tôi sưu tầm bài này với mục đích để mọi người tham khảo thôi (về một số quan điểm). Tôi hòan tòan không có ý gì. Xin lỗi và sửa chữa.(khachtrangian bỏ qua nhé)
Printable View
tôi sưu tầm bài này với mục đích để mọi người tham khảo thôi (về một số quan điểm). Tôi hòan tòan không có ý gì. Xin lỗi và sửa chữa.(khachtrangian bỏ qua nhé)
Richard Dawkins
Không thể có Thượng đế
Trần Tiên Long dịch
Phần lớn những gì người ta làm thì đã làm dưới danh nghĩa Thượng đế. Người Ái Nhĩ Lan nhân danh Thượng đế bắn giết nhau. Người Á rập nhân danh Thượng đế ôm bom nổ. Các tư tế Hồi giáo và Ba Tư nhân danh Thượng đế áp bức đàn bà con gái. Các giáo hoàng và linh mục độc thân nhân danh Thượng đế làm hỏng đời sống tình dục người ta. Các tư tế Do Thái nhân danh Thượng đế cắt cổ những con vật đang sống. Những thành tựu của tôn giáo trong lịch sử quá khứ còn gây xúc động hơn nữa, chẳng hạn như những cuộc thánh chiến đẫm máu, nhiều tòa án dị giáo dã man, bọn thực dân Tây Ban Nha giết người hàng loạt, các nhà truyền giáo tàn phá văn hóa, việc chống đối được thực thi một cách hợp pháp đối với mỗi một chân lý khoa học cho có thể đến mãi giờ phút cuối cùng. Và tôn giáo làm lợi ở điểm nào? Tôi tin càng ngày càng rõ ràng rằng câu trả lời là tuyệt đối chẳng có gì cả. Không có lý do nào để tin bất cứ thần thánh nào hiện hữu, và hoàn toàn có lý do chính đáng để tin rằng thần thánh không hiện hữu và đã chẳng bao giờ hiện hữu. Đó đã là sự phí phạm quá nhiều thời giờ và sự sống. Đó là sự khôi hài có tầm vóc lớn như vũ trụ, nếu không muốn nói là bi thảm.
Tại sao người ta tin có Thượng đế? Đối với phần đông, câu trả lời nằm ở cách giải thích xuất phát từ lập luận Thiết kế Thông minh (Argument from Design còn gọi là Intelligent Design) cổ điển. Chúng ta nhìn nét đẹp và sự phức tạp của thế giới xung quanh – nhìn đoạn cong chịu gió của đôi cánh mỏng, nhìn nét tinh xảo của hoa và bướm, nhìn qua kính hiển vi mỗi một giọt nước trong hồ lúc nhúc sự sống, nhìn qua viễn vọng kính nét hùng vĩ của cây tùng bách. Chúng ta phản chiếu lại sự phức tạp điện tử và sự toàn vẹn thị giác của những con mắt nhìn. Nếu chúng ta có chút tưởng tượng, những vật này sẽ dẫn chúng ta đến sự sợ hãi và tôn kính. Hơn nữa, chúng ta không thể không bị xúc động bởi sự tương tự hiển nhiên giữa những cơ quan có sự sống với các thiết kế được điều nghiên cẩn thận của các nhà kỹ sư. Lập luận nổi tiếng nhất của linh mục William Paley được diễn giải bằng sự tương đồng với cái đồng hồ ở thế kỷ 18. Ngay cả nếu bạn không biết cái đồng hồ là gì, đặc điểm thiết kế rõ ràng của các khớp răng và lò xo, và làm sao để chúng bám vào nhau cho khít khao theo một mục đích, sẽ buộc bạn phải kết luận rằng, “cái đồng hồ phải có người đã làm ra nó, rằng phải có hiện hữu một người hay nhiều người làm ra nó ở một thời điểm nào đó, tại một nơi chốn nào đó, có mục đích mà chúng ta tìm ra để trả lời. Người làm đồng hồ biết kiến trúc của nó và đã thiết kế công dụng nó.” Nếu điều đó là đúng đối với cái đồng hồ tương đối đơn giản thì sẽ còn đúng hơn không đối con mắt, cái tai, cái thận, cùi chỏ tay, bộ óc? Những kiến trúc mỹ miều, phức tạp, rắc rối, và hiển nhiên có mục đích phải có người thiết kế riêng, người làm đồng hồ hay Thượng đế.
