng không dời động giây phút? Thiệt là nghĩ không ra. Suy nghiệm một hồi rồi trở vào phòng. Bữa nọ bà đương ngồi công phu, lại thấy Trùng-Dương dở màn bước vô cười rằng: Ðại-Ðạo chẳng phân nam nữ, lìa tránh âm dương Ðạo chẳng thành.
Tôn-Bất-Nhị thấy vậy nhượng cho thầy ngồi, mình trở ra đứng ngoài cửa hỏi rằng: Thầy sao không ở tại mao-am mà công phu? Vào đây làm chi?
Trùng-Dương nói: Vì trò bỏ chỗ Tạo-Hóa lư, ngồi tịnh cô đơn, khí hải khô. Có câu: "Con gái không chồng là hoán phụ, con trai không vợ là khoán phu". Ta nói rõ cho trò biết: Một âm một dương chẳng khá dang cách; âm dương phối hiệp thì việc ắt chánh lý. Có câu: "Tây gia nữ, đông xá làng", nghĩa là: Âm dương hội hiệp mới nương nhau đặng. Vậy thì hai đàng khá chỗ động phòng, hai tám mới về nên giao cảm, kết thánh-thai dựng tại bên thân. Mười tháng công phu ôn dưỡng, sản xuất anh-nhi mạnh hơn người. Trò phải y theo lời làm như vậy, thì đặng về Thiên-Cung chầu Ngọc-Ðế.
Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời chẳng nói, liền khóa cửa lại, đi đến trước kiếm Mã-Ðơn-Dương nói chuyện đó cho ông nghe. Ði đến thấy cửa phòng của ông đóng chặt, hỏi người tớ là Mã Hưng, Mã-Hưng nói: Viên-ngoại và tiên-sanh mắc giảng đạo tại mao-am. Lúc đó Trùng-Dương đang nói: Lòng người phải bớt, lòng Ðạo phải chơn; vùng cười, chỉ Mã-Ðơn-Dương mà rằng: Trò mau đi ra coi có người kiếm ngoài trước. Ðơn-Dương nghe thầy nói có khách đến liền từ thầy ra coi. Ðến nhà trước gặp Tôn-Bất-Nhị rồi bà níu áo Ðơn-Dương nói rằng: Sư huynh lại đây mà coi.
Ðơn-Dương hỏi: Coi việc chi?
Tôn-Bất-Nhị nói: Ðừng hỏi, đến đó sẽ rõ.
Ðơn-Dương theo đến thấy cửa khóa, Tôn-Bất-Nhị mở khóa biểu Ðơn-Dương vô mà coi, Ðơn-Dương không biết việc chi, cũng bước vô ngó bốn phía, thấy mền mùng ghế đẳng y nguyên, không có chi lạ, liền hỏi Bất-Nhị rằng: Ðạo hữu biểu tôi vô có việc chi?
Bà nói: Coi thầy của sư huynh ở trong phòng tôi đó!
Ðơn-Dương nói: Ðạo hữu nói không sợ tổn đức; thầy cùng tôi giảng đạo tại mao-am không dời một bước, thầy nào vào đây?
Bất-Nhị nghe nói không tin, bèn vô giở mùng mền kiếm coi, cùng không thấy ai hết, liền nói việc quái lạ!
Mã-Ðơn-Dương nói: Có chi mà quái lạ. Tôi biết rồi, tại vì đạo hữu không cần công phu đặng thâu cái phàm tâm cho dứt, cứ lo chuyện ngoài hoài, nên sanh ma chướng như vậy.
Tôn-Bất-Nhị nói: Sư huynh nói việc gì đâu? Tôi bình sanh không có tạp niệm ma chướng, một lòng tịnh dưỡng nào có vọng tưởng điều chi? Lần nầy là hai lần, thầy đến phòng tôi rõ ràng, tiếng nói bên tai mấy lời còn nhớ, nào có phải vọng ma.
Ðơn-Dương hỏi: Thầy nói việc chi, thuật lại tôi nghe.
Bà đem lời thầy vô phòng hai lần thuật cho ông nghe.
Ðơn-Dương cười rằng: Thiệt đạo hữu thông minh một đời, mà lầm sai một thuở. Vì Ðạo chẳng phải thông minh mà đặng nên, việc mình muội tánh.
Bất-Nhị hỏi: Sao gọi là muội tánh?
Ông nói: Vì người học Ðạo phải để tâm hạ khí, chẳng hổ học hỏi người dưới. Như vậy một bước lại thêm một bước, đi xa càng hiểu đường dài, lấy mười đếm trăm, thêm trăm đếm ngàn. Thiệt việc Ðạo chí quí chí trọng, nói không xiết kể. Ðạo hữu mới đặng chút huyền công, tưởng là Ðạo có bấy nhiêu mà thôi, mỗi ngày cứ giữ quyết cái phòng của đạo hữu, ngồi hoài khô tọa, chẳng minh lẽ âm dương, không hiểu cơ tạo-hóa, chẳng chịu đến trước thầy mà học hỏi, để nghi tính nam nữ phải cách biệt, chấp lòng nhơn ngã. Bởi thầy thấy đạo hữu giữ quyết một việc sợ sau chẳng đặng liễu đạo, thầy muốn ra chỉ đạo cho đạo hữu, vì sợ chỗ hiềm nghi phải xuất hiện dương thần, phân thân hóa dạy mà đạo hữu chẳng hay. Nên thầy hay nói với tôi: "Một âm một dương gọi là Ðạo, lìa bỏ âm dương Ðạo chẳng thành". Vì cái âm dương đó: Dương hỏa, âm thủy, là âm dương trong thân mình luyện ra. Chẳng phải nói việc vợ chồng như ở thế.
Nghĩ lại việc nầy thiệt thầy hết lòng khổ chí cần dạy; tiếc cho đạo hữu hiểu lầm mà chẳng biết chỗ huyền-cơ. Lại nói độc dương bất trưởng, là nói dương thuộc hỏa, lửa nhiều nóng quá chẳng đặng thành đơn. Còn độc-âm bất sanh, là nói âm thuộc thủy, nước nhiều tràn lạnh cũng chẳng đặng thành đơn.
Bởi nói cô-âm độc-dương là tỷ thí nước lửa chẳng đặng giúp nhau. Luận ra mà nói, người tu hành phải cho đặng nước lửa đương tiếp, âm dương quán phong, mới khá huờn đơn đặng.
Còn nói đạo hữu bỏ Tạo-Hóa lư là rõ ràng chẳng minh lý âm dương. Như nói câu: "Khoán phu hoán phụ" là nói cô-âm bất sanh, độc-dương bất trưởng, nên thầy tỏ mấy lời cho đạo hữu biết. Hễ người học Ðạo thì phải tìm chỗ âm dương, bởi âm dương là chỗ huờn đơn của Tiên Phật. Trước dụng chơn-ý, mà dẫn thông âm dương (như cầm bầu rượu mà vui uống rượu ngon). Còn chơn-lý thuộc thổ, màu vàng, nên thí dụ là huỳnh hà. Như câu: "Tây-gia-nữ" là thuộc Kim, Kim hay vượng phát tại Tây nên gọi là "Tây-gia-nữ". Còn câu: "Ðông-xá-lang" thuộc mộc, mộc hay vượng sanh tại Ðông, nên gọi là "Ðông-xá-lang". Còn hai đàng xứng nhau là nói 2 cái 8 là 16, hiệp thành một cân (Hễ kim chẳng phải con của mộc, thì chẳng khắc; mộc chẳng phải con của kim, thì chẳng sanh). Ðó là nói việc âm dương tạo hóa, ngũ-hành sanh khắc như vậy.
Còn người tu hành phải lấy cái ý hội thông. Tỷ như bà mai nói hiệp hai nhà dẫn cho kim mộc gặp nhau, không có dang cách như vợ chồng vui hiệp. Còn động phòng là chỗ đơn đình; dẫn kim mộc về một chỗ, kim là phách, mộc là hồn, dẫn tụ về một mối, yêu mến không rời, hồn chẳng lìa phách, phách chẳng lìa hồn. Hống tám lượng, diên nửa cân, giao cảm là chỗ kiết đơn, thiệt nói hai đàng xứng nhau, tinh khí hiệp nhau ngưng kiết (Tỷ như vợ chồng có thai vậy).
Còn nói 10 tháng là số đủ, ôn-dưỡng là hỏa-hầu (Hỏa-hầu là để lửa có chừng). Như nói tinh khí ngưng kiết, cũng là để lửa ngưng có chừng mà nấu luyện thành đơn.
Còn nói số đủ là vuông tròn, công phu đầy đủ, anh-nhi giáng sanh (Nghĩa anh-nhi giáng sanh là chơn-khí). Khí hóa ra thần, thần nuôi dưỡng cho đầy đủ, tùng chỗ nê-hoàn mà ra, lên chầu kim-khuyết, mà làm người chơn-nhơn. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sao?
Mã-Ðơn-Dương nói rồi, Tôn-Bất-Nhị mới vui mừng tỉnh ngộ. Vậy ai muốn tu luyện thì tìm minh sư mới rõ.
-
HỒI THỨ MƯỜI
* * * * * * *
Giảng tam thừa, diễn thuyết Toàn-Chơn Ðạo,
Tổn diện dung, cam tác xủ lậu nhơn.
Nghĩa là:
Giảng bực tam thừa, diễn nói Ðạo Toàn-Chơn,
Làm lở mặt mày, mà chịu người xấu xa.
Có bài kệ rằng:
Ðã đặng chơn truyền đạo khá tu,
Tam thừa pháp diệu tại người cầu,
Huyên-Trinh khi đó hư mày mặt,
Ðổi đặng thân vàng hưởng muôn thu.
Khi đó Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời Mã-Ðơn-Dương nói, cũng như một tay phá bể lưới mê, vui mừng tỉnh ngộ, chẳng khác chiêm bao mới tỉnh. Than rằng: Phải không có sư huynh chỉ dạy chắc bị lầm việc lớn. Tôi khi bình thường việc hiểu cũng nhiều, sao nay học Ðạo lại kém hơn sư huynh?
Ðơn-Dương nói: Chẳng phải đạo hữu thua tôi, vì đạo hữu không chịu tìm học, nên chẳng thấu. Sách có nói: Thông minh phản bị thông minh ngộ; hứa đa thông minh ngộ tự thân.
Nghĩa là: Người thông minh phải giữ phép, trở lại bị cái thông minh mà lầm; biết bao nhiêu người thông minh làm hại cho mình. Vậy cũng tại mình tự thị quá. Bởi việc chi, trong thiên hạ có học rồi mới biết, sanh ra mà biết đâu có mấy người?
Tôn-Bất-Nhị nghe dứt, tạ ơn rằng: Tôi nay tuân lời thầy dạy, từ nay đến sau tôi phải hết lòng học hỏi.
Ðơn-Dương nghe nói vui mừng, liền trở về phòng an nghỉ.
Qua ít ngày, Ðơn-Dương muốn đến nhà người cậu đặng mừng lễ chúc thọ, rồi thưa cho thầy hay, lại mời Tôn-đạo-hữu đi. Tôn-Bất-Nhị giả nói có bịnh đi không đặng. Rồi Ðơn-Dương biểu gia đồng sắm sanh lễ vật đi trước, ông cỡi lừa theo sau.
Nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ở nhà nghĩ lại mấy lời Ðơn-Dương nói bà chẳng chịu lãnh học, nên không biết Ðạo hay, trong lòng thường nhớ hằng lo. Nay thấy ông không có ở nhà, tớ bạn đều đi chơi hết, một mình đi đến mao-am, thấy thầy ngồi công phu, quì trước thưa rằng: Ðệ-tử tâm tánh ngu mê, không rõ việc chí lý nên hai phen lầm lỗi, may nhờ sư huynh mở dạy mới biết mấy lời trước của thầy nói đạo, tự hối chẳng kịp. Xin thầy miễn chấp, chỉ dạy cho tôi, thiệt dường ơn tái tạo.
Trùng-Dương nói: Thôi trò đứng dậy, ta nói cho trò nghe.
Vì Ðạo có ba bực, phải lượng theo sức mình mà tu. Phàm người học Ðạo, chẳng kể việc sống thác, mới đặng làm người không chết. Bực thượng thừa là chỗ đạo hư vô mảy tơ chẳng dính, một trần chẳng nhiễm, như trăng tỏ vọi-vọi, muôn dặm không may. Duy có một điểm linh căn mới đoạt đặng tạo-hóa của Trời Ðất. Phải biết việc chánh lý của âm dương, dụng phép mà luyện theo đó, lấy chỗ có mà qui về chỗ không, chỗ không mà sanh ra chỗ có, mới đặng cùng Trời Ðất đồng bền, cùng nhựt nguyệt đồng tu, đó là đạo thượng-phẩm Thiên-Tiên!
Còn tu trung thừa là giữ lòng thành trai giới, bái Phật tụng kinh, một lòng theo thiệt, muôn niệm đều thanh, trên cảm Phật Trời, muôn linh xem xét, một điểm chơn linh chẳng muội. Ðến lúc liễu đạo biết chỗ xuất thần, về tới hư không thì sánh bực Tiên ban chẳng mất.
Còn tu bực hạ thừa, ban đầu tích công làm việc phương tiện giúp người lợi vật, bồi thêm việc lành, thường tưởng xét việc lầm lỗi, tánh chơn chẳng mất, thì linh-quang mới đặng hiển thông. Hoặc ẩn hoặc hiện như Tiên không khác, đó là bực hạ thừa. Trò có chí muốn học bực nào tôi sẽ dạy cho chơn khuyết?
Tôn-Bất-Nhị thưa: Ðệ tử muốn học thượng thừa Thiên-Tiên.
Trùng-Dương cười rằng: Như vậy thì trò chí đặng lớn.
Tôn-Bất-Nhị thưa rằng: Tôi lòng chẳng đặng lớn mà chí rất kiên bền, dẫu thân nầy có chết, chí tôi không mất đặng.
Trùng-Dương nghe qua biết người căn lớn, nói rằng: Phàm người ra tu học Ðạo thì phải tìm chỗ sơn-xuyên linh khí, chọn chỗ địa lợi mà ở an. Nay ở xứ Ðông-Ðộ, huyện Lạc-Dương linh khí đương thạnh chắc là có ra mấy vị Chơn Tiên. Như đến xứ đó tu chừng 12 năm, sẽ đặng thành đạo. Trò dám đi hay không?
Tôn-Bất-Nhị thưa rằng: Ðệ tử nguyện chịu đi.
Trùng-Dương ngó Tôn-Bất-Nhị rồi lắc đầu nói: Chắc đi không đặng!
Tôn-Bất-Nhị thưa: Ðệ tử bỏ chết quên sống, không sợ việc sanh tử, sao mà đi không đặng?
Tiên-sanh nói: Chết có ích thì nên chết, lợi người lợi vật cũng đáng, bằng chết không ích thì uổng cho tánh mạng. Từ đây đến Lạc-Dương xa hơn ngàn dặm, trên đường nhiều người phong-lưu lãng-tử, đứa hung chẳng ít, bằng nó thấy trò hình dung còn niên thiếu, sợ nó động tâm. Việc nhỏ thì cuồng ngôn ghẹo chọc, việc lớn thì hãm hiếp thất thân. Trò là người trinh liệt, nào chịu để cho nó làm nhơ, thà chết mà trọn tiết, trò muốn cầu trường sanh lại trở bị táng mạng, nên tôi chắc đi không đặng!
Tôn-Bất-Nhị nghe thầy nói, thầm nghĩ hồi lâu cũng chẳng chối từ, liền ra mao-am xông vào nhà bếp, biểu mấy người nấu ăn đi ra, rồi bà nhen lửa bắt chảo lấy dầu đổ vô chụm sôi, tay bưng chén nước đổ vào, dầu sôi gặp nước phừng lên, liền úp mặt vào bị dầu phỏng hết. Tôn-Bất-Nhị cam chịu đau khổ, vì mình muốn đổi sắc cho xấu, chớ hề than thở. Liền ra thưa thầy rằng: Ðệ tử nay đi đặng không?
Trùng-Dương thấy vậy vỗ tay cười rằng: Lành thay! Lành thay! Trong thế gian nào ai có chí lớn như vầy; thiệt không uổng công ta đến đây mấy phen.
Ông nói rồi đem việc âm dương diệu lý, tạo-hóa huyền-cơ công phu, luyện âm thành dương, siêu phàm nhập thánh, truyền hết cho Tôn-Bất-Nhị. Ông truyền rồi nói rằng: Người tu Ðại-Ðạo phải giả như kẻ chẳng biết chẳng hay, cũng như người phong điên, mới trốn đặng con mắt thiên hạ, khiến người không biết mình công phu tu hành có Ðạo. Ðến chừng đạt công thành rồi mới khá hiện thân thuyết pháp. Trò đợi trên mặt lành rồi, mau qua Lạc-Dương mà tu, cũng đừng lạy từ ta, đợi trò công viên quả mãn lên hội Bàn-Ðào sẽ gặp. Ông liền ngồi tịnh nữa.
Tôn-Bất-Nhị lạy thầy tạ ơn, mau ra khỏi mao-am, gặp mấy người tớ gái thấy mặt bà phỏng hết, đều hỏi duyên cớ sao vậy? Bà đáp rằng: Muốn chiên bánh cho thầy ăn, sợ tay bây chẳng sạch, nên biểu bây ra ngoài chơi cho tao chiên, rủi tay nước đổ nhằm dầu, phừng vô mặt tránh không kịp nên phỏng như vậy. Cũng tại cái tai nạn của tao, không hề chi, thôi bây đi làm công chuyện. Bà nói rồi liền vô phòng đóng cửa. Xét tưởng việc công phu của thầy truyền, làm theo khẩu khuyết, thiệt chỗ huyền diệu.
Cách hai bữa sau, Mã-Ðơn-Dương về, mấy đứa tớ đem việc dầu sôi phỏng mặt bà nói cho ông hay. Ðơn-Dương nghe nói than thở, rồi thẳng trước mao-am thưa cho thầy hay. Chẳng ngờ Trùng-Dương tiên-sanh hay trước. Ðơn-Dương lật đật vào phòng bà, thấy mặt phỏng hỏi rằng: Tại sao bà làm mặt như thế? Ðạo hữu sao không coi chừng để dầu phỏng như vậy? Nói chưa dứt lời, Tôn-Bất-Nhị trợn mắt ngó ông Ðơn-Dương cười hoài không nghỉ, chạy lại nắm tay ông nói rằng: Mầy phải đồng nhi của Tây-Vương-Mẫu không? Tao với mầy đi lên Thiên Cung! Mau mau! Nói rồi nhảy lên ghế giữa, tay bơi chơn nhảy hụt chơn té xuống, rên la chẳng xiết. Mã-Ðơn-Dương lật đật đỡ dậy nửa cười nửa khóc, phần thấy hình dung của bà như vậy trong lòng rất thương xót, chạy qua am thầy thưa rằng: Tôn-đạo hữu tưởng thành Tiên đặng, nay phát bịnh phong điên rồi!
Tiên-sanh nói: Chẳng phong điên, chẳng thành Tiên.
Ðơn-Dương muốn hỏi nữa, thấy thầy ngồi tịnh làm thinh, nên không dám hỏi. Liền trở ra trước nhà, buồn bực chẳng an.
Tôn-Bất-Nhị lại thấy Ðơn-Dương sao còn ở đó nên là một hồi, cứ kêu: Phong điên! Phong điên! Làm như vậy cho ông đi ra đặng bà thanh tịnh cho dễ, bà luyện cho đến tánh thể viên minh, thiệt hay vô cùng, trong lòng càng sáng-láng, mới biết là đạo chí huyền chí diệu. Bà lại lấy kiếng soi coi thấy mặt phỏng đã lành, chỗ đỏ chỗ đen, rất vui mừng khỏi lo ai chọc, chắc là giữ đặng thỉ chung.
Cách hơn một tháng bà cũng không tắm gội rửa ráy, tóc bỏ rối nùi, hình giống như ma, mặt mày tợ quỉ, nào ai mà biết bà là bà viên-ngoại! Chừng trong lòng vững vàng, chắc là chỗ Lạc Dương đặng tới. Rồi bà lại đem quần áo xé rách, buộc nhíu từ đùm, lấy lọ bôi trên mặt, la nói dữ-dằn, chạy ra trước cửa la lối om-sòm, kinh động mấy đầy tớ đều chạy ra ngoài. Chúng nó thấy vậy muốn lại kéo bà, rồi bà tay đánh miệng cắn, có một đứa thương bà nắm hoài không buông, bà cắn trên mặt nó một miếng, thất kinh buông ra, bà chạy khỏi. Bọn tớ thấy bà làm hung không dám theo nữa, chạy báo cho ông Ðơn-Dương hay.
Ðơn-Dương lúc ấy đương ngồi công phu, xảy nghe ngoài kêu vang lật đật ra coi. Ðứa tớ bảo rằng: Bà nay trở bịnh phong điên nhiều quá, chạy ra ngoài rồi. Ðơn-Dương nghe nói sợ e có hại, liền sai gia nhơn chạy theo, ông cũng chạy theo, lại thấy Tôn-Bất-Nhị chạy thẳng ra xóm, mấy người trong xóm chạy ra nhìn không biết bà là ai, nên bà chạy khỏi một đỗi ngó lại thấy người ta chạy theo, chắc trốn không khỏi; thời may có đống cỏ khô, chun vào mà trốn.
Mã-Ðơn-Dương cùng gia-nhơn theo hồi lâu không biết bà chạy ngõ nào nên đều trở lại. Tôn-Bất-Nhị dòm thấy mấy người đi xa, bà lén chun ra, rồi nhắm ngay hướng Ðông mà đi. Ban ngày kiếm xóm xin ăn, ban đêm kiếm chùa an nghỉ. Gặp chỗ vắng-vẻ không người, thì bà núp bóng cây nghỉ mát, có gặp ai hỏi thăm thì bà nói việc trên trời dưới đất, không nhằm chi hết; hoặc cười hoặc khóc, ai cũng tưởng là người phong điên, bỏ qua không hỏi, nhờ vậy mà đi đường đặng bình an, khỏi ai chọc ghẹo.
Bà thấy người nào tử-tế mới dám hỏi thăm đường đi. Cách hơn 2 tháng, tới huyện Lạc-Dương.
Thật là:
Một xuồng lá nhỏ du biển lớn,
Muôn trượng sóng dồi chẳng sợ kinh.
-
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
* * * * * * *
Giáng băng bào, thiên công hộ pháp,
Thiên diệu toán, chơn-nhơn chỉ mê.
Nghĩa là:
Mưa tuyết lớn, trên trời hộ pháp,
Thi tính hay, chơn-nhơn chỉ đường mê.
Có bài kệ rằng:
Sa đắm trầm-luân có mấy xe,
Ái hà lộn lộn sóng không dè,
Tu hành mới đặng lên cao bực,
Nào đợi trong vòng mới kiếm nghe.
Nói về bà Tôn-Bất-Nhị ra khỏi nhà họ Mã rồi giả làm phong điên đi đặng 2 tháng tới huyện Lạc-Dương. Ngoài thành có cái lò gạch bể, bà ở tại đó, thường bữa vô thành xin ăn, làm như người phong điên, mỗi ngày mấy đứa nhỏ chạy theo chơi giỡn, kêu bà là "Phong-Bà" luôn luôn. Vì vậy mà người người đều biết, nói bà là gái điên, không ai dám phá, bà mới đặng an lòng luyện Ðạo.
Thiệt y theo lời Trùng-Dương tiên-sanh nói: Ðại-Ðạo phải ẩn, giả làm phong điên mới đặng an tịnh. Khi đó trong thành Lạc-Dương có hai tên du-côn, không kể phải quấy chi hết tên là Trương-Tam và Lý-Tứ. Thấy bà Tôn-Bất-Nhị ở trong chợ xin ăn, tuy là trên mặt xấu xa, chớ cũng là người yểu điệu, răng trắng môi son; nếu mặt không có mấy chỗ phỏng thiệt đáng khách má hồng chẳng kém. Hai đứa côn-đồ xem thấy nhớ hoài trong lòng. Ðêm đó, gió mát trăng thanh, đi đến xóm làng lường gạt của dân, ăn uống say sưa về ngang lò gạch, Trương-Tam nói với Lý-Tứ rằng: Bọn mình vô lò gạch cùng Phong-Bà làm cuộc vui chơi!
Lý-Tứ nói: Ta thường nghe người nói, ai mà phá Phong-Bà chơi điều quấy thì một đời làm ăn chẳng đặng.
Trương-Tam nói: Mình là người Trời Ðất chẳng thân, Thánh Thần chẳng chịu, kể gì là thời vận khí số dài vắn? Nói rồi liền vô lò gạch. Lý-Tứ thấy vậy cũng đi theo. Hai đàng đi tới lò gạch còn chừng ít bước, liền thấy trên đầu có đám mây đen thinh không nổ một tiếng như núi lở đất sập trên đầu hai người. Trương-Tam và Lý-Tứ hồn phi phách tán sợ run.
Kế đó đám mây đen tan ra trời đất tối tăm mù mịt, ngửa tay chẳng thấy, dông gió ầm ầm, hai người lạnh thấu ruột gan. Còn trên đầu nổ như trống đánh nhức nhối cùng mình. Lý-Tứ lấy tay che trên đầu bị hạt mưa rớt sưng tay, mới biết là chẳng phải mưa. Lúc ấy không phương chạy trốn. Lý-Tứ mới la lớn lên một tiếng: Quả báo thiệt! Quả báo thiệt! Tôi biểu đừng đi không nghe lời, rõ ràng không sai!
Trương-Tam nghe Lý-Tứ trách, trong lòng nổi giận rồi xây xẩm chóng mặt, như có người xô, té hơn mấy lần lổ đầu xưng mặt, máu chảy dầm dề, rồi la và kêu Trời nói: Tôi không dám nữa. Một hồi lâu, mưa dứt mây tan, y nhiên trăng sáng. Lý-Tứ tuy bị mưa lớn mà không sao, còn Trương-Tam bị té mấy lần lổ đầu, xưng mặt rồi nói: Chẳng nên! Chẳng khá phạm Phong-Bà! Mới tính trong lòng mà bị như vầy, thiệt là linh quá!
Lý-Tứ nói: Vậy mới biết linh sao? Từ đây đến sau đừng có phạm nữa.
Trương-Tam nói: Tới chết tôi cũng không dám phạm bà nầy!
Lý-Tứ nói: Dầu ai cũng không nên phạm, chẳng luận Phong Bà mà thôi.
Hai người về tới nhà, Lý-Tứ mới đem việc thuật cho mấy đứa côn-đồ khác nghe, truyền hơn hai trăm người, bọn ấy nghe đều kinh hãi. Nhơn vì đó mà về sau mấy đứa côn-đồ không dám đến lò gạch nữa. Nên bà ở tại Lạc-Dương được 12 năm tham thiền luyện Ðạo, không ai dám làm quấy, cũng nhờ Lý-Tứ và Trương-Tam truyền ra. Trương-Tam và Lý-Tứ về nhà tự hối ăn năn, biết mình đã lầm rồi, làm sao mà chuộc tội? Ðêm rằm tháng giêng nọ, hai người nguyện cải lỗi, liền ra lò gạch lạy bà, chịu hối xin theo học làm lành. Bà thấy hai người vạm-vỡ không phương chạy trốn. Lý-Tứ thấy bà sợ bèn kêu rằng: Thưa bà, tôi là người muốn tìm học chuyện lành, xin bà an tâm.
Chừng ấy Tôn-Bất-Nhị trong lòng mới tỉnh, hỏi rằng: Hai anh ở đâu đến đây?
Lý-Tứ nói: Xin bà dung thứ, anh em tôi hôm trước tính điều chẳng phải, nên bị Trời phạt, mưa lớn trợt té lổ đầu, cả mình đau nhức. Vì ý niệm sai một chút mà báo ứng chẳng lầm; thiệt là Trời cao có mắt, nhà tối có Thần. Ðến nay, biết ăn-năn tu tỉnh, xin bà thứ tội.
Tôn-Bất-Nhị nghe nói không rõ nguyên cớ, hỏi rằng: Hai anh có làm điều chi quấy với tôi mà xin tội?
Hai người mới thuật chuyện ấy cho bà nghe v.v... Phân vừa dứt lời thì Tôn-Bất-Nhị mới rõ, rồi bà cũng ngồi mặc niệm giây phút nói rằng: Hai anh phân nãy giờ biết là có chỗ sai, hai anh lại đây xin lỗi tôi, ăn-năn muốn học điều lành, thì phải trước sau cho trọn, mới chuộc tội ấy đặng.
Lý-Tứ đứng dậy thưa rằng: Bà dạy trước sau cho trọn, là nghĩa làm sao?
Tôn-Bất-Nhị nói: Trước là biết lỗi phải cải, từ việc lớn chí nhỏ, chuyện phải thì làm, chuyện quấy thì trừ, lời hư chẳng nói, ý quấy chẳng sanh, và phải trường-trai giới sát. Bà nói tới đó, Lý-Tứ hỏi rằng: Thưa bà trường-trai giới sát nghĩa lý tôi chưa thấu, xin bà chỉ dạy.
Bà nói: Hai người hãy nghe cho kỹ: Trường-trai là ăn chay. Nhơn cái chay là một vật thanh khí, sách có nói: "Thượng phù giả vi thiên, khí chi khinh thanh. Hạ ngưng giả vi địa, khí chi trọng trược", nghĩa là: Khí nhẹ nổi bay lên trên làm trời; khí nặng trược chìm xuống thành đất. Cho nên ăn chay là lấy lòng nhơn của Trời, dung dưỡng thảo mộc là vật thanh khí, đặng dằn sửa cái tánh phàm, vì tánh phàm hay sân-si tật-đố, danh-lợi, dâm-dục, vọng các điều quấy, là nhơn thọ khí bẩm chất trược của cha mẹ, nên không đặng minh mẫn.
Ðến nay hai người gặp kỳ đại hội, các đạo hoằng khai; cũng vì có sự quấy trước mà thức tỉnh hồi đầu, đó là cũng như chay cái lòng, cải điều quấy trước. Nên hễ người ăn chay, trong chay thì ngoài cũng chay: gọi là trường-trai.
Còn giới sát là: chẳng dám hại con vật. Nên có câu: "Nhơn vật giữ đồng", nghĩa là người vật đồng nhau, cũng biết ham sống sợ chết, mừng giận thương yêu không khác. Vì mình ngày trước biết làm điều phải, may mới trở đặng nên người linh hơn muôn vật, mà nỡ nào ỷ mạnh hiếp yếu, ép lẫn ăn nhau để nuôi đây mà giết đó. Có câu: "Kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thinh bất nhẫn thực kỳ nhục. Cố quân viện ư bào trù". Nghĩa là: "Thấy nó sống chẳng đành giết chết, nghe tiếng kêu chẳng đành ăn thịt. Cho nên người quân tử chẳng khá đem các giống thịt vào bếp mà nấu". Ðó là người tu lấy lòng trắc ẩn như vậy. Nhưng mà việc giới sát ấy cũng chưa trọn, đó là giới sát bề ngoài mà thôi.
Còn cái tâm phàm thường hay lừng lẫy tính việc hơn thua; hoặc tham lam trộm cướp, ỷ chúng hiếp cô; hoặc lòn thưng tráo đấu, dâm-dục ép lành. Nói cho hết cái tâm phàm thì không phương xiết kể. Nên người tu phải sát cái tâm-phàm trước thì các việc mới đặng trọn bác-ái. Vậy kêu là: giới sát. Chớ không phải ăn chay cữ sát sanh là đủ. Cữ sát loài vật mà tâm mình không cữ thì có chỗ nào là tu? Hoặc ăn chay mà lòng muốn vợ chồng, ân ái, mưu thâm ý độc, sang đoạt của người, lấy vợ con người, ý muốn lòng tham; hoặc mắt dòm miệng chọc, các việc đều vọng chuyện quấy, thì mình phải sát nó cho chết. Phàm-tâm tiêu rồi thì đạo-tâm mới sanh đặng, lẽ sâu kín của đạo mới thấy đặng. Chớ không phải nói người có đạo là đủ. Bởi cái Tâm là nịnh thần, kêu là "Ðòn xóc hai đầu", nay tính phải, mai tính quấy. Làm Phật làm Tiên cũng tại nó; làm người làm thú cũng tại nó; vua tôi xa nhau cũng tại nó; cha con, anh em, vợ chồng rời rã, bậu bạn chẳng thiệt cũng tại nó. Vì nó mà làm chìm đắm linh hồn của người.
Nay hai người biết tu hành thì lập bản dạng cho đạo, ông bà đặng tiếng ngợi khen, hai người cũng danh thơm tại thế. Như muốn tinh tấn thì phải nghe lời ta dặn lần nữa.
Ðiều thứ nhứt: Trước ăn chay phải nhớ hồng nguyện mà giữ qui-củ làm theo, trên dạy phải vưng. Thường ngày quì hương, tụng kinh, phàm-tâm thâu buộc; xét lời đạo-đức, sửa lỗi ngày xưa, thầm nghĩ một mình mà sợ trong nhà kín có Thần, người không thấy chớ Thánh Thần soi thấu thì tự nhiên tội hết tai tiêu.
Ðiều thứ nhì: Hoặc có khi thầy thấy việc quấy, rầy la nói hiếp, cũng không nên đối đáp trả lời; hoặc ông bà cha mẹ nói điều chi không vừa, chẳng nên trái ý. Ai ai cũng đồng chẳng nên khinh dễ nặng lời; dầu lỡ nói phạm, thì cải hối ăn-năn. Ðừng làm cho cha mẹ buồn rầu mà tổn khuyết công tu luyện.
Ðiều thứ ba: Hoặc anh em, chị em có khi trái phải gây việc hơn thua, thì đêm hôm tăm tối sửa dạy cùng nhau, em quấy chị rầy, chị hư em gián, tuân theo điều luật lấy lễ nghĩa mà phân, không nên tranh đấu om-sòm mất chỗ bản dạng, người ngoài dòm ngó mà thối chí không tu, người trong đạo buồn lòng ngã theo Tài Sắc, khiến kẻ sau không dám nương theo. Như vậy thì tại mình làm hạnh xấu mà ngăn lấp mối lành, tội ấy phải bị đọa địa ngục.
Ðiều thứ tư: Hễ các người trong đạo ta phải làm theo lời ta, trên thì dạy dưới. Như việc ăn mặc, tùy duyên an phận, quần vải áo bô, che ấm qua ngày mà nương theo thời-thế, chớ không nên nhởn-nha đua sánh mà lãng phí của trời. Kẻ trước sai một phân thì người sau sai một tấc mà hư mối đạo của ta. Ta không lẽ khoe mình, nhắc đến việc của ta thì không phương phân xiết.
Hai người nghe bà nói liền đứng dậy thưa rằng: Thưa bà có việc chi xin bà cho chúng tôi biết?
Tôn-Bất-Nhị thấy hai người hỏi hoài, nên bà thuật đầu đuôi việc của bà cho hai người nghe v.v... Hai người nghe bà nói các việc tâm phúc cả hai đều sa nước mắt, liền lạy tạ ơn. Rồi bà biểu hai người đứng dậy nói rằng: Nầy Lý-Tứ và Trương-Tam, vì ta biết hai người có lòng lo tu, chắc là muốn nối giềng mối của ta phải chăng?
Hai người nói: Thưa bà phải, anh em tôi muốn giữ giềng mối cho bà và lập bản dạng cho anh em tôi đặng ngày sau khỏi tái sanh đường ái dục.
Tôn-Bất-Nhị nói: Vì ta biết sức ta tuy tuổi nhỏ, mà chắc sống không đặng mấy năm. Vậy các người y lời ta dặn dò ở chỗ nầy: Anh em rán tu cho trọn thỉ trọn chung, ngày sau tu lâu có đức cảm đặng lòng người. Như cô khôn đạo phát tâm, ta còn mạnh thì ta coi, chẳng may ta mãn rồi thì anh em chị em cứ lấy qui-củ mà sửa mình. Nam nữ phải tỵ hiềm riêng, trai gái giữ lòng, đừng để phóng tâm. Một chút ham vui mà đọa lạc nhơ danh ngàn thuở. Thôi công việc ta phân sớm giờ, hai người phải ghi tâm tạc dạ, dẫu mà còn một tấm tranh cũng ở đây đến chết mà thôi. Hoặc anh em có cay đắng thế nào, cũng nhẫn với nhau mà ở, đừng có phân tâm chấp trách, kẻ Bắc người Nam thì bỏ lòng ta mà mang chữ bất trung bất hiếu.
Hai người nghe bà phân dứt lời liền như chiêm bao mới tỉnh, nói thầm trong lòng rằng: Theo như mấy lời bà phân đây thì nghĩ mình tự nhỏ đến lớn, tội lỗi biết chỗ đâu mà chất cho hết. Liền đứng dậy lạy bà, xin bà lập thế bày cho anh em tôi làm ăn mà tu qua buổi sống.
Tôn-Bất-Nhị nghe phân như vậy, biết họ thiệt tự hối thế nào cũng ở chỗ nầy, bèn nói: Như hai người biết ăn-năn sửa mình thì phải chịu cực mới đặng. Bây giờ phải vô rừng cắt tranh cất một cái chòi, đặng có chỗ ở riêng, chuyên nghề cắt bàng đổi gạo sống qua ngày, hai người chịu không?
Hai người đứng dậy thưa rằng: Anh em tôi vưng lời bà. Hai người nói rồi vào rừng cắt tranh và lợp một cái chòi rồi cũng chuyên nghề ấy làm ăn, đặng hơn một năm có hơi tấn phát. Ban ngày cắt bàng đổi gạo, tối về sám hối quì hương.
Bữa nọ trở về chỗ cũ, gặp anh em hồi trước biện nói công việc ấy cho anh em nghe, thì mấy người bạn cũ tiền căn có sẵn, chịu theo 50 người, còn mấy mươi không chịu. Chừng ấy Lý-Tứ dắt về chòi tranh, ở hơn mười ngày, tương dưa khổ hạnh mà mấy người đều vui như hồi còn rượu thịt.
Qua bữa sau, Lý-Tứ dắt mấy người vào lò gạch thưa cho bà hay. Tôn-Bất-Nhị hỏi: Mấy người ở đâu?
Lý-Tứ đứng dậy thưa rằng: Thưa bà, mấy người hồi trước đón đường ăn cướp với tôi một chỗ. Ðến chừng tôi đi thì mấy người không hay là đi đâu. Cách hơn mười ngày nay, tôi có trở về gặp mấy ảnh thuật chuyện đạo-đức, luân-hồi quả báo, tội phước cho mấy anh nghe, biểu mấy ảnh cải dữ theo lành, thời may Trời Ðất xui khiến 50 người đều ưng chịu ăn chay, xin tôi dẫn về đây thưa bà hay, xin bà thâu dạy.
Tôn-Bất-Nhị nghe Lý-Tứ nói mấy người đặng tự tỉnh, nói rằng: Lành thay! Lành thay! Biển lớn không bờ, trở đầu tới mé. Vậy mấy người rán giữ lòng ăn chay, còn chuyện đạo ngày sau bàn tới.
Lý-Tứ nghe bà nói, trong lòng nghĩ rằng: Vì thầy là đàn bà, tới lui thường cũng ngại, nay đã sẵn có mấy người mới vô ăn chay mà chưa nghe được việc đạo, sợ e lâu ngày nản lòng mà ngã, hoặc nghỉ ăn chay, hoặc ra có vợ, thì cũng uổng. Ðể gắng xin bà giảng ít điều cho mấy người nghe, liền thưa rằng: Thưa bà từ-bi miễn chấp, vì tôi cùng mấy anh mới ăn chay chưa thấu việc đạo, xin bà dạy ít điều đặng anh em tôi noi dấu.
Bà hỏi: Ngươi muốn hỏi điều chi?
Lý-Tứ thưa: Tôi thấy cũng ngán, chẳng hay từ xưa đến nay tại duyên cớ chi mà người tu trong đại-đạo, có người ăn chay đã lâu năm mà cũng ngã? Xin bà chỉ dạy.
Ðáp rằng: Người ăn chay lâu năm mà ngã cũng có duyên cớ mật nhiệm, ngươi khá hiểu mà giữ mình.
Bởi người ăn chay thì ý nhứt quyết thoát đường ái dục, cho khỏi kết oan-trái ngày sau đặng tìm ngõ Thiên-Ðường mà thoát tam-đồ khổ là: trấn nước, đốt lửa, chặt bằm. Các việc ấy đã biết rồi, nhưng mà do nơi đây. Vì nhơn duyên tiền kiếp sát hại oan oan tương báo, hồn oan còn chờ nơi âm-phủ đặng trả hờn ngày xưa. Ðến nay may gặp Tam-Kỳ khai hội biết thức tỉnh hồi đầu, nguyện trường-trai giới sát, thì có thiên-thần hộ-pháp đều hay, tâu lên Thiên-Ðình, nói tên ấy ăn-năn cải hối.
Còn người nhập môn thì sớ dưng lên. Nên Ngọc-Ðế chấp chưởng cho sắc U-Minh hay. U-Minh Giáo-Chủ tiếp đặng sắc của Ngọc-Ðế, liền kêu phán-quan giở bộ coi mấy tên đó có hay không. Phán-quan coi thấy rõ ràng, bèn gạt sổ bỏ tên.
U-Minh Giáo-Chủ phất ba-tiêu kêu các oan hồn tựu đến rằng: Tên Xoài từ khi chuyển biến nhiều kiếp, sát hại các ngươi, có kẻ tới số, người chưa tới số oan ức rất nhiều. Ðến nay ta đặng sắc Ngọc-Ðế nói tên ấy đầu nhập Phật-môn, nên ta cho các ngươi hay. Nó ở thế gian nguyện trường-trai giới sát, theo về dân Phật, vậy các người ai còn oan ức, kết cừu với nó thì ta cho đi, chớ từ nay đến sau nó không còn trở lại đây nữa. Như ai muốn rửa hờn thì đi, bằng không đi ngày khác trả không đặng chẳng nên trách ta dung dị.
Các oan hồn nghe U-Minh Giáo-Chủ phân đều đứng dậy thưa rằng: Vậy Ngài cho anh em tôi lên trả oán cách nào?
U-Minh Giáo-Chủ nói: Ta cho phép tự do, muốn trả thế nào tự ý. Ngày trước nó làm nhiều việc oan ức mà các người không thế chống đương thì bây giờ trả cho vừa ý. Chớ ta không dung ép hai đàng, nếu như dung kẻ nầy chế kẻ kia thì mất chỗ công bình của ta hay sao? Các oan hồn chịu đi hết.
U-Minh Giáo-Chủ nói rằng: Các ngươi nghe ta dặn: mỗi người phải lãnh một tờ nầy, giữ cho kỹ chẳng khá để mất. Rồi trở lên thế gian khảo nó chừng nào nó ngã thì hai đàng ngày khác làm sao tự ý. Bằng như khảo không đặng đến ngày nó xuất Tánh về Trời thì các ngươi trở lại trả tờ cho ta, ta cho qua Ðông Nhạc đầu thai hết thảy. Ðó rồi các oan hồn lãnh tờ cả thảy đều đi lên thế gian, nhập khiến người ăn chay tung hoành sửa tánh, khiến cho kẻ ăn mặn, người thì muốn sắc; hoặc tham danh lợi, hỉ nộ sân si, hoặc khi dể ông bà cha mẹ, cô bác, chị em; ỷ chúng hiếp cô, ép người lấy của; hoặc khiến tham điều ân-ái phá vợ con người; hoặc ý niệm âm thầm, tuy không lộ ra, mà tình ý đã niệm trước; hoặc khiến trai thì rượu trà hút xách, kẻ ép người khuyên, say sưa nhiều lẽ. Chừng ấy khi đã say rồi thì mặn lạt nào hay, kể chi là mặn chay... xấu hổ. Lại khiến gái thì son điểm phấn dồi, quần nầy áo nọ, kẻ thì sửa dạng thuyền-quyên; người lại soi gương đánh phấn. Xấu lại làm cho đẹp, thiếu ăn lại thể người giàu.
Vì vậy mà lâu ngày phàm-tâm xui dẫn mới bỏ ăn chay. Nên người tu phải cho tỉnh, phàm việc chi trái lý đạo, tức là oan ma khiến dắt làm cho mình buồn giận, trách phiền mà bỏ đạo, ấy cũng tại nó muốn trả hờn ngày trước, vậy mà có ai biết chăng?
Lý-Tứ nghe bà phân dứt, thấu đặng, thưa rằng: Các việc anh em tôi vưng nghe, cầu bà từ-bi cho tôi hỏi thêm đặng học. Chẳng hay có người biết chỗ tu hành tuyệt dục là đứng ban đầu, quí hơn muôn việc. Cũng có nghe: Trai tiên không vợ, gái ngọc không chồng, sánh đặng bực Tiên Thánh thì phải rồi. Vì sao giữ đặng mấy năm cũng ngã?
Bà đáp: Nhơn việc nầy thiệt khó tỏ hết đặng. Vì cái Ðạo là chí quí chí trọng sanh Trời sanh Ðất, sanh người sanh thú, thảo mộc các loài. Bởi ai cũng biết chỗ ái tình dâm-dục là một việc tồi bại, hổ thẹn với đời, mà sao người người đều muốn vào chỗ đó? Nhơn nguyên-căn của dâm-dục đã lâu, từ ông bà mà truyền sanh cha mẹ, cha mẹ mà gieo xuống đến mình, giống trước thì phải gây ra giống trước. Tỷ như cây đắng thì sanh trái đắng, có chi lạ. Ðến nay mình đặng gặp kỳ hạ-nguơn mở hội tiếp dẫn nguyên-nhân, may mà biết thức tỉnh hồi đầu, cùng nghe việc luân hồi quả báo, các việc chơn giả mới đổi tánh ăn-năn. Dám đến trước Phật tiền lập hồng thệ đại nguyện, trường-trai giới sát, lãnh qui giới tinh nghiêm tự thỉ chí chung chẳng dám đổi lòng.
Từ đó đến sau thì ông bà ở suối vàng có chỗ an nghỉ, hoặc được siêu thăng Thiên-Ðường, như vậy cũng là một việc quí báu cho người tu. Bằng như ngày sau khai trai phá giới thì chịu thân nầy vĩnh đọa địa ngục.
Bởi chẳng qua tình ý niệm sai, tánh càng ngày càng đổi, bỏ công phu quì hương, lo điều tài sắc, đạo-đức không ham. Do đó mà lần lần dời tánh: hoặc trai lụy chỗ sắc, gái lụy chỗ tài, hễ trai thấy gái phải lòng thì liếc trừng trêu giỡn, bày chuyện nguyệt hoa. Còn gái thấy trai vừa ý thì sửa dạng sửa hình, qua lại đẩy đưa, không giữ nết na trau mình, đạo tâm chẳng cố. Ðến chừng phóng ý ra rồi không ai can dứt cho đặng. Chừng ấy Thánh Thần chẳng hộ, thiên hạ đều chê, dưới chín suối cửu-huyền thất tổ trở lại địa ngục mà chịu khổ như xưa.
Than ôi! Nhơn việc ấy mà từ xưa đến nay, hư trong đạo biết bao! Thẹn cho người lành biết mấy! Ta lại thấy nhiều người thân ở trong đạo mà lòng ra ngoài đời, bỏ chỗ công mà lo chỗ tư, làm cho mối đạo bại hoại, mất chỗ bản dạng biết mấy! Hoặc làm việc tư lý mà dẫn dụ kẻ sau, như vậy thì tội lỗi nào xiết kể! Ấy cũng tại người làm đầu mà hư hỏng trong bản dạng, không tỉnh lấy mình. Lại nói: Ai làm quấy có phần, chớ theo phép có câu: "Tội hữu sở khuy, tội qui vu trưởng", nghĩa là: Người lớn trong đạo không giữ mình, làm điều chẳng phải cho người nhỏ noi gương theo, thì tội đổ về người lớn. Vì lớn chẳng chánh, chẳng thể đường ngay, không giữ qui trình của Phật, lại làm gương xấu cho kẻ hậu học hư luôn. Như vậy mà nói độ người, độ mình, thay mặt cho Trời, thế lời cho Phật, chẳng phải thẹn với vô hình lắm sao? Nên người tu hành nguyện vào cửa Phật thì cũng như gởi thân cho Phật, sống thác tự Trời. Dẫu ngàn cay muôn đắng, khảo trở thế nào cũng cam, lại còn sợ có tội ngày trước, thì càng vui lắm vậy! Tỷ như mình có bịnh mà rán uống thuốc đắng mới hết bịnh.
Vì vậy người tu phải hay chịu nhịn, chịu ép các việc nặng nề, oan ức, mà lập chí cho kẻ sau bắt chước thì mới đáng người thay mặt cho Phật. Chớ như nói tu mà làm gương xấu thì lẽ nào trốn cho khỏi luật Thiên-Tào. Hiện nay trái ý thầy nghịch ý người, còn dưới u-minh thì ông bà thẹn thầm nơi chín suối làm sao gọi là người tu? Cũng có người nói: Như lớn không làm quấy, mà nhỏ có ngã đó rồi người lớn cũng tội hay sao? Không, nghĩa là buộc người lớn cho chánh, đặng làm bản dạng, còn kẻ nhỏ nó làm quấy thì nó chịu, ai có tội nấy bị hành, không ai chịu thế đặng.
Còn mấy lời ta nói đây, như người xuất gia phải hết lòng trung với đạo. Chí tử bất biến, thủ tử thiện đạo. Nghĩa là khảo chết chẳng đổi lòng, đạo lành không xao lãng. Người tại gia cũng vậy, lúc chưa tu thì vợ chồng, còn buổi vào cửa Phật, thì lòng ai nấy giữ, đạo ai nấy lo, thế nào cũng thành đặng.
Tôn-Bất-Nhị phân dứt rồi khen rằng: Lành thay! Lành thay! Lý-Tứ là người tiên căn đạo cốt, nên biết chỗ hỏi mà để mấy lời thức tỉnh cho hậu học giữ mình, chắc từ đây đến sau mối đạo vững đặng.
Chư hiền coi thấy chỗ nầy khá quyết thoát luân-hồi, việc trường-trai giới sát thế nào cũng rán giữ cho trọn thỉ trọn chung thì mới không phụ công ơn của Lý-Tứ biết hỏi. Có câu rằng: "Ðắc ngôn nhứt ngữ, thắng thiên kim". Nghĩa là: Ðặng một lời nói hay thức tỉnh cho đời, tuy đặng ngàn vàng chớ khó mua lời quí báu.
Bà giảng hết mấy điều liền kêu mấy người hỏi rằng: Vậy các người nghe qua mấy lời của Lý-Tứ hỏi đó có thức tỉnh hay chăng?
Mấy người thưa rằng: Anh em tôi nghe các lời của sư huynh nên biết ăn-năn cải-hối theo về đến đây. Nay Trời khiến nên đặng nghe mấy lời bà diễn giải quí hơn vàng ngọc, anh em tôi đồng nguyện sống thác một lòng xin bà thâu dạy.
Tôn-Bất-Nhị thấy mấy người đồng tâm, liền sai Lý-Tứ lên chợ mua ít lễ mọn, còn bà ở nhà lo việc sớ sách, qua ngày sau thiết lập trai-đàn tại lò gạch, cầu đạo cho mỗi người, truyền ban khẩu quyết rồi giao công việc cho Lý-Tứ dẫn về chòi tranh, anh em cũng đồng tâm mua đổi, độ nhựt qua ngày, tuy lao lực tương rau chớ đạo ai nấy giữ.