Lập luận của Paley được diễn giải như vậy, và đó là lập luận mà hầu như mọi người biết suy nghĩ và nhạy cảm đều tự khám phá ở thời kỳ trẻ con. Trải qua hầu hết chiều dài lịch sử, lập luận này đã tỏ ra hoàn toàn thuyết phục và hiển nhiên đúng. Và tuy nhiên, như là kết quả của một trong những cuộc cách mạng tri thức bất ngờ, chúng ta ngày nay biết nó sai, hoặc ít nhất, không cần thiết. Chúng ta ngày nay biết rằng sự trật tự và hiển nhiên có mục đích của thế giới sinh vật đã xảy ra qua một tiến trình hoàn toàn khác, một tiến trình xảy ra không cần có người thiết kế, một tiến trình do kết quả của những định luật cơ bản rất đơn thuần vật lý. Đó là tiến trình tiến hóa bằng sự chọn lựa tự nhiên được phám phá bởi Charles Darwin, và, một cách độc lập, bởi Alfred Russel Wallace.
Mọi vật tưởng như có ai đã thiết kế thì có điều gì chung? Câu trả lời là một xác suất không thể xảy ra. Nếu chúng ta tìm thấy một hòn cuội được biển nhào nặn thành một mặt kiếng đơn giản, chúng ta không kết luận nó đã được thiết kế bởi thợ làm kiếng. Các định luật vật lý có khả năng đạt được điều đó mà không cần trợ giúp. Điều đó không phải là không thể xảy ra. Nếu chúng ta tìm thấy một mặt kiếng có hợp chất phức tạp hơn, được cẩn thận gọt dũa tròn trịa và điều chỉnh lại sai biệt mầu sắc, được tráng bằng lớp men để khỏi chói, và có khắc tên “Carl Zeiss” ở vòng ngoài, chúng ta biết nó không phải xảy ra do may mắn. Nếu bạn lấy tất cả những nguyên tử làm nên cái mặt kiếng phức tạp đó và tung lên dưới ảnh hưởng xô đẩy của các định luật vật lý bình thường trong thiên nhiên, có thể, trên lý thuyết, bằng một may mắn tuyệt đối, các nguyên tử sẽ rơi vào cái khung làm kiếng phức tạp Zeiss, và ngay cả cũng có thể các nguyên tử vòng ngoài sẽ rơi làm sao để có tên Carl Zeiss khắc vào. Nhưng số lượng mà những nguyên tử có thể rơi cách khác thì lớn kinh khủng, lớn quá không thể đếm được đến mức độ mà chúng ta có thể bỏ qua giả định may mắn đó. May mắn rõ ràng là một sự giải thích không cần thắc mắc.
Dẫu vậy, đây không phải là lối lập luận lòng vòng. Nó có vẻ như lòng vòng bởi, có thể nói bằng sự nhận thức sau khi sự việc đã xảy ra, bất cứ sự sắp xếp nguyên tử nào cũng đều không thể xảy ra. Như đã có nói trước đây, khi quả banh rớt trên một ngọn cỏ riêng biệt trong sân chơi gôn, sẽ rất là ngớ ngẩn để thán phục rằng: “Có hàng tỉ ngọn cỏ để quả banh có thể rớt vào mà sao quả banh lại chỉ rớt trên ngọn cỏ này. Thực quá kỳ diệu như phép lạ!” Tính chất trá ngụy dĩ nhiên nằm ở chỗ quả banh bắt buộc phải rớt xuống một nơi nào đó. Chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên thán phục một biến cố tưởng không thể xảy ra nếu chúng ta có xác định trước khi nó xảy ra, chẳng hạn, nếu một người bịt mắt, xoay vòng tròn ở điểm phát banh, rồi quất bừa quả banh và làm rớt banh ngay lỗ sân gôn ở lần quất đầu tiên. Điều đó mới thật đáng ngạc nhiên thán phục bởi vì điểm đến của quả banh đã được xác định trước.
Có hàng ngàn tỉ cách khác nhau để những nguyên tử được sắp đặt làm thành viễn vọng kính, nhưng chỉ có một thiểu số để viễn vọng kính có thể sử dụng được. Chỉ có một thiểu số cực ít để có chữ Carl Zeiss được khắc trên đó, hoặc, thực vậy, để có những chữ có thể đọc được bằng ngôn ngữ con người. Đối với cái đồng hồ thì cũng vậy: Có hàng tỉ cách để sắp xếp các nguyên tử, nhưng chỉ có một thiểu số cực ít có thể làm cho ta biết thời gian hoặc cho ta thấy nó hữu dụng. Và điều đó được áp dụng dĩ nhiên huống hồ cho những phần tử của một thân xác có sự sống. Có hàng tỉ tỉ cách sắp xếp khác nhau các phần trong một thân xác, nhưng chỉ có một thiểu số cực nhỏ có thể làm thân xác có thể sống, tìm thức ăn, ăn, và sinh sản. Đúng vậy, có nhiều phương cách sống – ít nhất cũng phải có 10 triệu phương cách nếu chúng ta đếm số các loại sinh vật khác nhau đang sống ngày nay – nhưng, dù là có nhiều phương cách sống khác nhau, điều chắc chắn rõ ràng rằng còn có rất nhiều phương cách chết hơn nữa.