Bữa nọ có một người vạm vỡ hỏi bà rằng: Như tôi ăn chay thì cũng đặng; nghề nào cũng là nghề làm ăn, xin bà cho tôi trở ra theo nghề cũ, thế có đặng chăng?
Tôn-Bất-Nhị nghe nói biết tên ấy chưa thấu cơ đạo mà còn háo thắng bèn nói rằng: Người nói như vậy, thôi để ta hỏi ngươi: Vả chăng ngươi là một người anh hùng, ai ai cũng kiêng sợ. Tỷ như ngươi ở trên núi, nghe có cọp dữ trong rừng, không ai dám đánh thì ngươi làm sao?
Người ấy tánh hay háo thắng lên tay nói rằng: Thưa bà, tôi nghe thì liền lấy dao đến trừ loài độc, chớ để nó làm chi mà hại thiên hạ.
Bà nói: Như vậy cũng phải rồi! Còn như ngươi nghe có một vị Phật trong hang rồi ngươi làm sao?
Thưa rằng: Hễ tôi nghe có Phật, thì tôi mau mau sắm lễ đi thỉnh đem về thờ.
Bà cười nói: Như vậy thì ngươi cũng không nên làm nghề cũ nữa!
Hỏi rằng: Tại sao không nên làm?
Bà đáp: Ngươi đã biết cọp dữ mau mau đem dao trừ giết chẳng muốn để nó sống làm hại người ta. Còn ngươi muốn trở làm nghề cũ đi trộm cướp lấy của người ta. Như vậy thì có ai dung tha ngươi đâu? Còn như ngươi nghe có Phật trong hang, ngươi mau sắm lễ thỉnh về thờ. Vậy thì ngươi hãy thể như ông Phật là tốt hơn!
Người ấy nghe mấy lời dường như say mới tỉnh, lạy mà chịu lỗi, tự hối ăn-năn, nói: Tôi từ đây sắp sau lo tu bĩ theo việc đạo đức, không dám vọng lòng quấy nữa.
Kế đó có một người tuy hung mà tánh tình chơn chất, có nhiều chứng bịnh ngầm, y sợ tu không đặng nên thưa thiệt cùng bà rằng: Thưa bà, vì con cũng có lòng muốn tu hành, mà sao có tánh hay xao lãng, xin cầu bà chỉ dạy.
Tôn-Bất-Nhị hỏi: Vậy chớ trò có tánh xao lãng mà xao lãng việc chi? Nói cho ta biết ta sẽ chỉ dạy.
Thưa rằng: Thứ nhứt, ý con hay niệm tưởng các điều quấy chẳng sót việc nào mà không niệm. Có lúc ghét thầy, khi đạo, muốn việc ái-ân; hoặc thấy ai bóng sắc ý còn tư-tưởng; hoặc khiến tham lam tiền bạc. Cũng có khi không muốn quì hương công phu, hoặc tranh việc hơn thua, ai chê chẳng chịu. Có khi cha mẹ nói chẳng vừa ý, muốn sân si, ai can chẳng kể, hoặc có khi muốn trở về trần. Hoặc có việc oan-ức, ý không dằn đặng muốn làm sao trả hờn mà thôi. Vậy cầu bà có thế chi cứu giùm tôi, tôi đội ơn bà ngàn thuở.
Tôn-Bất-Nhị cười rằng: Việc ấy tại ngươi, mà thành bại siêu đọa cũng tại ngươi! Vậy ngươi nghe ta nói: Các bịnh của con người, vì ban sơ cũng muốn tu cho thành đạo, chẳng mến cuộc trần. Lần lần lâu ngày ở trong chùa không đặng thong thả, hoặc ăn mặc thua người, tiền bạc có ít không đủ trang điểm tiêu xài, hoặc có việc hơn thua với người, không đặng tranh đua phải quấy. Rồi từ đó mới sanh nhiều tạp niệm. Trai thì sanh điếm đàng cờ bạc, gái thì trang điểm phấn son, hễ các việc nhiễm rồi thì không phương thoát khỏi. Nay ngươi biết tỉnh ăn-năn sớm như vầy cũng là có chí lớn. Vậy ngươi muốn trừ bịnh ấy, thì làm như vầy: Trước mình phải hỏi lòng mình: "Ta đã muốn tu mà trả ơn cửu-huyền, tránh đường luân chuyển; ngày trước ta không đủ trí, khờ dại, nhiễm theo điều quấy vì trong chỗ ái-ân mà chịu khổ muôn kiếp đời đời, không phương nhắc kể! Ðến nay ta muốn lánh các điều khổ, thì mầy theo ý tao mới phải, sao mầy lại xúi giục tao vào chỗ quấy thì tao đâu chịu việc thẹn nhơ, dầu mầy ép thế nào tao cũng nguyện: Sống thì tu, thác thì về, các việc ấy tao không hề nhiễm đến". Rồi đó ngươi tự lấy ý mà cự; hoặc muốn sắc thì cự sắc. Suy nghĩ như vầy: Việc ấy chẳng qua là đường thầm nẻo tối, dơ không xiết kể, sống thì tốt tươi, chết không ai dám cận! Có chỗ nào mà vui tưởng việc sắc đặng? Hoặc muốn tài thì lấy tài mà cự. Tỷ rằng: Vì ngươi mà ta phải anh em xa biệt, máu thịt rã rời, vì ngươi mà khiến giục cho ta phải dầm sương phản mại, đêm tính ngày lo. Ðến nay ta đặng tỉnh rồi, thì ta coi ngươi là một đứa bạc-bẽo vô tình biết mấy! Nay ở người nầy, mai sang người khác, vậy ta cũng chẳng hề tùng theo ngươi đâu.
Việc nào muốn nhiễm vào lòng ngươi, ngươi biết việc ấy là hại mà cự không lại, thì vô bàn Phật cầu nguyện; hoặc nhịn đói mà trừ việc ấy; hoặc quì hương phạt mình, đặng việc nào cự đặng thì ép, miễn cho mình làm chủ thì thôi. ít lâu như vậy thấu cảm không trung, cho âm-thần bảo hộ. Còn các oan trái biết mình minh chánh, chí đáng trượng phu nó trở lại hộ mình, thì tự nhiên các bịnh ấy đều dứt hết. Kêu là: "Trì kỳ chí, vô bạo kỳ khí". Nghĩa là: Ta sợ giữ không đặng cái chí của ta, chớ như ta làm chủ cho ta, thì khó ai lấn đặng. Chớ cái khí là việc giận hờn cũng có thể ép đặng.
Tên ấy còn tham tài, nghe dứt liền hỏi: Thưa bà, không biết làm sao mà cầu đặng phước?
Tôn-Bất-Nhị nói: Phước đâu mà cầu? Mình làm phải thì đặng phước gặp phước, chớ không nên cầu phước. Nếu nói như ngươi ai muốn cầu cũng đặng, chắc là cả thảy cũng đặng giàu sang! Có câu: "Làm lành đặng phước, làm dữ mắc họa". Ðó là lẽ tự nhiên của Trời Ðất định rồi. Họa phước tự mình làm, cũng như: "Học thì nên, không học thì dốt". Sách không học, mà biết chữ sao đặng? Ta nói nhón ít điều chắc lẽ ngươi cũng thấu.
Tên ấy nghe nói, quì lạy tự tỉnh, từ ấy đến sau anh em ở đó tu luyện đặng hơn mười năm, kẻ trước người sau qui lần, đều đặng siêu thăng hết thảy. Sau người coi tới chỗ đó có làm thi rằng:
Chơn nhơn ở đó học huyền-công,
Ðộ đặng côn-đồ chí rất thông,
Bởi tại ép mình trừ độc dữ,
Nhờ ơn Hộ-Pháp với Thiên-Công.
* * * * *
Việc bà Tôn-Bất-Nhị còn dài, đây nói qua Trùng-Dương tiên sanh ở tại nhà ông Mã-Ðơn-Dương hơn một năm, trong xóm có người bàn luận rằng: Mã-viên-ngoại chẳng biết hưởng phước, khi không mà đem gia tài cho người ta, làm cho bà buồn rầu phải điên, không biết chạy xứ nào. Có một người chừng hơn 50 tuổi tên là Ðoàn-An-Nhơn nói rằng: Tôi lúc trước có đến thăm viên-ngoại không thấy người đàn bà nào ở đó, chỉ có đàn ông mà thôi. Tôi hỏi ông viên-ngoại đi đâu? Mấy người nói: "ở sau mao-am nghe thầy giảng đạo". Tôi liền đi thẳng vào, thấy Trùng-Dương cùng viên-ngoại ngồi nói chuyện. Viên ngoại thấy tôi tiếp hỏi dẫn ra nhà trước, tôi hỏi thăm bà đâu? Viên-ngoại nói: Bà có việc tu của bà, tôi có việc đạo của tôi, đâu biết đặng. Rồi tôi hỏi mấy người tớ gái sao không có ở thì viên-ngoại nói: Trai cho cưới vợ, gái cho cưới chồng, đều riêng tư phận. Tôi hỏi: Cất mấy cái mao-am làm chi? Viên-ngoại nói: Ðể cho mấy người tu hành đến ở. Tôi hỏi: Trùng-Dương tiên-sanh sao không thấy ra ngoài? Viên-ngoại nói: Thầy tôi lo tịnh dưỡng chẳng chịu nói việc tục.
Rồi tôi chào ra về lại gặp Mã-Hưng mời tôi lại nhà chơi.
Tôi hỏi: Nhà nầy khi trước vui lắm, nay sao vắng vẻ, giống in cái chùa?
Mã-Hưng nói: Chú không biết, nhà nầy bây giờ có ông Trùng-Dương tiên-sanh là người Thần Tiên sống, chẳng ham việc vui chơi, muốn điều thanh tịnh. Từ khi bà viên-ngoại đi rồi mấy người tớ gái đều cho về hết, để bạn tôi ở đây coi giữ, nên vắng vẻ.
Tôi lại hỏi: Làm sao mà biết Trùng-Dương tiên-sanh là Thần Tiên sống?
Mã-Hưng đáp: Phàm việc chi trong ngoài không ai cho hay mà ông cũng biết hết. Còn việc chi chưa đến hoặc ngày nào nắng mưa ông cũng biết đặng. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sống hay sao?
Ðoàn-An-Nhơn đem mấy việc nói hết cho mấy người nghe, lại có người họ Phan nói: Như y lời chú nói, là ông chắc biết việc quá khứ vị lai. Nay trong xóm mình bị hạn đã lâu không mưa, sao không ai hỏi ông chừng nào mưa? Mấy ông kia đều nói: Phải, như lời ông lão nói thì chắc đặng; vậy anh em mình đến nhà viên-ngoại đặng tỏ việc ấy cho ông hay. Nói rồi mấy người đi đến nhà viên-ngoại. Viên-ngoại dẫn ra mao-am, cầu Trùng-Dương tiên-sanh. Thưa rằng: Vì xóm tôi bị hạn đã lâu, nhơn dân đều khổ, làm ăn không đặng. Nay nghe tiên-sanh tu hành có đức, biết việc quá-khứ vị-lai, xin Ngài từ-bi nói dùm chừng nào mưa cho anh em tôi mừng, cám ơn Ngài ngàn thuở.
Trùng-Dương nói: Việc nầy nhờ ơn trên, chớ tôi siển bạc lắm, không dám lãnh việc quá-khứ vị-lai, nhưng mà tôi biết đâu chỉ đó.
Dứt lời Trùng-Dương ngồi mật niệm hồi lâu rồi nói: Như mấy ông muốn biết thì qua xóm bên Ðông, có một cái miễu Thổ-Ðịa, trên vách có định ngày mưa, đến đó thì biết. Mấy ông nghe nói lấy làm vui-vẻ, rồi tạ ơn trở ra thẳng qua phía Ðông, tới miễu Thổ-Ðịa, quả thấy trên vách có mấy hàng chữ, Phan lão liền đọc cho mấy người nghe:
Nhơn vương diện tiền nhứt đối qua,
Nhứt lản trâu châu chiếu Vương gia,
Nhị thập tam, thiên hạ đại võ,
Hòa thượng khấu, lý thổ nê ba.
Ở sau có 1 câu chữ nhỏ ra thai, Phan lão coi rồi cười rằng: Mấy câu nầy học trò con nít nó biên 4 câu thai chơi, có kỳ mưa gì đâu? Mấy người kia hỏi: Nó viết chữ gì mà ông không bàn đặng? Phan lão nói: Trên chữ Nhơn, dưới chữ Vương, thêm 2 chấm là Kim. ? Chữ Vương thêm 1 điểm là chữ Ngọc. ? Nhị thập tam hạ võ, kết lại là chữ Mãng. ? Hòa Thượng, bỏ chữ Hòa để chữ Thượng; Nê Ba là Ðất, Ðất là Thổ, chữ Thượng thêm chữ Thổ là chữ Ðường. Rõ ràng 4 chữ "Kim, Ngọc, Mãng, Ðường" nào có chỗ kỳ mưa?
Ðoàn-An-Nhơn chạy lại chỉ câu: "Nhị thập tam, thiên hạ đại võ" đây nói rõ ràng kỳ ngày 23 mưa lớn! Ông già cười nói không có. Ðoàn-An-Nhơn lại nói: Tuy mấy câu lời bàn chớ trong đó cũng có chỗ bí nghiệm, ông nói không chắc thì thôi hôm nay là 19, cách 23 không mấy bữa, để coi ngày 23 có mưa hay không? Chừng đó biết ông linh cùng không linh. Mấy người kia nói: Anh nói phải, để đến chừng đó sẽ biết! Nói dứt lời đều trở về hết.
Ðến ngày 23, mây đen đầy trời, mưa dầm dề, từ mơi đến chiều không dứt. Trong xóm người người đều tin Trùng-Dương tiên-sanh là Thần Tiên, chừng ấy tiếng đồn khắp nơi.
Kế có người ở phía Bắc, mất một con trâu kiếm không đặng, đến cầu ông chỉ giùm. Tiên-sanh nói: Trâu của ngươi ở xóm bên Nam, nằm trong ổ quạ tại trên cây lớn, muốn kiếm trở về trèo lên cây thì gặp.
Người ấy nghe nói tức cười hỏi rằng: Con trâu lớn mà sao lên đặng trên ổ quạ?
Tiên-sanh nói: Lại đó kiếm thì chắc đặng! Chẳng khá nói nhiều.
Người ấy nghe trở về qua phía Nam thấy có cây lớn, ngó trên ngọn thấy có ổ quạ, lật đật trèo lên coi, thấy có ổ không, giận lấy liệng xuống. Chẳng may nhánh cây khô rớt trên mặt liền gục đầu ngó xuống thấy trong xóm có cái nhà trống buộc con trâu, nhìn thiệt quả trâu mình, bốn phía cỏ che, thầm tưởng rằng: May quá! Phải không trèo lên cây cao ngó xuống làm sao thấy đặng. Liền lật đật trèo xuống vô xóm đó. Lại nhớ xóm nầy có người ăn trộm trâu, phải không nhờ tiên-sanh chỉ nói đêm nay có dắt đi xa, làm sao tầm đặng. Rồi đi thẳng vô nhà trống dắt trâu về.
Qua bữa sau, xóm bên Tây có mấy người lại hỏi tiên-sanh công việc nhà, có một đứa 14 tuổi hỏi rằng: Anh tôi đi buôn bán xa, mấy tháng nay không về. Xin ông làm ơn mách giùm chừng nào anh tôi về?
Tiên-sanh đáp: Về hỏi tay của mẹ ngươi thì biết.
Thằng nhỏ nghe qua tức cười nói: Anh tôi đi buôn bán đã lâu, chẳng biết đi gần xa, nên mẹ tôi biểu đến đây cầu ông chỉ giùm, mà ông lại biểu về hỏi tay mẹ tôi, làm sao biết đặng?
Tiên-sanh nói: Ngươi cứ nghe lời ta, đừng nói nhiều chuyện.
Thằng nhỏ nghe rầy không dám hỏi nữa, liền xá ra về.
Khi về đến nhà, thấy mẹ nó cầm cái thơ trong tay nói: Anh mầy ở Lai-Châu buôn bán, có gởi thơ về tao mới đặng đây, vậy mầy đọc cho tao nghe. Thằng nhỏ lấy thơ đọc rằng:
"Con kính lời thăm mẹ đặng mạnh giỏi. Từ khi cha quá vãng rồi, nhờ mẹ dạy nuôi đến đặng nên người. Nay con theo chí của cha khi trước, buôn bán cũng đặng thạnh lợi. Vì có bán chịu thâu chưa đủ nên trễ, xin mẹ an lòng. Ðợi chừng mùa Thu con mới về đặng. Vậy em ở nhà phụng dưỡng mẫu thân."
Thằng nhỏ coi rồi cười rằng: Thiệt rất linh nghiệm! Mẹ nó muốn hỏi việc chi linh nghiệm, bỗng thấy trước cửa có mấy người đến.
-
HỒI THỨ MƯỜI HAI
* * * * * * *
Chỉ tọa công, phân minh diệu lý,
Học chơn đạo, hỉ phùng minh sư.
Nghĩa là:
Chỉ ngồi công-phu, bày tỏ chỗ diệu lý,
Học đạo chơn, mừng gặp thầy minh-sư.
Có bài kệ rằng:
Ân ái buộc ràng giải chẳng khai,
Ngày kia thân bỏ khổ bao nài,
Nay đã buông tay không trở nệ,
Thẳng đến Diêu-Trì Bạch-Ngọc giai.
Lại nói thằng nhỏ đương muốn nói thầy biểu về hỏi cái tay của mẹ cho mẹ nó nghe, liền thấy mấy người đi đến hỏi thăm nhà họ Mã, thằng nhỏ hỏi: Mấy ông hỏi thăm nhà họ Mã đặng tầm ông Tiên sống phải chăng?
Mấy người nói: Phải.
Thằng nhỏ liền dắt đi, hồi lâu tới nhà họ Mã, may gặp Mã Ðơn-Dương ở trước nhà, thấy mấy người đến, mời vô hỏi mấy anh đến có việc chi?
Mấy người nói: Tôi đến cầu học Ðạo.
Mã-Ðơn-Dương nghe nói, liền dẫn ra mắt thầy. Có một người họ Ðàm tên Xử-Ðoan, hiệu Trường-Chơn-Tử, năm trước có bịnh trầm kha. Trùng-Dương tiên-sanh lúc mới đến Sơn Ðông xin ăn, có dạy việc trừ bịnh cho y, chừng bịnh mạnh rồi vui lòng ham Ðạo, tìm hỏi thầy mà không biết ở đâu. Nay nghe người nói tại nhà họ Mã có một vị Thần Tiên sống tên là Trùng Dương, nên mới biết thầy ở đây; và có dẫn một người cũng ham học đạo, họ Xích tên Thái-Thông, hiệu là Thái-Cổ, cũng ở chung một phủ. Còn mấy người kia cũng ham học Ðạo, nói chẳng hết tên họ.
Khi đó, Ðàm-Trường-Chơn lạy thầy tạ ơn ngày trước trừ hết bịnh rồi nay hỏi cầu học Ðạo.
Trùng-Dương nói: Pháp môn mở rộng cửa, ai có tới thì tới, có đi thì đi, ta cũng không dám cầm. Liền biểu Mã-Ðơn-Dương dẫn mấy người ra mao-am thứ nhì ở đó.
Cách ít ngày, cũng có ít người đến học Ðạo, tên Lưu-Xử Huyền, hiệu Trường-Sanh-Tử; người khác tên Vương-Xứ-Nhất, hiệu Ngọc-Dương-Tử, cũng người Sơn-Ðông. Mã-Ðơn-Dương tiếp hỏi, cũng nói cầu học Ðạo. Liền dẫn hai người ra mắt thầy, rồi Trùng-Dương tiên-sanh biểu đem ở mao-am thứ ba.
Bỗng đâu thấy bên Ðông tới một người, bên Tây một người, chừng một tháng tới hơn mấy mươi. Trùng-Dương thấy vậy biểu Mã-Ðơn-Dương chỉ đạo, dạy mỗi người công phu, phân việc đâu đó thứ tự. Các việc xong xuôi rồi tiên-sanh định ngày đem việc đạo giảng dạy chỗ tu hành công-phu cho mấy người nghe, rồi sắp đệ tử đứng hai bên cung thân nghe giảng. Tiên sanh nói: Thân người lấy Khí làm bổn, lấy Tâm làm căn, lấy Tánh làm mạng mới phát ra đặng. Còn Trời Ðất cách nhau tám muôn bốn ngàn dặm, người thì cái tâm thận cách nhau tám tấc bốn phân. Thận ở trong dưới rún một tấc ba phân, kết liền một mạch mà thông hơi thở trên dưới. Mối thông trăm mạch hễ thở, thở vô trăm mạch đều bế. Trời Ðất tạo-hóa xây vần cũng không khỏi hai mối hô-hấp. Hễ người hô-hấp trong tâm thận thì khí huyết đều thuận nguơn-khí đặng vững, thất tình chẳng động, trăm bịnh chẳng trị mà tiêu.
Còn phép ngồi công-phu mỗi ngày: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu bốn giờ ở trong tịnh thất, ngồi niệm cho dày, ngồi kiết dà, hồi quang phản chiếu đơn-điền, lấy bông nhét lỗ tai, dứt việc lo tưởng, ý tùy hô-hấp, vật-vọng vật-trợ, miệng mũi đều không thở. Ngồi chừng một giờ đồng hồ rồi nằm nghỉ, chẳng khá lao nhọc, đừng cho phiền giận mà tổn công-phu thì hại cái Chơn-Khí (Ai muốn biết tìm thầy chỉ thì rõ).
Có bài kệ rằng:
Ngồi nghỉ công-phu chẳng dụng đa,
Trọn nhờ luyện khí với trừ ma,
Phải đem chướng ngại đều bỏ hết,
Chớ để tâm đầu có võng la.
Chướng ngại không tu phiền não tụ,
Võng la không giải khổ ta-bà,
Rõ ràng chí-lý trao truyền đủ,
Ðừng để một hồi lại bỏ qua.
Tiên-sanh giảng nói việc công-phu, rồi xuống phòng an nghỉ, các đệ tử ai về phòng nấy.
Lại nói tỉnh Sơn-Ðông có một người họ Khưu, tên Xử-Cơ, hiệu Khải-Phát, anh em ba người, cha mẹ đều mãn sớm, Khải Phát nhờ anh chị thương cho học biết làm thi phú, mà không muốn việc công danh, ham tịnh dưỡng, có khi không muốn nói chuyện, dường như trong lòng có chỗ vui mà không ai biết. Nhiều khi anh chị khuyên lập công danh, Khải-Phát thưa rằng: Tôi nguyện học cùng cứu chỗ thân tâm, không muốn việc công danh. Anh chị khuyên cưới vợ thì Khải-Phát từ rằng: Em chí chưa đặng lập thành, há dám ràng buộc sự nhọc; để cho em thong thả. Lại thường hay cùng anh chị giảng nói: Người sanh ở đời chẳng tìm đường giải thoát khó khỏi việc buồn, trọn ngày tranh danh đoạt lợi tham luyến vợ con. Có khi vô-thường đến bắt thì muôn việc đều không; người gọi cuộc đời là chơn, chớ như tôi thấy dường như mây nổi sương bay, tỉ như giấc chiêm bao, bọt nước!
Có một lúc nọ anh em trong nhà không đặng hòa thuận, hai anh muốn tách ra đi. Khải-Phát nhiều khi can gián không đặng, liền mời hai anh ngồi thưa rằng: Xin hai anh an tâm, vì cha mẹ có ba anh em, chẳng may cha mẹ khuất sớm, lòng em hằng mộ đi tu, vậy hai anh ở chung với nhau mới phải, để sanh ý không hòa, chẳng sợ cha mẹ phiền muộn sao? Xin hai anh nghe nhắc sự tích: Có một ông nọ sanh năm người con, ba trai hai gái, nuôi đặng nên người, cưới gã đều đủ, lại để gia tài chừng 2000 lượng bạc, chưa lập tương phân. Chẳng may hai ông bà bất hạnh sớm. Anh em đồng tâm mai táng, công việc xong rồi bốn người em đòi tương phân gia tài đặng ở riêng. Người anh cũng nghe lời bốn em chia gia tài sự sản, kêu em nói rằng: Nầy mấy em, vì cha mẹ sanh có năm anh em, cha mẹ khuất sớm có để lại một chút ít, đến nay mấy em muốn chia, thì anh cũng y lời các em chia xong rồi. Nay anh muốn tỏ bày cùng mấy em như vầy, có em nào vui lòng không?
Bốn em thưa rằng: Xin anh có việc chi cứ phân tỏ.
Người anh nói: Ruột đất tiền bạc thì chia cũng phải, còn chuyện ở riêng, anh xin bốn em ở chung cho vui. Vì cha mẹ mới mãn mà anh em tư phân thì thiên hạ chê cười. Nói vừa dứt lời hai người gái và một người trai nói rằng: Không, bề nào cũng nhà ai nấy ở dễ hơn. Người anh nghe nói rất buồn, phân dứt mấy lần không đặng tủi thân sa nước mắt, bèn vào bàn thờ cha mẹ quì lạy than thở một hồi rồi kêu mấy em nói: Nầy mấy em, cha mẹ sanh mình lúc còn nhỏ thường ngày chơi vui giỡn, có cái chi tốt, ngon cũng ăn chung. Ðến nay cha mẹ khuất rồi, anh em cũng ở như vậy mới phải là tình cốt nhục thuận hòa, dẫu cha mẹ ở chốn suối vàng cũng đặng ngậm cười, còn mình ở tại thế thì đặng danh thơm mỹ mục. Sao mấy em không chịu ở chung? Vậy xin mấy em nghĩ coi: Hang kiến kia bao lớn mà cả hơn ngàn muôn con lên xuống tranh đấu, hễ con trước đi đâu, con sau theo đó. Con nầy kiếm đặng gạo, con kia kiếm đặng cơm, thảy không ăn riêng, đều đem về hang mà ăn chung với nhau. Nghĩ lại: nó là một con vật nhỏ nhít, tuy không biết nói mà còn có tánh thương nhau. Anh kiếm nuôi em nhỏ dại còn đặng, huống chi anh em mình linh hơn muôn vật, lẽ đâu kẻ Nam người Bắc, góc biển chơn trời, há chẳng thẹn cùng vật nhỏ?
Bốn em nghe anh thức tỉnh đều lạy anh xin lỗi, rồi cũng ở chung như thường, lo việc làm ăn, em quấy anh rầy, anh sai em nhắc, đêm hôm tăm tối giảng nhau. ở hơn bốn đời khỏi tranh một lời xử đoán. Hỡi ôi! Gương ấy tu cùng không tu cũng rán coi mà bắt chước. Lớn thì phải thương nhỏ, lấy lời khuyên nhủ trẻ em, hoặc thầy, hoặc cha, hoặc anh, đều nên thương kẻ dưới tay. Minh-Thánh Kinh nói: "Bất sức văn thần quá, bất diệu võ tướng công. Kỷ lục văn hoa điện, cử hạch kiến chương cung". Nghĩa là: Chẳng khá ép kẻ văn thần có lỗi, không nên dung võ tướng có công; vì kẻ có lỗi trong chỗ lỗi cũng có công, còn người có công trong chỗ công cũng có lỗi. Nên làm lớn phải châm chế, như có thưởng phạt thì đem hiện trước huê điện mà thưởng phạt, cho hai đàng thấy minh bạch công bình. Hễ em nhỏ phải nhượng kính bề trên, chịu trên sai khiến, hoặc trên lỗi phải chiều lòng giảng dứt, chẳng nên nặng lời mà tổn đức bình sanh. Hoặc trên xử dạy dưới thì lấy chỗ lễ nghi mà răn trị, không đặng ép quyền vì có câu: "Thượng huấn hạ dĩ lễ, hạ gián thượng dĩ quí". Nghĩa là: Trên dạy dưới lấy lễ mà dạy, dưới gián trên lấy qui trình mà can, thì khỏi chỗ hư hại nhơn-đạo cùng thiên-đạo.
Khải-Phát nhắc mấy lời cho hai anh nghe, từ đó đến sau y nhiên ở chung mấy đời, không tranh lời hơn thua.
Khi đó Khải-Phát nghe nhà họ Mã ở huyện Ninh-Hải có ông Trùng-Dương tiên-sanh đạo-đức tu hành, lại có người học Ðạo ở đó. Khải-Phát bình sanh ham việc đạo-đức, nghe nói ý muốn thưa anh chị hay, mà sợ không cho đi, nên sửa soạn tiền bạc, đem theo quần áo lén ra khỏi nhà, đi đến huyện Ninh-Hải. Tới nhà họ Mã, gặp ngay Ðơn-Dương hỏi rành việc Ðạo, cùng nói tên họ đem vô sổ. Lại có mấy ông: Ðàm, Lưu, Vương, Xích, thấy Khải-Phát cũng vui mừng nói rằng: Tuổi còn nhỏ mà phát tâm học Ðạo, thiệt cũng ít người có, liền dắt ra mắt thầy, rồi Ðơn-Dương thuật công việc cho thầy hay. Trùng-Dương nghe nói ngó Khải-Phát một hồi nói rằng: Thằng nầy học Ðạo không đặng! Vì nó lanh lợi thái quá, tâm ý tạp niệm rất nhiều, khó đặng thành đạo, mau sớm trở về.
Khải-Phát quỳ lạy thưa rằng: Con tuy nhỏ, chớ quyết một lòng học Ðạo, không có hai ý, xin thầy cho con ở lại học. Ðơn Dương cũng xin dùm mà thầy chẳng chịu, nói rằng: Chẳng phải ta bỏ nó, vì nó khổ căn lớn nạn, sợ ma nạn chịu không nổi mà sanh thối chí. Chẳng bằng không thâu hay hơn!
Khải-Phát muốn thưa cầu nữa, vừa cúi đầu lạy thì Trùng Dương tiên-sanh bỏ đi ra ngoài.
Ðơn-Dương cùng mấy ông thấy vậy không biết làm sao, bèn dẫn Khải-Phát đến nhà trước chỉ làm công việc. Qua bữa sau, Khải-Phát lạy thầy xin nữa, tiên-sanh hỏi rằng: Sức ngươi nhỏ mà muốn gánh đồ nặng, thế ngươi chịu nổi không?
Khải-Phát thưa rằng: Thầy dạy ý chi tôi không rõ?
Tiên-sanh nói: Ta nói ngươi sức nhỏ mà gánh nặng không nổi là nói: Ðạo lớn như Trời Ðất, còn sức ngươi phước ít chí hẹp nên sợ tu không đặng, nửa chừng trở ra mà hư trong mối Ðạo, ngươi cũng mang tội trong Phật-môn, nên ý ta chẳng cho.
Khải-Phát nghe mấy lời thầy nói trong lòng thấu đặng, thưa rằng: Tuy tôi sức nhỏ khó gánh nặng vật lớn, nhưng mà lòng muốn thì tôi lấy ý-chí liệu dùng cũng có khi làm nổi.
Tiên-sanh nghe nói biết là người có chí quyết tu, nên nói: Như trò muốn tu, việc còn lâu ngày. Nói vừa dứt lời, trở vô phòng đóng cửa. Còn Khải-Phát cứ làm công chuyện như thường. Qua ngày sau, Khải-Phát lạy Ðơn-Dương thưa rằng: Vì tiên-sanh không chịu thâu tôi, vậy xin lạy ông làm thầy.
Ðơn-Dương nói: Không đặng! Cầu, phải cầu người đại nhơn; học thầy, phải tìm minh-sư. Tôi chẳng qua hiểu chút ít đạo lý, chưa đặng thấu hết! Trò phải an lòng ở đây lập công, tôi cũng lần dắt cho trọn toàn.
Khải-Phát nghe nói rất mừng, ngày làm đêm học, cúng nước quỳ hương không sót, sám kinh giờ khắc không rời, công việc lẹ làng chẳng mỏi, ai nấy cũng đều khen. Bữa nọ đi theo mấy sư hữu đến chỗ am thầy, thấy Trùng-Dương tiên-sanh ngồi giữa, đệ tử sắp đứng hai bên. Tiên-sanh nói: Ta từ ngày đến đây, hết lòng độ người, dạy người không mỏi, muốn cho cả thảy đặng giác tỉnh đừng mê, khỏi vòng biển ái. Vì ta bình sanh ham Ðạo, lúc nhỏ ngây dại, lớn lên cách ra vui việc thần thông. Người đều nói ta là dị-nhơn, mà ta nào phải dị-nhơn! Chẳng qua là như dại, như khờ, như ngu vậy thôi. Ta sao gọi là ngu? Vì ta chẳng ham, tưởng, muốn. Như đứa khờ, không có trí lo biết điều khéo vụng, chẳng theo đường tục, muốn việc an thân. Vì người đời không hay, lại nói ta khờ ngu, ngây dại, ta khá thương cho người rất lầm mê chẳng hiểu, mà không biết sửa mình.
Nay ta lấy chỗ đạo ngu-xuẩn, dại-dột của ta mà tỉnh cho thiên hạ. Ai nấy chẳng biết cái lòng mình ở đâu, cũng không biết cái thân mình ở đâu. Khi cha mẹ chưa giao cảm, thì chưa biết mình ở đâu. Khi có cái thân rồi mới biết sự khôn dại, xấu tốt, tham muốn, giận hờn. Ðến buổi tam thốn khí đoạn, thây nằm tại đó thì cũng không hiểu sự khôn dại lúc sống là đi đâu! Như vậy làm sao biết đặng đạo-tâm? Ta rất thương cho người đời khôn lanh chót lưỡi, thương cho người tu hành học đạo lầm sai trong giây phút mà mất nẻo Thiên-Ðường, lạc vào chỗ tối. Vậy các người phải nghe vì các người đều có Ðạo, trước phải luyện cái Tâm. Khi chưa phát, qui tại nơi đương phát hoặc thương muốn, ái-dục tạp niệm, mà mình tự nhiên đừng động, thì mới đặng giữ lòng. Còn định ý khi nó đương động, phải thâu cho mau giữ cho bền, định cho lâu, thì Tâm tự nhiên phải chủ một, đừng để động rồi mà thâu, thì không có ích chi hết. Ðó là cửa Ðạo của ta chỗ phép luyện Tâm.
Nên người tu phải khiến cái Tâm không không. Nhơn cái Tâm là khí thiên-nhiên, chơn-dương kết thành (vì Tâm thuộc Hỏa, chẳng phải thuần dương mà không âm). Trong cái dương có chơn âm, cái hình chữ Tâm, trên có 3 điểm ( ), dưới có yến nguyệt ( ) trở lên. Nên mới biết dương không âm chẳng lớn, âm không dương chẳng sanh. Chơn-âm tùng chơn-dương, nên gọi là Tâm. Hễ động một niệm thì trong Tâm bớt một phần chơn-khí. Có việc nhập vô Tâm thì thêm một móng ma-chướng. Nếu các việc xen vô thì chẳng phải là tên Tâm, thiệt là tên Niệm. Bởi hình chữ Niệm là "Nhơn" có "Nhị Tâm" như người có hai lòng, chẳng đặng chuyên một việc. Vì Ðạo là giữ một, nên Tâm phải giữ một mới phù hạp âm dương. Còn người tu tính trăm việc thì sao cho đặng thành Ðạo? Ðó là nói: Trước phải giữ cái Tâm, còn việc Ðạo lại xa nữa!
Trùng-Dương tiên-sanh nói: Tâm là chủ cái Thân, có một việc không hai, bằng khởi nhị Tâm, gọi là Niệm, thì không biết bao nhiêu việc hư quấy. Chừng đó Tâm chẳng đặng làm chủ, khiến thân mình chìm đắm, trầm nịch vào biển khổ, thì thấy đọa trước mắt. Than ôi! như vậy cứu độ sao đặng! Như người tu có đáng tìm chỗ phóng tâm đó hay không?
Thầy đương nói giảng thoát nghe Khưu-Khải-Phát la lớn rằng: "Hay lắm! Hay lắm!". Vì Khải-Phát nghe lời diệu mầu nên la như vậy.
Tiên-sanh nghe Khải-Phát la lớn không nói nữa vì hờn Khải Phát tánh không dè-dặt, miệng chẳng kín, tâm buông khơi, không sợ thiên hạ hồ nghi, nên làm thinh không nói nữa. Mấy ông thấy vậy trách Khải-Phát rằng: Bị trò nên thầy không giảng nữa. Khải-Phát nghe nói giả như không biết không hay, miễn nghe được lời thầy thì thôi, ai quở trách mặc lòng, không hờn không giận. Thầm tưởng rằng: Lời thầy nói việc luyện Tâm chắc là có chỗ khuyết luyện Ðạo trong đó. Việc luyện Ðạo nếu trước chẳng đem luyện cái Tâm cho hết chỗ niệm, đến chừng mình có Ðạo cũng luyện không đặng. Vậy nay mình muốn học Ðạo mà chưa nghe đặng Ðạo, thôi để mình luyện cái Tâm trước, ngày đêm ta thường giữ lòng ta không cho tưởng quấy, không nhớ đến quấy. Ta phải trừ giữ con mắt, không nhìn sắc gái, tai chẳng nghe lời dâm, miệng chẳng nói tiếng tục, mủi chẳng ngửi mùi quấy, thân chẳng ngồi chỗ quấy, ý chẳng tư niệm quấy. Ta thường hỏi ý ta hay làm việc quấy, tư tưởng vọng niệm đều quấy vậy có hiểu biết đó là quấy hay không? Như biết quấy thì mau mau trừ bỏ. Khải-Phát nhờ tư-tưởng trong chỗ tối mà sửa mình nên có không trung ủng hộ.
Bữa nọ thấy mấy mươi anh em đạo hữu chẳng có trước nhà chắc là ra am của thầy nghe Ðạo. Khải-Phát liền chạy theo.
Trong thiên hạ thiệt không việc khó,
Chỉnh sợ trên đời người có Tâm.
-
HỒI THỨ MƯỜI BA
* * * * * * *
Tán đạo trường, học nhơn qui gia khứ,
Hoán đạo trạng, sư đồ vãng Nam lai.
Nghĩa là:
Tán đạo tràng, người học về nhà hết,
Thầy trò đổi áo đạo, qua tới phía Nam.
Có bài kệ rằng:
Than tiếc người phàm chẳng tỉnh cùng,
Mê hoa ham tửu sính anh hùng,
Ðêm xuân tổn khí lao thần lệ,
Năm tháng lâu dài chết chẳng dung.
Lộng xảo thường như mèo bắt chuột,
Ngày giờ mau tợ tiễn ly cung,
Ðêm hay khiến hết tinh thần sạch,
Chôn bỏ thân mình tại đất Trung.
Nói về Khưu-Khải-Phát, thấy trong đạo không có ai ở nhà trước, chắc ra mao-am nghe giảng Ðạo; lật đật chạy đến mao am, thấy thầy ngồi giảng Ðạo, đạo hữu đứng hai bên. Khải-Phát không dám vô trong, núp ở ngoài cửa lóng nghe thầy nói: Việc tu hành chỗ niệm, phải đừng có một vọng tư, trong lòng không có chút cặn. Như có một chút lòng dục thì trong lòng thêm việc ma chướng, như mà tư dục khởi ra ắt Tiên-thiên phải mất. Nên người tu phải khử trừ việc niệm tưởng thì Tiên-thiên mới còn. Vì Tiên-thiên là một khí Vô-Cực, hễ tư dục muốn ra thì hỏa phát động rồi khí tán nào có Tiên-thiên, làm sao xét đặng hỏa hầu?
Còn hễ tưởng nhiều thì khí hư, nào đặng phục chỗ linh cơ? Lòng dục nhiều thì khí khô, làm sao có huyền diệu? Nghĩ cơ quan như vậy, việc tư dục đáng trừ hay không trừ? Việc vọng tưởng đáng bỏ hay không bỏ? Như người có lòng tu niệm mà quyết thoát chỗ biển mê, thì nghe lời ta trước đó mau phải giới trừ, ý vọng tưởng phải tuyệt, dưỡng cho đặng lặng lẽ không động. Rồi sau cái niệm mới dứt. Hễ niệm dứt thì việc tư dục tiêu hết, tư dục tiêu hết thì các mối đều sạch, khí dương đặng thuần, khí dương thuần thì khí âm phải tiêu. Nên từ xưa đến nay, các vị Tiên Phật lớn cũng đều do nơi đó mà thành. Nay các ngươi muốn theo bực Tiên Phật, thì phải gìn giữ chỗ niệm tưởng làm đầu, siêu đọa tại chỗ con mắt, lỗ tai, cái ý, chẳng khá coi việc đó là thường.
Trùng-Dương giảng nói tới chỗ diệu mầu, Khải-Phát núp ngoài cửa nghe mấy lời hay của thầy dường như quên hết việc nhà, việc quở, la lớn rằng: "Hay lắm! Hay lắm!" Tiên-sanh ngó mấy người đệ tử nói rằng: Trong nhà thuyết pháp, ngoài cửa người nghe, hỏi thử mấy người vậy có ai là người tri âm ở ngoài chăng? Thầy nói dứt lời, Mã-Ðơn-Dương ra ngoài thấy Khải Phát liền kêu vô trong. Trùng-Dương thấy trách Ðơn-Dương rằng: Ta đã dặn, biểu nó đi về, sao còn để ở đây? Ông nói vừa rồi, có Lưu-Trường-Sanh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương, Ðàm-Trường-Chơn thưa rằng: Xin thầy từ bi, vì Khải-Phát tuổi nhỏ mà không mến việc trần. Nhiều khi nói về đạo đức có chỗ hậu nghĩa, hoặc anh em quở trách cũng không giận, thầy đuổi nhiều lúc cũng không buồn. Vậy cũng là một việc nhẫn. Nay anh em tôi xin thầy cho y cầu Ðạo, lo việc Phật-môn, có bọn tôi dìu dắt.
Tiên-sanh nói: Không phải ta ghét nó, vì sợ nó còn nhỏ tánh chưa đặng chơn thiệt, gặp lúc ma khảo, chịu không nổi trở lòng thối chí, chừng đó Ðạo cũng chẳng thành, lại bị tội lỗi. Ðể nó lập công đắp nền cho chắc, sau sẽ cầu không muộn.
Mấy ông nghe nói than thiết ai cầu, còn Khải-Phát lạy hoài không dậy. Trùng-Dương nói: Mấy người nhiều lần tiến dẫn, nào ta chẳng an tâm. Theo phép thì lấy luật công bình! Thôi vậy, Khưu-Khải-Phát quỳ nghe ta dạy: Bởi người từ ngày đến đây tới nay, ăn chay đã lâu mà tánh chưa thuần hậu, ta lại thấy tướng người có nhiều chỗ xấu, ta sợ ngày sau chịu khảo không đặng mà bỏ Ðạo. Nay ta thấy ý ngươi có chỗ cần quyết tu, vậy ngươi muốn tu thành Tiên hay là muốn tu đặng sau làm người giàu có?
Khải-Phát thưa: Tôi muốn tu thành Tiên.
Tiên-sanh nghe nói biết người có căn sâu, lại hỏi rằng: Hễ ngươi muốn thành Tiên thì chẳng sợ đau sợ chết. Chớ ta coi tướng ngươi chắc phải gặp các việc ấy. Vậy bây giờ ngươi chịu đau đặng không?
Khải-Phát thưa: Miễn cho thành Tiên thì thôi, đau thế nào tôi cũng chịu đặng. Trùng-Dương liền lấy cây nhang lớn trên bàn châm vào mặt Khải-Phát ba lần, tự nhiên không nhúc nhích. Khải-Phát đứng dậy làm lễ thầy thưa rằng: Bấy lâu tôi theo Ðạo mà không hiểu việc Ðạo, nay nhờ thầy thiệt công hơn sanh thành!
Tiên-sanh nghe Khải-Phát nói như vậy, hỏi rằng: Thế trong ý ngươi giận ta châm lửa vào mặt ngươi nên ngươi nói ta công hơn sanh thành?
Khải-Phát thưa: Tôi không dám hờn giận thầy, vì tôi muốn học Tiên mà thầy lấy chỗ tiên chỉ tôi, cho nên tôi không giận vì là thầy thương tôi.
Trùng-Dương nghe Khải-Phát nói biết ý ngộ đặng phép mầu, vỗ tay cười ngất. Rồi đó Khải-Phát cầu thầy cho đạo danh.
Trùng-Dương nói: Ðể ta đặt pháp danh ngươi là Khưu-Trường-Xuân.
Khải-Phát thưa: Thưa thầy, đặt tên tôi là Trường-Xuân xin thầy tỏ nghĩa hai chữ cho tôi hiểu.
Trùng-Dương nói: Chữ Trường là "Trường-Cửu", chẳng sanh chẳng diệt. Còn Xuân là "Xuân bất lão", nghĩa là cái Ðạo ta sống hoài không chết. Khải-Phát nghe rồi đành lòng như nguyện, liền lạy thầy rồi mời mấy ông tiếp dẫn tạ ơn, thầy trò đều an nghỉ.
Cách hơn một tháng, Trùng-Dương kêu hết trong đạo đến Giảng-Kinh-Sở (nhà giảng Kinh) nghe thuyết pháp. Mấy người đồng đến thỉnh thầy lên đàn thuyết pháp, các đệ tử bày bàn ngay thẳng. Trùng-Dương nói: Ðạo ta dạy lấy việc Tịnh làm chủ. Chữ Tịnh, trên khá lấy xét tỏ việc sanh hóa dưỡng dục, dưới cũng khá lấy bao hàm vạn vật. Nay ta đem việc Tịnh giảng nói cho các trò nghe. Chẳng luận là người tu hành biết Ðạo mới khá dùng mà thôi, hoặc cho tề gia trị quốc cũng chẳng bỏ đặng. Bởi việc Tịnh nghĩa lý mầu diệu vô cùng, có khi người nói Tịnh thì nhiều, còn biết Tịnh thì ít. Hoặc muốn Tịnh mà Tịnh không đặng, vì chưa tìm đặng nguyên căn, nên chẳng rõ nguồn gốc tại đâu mà Tịnh.
Vậy ta chỉ chỗ căn Tịnh, trước phải coi thấu việc đời muôn việc đều Không. Trong việc Tịnh phải tùng chỗ chẳng Tịnh mà lập chí, hoặc ở tại chỗ sắc, tài, lợi, ân-ái, thì mình biết chỗ ấy là chỗ hại cho thân, dắt dẫn vào đường tối mà chôn mất tánh linh của ta. Phải coi các việc ấy như thù nghịch thì sao lại dứt mối ấy không đặng? Người tu phải coi chỗ động như không không. Chừng lúc Tịnh phải giữ chỗ phép; hễ niệm muốn khởi liền phải dứt tuyệt, hoặc dứt đó, sanh đó, mình đừng cho nó sanh, thì cái sanh ấy dứt liền. Thí như một ông giám-sát kia, muốn giết kẻ tội ác, thì chém không kịp nháy mắt, như vậy mình giết cái tâm phàm mới đặng. Chừng ấy, làm đặng rồi, không Tịnh cũng như Tịnh, tự nhiên như nhiên. Tuy không nói Tịnh, nhưng mà ở trong có Tịnh, đến chừng Tịnh thấu chỗ chí thiện, dẫu núi Thái Sơn rã trước mặt cũng không sợ. Thiệt chẳng phải không sợ, nhưng mà nó rã trước mắt ta cũng coi như không có. Còn Nữ Sắc đứng gần bên ta mà chẳng động. Thiệt chẳng phải chẳng động, song nó đứng gần ta mà ta coi như không có vậy. Ðến khi đi đứng mà động, thì ta cũng lấy giới luật của ta mà trừ. Ấy là người tu phải có oai-khí hết sức giận dữ, như vậy mới gọi đại hùng đại lực (nên người tu phải giận phải ghét, phải có hỉ nộ là nghĩa đó).
Còn nói mỗi việc chi làm ra, thường giữ cho Tịnh thì Ý tự nhiên, tuy làm mà chẳng cố, hoặc cha mẹ thấy vậy nói ngu chẳng chịu, đặng cảm bề trên; anh em có dứt cũng hòa thuận, mà dạy dưới; vợ con chẳng chịu cũng xuôi, đặng mà sửa trị ở trong. Bạn hữu chê bai cũng vui, mà dạy ở ngoài. Người tục chê khờ cũng đành; người Nho bày biếm phải giấu đặng giữ mình, đạo thường làm, chí thường giữ, chẳng nói Tịnh mà Tịnh, không động mà động, dẫu động, Tịnh gì cũng Tịnh, thì Ðạo mới thành. Ðó là biểu giờ nào cũng Tịnh. Nên Phật nói: "Minh Tâm kiến Tánh". Chẳng Tịnh thì chẳng đặng minh kiến, sáng tỏ. Nho nói: "Cùng lý tận tánh". Chẳng Tịnh thì không đặng cùng tận thấu hết. Ðạo nói: "Tu chơn dưỡng tánh". Chẳng Tịnh thì không đặng tu dưỡng (trau sửa bề trong).
Vì việc Tịnh là mối của Tam-Giáo, chẳng phải bao nhiêu mà thôi. Tỷ coi trong một ngày kia, hễ ban ngày động thì ban đêm phải Tịnh. Còn mùa Ðông Tịnh thì mùa Xuân mới phát sanh. Nên gốc Tịnh của Ðạo là lẽ tự nhiên như vậy. Nếu người tu bỏ việc Tịnh, thì tùng đâu mà vào cửa?
Trùng-Dương tiên-sanh giảng nói việc Tịnh, thiệt là trong Tam-Giáo chẳng lìa chỗ công phu. Ðến người Sĩ, Nông, Công, Thương, Vương-hầu khanh-tướng phải do chỗ Tịnh làm trước, sau mới đặng an bài. Ðặng an bài thì phải lo xét, lo xét mới đặng việc. Cha mẹ hay Tịnh con mới đặng hiếu; Vua hay Tịnh tôi mới biết trung; anh em hay Tịnh việc đặng hòa mục; bạn hữu hay Tịnh mới đặng tin thiệt; vợ chồng hay Tịnh thì được thuận hòa.
Thầy đem việc Tịnh nói cho đệ tử nghe. Duy có Khưu, Lưu, Vương, Ðàm, Mã, Xích biết lời thầy nói chỗ Ðạo huyền diệu, còn mấy người kia, ban đầu cần, sau làm biếng, hữu thỉ vô chung, chẳng quyết chí tu hành. Từ đó đến sau lại tính việc danh lợi, người thì tật đố sân si, tham lam trộm cướp. Ông cũng biết mấy người ấy chẳng đặng bền lòng, mà việc Ðạo phải nói, nên đem các điều Tịnh bày tỏ cho mấy người nghe, muốn cho người người đặng chỗ công-phu, tiêu bớt việc tráo trở, ai quyết chí thi hành, tuy không đặng siêu phàm nhập thánh, cũng lấy chỗ tu thấu tề gia, chẳng mất căn lành, không uổng người đến đây học Ðạo.
Khi đó Khưu-Trường-Xuân nghe thầy giảng việc Tịnh, hiểu thấu vui mừng, ngồi đứng chẳng yên, thường hay vỗ tay dậm chơn, bị thầy thấy, kêu nói rằng: Ngươi là người nghe Ðạo chẳng thấu, biết lý chẳng tỉnh, gọi mình thông minh, bày lộ cái danh lợi, không biết ẩn mình lấy xảo làm tệ, chẳng phải người học Ðạo. Ta mấy lần thuyết pháp cũng bị ngươi mà phạm trong điều luật. Ta phải xa ngươi lánh ngươi trốn qua Ðông-Nam, đặng khỏi ngươi khuấy loạn. Nói dứt lời liền kêu Mã-Ðơn-Dương nói rằng: Ngày mai ta qua Giang-Nam giảng đạo. Lưu-Trường-Sanh, Ðàm-Trường-Chơn, Xích-Thái-Cổ và Vương-Ngọc-Dương bốn người theo ta. Khưu-Trường-Xuân thì ở lại coi sóc nhà cửa. Còn mấy người kia muốn về hay ở tự ý, ta đi kỳ nầy mau cũng một năm.
Tiên-sanh nói, làm náo động mấy người giả tu, rồi người thì nhớ nhà, kẻ muốn về thăm cha mẹ, có người nhớ con cháu nhà cửa, lại có người tính buôn bán làm ăn. Ðêm ấy soạn quần áo vật kiện, đợi sáng nói cùng Ðơn-Dương đặng về.
Ðơn-Dương thấy vậy cũng muốn đưa đi cho rồi. Lúc nọ mấy mươi người cung tay từ biệt, coi bộ hân hoan. Còn Mã-Ðơn Dương trở về mao-am lấy ra năm cái áo bào, năm cái bồ đoàn và tiền bạc thảo hài, bầu cơm các việc đều đủ.
Trùng-Dương tiên-sanh cùng bốn người thay mặc áo đạo, đợi trời sáng đi ra khỏi nhà. Ðơn-Dương đưa thầy đi rồi lại bỗng thấy Khưu-Trường-Xuân bèn hỏi đi đâu thì Trường-Xuân nói: Tôi đi theo thầy. Ðơn-Dương nói: Thầy đã không chịu ông mới lánh mà đi, bằng ông đi theo chắc bị khảo nữa. Khưu-Trường-Xuân nói: Thầy đâu có giận tôi, vì thầy nguyện cho tôi học phải, mới chỉ chỗ Thần Tiên cho tôi; như tôi không theo thầy, chẳng là bỏ thầy. Sư huynh để tôi đi, dẫu thầy có khảo trừng thế nào cũng như cha dạy con thì phải đánh. Nói rồi liền chạy theo, Ðơn-Dương kéo biểu trở lại cho tôi dặn.
Thảy người nhớ nhà đều về hết,
Trường-Xuân thương thầy chạy theo sau.
-
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
* * * * * * *
Thi phàm tâm lũ thi xất trách,
Thuận sư ý thường bỉnh quy y.
Nghĩa là:
Thử cái phàm tâm thường hay rắn trách,
Thuận theo ý thầy thường chịu quy y.
Có bài kệ rằng:
Trừ dữ cũng như gỡ mối tơ,
Dằn lòng chắc đặng gỡ không ngơ,
Bằng đem dụng sái nơi ý lực,
Muôn kiếp ngàn sanh khó hết giờ.
Nói về Mã-Ðơn-Dương kêu Khưu-Trường-Xuân trở lại nói rằng: Thầy cùng mấy sư huynh đều cải đổi áo mão theo đạo mới đi đặng xa, trò mặc áo theo như người tục làm sao đi đặng? Tôi có áo nạp y mão đạo, cho trò lấy mặc đội đi theo mới đặng.
Trường-Xuân nghe nói mừng rỡ, trở lại lấy áo mão mặc vào. Rồi Mã-Ðơn-Dương đem bồ-đoàn và bầu vào đưa cho. Trường Xuân chạy theo thầy một hồi xa thấy mấy người đi trước với thầy. Trường-Xuân thấy mấy người trong xóm người ta ăn cơm mai, trong lòng tưởng rằng: mình đi sớm chưa ăn cơm, thôi để đi xin cơm chay đem lại cúng dường cho thầy ăn, ngặt chưa nay chưa có ra xin, nên không biết làm sao xin. Nghĩ một hồi rồi cũng đi đến nhà nọ, tay cầm bầu đứng trước cửa ngõ. Chó chạy ra sủa, người nhà ra thấy ông Khưu, rồi trở vô xúc một chén cơm nguội đem ra đổ trong bầu. Ông Khưu mừng lắm, rồi xin thêm hai nhà nữa cho đầy bầu, hai tay bưng chạy theo thầy.
Lại nói về Trùng-Dương tiên-sanh đi một hồi đến một gốc cây lớn ngồi nghỉ, hỏi Lưu, Xích: mấy ông có đem tiền sở phí theo không?
Lưu-Trường-Sanh thưa: Vì thầy đi quá gấp, anh em tôi lật đật chưa kịp hỏi Mã sư-huynh xin tiền. Thầy nói: Như không có tiền mấy người phải đi xin. Trùng-Dương tiên-sanh ngồi một mình dưới gốc cây thấy Khưu-Trường-Xuân đem một bầu cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sanh trách rằng: Ai biểu ngươi theo phá ta, ta chẳng chịu đồ của người cúng dường. Ông Khưu mời thỉnh đôi ba lần, thầy chẳng thèm nói tới. Một lát mấy ông Lưu, Xích, xin cơm đem về thỉnh thầy ăn. Tiên-sanh lấy cơm của Lưu Trường-Sanh mà ăn, còn dư lại mấy người ăn hết. Ăn xong thầy trò ra đi hơn mười mấy dặm, trời tối thấy bên đường có một cái miểu, bèn vào miểu quét sạch, trải bồ-đoàn nghỉ một đêm. Bữa sau thầy trò năm người đi trước, Khưu-Trường-Xuân ở sau xin cơm, gặp một nhà hiền lành biểu ông ăn cơm. Trường-Xuân nói: Có thầy tôi đi trước chưa ăn, tôi không dám ăn trước.
Vị thiện-nhơn nói: Việc đó không sao, ông ăn đi, tôi có để một bầu cơm sạch sẽ, rồi ông đem cúng thầy ăn không muộn. Trường-Xuân thấy ông nói cũng phải, liền ngồi ăn, rồi tạ ơn, kế thấy một bầu cơm chay đựng riêng, hai tay bưng chạy theo thấy thầy đi cách chẳng xa, liền kêu thầy đợi tôi đem cơm lại ăn, Trùng-Dương tiên-sanh giả không nghe, đi hoài. Trường-Xuân chạy theo kịp đem cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sanh ngó mà nói rằng: Cơm đó của một nhà, ta không công nào dám ăn. Há chẳng nghe sách có câu: "Nhứt biến thiên gia phạn, cô thân vạn lý du". Nghĩa là: Một bầu cơm ngàn nhà cho một mình ăn chơi muôn dặm.
Trường-Xuân nghe quở không dám trả lời; thầy nói rồi đi liền. Trường-Xuân trong lòng sợ muốn đem cơm trả lại cho chủ, ngặt trở lại thì xa, muốn ăn hết mà đã no rồi, không biết làm sao, hai tay bưng bầu cơm mỏi rụng, mồ hôi hột ướt mình, đi tới thấy thầy cùng mấy anh ngồi trên đá ăn cơm. Vì bữa đó xin ít nên ăn hết cơm của ông Khưu.
Ðêm đó cũng ngủ tại cổ miếu. Trường-Xuân tánh thương thầy, trong lòng thầm tưởng: Thầy mình là người Xiểm-Tây, ít chịu ăn cơm, thích ăn bánh mạch (lúa mì), để mai mình xin bánh mạch về cúng dường cho thầy.
Bữa sau đi xin đặng mấy cái bánh mạch đem dưng cho thầy. Trùng-Dương tiên-sanh giận nói: Ta đã nói không ăn đồ của người xin, sao cứ theo phá ta hoài vậy? Nói rồi giựt cái bầu quăng dưới đất, bánh rớt xuống mương. Trường-Xuân lật đật lấy lên lượm bánh bỏ trong bầu, thấy thầy đi xa liền chạy theo khóc hoài.
(Ðọc-giả biết tại sao mà Trùng-Dương tiên-sanh làm nhục Trường-Xuân lắm vậy chăng? Là vì ông Khưu tuổi còn nhỏ, đi ra học Ðạo chẳng phải như mấy người kia, tánh chất chịu rồi, nếu chẳng gia khảo trở dồi mài như thế, thời làm sao đặng món đồ tốt? Nên phải trau dồi cái Tánh. Còn Trường-Xuân căn sâu dày lắm, thường bị răn trách mà không biết buồn phiền, thiệt người có căn sâu.)
Lại nói mấy thầy trò Trùng-Dương tiên-sanh đi hơn hai tháng đến xứ Giang-Nam, có cái chợ lớn, sau chợ có cái miễu kêu là "Hựu-Thánh-Quan". Thầy trò sáu người vào ở nhờ trong miễu. Miễu ấy không có đạo-sĩ hay thầy chùa, chỉ có một người già làm từ ở đốt nhang mà thôi. Người ấy cũng là thông thái, cho thầy trò ở đó. Qua ngày sau, Trùng-Dương tiên-sanh nói: Ta muốn ăn thịt. Rồi mấy người liền đi mua một cân thịt đem về, tiên-sanh thấy thịt nói: Ta nay chẳng muốn ăn. Trường Xuân nghe thầy nói liền đem treo trên vách rồi cùng mấy ông vào xóm xin cơm.
Tiên-sanh thấy mấy người đi hết, mới lấy cân thịt đưa cho ông từ, rồi kêu Bạch-Hạc-Tiên ở núi Bồng-Lai ngậm đem một miếng cỏ Linh-chi giống như thịt, tiên-sanh tiếp lấy thổi một hơi hóa ra thịt heo, đem treo trên vách. Một lát mấy người về thầy biểu đem thịt nấu ăn, Trường-Xuân lấy thịt xuống, hơi hôi khó chịu, thưa cùng thầy rằng: Thịt hôi rồi, ăn không đặng, thôi để tôi mua thịt khác cho thầy ăn.
Tiên-sanh giận nói: Bọn bây là đồ tạo nghiệt, đem của thập phương về hủy hoại vậy sao? Ðã mua thịt sao chẳng nấu ăn, để cho thúi hôi rồi lại bỏ? Ta nay cũng không phạt trách, song bọn ngươi phải ăn sống cho hết. Thầy nói dứt lời, Lưu-Trường-Sanh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương và Ðàm-Trường-Chơn bốn người đều thất sắc. Khưu-Trường-Xuân thầm nghĩ mấy sư huynh là người văn chất làm sao ăn đặng thịt sống? Thà mình ăn hết, dẫu có hôi thúi khỏi ai oán hận đến thầy. Chủ ý định rồi liền lấy miếng thịt kê bên mũi thiệt hôi khó chịu, nín hơi cắn một miếng nhai thử mà không nghe mùi thịt lại giống mùi củ cải sống, bùi ngọt, không hỏi liền ăn hết thịt ấy, nghe trong mình dường như thêm tinh thần khỏe mạnh.
(Vì Khưu-Trường-Xuân sau có nạn nhịn đói mấy chục lần, thầy sợ ổng thành bịnh lao, nên hóa ra miếng thịt đó cho ổng ăn, ngày sau không sanh bịnh, đặng thành Kim-Tiên cũng nhờ sức miếng thịt đó.)
Lại nói Lưu, Xích mấy ông thấy Trường-Xuân ăn hết thịt rồi trong lòng mới mừng. Lúc đó nhằm mùa lạnh, mấy ông vào xóm xin đặng ít bó củi khô. Ðêm đó mưa tuyết lạnh lùng, mấy ông lấy củi khô đốt hơ. Tiên-sanh thấy vậy không bằng lòng, lấy củi quăng hết vô lửa phát cháy, khói bay mù mịt, rồi lấy vá thiếc đập tắt, mấy người nghẹt hơi không chỗ trốn. Trong miễu chật hẹp, phần gió ngoài bay vô, ông nào cũng chảy nước mắt, đều chạy ra hết.
Thầy thấy mấy ông chạy ra, liền đóng cửa lại, rồi lấy bồ đoàn ngồi tại cửa ngăn đó. Mấy ông đứng ngoài đợi một hồi hết khói mới vô tránh lạnh. Chừng lại xô cửa không đặng mà không dám kêu, phải ngồi ngoài mà chịu. Chẳng may gặp trận gió tuyết bay lại, mấy ông đều lạnh run. Lưu-Trường-Sanh nói: Thầy có truyền "Hỏa-Hậu", anh em mình luyện thử coi bớt lạnh chăng? Khưu-Trường-Xuân cùng mấy ông ngồi lại công-phu điều hơi vận khí, luyện một hồi chẳng những hết lạnh, lại thêm hơi nực. Hồi lâu hừng sáng, thấy cửa chùa mở ra, mấy ông bước vào thấy thầy ngồi trên bồ-đoàn, nói rằng: Các ngươi ghét lạnh sợ nực, tham sanh phạ tử, bỏ chơn cầu giả, ham dùng lửa giả chẳng chịu vận lửa chơn, biếng-nhác chẳng chịu công phu. Như vậy làm sao tu cho thành Ðạo? Nếu không phạt đánh, ắt ngày khác trước cần sau lại dãi-đải. Thầy nói rồi liền biểu Vương Ngọc-Dương đem thước bảng phạt đánh mỗi người hai chục đặng ngày sau đừng có vậy nữa.
Lưu, Xích mấy ông nghe nói chẳng dám trả lời. Khưu Trường-Xuân quì trước mặt thầy thưa rằng: Việc đó lỗi tại tôi chẳng can mấy anh, để một mình tôi chịu phạt, tha hết mấy anh.
Thầy nghe nói hỏi rằng: Ngươi thiệt dám chịu cho mấy người hết sao?
Trường-Xuân thưa: Xin chịu hết.
Thầy nói: Như ngươi dám chịu hết, mỗi người phạt đánh 20 bảng, năm người cộng lại là 100 bảng.
Lưu, Xích mấy ông nghe nói đều lại cầu xin.
Tiên-sanh nói: Mấy người đều cầu xin không lẽ ta không tha, như vậy sau đừng làm biếng nữa mà lầm lỗi việc tu. Thầy nói rồi quăng thước bảng nói cùng Lưu-Trường-Sanh: Ta khi đó muốn Nam du, nay hết muốn đi nữa, muốn trở về bên Bắc, phải tính đi liền chẳng trễ nải. Thầy nói rồi ra đi. Khưu, Lưu mấy ông lật đật thâu cuốn bồ-đoàn và lấy bầu rồi tạ ơn ông từ, liền đi theo thầy, cũng do đường cũ trở về Sơn-Ðông. Ði mấy bữa về đến nhà Mã-viên-ngoại. Trường-Xuân đi trước báo cho viên ngoại hay, viên-ngoại lật đật ra tiếp rước thầy vô, mời đến mao am tu dưỡng không có việc chi, thiệt là thanh tịnh. Cách chừng một tháng mấy người đệ tử nghe nói thầy về đều tới học đạo nữa, cũng đặng đông đảo như trước. Thầy thấy vậy lập ra một kế hay, muốn dời mấy người giả tu đó tan hết.
Chẳng đem giả ý dời ra hết,
Sao đặng chơn tâm ngộ đạo lai.
-
HỒI THỨ MƯỜI LĂM
* * * * * * *
Thi vỏ hóa, tiên-sanh qui ẩn,
Tống linh cửu, môn nhân phục lao.
Nghĩa là:
Giả nói mãn phần, thầy qui ẩn,
Ðưa linh cửu học trò chịu nhọc. (thử môn nhơn)
Có bài kệ rằng:
Gió phan thổi động chẳng phải chơn,
Bổn tánh sáng tròn thiệt pháp thân,
Giải đặng cầm bông hơi cười ý,
Xưa nay không có dính bụi trần.
Lại nói Trùng-Dương tiên-sanh thấy mấy người học Ðạo tựu lại, xét ra trong mấy người không có tưởng Ðạo, chẳng qua là giả danh học Ðạo, lấy Ðạo làm cớ, muốn cho người biết mình tu hành, chớ không một chút tưởng Ðạo. Như chẳng dời đi chắc sau nó lấy giả làm chơn, khiến cho trong pháp môn chẳng đặng thanh tịnh. Thầy tưởng rồi thầm nói: Phải làm như vầy, như vầy... Liền la lên một tiếng lớn rằng: "Chẳng khá, chẳng khá". Mấy người kinh hải xúm lại hỏi thăm. Thầy nói: Ta chẳng nên đi du phương vì ta đi đường cảm hơi thấp khí, bịnh ta kiết-uất, trên mình nổi ghẻ. Liền cởi áo cho mấy người coi. Quả thiệt nổi mục cùng mình. Mã-Ðơn-Dương cùng mấy ông lật đật rước thầy kiếm thuốc, tầm hết danh-y uống đủ mà không hết. Cách hai ngày mấy mục đều lở, máu chảy dầm dề, hôi hám khó chịu. Mấy người đến học Ðạo bàn luận nói lén: Thầy chắc người không có Ðạo, nên bịnh hoạn như vậy. Thân mình bảo toàn không đặng làm sao độ người? Bịnh mình trừ không đặng làm sao đặng thành Thần Tiên? Mình phải tính trở về kẻo để lầm việc.
Nói rồi nay một người, mai một người, ít bữa đều về hết, còn lại Khưu, Lưu, Xích, Mã và Vương, sáu người ngày đêm phục sự. Thầy thấy mấy người về hết liền kêu sáu người lại trước dạy rằng: Ngày mai, giờ Ngọ, ta chắc qui Tây, vì ta đến đây lấy tiền bạc của Mã-Ngọc châu-tế cho người nghèo khổ, giúp cho người chôn táng cưới gã tổn phí rất nhiều, lại cấp dưỡng cho người học Ðạo mấy năm nay, tiền bạc xài hết. Nay trong rương kho đều không, ta có qui Tây, sắm sửa việc tang ắt phải cầm ruộng bán đất. Mấy người phải y lời ta dặn, đừng có xài phí bạc tiền, đừng có thương khóc, cũng đừng cúng tế để tang. Lấy bốn miếng bảng mỏng khép cho kín thân mà thôi. Khưu, Lưu, Vương, Ðàm và Xích, năm người thay phiên nhau khiêng về đến tỉnh Xiểm Tây, dưới chân núi Chung-Nam, hễ khiêng đến chỗ nào đứt dây rớt xuống, đó là chỗ chôn ta, chẳng đặng sai lời. Như trái ý ta thì ta không an, các ngươi phải nhớ.
Khưu, Lưu mấy ông nghe thầy dạy thảy đều than khóc. Trùng-Dương tiên-sanh nói: Ðừng bắt chước theo trẻ nhỏ. Mấy ông nghe thầy quở trong lòng cảm thương chảy nước mắt, chớ không dám lộ sắc buồn.
Bữa sau giờ Ngọ, thầy mặc áo bào ngồi kiết-dà trên bồ đoàn. Kêu sáu người lại một bên giảng nói dặn dò cặn kẻ rằng: Phép tánh mạng song tu, thảy trong ngoài đều có đủ. Như không lập công ngoài thời đức hạnh chẳng toàn. Còn khuyết công trong thời bổn-nguyên cũng chẳng thành.
Việc công ngoài là bình sanh lòng mình, đừng cho khiếm khuyết, một lời giữ trọn không nói quấy, là lời nói đó có công. Còn việc hạnh phải gìn giữ các việc vuông tròn là việc hạnh có công đó! Mỗi việc thảy đều kiên cố: chẳng phải công có chứa sẵn, tại nơi mình lập. Thường phải giác tỉnh chớ cho hôn muội, phòng cái ý cũng như giữ cái thành, không cho một vật dính đặng. Còn giữ cái lòng, lại phải hơn giữ cái thân. Ðó là Trời người đồng hạng, Tiên phàm cách có một bực như hội giao-chiến; hễ đặng thì thành Tiên, không đặng thì thành quỉ rõ ràng. (Tại sao vậy? Hễ cái tâm thần đặng thanh tịnh, ân-ái tạp niệm các việc đều không tức là thành Tiên hiện rồi, còn mình để cái tâm nó dục động tạp niệm, nó tật đố tham lam ái-ân không dứt, tài sắc không quên, chẳng có một chỗ tịnh, thì tức là ma quỉ đó rồi, cho nên phải tìm chỗ thân tâm thì đặng thành, ai muốn phải tầm mới đặng.)
Ta nay đem nội-công dạy thêm cho mấy trò nghe, vì việc nội-công chẳng khá lấy chỗ sắc kiến, chẳng khá lấy chỗ tướng mà cầu, chẳng khá làm kiêu hãnh, cũng không đặng làm biếng, quét trừ một mảy sắc tướng chẳng còn, một mảy khí nộ chẳng sanh, quét trừ sắc tướng không rồi thời số dương không sanh. Như đem mấy việc đó trừ hết thời ắt thể đặng thuần dương.
Có người học Ðạo trong lòng cũng quyết mà vì tại muốn cho mau thành, công-phu chưa đến lại muốn chứng quả.
Còn có người tập theo đạo của ta cũng quyết việc tu luyện, lại muốn an nhàn, ngày ngày dật dựa ham ngủ. Ma-âm khí thạnh giờ giờ buồn bực chẳng vui. Ma-dương khí suy, tinh thần chẳng phát, khó nổi công phu. Ðó là tại ham an-nhàn, thong-thả, nên tu hành không đặng.
Phàm việc chi cũng phải dùng hết tâm-chí mới làm đặng việc; huống chi là học làm Thần Tiên, không lo tập luyện dồi mài học theo qui luật; cứ lo danh lợi đua chen ham điều vui ngủ, mà thành Ðạo bao giờ?
Trùng-Dương tiên-sanh nói rồi lại lấy cuốn sách tên là "Thao-Quan-Tập" của thầy làm ra, trong đó có giảng Ðạo, sự tích phép ẩn dật mầu diệu rất hay, đưa cho Mã-Ðơn-Dương dặn rằng: Ngươi cùng 5 người phải coi xét cho chí lý, thấu rồi chẳng phải khó; như làm đó có khó phải rán sức làm theo, mới không phụ lòng ta.
Tôn đạo-hữu của ngươi, đạo quả gần đủ, đừng có nhớ tưởng; duy có Khưu-Trường-Xuân công quả còn ít, ngươi phải chỉ dạy thêm cho y. Còn Lưu-Trường-Sanh sắc tướng trừ chưa hết, phải có một lần tai nạn sóng gió nữa.
Từ ấy Xích-Thái-Cổ đông qua tây lại công-phu đắc ý thấy chỗ vừa lòng là chỗ liễu đạo. Ðàm-Trường-Chơn gặp đặng máy thông huyền. Vương-Ngọc-Dương đặng thấy nghe huyền diệu. Khưu-Trường-Xuân bên thạch bàn khê đặng biết khổ căn, trên cửa rồng bay đại đơn đã thành.
Thầy Trùng-Dương nói dứt lời cười một tiếng rồi thành đạo. Khưu, Lưu mấy ông nghe theo lời thầy dạy chẳng dám lên tiếng, y phép nhập liệm, lấy dây buộc quan tài, cây đòn sắm sẵn đợi đến sáng ngày Khưu, Vương, Ðàm, Xích bốn ông khiêng linh cữu ra đi. Lưu-Trường-Sanh gánh đồ theo sau. Mã-Ðơn-Dương đưa cách 20 dặm lấy ra một gói bạc ước 40 lượng giao cho Lưu Trường-Sanh nói rằng: Tiền bạc trong nhà thầy châu-tế việc lành xài hết, nay còn có bao nhiêu đem làm sở phí, rán tiện tặn cho đủ xài, chôn rồi trở về anh em đồng nhau lo việc tu hành. Nói rồi đưa cho Lưu-Trường-Sanh tiếp giữ, rồi anh em tạ ơn, lu biệt. Ði đặng mấy dặm đường, thấy có người đem nhang đèn cúng tế, Lưu-Trường-Sanh thấy mấy người lạy cúng cũng là đệ tử của thầy.
Những kẻ giả tu học đạo khi trước thấy Lưu-Trường-Sanh thảy đều xưng tạ. Vì Trùng-Dương khi bình sanh chẳng chịu những người giả tu, ngày nay qui Tây chơn linh chẳng quên, nên trong quan tài xì hơi ra thúi người người đều chịu không nổi, bụm miệng nín mũi muốn mửa, đứng gần không đặng, lật đật cúi đầu lạy ít lạy đều chạy về hết. Mấy người đi rồi, hơi thúi liền dứt. Trường-Xuân cùng mấy ông khiêng linh-cữu qua Xiểm-Tây chừng hơn 10 dặm, có người đem cơm cho ăn, ai nấy tưởng là người quen với thầy, nay nghe thầy qui thiên nên đem cho ăn, nghĩ là nhơn tình lẽ thường nên cứ việc ăn. Khi ăn rồi tạ ơn kế khiêng đi nữa.
Chừng vừa tối, thấy bên đường có cái miễu thời khiêng không nổi nữa, liền đem linh-cữu để trong miễu nghỉ chơn. Sáng ngày khiêng đi, đến bữa mơi cũng có người đón đường dưng cơm, bữa trưa cũng vậy. Chừng vừa tối cũng có cổ-miếu an nghỉ. Ði hơn một tháng trường cũng vậy hoài. Gần đến đất Xiểm-Tây, Khưu-Trường-Xuân tưởng thầm: Thiệt việc rất lạ, trong trời đất nào có ai mà đặng việc may hoài như vậy?
ở chỗ gần thì nói rằng quen với thầy mình, nay nghe thầy mãn phần đem linh-cữu về xứ nên niệm tình làm nghĩa cho ăn, cũng có lẽ được. Nay đi đã xa mà cũng còn người cho ăn, thiệt lấy làm lạ, để mình hỏi thăm người đem cơm coi duyên cớ sao vậy? Ðến trưa có người đem cơm cho ăn. Lưu, Xích mấy ông cám ơn, rồi lấy chén ăn cơm. Trường-Xuân kêu người đem cơm hỏi rằng: Sao anh biết anh em tôi đến đây mà đem cơm cho ăn?
Ðáp rằng: Sớm mơi có một ông thầy mặc áo vàng đến xóm tôi xin, nói có năm người đệ-tử ở Sơn-Ðông đưa linh-cữu lên đây xin một bữa cơm. Ông chủ tôi làm việc lành, nghe nói nên biểu tôi đem cơm đến đây. Trường-Xuân nghe nói sanh nghi. Ngày sau đến bữa cơm sớm, giả nói đau bụng muốn vô trong xóm xin nước nóng uống, cầu Lưu-Trường-Sanh khiêng thế, Trường-Sanh chịu khiêng, đưa gánh đồ giao cho ông Khưu rồi đi khiêng. Ông Khưu gánh đồ đi trước mấy dặm, quả thấy có một ông thầy mặc áo vàng giống in thầy mình. Khưu-Trường Xuân chạy theo tới nắm áo quì xuống thưa rằng: Có đệ tử lại hầu. Trùng-Dương tiên-sanh ngó lại thấy Trường-Xuân giận trách rằng: Ngươi thiệt là tạo nghiệt, chẳng biết việc trời đất dinh hư tiêu trưởng, chỗ đạo cần giấu, hay làm hơi lanh giỏi, tiết lậu Thiên-cơ, như vậy ngày sau phải bị 3 năm ma khảo, việc đó thiệt tại mình làm tội. Nói rồi hóa trận thanh-phong biến mất.
Trường-Xuân lấy làm hối ngộ, rồi thấy linh-cữu khiêng tới lật đật lại khiêng, giao gánh đồ cho Lưu-Trường-Sanh. Từ đó đến sau không ai đem cơm cho ăn nữa.
May nhờ có Mã-Ðơn-Dương cho tiền sở phí, không thôi phải chịu đói. Rồi đi thêm nửa tháng mới tới Trường-An, tại núi Chung-Nam, khi không dây đứt, linh-cữu rớt xuống đất. Khưu Trường-Xuân thấy xóm trước có một ông già đứng ngó, lật đật chạy lại bái lễ, chưa kịp mở miệng, ông già liền hỏi rằng: Mấy người phải ở Sơn-Ðông khiêng linh-cữu đến đây chăng?
Trường-Xuân đáp: Phải, sao ông biết?
Ông già rằng: Hồi hôm tôi nằm chiêm-bao thấy Vương-Hiếu Liêm nói ông chết rồi, có năm người học trò đưa linh-cữu ở Sơn Ðông đem về đây, nói với tôi xin một chỗ huyệt mã đặng chôn ông. Tôi nhớ tình anh em khi xưa giao kết tại tỉnh thành thi cử thương nhau; nghe ông nói xin tôi chịu cho, hỏi chừng nào chôn, ông nói ngày mai, giờ Ngọ. Tôi tỉnh dậy mới biết chiêm bao, nửa tin nửa nghi, ra coi mấy lần thấy mấy ông khiêng linh cữu rớt xuống đất tôi. Trường-Xuân đem việc thầy dặn khiêng đến chỗ nào dây đứt là chỗ chôn thầy, thuật hết cho ông nghe. Ông già nghe nói rất mừng, liền vô kêu mấy người trong nhà đem cuốc xuổng đến trước linh-cữu, khiêng dời quan tài để một bên đào huyệt tại chỗ đó an-táng, đắp lên thành cái mộ lớn. Khưu-Trường-Xuân mấy ông lạy tạ ông chủ cùng mấy người chôn.
Ông già thỉnh mấy ông về ăn cơm chay. Khưu, Lưu mấy ông đi ăn rồi đến tạ ơn chủ nhà, lại hỏi thăm đường đi Ðại-Ngụy Thôn. Mấy người đều làm lễ ra đi.
Ðưa Thầy về Tây là việc phải,
Tầm Ðạo qua Ðông đặng thành chơn.
-
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
* * * * * * *
Ðại-Ngụy-Thôn, Tam-lão đàm vãng sự,
Tấn-Thành kiều, nhứt ngôn chi mê đồ.
Nghĩa là:
Ðại-Ngụy-Thôn có ông Tam-lão nói việc trước,
Cầu Tấn-Thành, một lời chỉ đường mê.
Có bài kệ rằng:
Muôn chuyển thân như chẳng động châu,
Gió đưa sóng dập khó nên thâu,
Nước trôi cầm chặt chèo cùng bánh,
Ðường thẳng nhẹ buồm đến ngạn đầu.
Lại nói Khưu-Trường-Xuân cùng mấy anh em tới chỗ Hàm Dương Ðại-Ngụy-Thôn, thấy nhà cửa tan hoang, có ông Vương Tam-Lão ngồi trước cửa miễu. Trường-Xuân bước lại làm lễ, hỏi thăm nhà ông Vương-Hiếu-Liêm. Ông đáp rằng: Mấy người hỏi nhà Hiếu-Liêm bộ cũng có bà con cùng ông chăng?
Trường-Xuân nói: Có, ông là thầy của anh em tôi ở tại Sơn Ðông dạy Ðạo. Nay thầy tôi qui Tây, anh em tôi đưa linh-cữu về đây xin đất chôn tại nơi chơn núi Chung-Nam. Nay muốn trở về Sơn-Ðông, nên lại đây hỏi thăm nhà thầy tôi và bà con mạnh giỏi.
Ông già nghe nói than một tiếng: Hỡi ôi! Anh Hiếu-Liêm là anh bà con của tôi. Tôi thứ ba, nên người kêu tôi là Vương-Tam Lão. Từ ảnh đi tu đến nay, vợ là Châu-Thị bị lo mà thành bịnh nên mãn phần rồi. Con ảnh tên Thu-Lan đi theo bên chồng chừng một năm mới về một lần. Nhà ảnh bây giờ không có ai.
Trường-Xuân lại hỏi: Trong xóm nầy sao mà coi hư tệ dữ vậy?
Vương-Tam-Lão than rằng: Từ anh tôi đi rồi thì trong thôn không ai làm đầu, nhà ai nấy lo, có việc không người ra làm đầu tính liệu, nên phận ai nấy giữ, bỏ lâu phải hư. Sau lại nghe Hiếu Liêm thành Tiên rồi, người người đều nói phong thủy đường long bị ảnh lấy đi, đem các việc tội đổ về cho ảnh.
Khưu-Trường-Xuân hỏi: Sao biết ổng thành Tiên?
Vương-Tam-Lão chỉ cái miếu nói rằng: Miễu đó Nam Bắc hai thôn người ta làm cho ảnh. Mấy ông vô coi thì biết. Nói rồi mấy ông đi vào miễu, quả thấy trên bàn để ngồi cốt tượng của thầy y như người sống, đều đến trước làm lễ. Thấy trên khuôn biển biên bốn chữ: "Ðinh hồ nhơn hào", hai bên có treo đôi liễn đề:
Hiển đạo thuật ư Hàm-Dương, phúng tửu diệt hỏa,
Thi ân quan du cố lý, thi phù khu ôn.
Khưu, Lưu mấy ông coi rồi chẳng biết duyên cớ làm sao liền hỏi Vương-Tam-Lão "diệt hỏa khu ôn" không biết ý chi?
Vương-Tam-Lão nói: Năm đó tại đây bị ôn dịch truyền nhiễm nhiều người, may có ông đạo mặc áo vàng vẽ bùa son thí cho trong xóm không lấy tiền. Ai đặng bùa linh dán trước cửa thì khỏi bị ôn dịch.
Sau nghe người nói chợ Hàm-Dương bị lửa cháy dữ không tắt, rồi thấy có một người đạo-sĩ mặc áo vàng ở trong tiệm rượu đi ra, tay bưng chén rượu hớp trong miệng, phun trên lửa tắt liền. Người trong chợ cảm ông có ơn cứu lửa khỏi tai nạn, đều lại hỏi ông tên họ chi? Ông nói: 3 ngang một sổ là họ, 3 sĩ có khẩu là tên. Nói rồi liền đi mất.
Sau lại có mấy người bàn ra hai chữ đó, 3 ngang 1 sổ là chữ Vương, 3 sĩ có khẩu là chữ Hỷ, chắc là Vương-Hỷ. Nói rồi truyền ra trong xóm, tôi mới biết là ông thành Thần Tiên rồi.
Trong họ tôi, có chị Vương-Má-Má, hồi mãn phần có nói rằng: Chú Hiếu-Liêm mặc áo vàng đến rước tôi đi. Nên Nam Bắc hai thôn cám ơn ông cứu hộ, chung tiền làm một cái miễu đặng trả đức cho ông. Trên vách có treo tấm bảng nói việc đó, mấy ông coi thì biết. Khưu, Lưu mấy người lại coi, thấy đề rằng: "Tỏ nghe việc người có công nơi Nhà nước cùng có đức với dân nên phải thờ đó.
Xóm tôi có ông Vương-Công tên Hỷ thiệt người dị nhơn, tuổi còn nhỏ đọc thơ, lớn lên tập võ thi đậu làm chức Hiếu-Liêm sau giả bịnh phong điên chẳng nói, người chưa hiểu việc động tịnh của ông, dưỡng bịnh 12 năm không ra khỏi cửa. Bữa nọ ẩn mất chẳng biết là đi đâu, bốn phía kiếm tầm không rõ tông tích. Rồi sau trong thôn khởi bịnh ôn-dịch, ông thí bùa cứu hết bảo toàn tánh mạng cho thiên hạ rất nhiều. Trong xóm người người đều nhờ ân huệ. Còn chợ Hàm-Dương lửa cháy phun rượu tắt liền, giấu tiếng để tên, độ chị dâu lên trời, hộ hương nhơn nhờ phước. Ông vì không quên xóm làng mà người trong xóm làng nào dám quên ơn ông; lẽ nào lại không cúng tế, nên anh em tôi hội nghị làm cái miễu lên cốt tượng thờ ông, thường năm chiêm ngưỡng đặng trả ơn huệ ấy của ông."
Khưu, Lưu mấy người xem rồi than rằng: Thầy thiệt là thần cơ khó hiểu, biến hóa vô cùng, bạn ta không biết đặng. Rồi thấy Vương-Tam-Lão kêu một người nhỏ nói chi không biết, người nhỏ gật đầu, kế một hồi thấy có một người xách cái giỏ đem đồ ăn lại, mời quí thầy đạo hữu dùng cơm. Vương-Tam-Lão nói: Nhờ quí thầy đưa linh-cữu anh tôi về xứ, lại tới thăm nhà nữa, không có chi trọng đãi, xin vui lòng đa thiểu.
Mấy người thấy vậy liền ngồi lại ăn. Bữa đó ngủ tại trong miễu, nhiều người tới hỏi thăm. Bữa sau trời gần sáng có bảy tám người đem cơm cho mấy ông ăn, mà ăn sao cho hết! Rồi mỗi nhà đem lại dùng một chút lấy thảo. Lưu-Trường-Sanh nói cùng anh em rằng: Nay tiền sở phí của Mã sư-huynh cho còn dư lại mười mấy lượng giao cho Vương-Lão đặng bồi sửa miễu thầy. Mấy anh em đều vui lòng giao cho ông, xin ông ở đó bồi sửa giùm. Khưu, Lưu mấy ông giao rồi thưa đi, hồi lâu khỏi Ðại Ngụy thôn hơn mười mấy dặm, tới gốc cây lớn ngồi nghỉ.
Ðàm-Trường-Chơn nói: Bạn mình đưa thầy về Tây việc lớn đã rồi, bằng trở lại Sơn-Ðông nữa cũng ăn xài tiền bạc của Mã sư huynh không nên. Lời tục thường nói: "Nào có tiệc rượu tựu rồi không tan. Ðạo chẳng luyến tình, luyến tình chẳng phải Ðạo". ở lâu chắc thiên hạ sanh nghi, chẳng bằng một người đi một xứ, đặng vui riêng tự toại.
Vương, Xích mấy ông cười nói rằng: Sư huynh luận phải. Nói rồi Lưu-Trường-Sanh đi phía Ðông-Nam, Vương-Ngọc Dương đi phía Tây-Nam, Ðàm-Trường-Chơn qua phía Bắc, Xích-Thái-Cổ qua phía Ðông.
Khưu-Trường-Xuân thấy mấy ông đi hết rồi nói thầm, thôi mình ở lại Xiểm-Tây xin ăn, vì mình phước mọn đức ít thì phải khổ tâm, khổ chí tu hành mới đặng việc.
Lại nói qua Xích-Thái-Cổ đi tới đất Tấn, thấy một cái cầu đá, dưới chơn cầu có tám chín cái động cũng là Trời sanh đá như vậy. Mỗi năm đến mùa Thu, Ðông, nước dưới sông cạn, thường có mấy người nghèo tị nạn vào động mà ở. Xích-Thái-Cổ thấy dưới cầu sạch sẽ, khi đó nước cạn, ông vào dưới cầu ngồi tu, trước không ai biết, thiệt cũng thanh tịnh, sau lần lần có người biết mới gây ra việc khiên triền, cảm động mấy người ở gần, thấy ông thường thường ngồi hoài nên biết là người tu hành, họ hay đem cho đồ ăn. Ông ăn dư thường để lại trước mặt, bị chim cò tha đi rớt cùng đường, hoặc dưới nước. Trẻ nhỏ thấy lượm ăn rồi kiếm lần tới chơn cầu đến trước chỗ Thái-Cổ ngồi mà giỡn hớt. Thấy ông ngồi hoài chẳng động cũng như cốt cây hình đất, chúng nó lại tưởng ông như một vị Bồ-Tát, muốn làm miễu thờ ông, mới lấy đá sắp hai bên làm tường, cây lá che kín thành cái miễu. Mỗi ngày chúng nó ăn cơm rồi tới miễu bái lạy chơi giỡn, bữa nào cũng vậy. Xích-Thái-Cổ là người tu đặng tịnh dưỡng cũng không nói động, để chúng nó mặc tình, thiệt là có ít người như vậy!
Cách ít ngày, xóm trước làm chay, hội Quan-Âm, mấy đứa trẻ đi coi hội hết, thiệt là thanh tịnh. Rồi Xích-Thái-Cổ thấy một người ngồi dưới cầu lấy cục đá mài hoài; mài một hồi lâu lấy lên coi, hơn mấy chục lần tiêu hết miếng nầy tới miếng khác, mà không thấy làm việc chi. Mài ra như bùn rồi lại lấy miếng khác mài nữa. Ông thấy vậy sợ uổng phí công phu của y, ông muốn chỉ dạy việc lành nên kêu hỏi: Ông mài đá muốn làm việc chi?
Ðáp rằng: Muốn làm đồ.
Xích-Thái-Cổ nói: Như muốn làm cái chi trước phải định chắc, hoặc chỗ cao sửa bằng, chỗ tròn sửa vuông, phải có phép tắc mới là nên đồ tốt. Ông nay chẳng dụng cái qui-củ, cứ ngồi mài hoài như vậy sao cho đặng thành công?
Người ấy đáp: Tôi muốn mài đá ấy cho sáng mà làm cái kiếng thường ngày soi mặt.
Xích-Thái-Cổ cười rằng: Ðá là đồ đất, làm sao mà mài cho thành kiếng soi đặng? Há chẳng uổng phí công-phu?
Người ấy cười lớn rằng: Như lời ông nói tôi mài không thành kiếng, còn ông ngồi hoài như vậy đặng thành Tiên hay sao? Tưởng lại một việc ngồi hoài nào khác tôi mài đá mà thành kiếng!
Xích-Thái-Cổ nghe nói giựt mình thức tỉnh, lật đật đến trước mặt người, ý muốn xin cầu dạy. Người đó liền đi, không hỏi chi đặng. Xích-Thái-Cổ biết là người dị nhơn đến đây chỉ điểm cho mình, như mình ngồi khổ tọa thiệt không ích. Nghĩ rồi sửa soạn lấy đồ đi liền, đi khỏi cầu Tân-An qua xứ U-Yên.
Có bài kệ rằng:
Mài gạch làm gương phí công-phu,
Ngồi thoàn khống tọa khí tiêu khô,
Hai việc đều là không đặng sức,
Một lời nói tỉnh phá mê đồ.
Chẳng nói việc Xích-Thái-Cổ du Bắc, lại nói việc Ðàm Trường-Chơn qua Nam, bữa đó đi tới đất Bắc-Tỳ-Châu, trời gần tối không có đình miễu chi hết, lại không có ngủ, thấy có một sở nhà lớn, ý muốn lại nghỉ nhờ đặng xin cơm ăn. Ði gần tới cửa thấy một người đi ra, chắc là chủ nhà, người đó họ Cổ, tự Trúc Thành, hiệu Dủ-Phong, khi trước cũng người ham Ðạo, vì bị mấy người đạo chẳng lành giả hình tướng làm như người Thần Tiên, lường gạt tiền bạc của ông hết mấy lần, nên ông thấy mấy người đạo tới ông ghét lắm; vì bị kẻ trước làm quấy mà lụy đến người sau. Dủ-Phong thấy Ðàm-Trường-Chơn đi lại liền la một tiếng lớn rằng: Ðạo-sĩ đừng tới xóm tôi nữa, tôi với người tăng đạo không có duyên. Ðàm-Trường-Chơn nghe nói trong ý lại muốn độ ông.
Ý muốn người ta tin phục mình,
Phải đem việc mình mà phục người.
-
HỒI THỨ MƯỜI BẢY
* * * * * * *
Hí Hỷ-Hồng định kế thoát thân,
Nạn Hồn-Nhiên đương chơn bàn đạo.
Nghĩa là:
Giỡn con Hỷ-Hồng phải định kế thoát thân,
Nạn ông Hồn-Nhiên đem lời chơn giảng Ðạo.
Có bài kệ rằng:
Cảnh lòng nguyên phải sáng tỏ mình,
Chớ bị việc lầm mất chỗ tin,
Ngày trước đã cho người giả gạt,
Nay gặp người hiền lại hãi kinh.
Lại nói Ðàm-Trường-Chơn thấy Cổ-Dủ-Phong có mấy lần chí lành, ý muốn độ, ai dè chẳng đợi ông mở miệng, nói trước rằng: Người đạo chẳng khá nói nhiều, ta đã nghe qua rồi, ngươi nay nói nữa ta cũng chẳng tin. Ta bị bạn ngươi gạt nhiều lần, có chỗ nào tu hành mà nói. Ta coi lại là người kiếm ăn, nói rồi bỏ vô không ra.
Ðàm-Trường-Chơn nghe nói mấy lời hủy báng trong đạo không chút nào yêu mến, trong lòng muốn ra mở mang cho đạo. Lúc ấy trời gần tối, ông lại trước cửa ngồi nghỉ. Mấy người tớ ra đuổi ông đi, lấy một thùng nước tạt ướt chỗ cửa rồi đi vô đóng lại. Ðàm-Trường-Chơn thấy làm ác như vậy, liền ra ngoài đường. Ðêm đó trời mưa tuyết lớn nước đặc hơn một thước. Ðến sáng mấy người trong nhà ra coi, thấy Ðàm-Trường-Chơn ngồi giữa trời, chung quanh tuyết đông đặc lên cao, lại gần một bên ông coi chẳng có chút nào, liền báo cho chủ hay. Dủ-Phong nghe nói ra coi thấy bên mình ông hơi lên cao nghi-ngút, biết là người có đạo, liền mời ông về nhà, đãi theo bực khách trọng. Nói rằng: Chẳng phải tôi không tin đạo, vì trong đạo không có người chơn, phải đặng như ông chí tu khổ hạnh như vầy ai mà chẳng tuân kỉnh, ai mà dám hủy báng trong đạo. Tôi nguyện nuôi ông trong nhà tôi năm ba năm, hoặc mấy mươi năm tôi cũng vui lòng. Thôi để chọn ngày tốt, nguyện cầu ông làm thầy, chẳng biết ông chịu chăng?
Ðàm-Trường-Chơn trong ý muốn khai hóa y, nay thấy y có lòng ăn-năn tự hối, tín tâm kỉnh phục, gật đầu chịu lãnh. Dủ Phong vui mừng liền sai gia tướng lại trước nhà quét dọn căn phòng sạch-sẽ thỉnh Ðàm-Trường-Chơn vào đó tu hành. Hàng ngày cơm nước tinh tấn chẳng trễ, và có cho một đứa tớ gái tên Hỷ-Hồng lo việc phụng sự cho Ðàm-Trường-Chơn trà nước thường hoài vì ông là người đạo đức tôn trọng, diệu lý vô cùng.
Thoạt thấy ngày tháng lẹ mau, ở đó hơn nửa năm chẳng thấy Dủ-Phong hỏi thăm việc Ðạo, xét coi y tâm ý ham Ðạo, thiệt chẳng phải muốn học Ðạo. Muốn cho người thọ lấy của y đặng y có lòng cúng dường, thế là y lập phước ý muốn mượn người tu hành giùm đặng sau hưởng phước huệ mà thôi. Ðàm-Trường Chơn biết thấu lòng ý của y nên chẳng muốn ở nữa, cũng không chịu lãnh của tiền. Ðôi lần muốn đi mà Dủ-Phong cầm hoài không cho đi, lại biểu mấy người trong nhà coi giữ, nên Ðàm Trường-Chơn đi mấy lần bị người cản, đi không đặng. Rồi ông tưởng ra một kế phải làm như vầy... mới đặng ra khỏi nhà. Một lát con Hỷ-Hồng đem trà, Ðàm-Trường-Chơn giả ý nắm tay Hỷ Hồng nói rằng: Tay ngươi mềm như bột.
Hỷ-Hồng mắc cở nói: Như mực một thứ! Ông đừng cười tôi. Liền đi ra ngoài và thưa cho bà hay. Bà nghe nói trong ý bất bình kêu chồng nói rằng: Ðàm sư-phụ giỡn hớt con Hỷ-Hồng, sợ chẳng phải người tu chơn đó ông! Thôi biểu ổng đi cho sớm. Dủ-Phong nghe nói không tin, e Hỷ-Hồng làm biếng chẳng chịu phục sự bày việc nói dối. Bà nghe ông nói như vậy trở nghi Hỷ Hồng có ý đó. Hỷ-Hồng nghe vậy chẳng dám nói nữa.
Qua bữa sau, Dủ-Phong thấy Hỷ-Hồng đem trà, ông lén theo sau rình, quả thấy Ðàm-Trường-Chơn nắm tay Hỷ-Hồng cười rằng: Tay nàng như bông. Dủ-Phong nghe nói liền muốn biểu ông đi, lại nhớ mấy lần ông muốn đi tại mình cầm lại, nay mình đuổi ổng ra thời việc do nơi mình bất nhơn, chẳng bằng viết ít lời dán trên vách, ổng thấy mắc cở tự nhiên phải đi, mình khỏi mang tiếng ác. Rồi biểu mấy người trong nhà thấy ổng đi đừng có cản.
Dủ-Phong sắp đặt rồi bửa sau tới bữa cơm sớm, Ðàm Trường-Chơn không thấy Hỷ-Hồng đem trà nước lại nữa, biết là kế đã thành liền ra ngoài coi thấy trên vách dán một cái thiệp viết bốn câu rằng:
Gió tây đem thổi tuyết bông bay,
Ngồi lạnh bồ-đoàn niệm ý sai,
Chớ nói trẻ thơ tay tợ ngọc,
Trách phận mình làm chớ tại ai!
Ðàm-Trường-Chơn cười, trở vô phòng lấy bút viết bốn câu dán kế bên đó, rồi sửa soạn gói đồ ra trước nhà, nói lớn hai tiếng "Tạ ơn". Không ai trả lời, rồi ra cửa qua phía Nam ở hai năm, sau trở lại phía Bắc.
Nói về mấy đứa tớ nhà ông Dủ-Phong, vì nghe lời chủ dạy như Ðàm-Trường-Chơn có đi đừng cản nữa, nên khi thấy ông ra đi, mấy đứa đều trốn hết để ông đi rồi mới thưa cho chủ hay. Dủ Phong nghe nói đến sau phòng thấy có biên thêm 4 câu rằng:
Chớ lời tiết nguyệt với phong hoa,
Tâm chánh nào lo tiếng vạy tà,
Chẳng nói Hỷ-Hồng tay tợ ngọc,
Thân nầy chắc bị tại trung-oa (hang ếch).
Bởi Ðàm-Trường-Chơn muốn độ người học đạo chớ không ham cúng dường. Còn Dủ-Phong là người giả đặng cầu danh mà thôi, nên ông không chịu, phải giả kế mà thoát thân, không ăn của vô đạo, nếu như ở đó cũng như ở trong hang ếch.
Khi đó Cổ-Dủ-Phong thấy 4 câu kệ của ông, chống tay nghĩ thầm lời hiền có nói: "Người quân tử đi học đạo, thời muốn tầm người ham đạo, mến đạo mới vui". Vì biết mình cầu danh mà hưởng phước nên ông lập kế biến việc như vậy, chớ không phải là người háo sắc. Lúc đó mới biết Ðàm-Trường-Chơn nói giỡn với Hỷ-Hồng đặng cho có lý sự mà kiếm nẻo thoát thân. Chừng ấy than tiếc không cùng!
Lại nói Vương-Ngọc-Dương từ khi ở Ðại-Ngụy thôn, mấy người anh em đạo hữu phân ly nhau, ông đi đến đất Phong Châu. Chỗ Phong-Châu đường phía Bắc có một ông quan họ Diệu tự Sùng-Bao, làm quan tại phủ Tân-An. Vì coi thấy cuộc đời hết muốn việc quyền tước, xin nghỉ về làng để vui thú điền viên. Bình sanh chỉ ham học đạo, thấy người tu hành như gặp bà con, thân quyến, không luận giàu nghèo, hay dở, cũng mời về nhà đàm luận việc tu. Gần bên ông có cái chùa hiệu là "Ngộ Tiên Quang", người chủ trì cũng người giữ đạo, thường hay có đạo-sĩ ở ngủ nhờ. Ông Diệu-Quang có dặn trước người giữ chùa, phàm có người học đạo tới nghỉ thì cho ông hay.
Khi kia có đến một người không phải đạo-sĩ cũng không phải thầy chùa, hay nói việc tu hành, tự xưng mình có đạo, thường khoe nói: Ta nay 96 tuổi, thường gặp Trương-Tam Phong cùng Lữ-Ðộng-Tân mấy lần, còn Ðạt-Ma Tổ-Sư là thầy ta, Tế-Ðiên Hòa-Thượng là anh em bạn ta, ta ngồi công-phu một hai ngày chẳng mỏi. Lại khoe độ người không biết bao nhiêu mà kể. Người giữ chùa nghe nói liền hỏi: Xin lỗi ông cho tôi biết danh tánh.
Ông rằng: Hiệu ta là Hồn-Nhiên-Tử.
Người ấy liền dẫn ra mắt ông Diệu-Quang. Vừa tới nhà, ông ấy liền nói: Hòa-thượng là quỉ đói, chỗ sắc tướng; còn đạo-sĩ ma vương chỗ khí; như vậy làm sao đặng thành Tiên Phật? Nào có đặng như tôi muôn việc coi thấu, chút trần chẳng nhiễm, mới gọi người chơn-tu học đạo, phải học theo đạo tôi thì sống đặng trăm tuổi...
Diệu-Quang tánh hay ham cao háo thắng, nghe nói trong lòng vui mừng, liền cầu cho ông thọ giáo làm thầy nuôi tại trong nhà. Ông ở đó ăn nói không chút vị ai, câu nào nói ra thời bỉ bạc thầy chùa, đạo sĩ. Khi đó ông đạo ở chùa "Ngộ-Tiên-Quang" đứng một bên nghe ổng nói hủy báng tăng đạo, trong lòng chẳng phục, thầm tưởng ông nầy thiệt chẳng biết lễ nghi phải quấy, mình đã tử tế có ý đem tiến ổng đặng hưởng chỗ cúng dường, là vì mình thương người tu hành, ổng lại trở báng xáng đạo tăng, chẳng biết coi trước coi sau. Muốn giở ngói trên nhà phải coi chừng dưới đất thời mới gọi là người tu hành chính ý. Ðã trước mặt mình mà không vị. ổng thấy Diệu-Quang kính trọng, ổng trở lại khinh tiện bạn mình, thiệt người không hậu. Tôi phải kiếm một người biết đạo tham-thiền công-phu cho hơn ổng đặng bỉ-bạc trả hờn tôi mới vừa ý. Tưởng rồi liền kiếu ra về. Cách ít bữa, may có Vương-Ngọc-Dương tới hỏi ở nhờ. Ông chủ chùa thấy Ngọc-Dương khí tượng hẳn hòi, chắc là người có đạo, thấy trọn ngày ngồi công-phu hoài, mà tinh thần thêm tráng kiện. Nghĩ thầm muốn phá ông già kia chắc phải cầu ông già nầy mới đặng.
Muốn nói việc tỏ rõ cho ông nghe mà sợ ổng không đi bèn sanh một kế, nói cùng Vương-Ngọc-Dương rằng: Trong nhà của Diệu-Quang có tới một người tu hành giỏi, ngồi công-phu mười mấy ngày chẳng mỏi. Tôi nay muốn cùng đạo hữu qua đó thăm chơi, chẳng biết đạo hữu chịu chăng? Vương-Ngọc-Dương nghe nói cũng mừng, hai đàng liền sửa soạn qua đến nhà Diệu Quang, mấy người coi cửa vô báo cho Diệu-Quang hay, ông liền ra nghinh tiếp, đồng đến nhà khách trà nước chưa kịp hỏi thăm liền thấy một ông đầu bạc đi ra. Vương-Ngọc-Dương thấy người xanh, mày to, mắt nhỏ, mủi đảnh, trán vồ, môi chì, răng sún, miệng tròn, tai lớn, có ít sợi râu rìa, trên đầu có ít chòm tóc bạc, giống như bà già lại ngồi trên ghế giữa. Ông chủ chùa nói với Ngọc-Dương rằng: Ông đây là người đại tu hành, tôi tỏ cùng sư huynh hồi sớm đó.
Ngọc-Dương nghe nói lật đật đứng dậy chắp tay chào sư huynh. Ông ấy ngồi nghe chẳng hề đáp lễ, ý gọi mình là cao rồi, nên coi Ngọc-Dương không ra gì, liền hỏi: Nầy đạo, "Hoặc thị tài hoa hay là sáp liễu?"
Ngọc-Dương không biết ông nói việc chi, chưa kịp trả lời ông già lại hỏi: Mầy có vợ hay chưa?
Ngọc-Dương tưởng ông hỏi theo việc tục, đáp rằng: Vợ tôi cũng có rồi, vì ra tu hành bỏ lại ở nhà.
Hồn-Nhiên-Tử cười lớn rằng: Uổng cho mày ra tu hành, hỏi có mấy câu cũng không biết. Ta hỏi mầy tài hoa, là hỏi phải thiếu niên xuất gia chăng? Còn sáp liễu là hỏi phải trung niên xuất gia chăng? Hỏi mầy có vợ chưa là hỏi đặng chơn âm tiêu tức hay chưa? Mầy lại đem lời tục nói chuyện. Thiệt là người không biết đạo. Bằng đem việc hoài thai hỏi mầy nữa càng thêm không biết! (Thiệt Hồn-Nhiên-Tử chẳng biết một chút khiêm nhường, trước mặt mà chê tệ người ta.)
Ngọc-Dương tánh dung người nên không trách, dòm thấy ông chủ chùa mặt biến sắc, trong ý y chắc là mình thua nên mặt biến sắc như vậy. Thôi phải biện nói ít câu đặng cứu cái thể diện của y. Liền cười nói rằng: Hồi nãy thầy hỏi việc "Chơn âm", không biết cái chơn âm đó là vật chi? Còn nói "hoài thai" mà cái thai đó tùng ở đâu mà kiết? Hoài là vật chi?
Hồn-Nhiên-Tử không biết, nín một hồi lâu trả lời không đặng, vùng cười rằng: Huyền cơ chẳng khá tiết lậu, nào đặng nói cho mầy nghe.
Người chủ chùa thấy ông ấy nói gượng, biết là ông không hiểu, liền thưa Ngọc-Dương rằng: Vậy cầu sư huynh phân giải, chắc ổng không biết, xin đừng hỏi nữa.
-
HỒI THỨ MƯỜI TÁM
* * * * * * *
Vương-Ngọc-Dương dĩ chơn phục giả,
Ðàm-Trường-Chơn thuyết cổ đàm kim.
Nghĩa là:
Vương-Ngọc-Dương lấy chơn mà phục giả,
Ðàm-Trường-Chơn giảng xưa mà tỉnh nay.
Có bài kệ rằng:
Nghe nói Tây-Phương chưởng kim liên,
Bông khai mười trượng cử như thuyền,
Linh đài bèn có kỳ viên thọ,
Bổn địa phong quang thiệt Phật thiên.
Lại nói Vương-Ngọc-Dương đem mấy câu thiết yếu hỏi, ông Hồn-Nhiên-Tử trả lời không đặng, đúng là:
Nhiều lần khoe nói dối,
Rồi hỏi, đáp không ra.
Người chủ chùa vổ tay cười lớn rằng: Ðạo huynh nói đi, xin đừng vấn nạn, nhắm ông không hiểu đâu.
Hồn-Nhiên-Tử nghe nói mình không biết liền nổi giận, hai đàng đấu khẩu. Ngọc-Dương lấy lời hòa giải nói rằng: Lão tiên sanh chẳng phải không biết, vì không dám nói tiết lậu thiên cơ. Nay để tôi đem mấy lời phân luận cho quí thầy xét thử coi phải hay không. Vì chơn-âm chơn-dương là hai khí âm dương. Khí chơn-dương hay ẩn tại cang, khí chơn-âm hay tụ tại phế. Cang thuộc mộc là chỗ tụ hồn. Phế thuộc kim là chỗ ẩn phách. Kim là đài núi, mộc là chấn nam. Mộc vượng nơi Ðông, kim sanh tại Tây, nên gọi là "Ðông gia lang, Tây xá nữ".
Như mà muốn kim mộc gặp nhau, thời phải hồn chẳng lìa phách, phách chẳng lìa hồn. Như chồng yêu vợ, vợ mến chồng, đó là cái nghĩa "âm dương" hội hiệp.
Còn lão tiên-sanh hỏi tôi có gia thất chưa, là mượn ý Huỳnh Bà dẫn dắt, đặng cho kim mộc hai đàng không ly cách mới gọi như chồng vợ thương nhau khắng khít. Bởi cái ý thuộc "Thổ" hay nhiều việc "Tình", sắc vàng mà ham vọng động, nên thí dụ là "Huỳnh-Bà".
Còn Ðông Tây qua lại hơi thông hai nhà cũng như bà mai vậy. Còn nói việc hoài thai là nói cái chơn khí ngưng kiết tại đơn điền, gọi hình có thai. Chơn-khí đầy đủ thì phát hiện làm "Thần", nên nói "Thần" là con của khí, khí là mẹ của Thần. Bởi vậy hay nói "Anh-Nhi" giáng sanh, đến chừng đại đơn thành rồi khá sánh cùng trời đất đồng thể, cùng nhựt nguyệt đồng sáng.
Diệu-Quang nghe mấy lời vui mừng chẳng xiết, có ý hân hoan. Hồn-Nhiên-Tử thấy vậy sợ Ngọc-Dương dành chén cơm của y, liền nói lớn rằng: Người có đức chẳng cần nhiều lời, kẻ nhiều lời chẳng phải có đức. Mầy dám với tao ngồi công-phu hai ba ngày chẳng cần ăn uống, đặng vậy mới gọi là công-phu.
Vương-Ngọc-Dương cười rằng: Xin lỗi thầy, nhiều nữa tôi không dám, còn đôi ba ngày tôi xin chiều ý thầy. Nói rồi hai đàng liền ngồi tại khách đường công-phu. Hồn-Nhiên-Tử thường khi cũng ngồi đặng đôi ba ngày, nay vì muốn kình với Ngọc-Dương, ngặt trong lòng hơi giận nên ngồi không yên, sanh nhiều việc phiền não, rồi muốn tưởng uống trà, uống nước, một lát lại muốn đi đại, đi tiểu. Trọn ngày đi xuống hơn mấy chục lần. Qua đến bữa thứ nhì ngồi không đặng nữa, càng thêm ngủ trưa gục hoài, rồi đi xuống kiếm ăn, ngủ ngáy khò khò.
Vương-Ngọc-Dương ngồi đến bữa thứ ba mới xuống. Trong mình lại có hơi tinh-thần thong thả. Diệu-Quang thấy vậy rất khen mừng: Thiệt thầy công-phu lão tiên-sanh sánh chẳng kịp.
Ngọc-Dương nói: Chẳng phải lão tiên-sanh không bằng tôi, vì ổng già cả tuổi lớn, khí lực phải sau. Như tôi già bằng ổng ngồi nửa ngày cũng không đặng. Hồn-Nhiên-Tử nghe nói khiêm trong lòng cảm phục, lại nói chuyện với ông, lấy chỗ lễ nghi mà phân, chẳng dám tự cao tự đại nữa.
Ngọc-Dương ở tại nhà Diệu-Quang mấy bữa, có dạy Hồn Nhiên ít đoạn công-phu, hai đàng thiệt cũng thương nhau. Bữa nọ Ngọc-Dương nói để qua chùa "Ngộ-Tiên-Quang" lấy đồ. Ðã mấy bữa chẳng thấy trở lại, Diệu-Quang sai gia tướng hỏi thăm ông chủ chùa, ông nói ổng về đây lấy đồ rồi đi liền. Chừng ấy nghe tin biết ông đi rồi, dậm chân than rằng: Thiệt mình không có tiền duyên nên làm bạn với ông không đặng. Hồn-Nhiên-Tử nghe nói ông đi cũng có ý thương tiếc.
Lại nói qua Lưu-Trường-Sanh, từ cùng mấy người đạo hữu ly biệt đi qua Nam-du rồi trở lại Ðông-Lỗ tại núi Thái-Sơn, buộc chí định tu ba năm đặng thành chánh quả.
Ðêm nọ xuất tánh phi thăng lên cung Diêu-Trì, vô tham bái bà Vương-Mẫu. Thấy mấy Tiên-nữ đứng hai bên, ý tưởng trong thế gian ít người đặng vậy, khó vẽ, khó họa, khá thương, khá khen, rồi trong lòng niệm động, lén ngó mấy nàng Tiên-nữ. Vương-Mẫu ngó thấy trách rằng: Sao ngươi lén nhìn Tiên-nữ? Ý muốn làm sao? Lưu-Trường-Sanh nghe quở biết mình thất lễ, kinh sợ cúi đầu xin tội rằng: Tôi thấy Tiên-nữ mặc áo bào, vô ý lén ngó, chớ thiệt không có ý chi lạ! Xin từ-ân dung thứ. Bà nói: Chẳng phải ta không thương, vì trách ngươi việc nhơn ngã còn sanh, điều sắc tướng chưa hết. Bằng như cho ngươi kim-đơn thành tựu cũng chẳng đặng siêu phàm nhập thánh. Nên phải trở lại thế gian, khổ tu khổ luyện cho dứt tánh phàm mới đặng chứng quả. Nói rồi liền sai Tiên-Quan đưa xuống cửa Nam Thiên, giựt mình thức dậy mới biết mình chiêm bao. Ngồi nghĩ thầm việc trên cung Diêu-Trì, thiệt là niệm sai một lỗi cũng khó thành! Lại nhớ thầy khi trước có nói, khen mình đơn đạo đặng tốt, mà bị bịnh sắc tướng chưa thông. Nay chiêm bao vào trong Diêu-Trì, Vương-Mẫu trách phạt, thầm nhớ mấy lời thầy nói trước không sai. Nay chẳng biết công-phu làm sao đặng trừ cho hết sắc tướng, ắt phải hạ san (xuống núi) đi tầm một người cao giỏi chỉ dạy. Nghĩ rồi hạ san đi hết mấy bữa, xảy đâu thấy Ðàm Trường-Chơn hỏi thăm chuyện vãn việc trước một hồi. Lưu Trường-Sanh nói: Anh chẳng chịu lãnh của ông Dủ-Phong cúng dường việc ấy cũng phải. Còn tôi tại Diêu-Trì lầm ngó Tiên-nữ, việc ấy cũng đáng lỗi, là tại tôi không gìn giữ phép tắc nên mới động phàm tâm. Nay tôi muốn luyện cho hết sắc tướng, diệt cho dứt phàm tâm như như bất động, nhưng chưa biết tùng đâu mà luyện ra?
Ðàm-Trường-Chơn nói: Tích xưa có Hứa-Tin-Vương (là Hứa-Chơn-Quân) khi còn nhỏ làm việc săn bắn. Bữa nọ đi trong núi, bắn nhằm con nai nhỏ, mang tên chạy trốn. Mấy người đi cùng ông kiếm tầm tột tới bên hố, thấy nai con bị tên nằm dưới đất, nai mẹ cắn cỏ nhổ cho con, lại liếm chỗ mũi tên mà sa nước mắt. Thấy người đi đến, nai mẹ vì thương con không đành bỏ chạy, thinh-không nhào xuống, mẹ con đều bị bắt hết. Bạn chủ đem về mổ ra thấy ruột nai mẹ đứt làm mấy đoạn. Nai con tuy bị thương mà ruột còn nguyên là vì còn khờ, còn nai mẹ vì thương con mà đứt ruột dường ấy!
Hứa-Tin-Vương thấy vậy bất nhẫn, liền đem cung tên bỏ hết, vào núi tu, sau đặng thành chánh-quả.
Nay mình ra tu biết cái nẻo ái-dục là mối chuyền hóa: người, thú, Tiên, Phật, cũng do đó mà thành. Vì 96 ức nguyên-nhơn xuống trần, kẻ tu trước thành rồi thì về trước, người chưa tỉnh còn lại thì về sau.
Ðến nay mình ra tu, biết ăn miếng chay, lạy chung một bàn Phật thì coi cũng như Linh-Sơn cốt nhục! Cũng như cha mẹ một máu một thịt mà sanh, nào có chẳng thương nhau!
Như nay sư huynh muốn trừ cái sắc tướng không không, tâm phàm đừng vọng thì tưởng như mẹ thương con mà đứt ruột liều mình. Còn anh thương em thể câu đồng bào thủ túc, có lẽ nào mà sanh biến các điều quấy đặng nữa?
Nói về ông Hứa-Tin-Vương đặng thành chánh-quả rồi, ông muốn ra hóa độ thế gian. Ông lập ra một chỗ thuyết pháp, giảng Kinh dạy việc tu hành, thâu đặng hơn 100 đệ tử. Bữa nọ ông nói cùng đệ tử rằng: Mấy trò hơn 100 người chẳng phải ít, bỏ nhà theo đạo thiệt có lòng thành, hễ người tu hành trước phải trừ sắc tướng. Mấy trò như thấy nữ sắc có vọng trong lòng chăng?
Mấy người thưa rằng: Như luận việc Tài, Khí cùng Tửu, hoặc ý đó chưa đặng sạch. Còn việc nữ sắc chắc bạn tôi đều bỏ hết, không ham.
Hứa-Tin-Vương cười rằng: Mấy trò nói đặng trong sạch chớ ta e chưa đặng. Vì ta thấy bề ngoài các ngươi còn tư-vọng chưa có khắc cái ý cho tuyệt, nên ta sợ hậu nhựt khó ngăn việc ấy.
Các đệ tử rằng: Bạn tôi không dám nói dối với thầy.
Hứa-Tin-Vương nói: Ta có phép thử biết giả chơn, vậy mỗi người kiếm một cây than chừng 3 thước, để trên giường ngủ một đêm, sáng ngày phải đem giao cây than cho ta, rồi ta mới truyền cái công-phu huyền diệu.
Mấy người nghe nói không biết ý chi, đều đi kiếm cây than để trên giường. Ðêm ấy người người đều ngủ, tỉnh giấc ngồi dậy thấy một cô gái nằm dựa bên, dục ý khởi tâm, dằn giữ không đặng, chơn dương tiết lậu. Kế nghe ngoài cửa kêu một tiếng lớn: Mau mau đem giao cây than, thầy đợi lâu rồi. Mấy người nghe kêu mà còn giựt mình ôm cây than, nghe ngoài kêu thúc mau mau. Ai nấy liền bận áo đem giao cây than.
Ra ngoài thấy Hứa-Tin-Vương, người người đều thất sắc. Ngài biểu mấy trò đứng hai hàng, kêu từ người đem giao. Mấy người nghe nói chẳng dám trái lời. Người thứ nhất đem lại, Hứa Tin-Vương hỏi: Ngươi đặng mấy mươi tuổi?
Ðáp: Thưa thầy, tôi 76 tuổi.
Hứa-Tin-Vương nói: Ngươi nay tuổi đã lớn mà còn ham việc sắc dâm chẳng bỏ!
Thưa rằng: Chẳng hay sao thầy biết tôi chẳng bỏ?
Thầy rằng: Như ông nói không ham việc sắc mà cây than dường ấy? Ông nọ nghe nói dòm cây than nửa chừng biến sắc, coi bộ ngỡ-ngàng hổ thẹn! Nhớ lại hồi hôm tiết lậu chơn dương mắc cở, gục đầu chẳng dám ngó lên nữa. Mấy người nghe thầy quở ông ấy, liền nhớ có giao hiệp với một nàng thiếu nữ ban đêm, đó là cây than biến ra như vậy! Mới biết là thầy thử mình, nên thảy đều ngậm miệng chẳng dám đem giao cây than. Kêu thúc mấy lần chẳng thấy một người dời bước, duy có một người mĩm cười đi lại giao cây than không có dấu chi hết.
Hứa-Tin-Vương hỏi người ấy rằng: Việc sắc người nào cũng ham, sao trò không muốn?
Ðáp: Thưa thầy, tại vì đệ tử trong chỗ sắc mà sinh ra.
Hứa-Tin-Vương lại hỏi: Trò lấy phép chi mà luyện?
Thưa rằng: Phàm việc chi có lầm rồi mới có sợ. Ban đầu thấy sắc thì ham muốn cho đặng; chừng đặng rồi sớm vui chiều mừng. Lâu ngày thân suy khí yếu tật bịnh đều sanh mới biết lo tánh mạng, mới sợ mà lánh đó! Nay đối cảnh vong tình, mới tuyệt sự dục mà giữ mình. Vì tôi lúc còn nhỏ chơi-bời chẳng xét, trọn ngày nằm huê giỡn liễu, cả năm không về. Tưởng chỗ nhà điếm cũng như nhà mình, thường thấy nhiều người mỹ-mạo kiều tư nói chẳng xiết. Phong huê tiết nguyệt làm hại tinh thần, sợ muốn lánh mà lánh không đặng. Nay biết ăn-năn mới trốn lại đây mà học Ðạo, đặng bảo toàn tánh mạng, chẳng chịu tham luyến về nữ sắc phấn son, tầm phương trừ ái-dục mới thoát nẻo luân hồi. Trước buộc chí tu hành, sau cửu-huyền siêu độ. Bởi biết nhiều thấy rộng chán trải thấu rồi, thường coi tích bà Vọng Phu mà giựt mình giác tỉnh, biết chắc lầm rồi.
Ðây nhắc tích bà Vọng-Phu. Nhơn khi trước Trần-Muội-Lý ở Bồng-Lai đảnh làm chức Ðinh-Thần Nguyên-Soái. Còn Ðoàn Minh-Ðạo ở Bích-Tiên động làm chức Phong-Huệ Chơn-Nhơn.
Nguyên trước hai người cùng học một thầy, trường trai hơn 20 năm, qui giới tinh nghiêm, thần-thông biến hóa, đạo-thuật vô cùng. Ðến ngày liễu đạo đều đặng đơn-thơ lai chiếu, biết trước cách 10 ngày, có làm chúc ngôn để lại cho thân-tộc đều hay rồi mới đi. Khi xuất tánh trong nhà có mùi thơm 3 ngày, ai nấy không biết, đều đi kiếm coi mùi thơm ở đâu ra, chớ không rõ là Kim-Ðồng, Ngọc-Nữ xuống rước.
Ðến lúc đi rồi thì hơi thơm đều dứt, thiệt là tiên-căn đạo-cốt, tinh tú lâm phàm, tuy xuống trần mà chẳng nhiễm mùi trần.
Rồi có một lúc hai đàng đương ăn yến tiệc tại Diêu-Trì Cung, mãn tiệc rồi hai người ra ngoài hứng mát, kẻ trước người sau chuyện vãn việc tu hành. Cách một hồi lâu chẳng qua là tâm phàm còn mến, buông lời diễu cợt, ý niệm tư trần. Ðến chừng hồi cung Ðức Diêu-Trì kêu vô nói rằng: Hai người còn muốn lâm đường dâm-dục, thế chưa ngán ghê vòng biển ái, chắc là không muốn cảnh thanh-lương của ta. Vậy muốn đi thì ta cũng tùy tâm mà cho đi. Việc nầy tự tác huờn tự thọ, đừng phiền. Nói rồi dạy ông Giao-Thiên Ðại-Xá dĩ bộ của Ðinh-Thần Nguyên Soái và Phong-Huệ Chơn-Nhơn. Hai đàng nghe Diêu-Trì Kim Mẫu phân nói, lật đật áo mão đến trước làm lễ xin cầu dung tội, hơn mấy lần cũng không đặng. Khi phân rồi thì hội đương khai mở, liền cho hai người xuống đầu thai.
Từ ngày xuống đầu thai đến sau, Trần-Muội-Lý lớn khôn học tập lễ-nghi, lúc 15 tuổi phát tâm theo thầy trường trai đặng 18 năm, lại trở về nhà nuôi dưỡng cha mẹ, thường ngày cũng tu hành có hơn 3 năm. Sau trong nhà có hơi quẩn bách mới biến kế làm ăn, chuyên nghề gạo lúa dư đặng số ngàn lại muốn kiếm số muôn, lòng tham không chán quên trở về nhà.
Lúc nọ, gặp người anh em bạn ở gần nói: Bác ở nhà bịnh hơn mấy ngày rày, anh không hay sao?
Trần-Muội-Lý nghe nói lật đật trở về thấy mẹ đau bịnh kiết, hết lòng săn sóc có nửa tháng, chẳng may bà mãn phần, mai táng xong rồi, y lại lo việc buôn bán như cũ.
Sau tại đó có một người đàn bà ngoài 30 tuổi, thấy y có tiền, thường ngày hay tới lui diễu cợt, trang điểm trêu ngươi. Chẳng qua là việc đời mạnh hơn việc đạo, lâu ngày nhựt nhiễm nguyệt thu, bỏ thầy không tới, kinh sám chẳng coi. Còn bàn Phật một ngày không vô một lát, trọn tháng chẳng cúng một lần, nhang tàn khói lạnh. Lâu ngày kẻ thơ người phú, a ý khúc tùng, phóng tâm thầm lén, sanh một đứa con. Kế y thọ bịnh, mai đau chiều dứt, chạy thuốc hết tiền. Chẳng qua là khí số dĩ-tuyệt, đau chẳng mấy ngày trở nặng mà chết.
Nguyên người vợ buổi trước có tư-tình với một tên ở gần bên xóm. Chừng người vợ thấy chồng chết rồi, đêm khuya hai đàng mới tính cùng nhau bồng con đi xứ khác. Còn Trần-Muội Lý nằm hơn 5 ngày có hơi, trong xóm mới hay thì thi thể đã rã. Làng xóm chưa rõ nguyên căn, liền cớ quan đến mổ rồi mới cho chôn.
Thiệt thấy cái cảnh như vậy rất đáng ghê cho việc vợ chồng ân-ân ái-ái. Nghĩ lại thân nầy lúc sống chưa đặng thảnh thơi, đến chết còn bị phân thây xẻ thịt. Như vậy có đáng sợ hay không?
Than ôi! Nghĩ cho cuộc trần là cuộc tang thương, tợ như chai bể, khác nào như đứng trong tuồng hát bộ, nào tướng, soái, vua, tôi, cha con, chồng vợ, thay đổi liền liền, có phải là tại tham mối sắc tài mà quên câu hiếu đạo chăng? Phải vì lụy tiền bạc, vợ con mà chịu cái thân thê-thảm đó chăng?
* * *
Lại nói qua Ðoàn-Minh-Ðạo đầu thai nhằm chỗ giàu có, khi đặng 14 tuổi, cha mẹ định gả không chịu, lén trốn vô chùa tu hơn 9 năm. Ngày nọ chị em trong chùa làm mất một chiếc kim-xuyến, chẳng rõ ai lấy, nghi cho cô, cô trong lòng buồn bực ép mình chẳng đặng, gây việc hơn thua, càng ngày càng bỏ việc quỳ hương lạy Phật, bái sám công-phu, oan ma nhập khiếu, muốn biến kế sanh phương làm ăn. Nàng bị khảo thuận cảnh, làm ít đặng nhiều, mê quên mệt trí. Lại muốn đắm thêm danh sắc, sanh ý tô điểm phấn son, áo nu quần tía, dù võng nhổn nha. Nhiều khi thầy thấy vậy sợ hư trong mối đạo, ngăn dứt cửa lành, vì sợ cô mê theo đường tài sắc, ma-chướng dẫn ra, lâu ngày tu không đặng. Thầy can dứt cô trở lại nghịch với thầy; hoặc người trong đạo có thương phân nhắc, cô lấy tiếng gạt ngang, lại không chiếu cố trong đạo, thường hay giao thiệp với người ngoài. Vì vậy mà lâu ngày sao không đổi tánh!
Ðương sẵn mối buồn, bèn về nhà lo nghề ruộng rẩy nuôi thân, còn việc chay lạt như thường. Chẳng qua là tâm phàm chế không đặng, mơ ước theo đường tình-ái, thấy người phải lòng thì có ý đêm ngày mơ ước chẳng dứt. Xóm đó có một trai hảo-hớn thường hay ra vô dòm ngó, lâu ngày thấy ý cô trở như vậy, lại trêu cợt tư-tình với cô có hơn một năm, mang thai gần ngày. Cũng vì cô bỏ lời nguyện, mê luyến việc trần, nên khiến cô vừa lâm-bồn không thấy mặt con, con vừa sổ thì cô tắt hơi, mình mẩy đều thâm như mực. Hỡi ôi! Nghĩ vậy có ngán cho thân phụ nữ đã mang điều nhơ uế chịu chỗ cam go, đem thân ngà-ngọc mà vùi chỗ bùn lầy. Thiệt khá tiếc giùm lắm vậy!
Uổng thay! hai người vì có căn lành trồng đời trước, thiệt là tam sanh hữu hạnh mới chuyển đặng làm người, vì ý niệm sai đắm mê chỗ sắc tài mà bỏ mất căn lành trước! Phải chi lúc đương tu mà ép chí và ngán cái khẩu nghiệp, tuân theo lời thầy dạy sửa mình, đừng tranh trường luận đoản, tính việc hơn thua, nhớ câu: "Hết đắng tới ngọt, hết nhục tới vinh, dung người là phước, khi người là tội" mà nương nhau, thì có lẽ nào ở chung không đặng? Vậy có phải là một cây quẹt mà đốt tiêu hết cả núi rừng không?
Cũng vì ham một chút vui mà qua hơn mấy kiếp, đến chừng chuyển qua kiếp thứ ba, hai đàng luân-hồi làm con nhà nghèo, lại cho Trần-Muội-Lý với Ðoàn-Minh-Ðạo đầu thai chung một nhà, chừng người anh đặng 8 tuổi, thì em đặng 5 tuổi. Lúc nọ mẹ đi chợ mua ấu về cho con, chia mỗi người 5 trái. Người anh biết hơn nên chẻ ăn hết trước, người em còn lại 3 trái. Trần-Muội-Lý lại lấy của em mà ăn. Em không chịu giành nhau đánh lộn. Muội-Lý đang cầm con dao bổ trên đầu em la khóc om sòm. Mẹ nghe chạy ra thấy vậy rút roi đánh Muội-Lý, Muội-Lý sợ đòn chạy luôn ra chợ đi mất không dám về, kiếm không đặng, bỏ cha mẹ với em ở lại.
Chẳng may người cha đau có 3 ngày mà bỏ mình. Chừng đó mẹ góa con côi hiu-quạnh đêm ngày. Bà giải sầu không đặng, đêm trông con chẳng ngủ, ngày nhớ bạn quên ăn, càng ngày càng mòn mỏi rồi bỏ mình theo chồng, nhờ xóm giềng toan liệu chôn cất.
Lúc ấy cô em (tiền kiếp là Ðoàn-Minh-Ðạo) đặng 15 tuổi không ai kềm chế, nên kết với chị em điếm đàng, tập tánh trang điểm, đi sang xứ khác.
Ngày nọ tình cờ gặp Trần-Muội-Lý mà anh em chẳng biết nhau, rồi hai đàng than huê nói liễu, đẹp ý vừa tình, ở với nhau sanh đặng một đứa con 3 tuổi tên là Muội-Trần. Một buổi trưa người vợ mượn chồng bắt chí, chồng thấy cái thẹo giữa đầu hỏi rằng: Tại sao mà có cái thẹo như vậy? Vợ nghe nói mắc cở, hai tay đậy lại cười ngã lăn nói không đặng. Chồng rằng: Tôi thấy cười thật tôi mắc cở quá. Chừng ấy vợ mới thuật từ trước đến sau v.v...
Trần-Muội-Lý nghe những lời của vợ, trong lòng hổ thầm, đứng dậy đi nghỉ. Ðêm đó chàng ưu-tư, không an giấc đặng. Sáng ngày giả ra chợ mua đồ, quần áo mặc đôi ba mớ, đi càng ngày càng tối không thấy về. Có hơn nửa tháng, người vợ trông không đặng, bán nhà bồng con đi kiếm, cũng không nghe tin tức ở đâu, rồi đến tại mé biển mà ngó chừng. Tại đó có một bàn đá lớn, Ðoàn-Minh-Ðạo lên ngồi mà giải buồn, có hơn 10 ngày không ăn, chẳng qua khí số đã tuyệt, đến 12 ngày hai mẹ con chết khô trên đó!
Hỡi ôi! Nghĩ như vậy mà còn non nước nào không giựt mình thức tỉnh đặng giải thoát lưới mê. Phải như không có việc bắt chí thì càng lầm sai biết mấy, làm sao hiểu đặng mà sớm hổ thẹn ăn-năn. Xét cho kỹ, thì trong cõi thế gian nầy ở lâu chừng nào thì lầm sai việc ân-ái nhiều chừng nấy, có phương chi mà khỏi phạm trong mối luân-thường!
Bởi vậy chư Phật chư Tổ sợ mình lên xuống nhiều kiếp, không biết đầu thai ngã nào, thì càng lầm sai lắm. Xin chư hiền coi sự tích bà Vọng-Phu nên thức tỉnh sớm giác; trước trả thảo cửu-huyền, sau khỏi lầm kiếp muội. Sự tích bà Vọng-Phu đã hết, xin giải qua lúc ông Hứa-Tin-Vương giảng đạo với mấy người học trò.
Ðây nói qua ông Hứa-Tin-Vương nghe dứt gật đầu biểu mấy người đệ tử kia đi hết, để lại một mình người ấy, truyền chỗ công-phu yếu-diệu, sau đặng chánh quả. Lấy đó mà suy, hễ việc gì biết rồi mới có thấu đặng thì bỏ trừ nào khó.
Nên hễ người tu hành, trước sửa bề ngoài, thì tự nhiên bề trong phải theo hết.
Ðàm-Trường-Chơn lấy việc cổ nhơn giảng nói cho Lưu-Trường-Sanh nghe rồi Trường-Sanh nói: Tôi nói việc đó chẳng qua là niệm nơi tình ngoài, ngày kia cũng phải đến chỗ yên hoa nhà điếm, đặng rửa sạch chỗ kiều-nga phấn-diện, cho nhiều thấy rộng nghe. Luyện con mắt cho không còn một mảy luyến sắc, như vậy mới đặng.
Ðàm-Trường-Chơn nghe nói liền rủ Trường-Sanh đến đất Tấn đặng coi chỗ Ðạo-Tổ giáng sanh. Hai người đi hết mấy ngày giữa đường gặp ông Vương-Ngọc-Dương, Ngọc-Dương thuật chuyện Diệu-Quang với Hồn-Nhiên-Tử và đàm luận việc đạo của hai người v.v...
Lưu-Trường-Sanh nghe nói cười rằng: Như vậy rất hay, mà cái đạo ông ấy dường nào?
Ngọc-Dương nói: May là tôi nhờ không-trung ám-hộ nên ngồi tọa-công đặng bền, không thôi ông ấy khoe miệng ai mà chịu nổi.
Ðàm-Trường-Chơn nói: Coi lại việc tọa-công nầy cũng như đồ báu của người học đạo, dễ gì mà khoe tài. Vậy người trong bọn ta chẳng khá bỏ qua việc ấy. Ba người vừa đi vừa nói, vẳng nghe sau lưng có người kêu: Ðợi tôi đi với!
Kiều tư là cũng phấn khô lâu,
Sớm vui tối luyến lại không sầu,
Có bữa vô thường muôn việc hết,
Khó chuộng nhà cao với cửa lầu.
-
HỒI THỨ MƯỜI CHÍN
* * * * * * *
Luận huyền-cơ tứ ngôn khế diệu đạo,
Khai thạch động nhứt nhơn độc cần lao.
Nghĩa là:
Luận việc huyền-cơ bốn lời bày diệu đạo,
Phá động đá một người làm cực nhọc.
Có bài kệ rằng:
Sa đắm trầm luân đã mấy năm,
Ái hà sóng dập bủa muôn tầm,
Người tu khá đặng lên cao bực,
Chớ đợi trong vòng mới hỏi thăm.
Lại nói Lưu-Trường-Sanh cùng Vương-Ngọc-Dương và Ðàm-Trường-Chơn ba người đang đi, vẳng nghe sau lưng có người kêu, ba người ngó lại thấy Xích-Thái-Cổ. Anh em bấy lâu xa cách nay đặng gặp nhau lấy làm vui mừng.
Bốn người đồng đi tới đất Khổ-Huyện, tầm đặng chỗ Ðức Thái-Thượng giáng sanh, thấy có 9 cái giếng ở chung quanh Bát Giác-Ðình, bên đình có một cây lý. Bốn người vào trong Bát-Giác đình, thấy giữa có tấm bảng đá biên tích giáng sanh kỷ niệm rằng:
Thuở vua Bàn-Canh, từ nhà Thương cải làm nhà Ân, qua nhà Ân năm năm chỗ đó có một người rõ biết lý số, thông hiểu việc quá khứ vị lai, có công thanh-tịnh tu dưỡng, trọn đời ẩn trốn không cần ai hết. Người ấy có một người con gái 19 tuổi chưa chồng, đáng người thục nữ, tánh ưa ở chỗ u-tịnh, chẳng chịu chơi giỡn với ai. Bữa nọ nàng đến dưới cây lý thấy một trái chín, nàng vói hái ăn, lần lần có thai. Gái không có chồng mà có thai nên phải chịu tiếng đồn. Người cha coi lý-số thấu đáo, biết là Ðại-Thánh giáng thế nên nuôi dưỡng con kỹ-lưỡng.
Cô gái thường thường không bịnh, có thánh thái trong bụng lại hay chọn tính năm tháng ngày giờ mà sanh: chọn đặng năm không đặng tháng, đặng tháng không đặng ngày, đặng ngày không đặng giờ. Kể tính hết 81 năm, Thánh-Mẫu đã đặng 100 tuổi. Từ có thánh-thai không đói không lạnh, không bịnh không phiền. Năm đó ngày rằm tháng 2, Thánh-Mẫu dạo chơi dưới cây lý, ngồi nghỉ nơi gốc cây, Thái-Thượng vạch hông mẹ mà sanh. Lúc sanh rồi thấy tóc Ngài bạc trắng, xuống đất biết đi tới bảy bước, lui ba bước, nói lớn lên rằng: "Thượng thiên hạ địa, duy ngã độc tôn". Nói rồi trên nữa từng trời nhạc Tiên rao khắp, gió thơm phất phất. Ngọc-Nữ rưới bông, chín rồng phun nước tắm rửa khắp mình. Sau chỗ tắm thành ra 9 cái giếng. Thái-Thượng trí không ai bằng, thánh đức như Trời, chỉ cây lý làm họ. Vì ông mới sanh ra đầu bạc, nên người kêu là Lão-Tử. Ðó là tích ông giáng sanh.
Thiệt ông thần thông, kinh sử có để truyền mấy đời, đều có bằng chứng, chẳng phải việc vô cớ. Lưu, Xích mấy ông coi rồi khen rằng: Thiệt Thái-Thượng đạo-phong để tiếng ngàn năm muôn đời khen ngợi chẳng xiết. Xét lại bạn ta ngộ đạo cũng nhiều năm mà huyền-công á-diệu chưa thấy ai dở ai hay! Nay anh em mình ngồi tại cảnh Tiên, thôi mỗi người lộ nói huyền-cơ đặng mà vui mừng việc đạo.
Xích-Thái-Cổ thi rằng:
Huệ kiếm cao huyền tinh đẩu hàn,
Huấn ma thúc thủ nan sanh đoan,
Bồ-đoàn tọa đáng tam canh nguyệt,
Cửu chuyển huờn đơn long hổ bàng.
Giải nghĩa:
Huệ kiếm treo cao tinh đẩu hàn,
Thất-tình lục-dục khó sanh đoan,
Bồ-đoàn ngồi đến canh ba nguyệt,
Chín chuyển đơn thành long hổ bàng.
(Âm dương hiệp nhứt kêu là long hổ bàng triều.)
Vương-Ngọc-Dương thi rằng:
Tiên đình lãm cổ tự ôn hàn,
Khảo chứng huyền công tới đích đoan,
Trót đắc kim-ô hòa ngọc-thố,
Tự nhiên hổ cứ dữ long bàng.
Giải nghĩa:
Tiên-đình coi sổ nhắc ôn-hàn,
Khảo chứng huyền-công thiệt rõ ràng,
Bắt đặng kim-ô cùng ngọc-thố,
Nên mà hổ cứ với long bàng.
Ðàm-Trường-Chơn thi rằng:
Ðạo pháp vô biên chúng quỉ hàn,
Siêu phàm nhập thánh khởi vô đoan,
Nhứt quyền đả phá si-mê dõng,
Yến nguyệt lư trung long hổ bàng.
Giải nghĩa:
Ðạo pháp không bờ chúng quỉ than,
Siêu phàm nhập thánh há vô đoan,
Một tay phá bể màn mê-ngốc,
Yến nguyệt trong lư thấy mở mang.
Lưu-Trường-Sanh thi rằng:
Ðề khởi lịnh nhơn tâm đởm hàn,
Nghê y phiêu xứ thỉ sanh đoan,
Thông-minh phản tố si-mê hớn,
Thiết thậm tiên sơn long hổ bàng.
Giải nghĩa:
Nhắc đến khiến người chí mật hàn,
Nghê y (áo) phất đó mới sanh đoan,
Thông-minh dung-vị thành mê-ngốc,
Nào gọi Thần Tiên long hổ bàng.
Bốn người thi rồi, Vương-Ngọc-Dương hỏi rằng: Ba anh em tôi nói giống theo mùi đạo, tính thắng chẳng tính bại, còn sao Lưu sư huynh chẳng nói tới lại nói lui ngăn chỗ việc vui, sợ chẳng phải chỗ đạo hay.
Ðàm-Trường-Chơn nói: "Tâm đởm hàn" thiệt chẳng phải chỗ đạo; "si-mê hớn" thiệt chẳng phải chỗ diệu; nhưng mà đặng khiến lòng mình biết sợ, chẳng khá gọi là không đạo. Còn đặng biết chỗ si-mê cũng chẳng khá nói là không diệu; tuy không diệu mà chỗ đạo diệu cũng do nơi đó, đừng lấy việc thắng bại luận ra, thời nào có chỗ ngăn việc vui?
Xích-Thái-Cổ nói: Lưu sư huynh nói lời đó chẳng phải một việc, chắc có việc riêng.
Ðàm-Trường-Chơn cười rằng: Chẳng sai! Có một lúc nọ, Lưu sư huynh xuất tánh về Diêu-Trì, đương gặp phó hội, lén ngó Tiên-nữ, Vương-Mẫu trách phạt cho trở lại thế gian. Tôi gặp ảnh giữa đường, ảnh thuật cho tôi nghe việc ấy. Tôi có nhắc việc ông Hứa-Tin-Vương lấy cây thang mà thí đạo. Ảnh nghe nói ảnh quyết muốn đi...
Ðàm-Trường-Chơn nói đến đó rồi ngưng lại.
Ngọc-Dương hỏi: Ảnh quyết muốn đi làm việc chi?
Ðàm-Trường-Chơn tiếp: Ảnh muốn đi đến chỗ "nhà điếm" mà ở đặng sát cái phàm tâm cho dứt, luyện ý niệm đừng sanh, thường ngày gần chỗ "trường ca hát", tập cho đừng nhiễm đặng tham luyến; quyết luyện cái công-phu mà trừ không không chỗ sắc tướng.
Ngọc-Dương nói: "Thị chi bất kiến, thính chi bất văn" là chỗ không sắc tướng.
Xích-Thái-Cổ nói: Chẳng bằng nhơn ngã đều quên, thời chỗ sắc tướng phải không vậy!
Lưu-Trường-Sanh nói: Hai ông phân đó, bực người thượng trí làm mới đặng. Nay tôi muốn lấy chỗ nhiều thấy làm hơn, rộng nghe làm chắc mà luyện đó!
Ngọc-Dương cùng Xích-Thái-Cổ nói: Việc luyện sắc xưa nay cũng nhiều người làm, chớ chưa có ai luyện như vậy.
Ðàm-Trường-Chơn rằng: Người có chí làm xảo mới đặng; người ít chí làm vụng khá hơn. Miễn bền lòng thì đặng, ai ai cũng có chỗ diệu ý chẳng đồng, thôi chẳng khá cạn lời. Nói rồi thấy trời gần tối, bốn ông ngồi trong Bát-Giác đình tu hết một đêm, qua bữa sau phân đường ra đi.
Xích-Thái-Cổ đi đến đường Huê-Âm ngó lên thấy một tòa núi hình như bàn tay, cao lớn tới trên mây. Khi trước đưa thầy về Xiểm-Tây, mắc khiêng linh-cữu nên không thấy, nay đi một mình xem coi sơn thủy mới thấy rõ, trong lòng vui mộ lại nhớ lời thầy dặn chừng nào gặp chỗ vui mộ đó là chỗ mình liễu đạo. Liền đi lên trên cao, thiệt thấy muôn núi đều chầu, ngó xuống thấy chỗ tích ông Khấu-Lai-Công, có bài thi rằng:
Chỉ hữu thiên tại thượng,
Cánh vô sơn dữ tề,
Cử đầu hồng nhựt cận,
Hồi thủ bạch vân đê.
Nghĩa là:
Cái núi nầy duy có trời ở trên,
Thiệt không có núi nào bằng,
Ngửa đầu gần mặt nhựt đỏ,
Ngó xuống kia mây trắng thấp hơn.
Nhơn núi nầy tên là Tây-Nhạc Thái-Huê-Sơn, trên đó có mười mấy cái chùa đều có người đạo nhơn ở tu, thiệt đông đảo rất tốt. Rồi Xích-Thái-Cổ kiếm một chỗ tịnh. Vì ông biết làm thợ đục đá, đi rèn một cái đục liền vận thân đục vách đá thành một cái động ước chừng một chỗ ngồi tu. Vừa sắp sửa nhập động tịnh dưỡng thì thấy một người đạo-hữu đi tới, vai mang bồ đoàn, tay cầm bầu thiếc, nói với Xích-Thái-Cổ xin nhượng cái động cho y tu, chẳng đợi ông chịu hay không cứ vào ngồi tu. Ông thấy vậy cũng vì người tu mà vui lòng từ-bi chẳng nói, rồi đi tới nữa, thấy chỗ đá cao hơn mấy trượng. Ông ra sức đục một cái động nữa, phí công rất nhiều rộng hơn cái trước, lấy làm vui mừng, ai dè một người đạo khác tới cũng chẳng có chỗ tu, xin ông từ-bi nhượng cho y tu. Xích-Thái-Cổ tánh hay thương người tu hành, nghe nói cũng nhượng nữa.
Trọn mười mấy năm phí hết ngàn tân muôn khổ đục đặng 72 cái động đều có 72 người tới xin, nên Xích-Thái-Cổ không có chỗ tu, đi kiếm tứ phía, sau núi thấy có một chỗ ở đặng mà chỗ ấy sâu hơn muôn trượng, én bay không tới, sấm nổ chẳng nghe. Ông tưởng chỗ nầy sửa đặng thì chắc không ai tới nữa, nhưng phải chuyền dây lên xuống. Coi rồi ông xuống chợ mua một sợi dây, về nửa đường độ được một người đệ tử coi bộ người thật thà. Rồi thầy trò đi lên núi đem dây xiềng buộc trên gốc cây. Xích-Thái-Cổ lại lấy búa rìu buộc vào tay lần dây, chơn đạp đá, lần lần xuống mò kiếm đặng một chỗ bằng thẳng, mỗi ngày hằng lo đục động, người học trò ở trên nấu cơm. Xích-Thái-Cổ một ngày ăn có một bữa cơm rồi đi chiều tối mới về. Học trò buồn chịu không đặng, thầm tưởng rằng: Tưởng đâu học đạo mà thanh-nhàn, ai dè bắt nấu cơm ông ăn hoài, cực khổ như vậy mà học đạo nào có ích chi đâu? Rồi lại tính việc bất nhơn, lấy cái búa theo, biết thầy ăn cơm rồi chắc xuống đục động, nó lén theo sau tới miệng hang thấy thầy nắm dây lần xuống đã lâu, nó bèn chặt đứt dây rớt xuống hơn muôn trượng.
Sau có người ở Trung-Châu đi coi động của Xích-Thái-Cổ thấy trên vách có 4 câu rằng:
Quân-tử tiểu tâm tiểu tâm,
Hạ khứ cửu lý tam phân,
Nhơn tùng quê âm tỵ hạ,
Thương-Châu khử bả thi tầm.
Nghĩa là:
Người quân-tử phải tin phòng chơn-giả,
Dưới đó có chín dặm ba phân,
Người tại quê âm tỵ hạ,
Thương-Châu đi kiếm thây nằm.
Người tới đó coi chẳng dám ngó xuống. Ai ngó xuống thì giựt mình, mỏi mệt đi không đặng.
Lại nói người học trò chặt đứt dây rồi chắc thầy té xuống đó thịt nát xương tan, không thế nào sống đặng. Liền sửa soạn cuốn gói mùng mền vật kiện gánh xuống núi. Ði đặng mười mấy dặm tới chỗ bàn đá ngồi nghỉ, thấy dưới núi có người đi lên giống in thầy mình. Coi lại thiệt quả chẳng sai, sợ đổ mồ hôi hột, tính trốn không đặng bèn kêu lớn: Thầy đi đâu đó?
Xích-Thái-Cổ chúm chím cười rằng: Cái đục đó lụt rồi, ta đi qua Thương-Châu đặng trui lại. Còn trò đi đâu đó?
Trò thưa: Tôi thấy thầy đi lâu không về, nên tôi lại đây rước thầy.
Xích-Thái-Cổ cười lớn nói rằng: Thiệt đệ tử có hiếu dữ! Thầy mới đi có một giờ mà đi rước thiệt trò có lòng lắm vậy! Ðã gánh đồ còn đi rước. Ðây lên trên núi hơn mười mấy dặm, mặt trời còn có ba sào đi sao kịp, phải trò không gánh mùng mền lại đây, chắc đêm nay tôi lạnh phải chết.
Xích-Thái-Cổ nói rồi bỏ đi. Người đệ tử ngồi tại bàn đá ấy tính thầm rằng: Thầy mình thiệt nghĩ không ra, hang sâu sao mà té không chết, chắc phần cực của ổng chưa hết nên phải trở lại đục động nữa mà chẳng đặng thong thả. Lại tưởng rằng: Hay là ông thành Tiên rồi chăng? Có lẽ đâu mình chặt dây mà té không chết, đã vậy trở lại càng vui vẻ thấy mình cười liền, không có chút giận hờn. Thiệt là người chí lượng lớn mới đặng vậy. Nay mình bỏ ổng chắc đi hết trong thiên hạ tầm không đặng ông khác từ-bi dường ấy. Nghĩ thiệt tại mình quấy, mang chữ bất trung, chắc sau không khỏi trả quả. Thôi phải mau mau trở lại phục sự ổng, dẫu cho cay đắng cũng nguyện làm thầy trò, coi sau có nên cùng chăng? Nghĩ rồi trở lại theo sau nghe thầy nói: Dây dài trò làm đứt rồi, làm sao mà đi đục động nữa? Mà thôi không sao, để ta nhảy xuống coi thử. Nói rồi liền nhảy xuống đi mất.