Chúng ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng, thân xác có sự sống thì quá phức tạp - không thể có xác suất xảy ra - để có thể có sự sống bằng tuyệt đối may mắn. Vậy tại sao lại có sự sống? Câu trả lời là sự may mắn, nhưng không phải là sự may mắn độc nhất nguyên khối. Thật ra, những chuỗi từng bước may mắn cực nhỏ, đủ nhỏ để có thể tin là sản phẩm của những bước trước nó, đã xảy ra tuần tự liên tiếp. Những bước may mắn nhỏ này xảy ra do biến đổi di truyền, thay đổi hên xui – đích thị là những sai lầm – trong vật chất có di truyền. Chúng tạo nên những thay đổi trong cấu trúc thân thể. Phần đông những thay đổi này nguy hại và dẫn đến tử vong. Một thiểu số trong những thay đổi đó cải tiến thêm một chút, dẫn đến sự sinh tồn và sinh sản nhiều hơn. Bằng tiến trình chọn lựa tự nhiên này, những thay đổi hên xui đó lan đồng đều có lợi sang các chủng loại khác và trở thành tiêu chuẩn. Bây giờ đến phần thay đổi nhỏ kế tiếp trong tiến trình tiến hóa. Có thể nói, sau cả ngàn những thay đổi nhỏ liên tiếp này, mỗi thay đổi làm nên phần căn bản cho thay đổi kế tiếp, cái kết quả cuối cùng, bằng tiến trình tích lũy, đã trở thành quá phức tạp để có thể xảy ra bằng một động tác may mắn đơn lẻ.
Thí dụ như con mắt trên lý thuyết có thể thành hình bằng một bước may mắn duy nhất từ chỗ không có gì: hay chúng ta nói từ một miếng da thuần. Trên lý thuyết ở đây trong nghĩa công thức đã được viết ra dưới hình thức một số lớn biến đổi. Nếu tất cả những biến đổi này xảy ra cùng một lúc, một con mắt toàn vẹn, thực vậy, có thể thành hình từ không có gì. Nhưng mặc dù nó có thể xảy ra trên lý thuyết, nhưng nó không thể xảy ra trong thực tế. Số lượng may mắn trong tiến trình quá lớn. Cái công thức đúng đòi hỏi thay đổi cùng một lúc số lượng “gen" khổng lồ. Công thức đúng là sự kết hợp đặc biệt những thay đổi trong hàng tỉ những kết hợp may mắn có cùng xác suất như nhau. Chắc chắn chúng ta có thể loại bỏ sự trùng hợp ngẫu nhiên kỳ diệu như vậy. Nhưng hoàn toàn hợp lý để nói rằng con mắt hiện đại đã sinh ra từ một cái gì gần giống như con mắt hiện đại nhưng không phải hoàn toàn giống: từ một con mắt hơi hơi ít tinh vi hơn. Cũng bằng cách lý luận như vậy, con mắt hơi hơi ít tinh vi này được sinh ra từ một con mắt còn hơi hơi ít tinh vi hơn nữa, và cứ thế. Nếu bạn giả định một con số đủ lớn về những khác biệt nhỏ giữa các giai đoạn tiến hóa, bạn sẽ có thể có một con mắt phức tạp có thể sử dụng được từ một miếng da thuộc. Có bao nhiêu giai đoạn trung gian chúng ta được phép đem ra để đặt thành định đề? Điều đó tùy thuộc chúng ta có bao nhiêu thời gian cho cuộc chơi. Đã có đủ thời gian để con mắt có thể tiến hóa bằng những bước nhỏ từ không có gì chưa?
Các xương hóa thạch cho chúng ta biết sự sống trên trái đất đã phát triển trên 3.000 triệu năm nay. Hầu như trí óc con người không thể tưởng tưởng được một thời gian mênh mông dài như vậy. Chúng ta có khuynh hướng, một cách tự nhiên và khoan dung, nhìn tuổi thọ của chúng ta tương đối dài, nhưng chúng ta không kỳ vọng có thể sống đến một thế kỷ. Đức Giê-su đã sống cách nay 2.000 năm, một quãng thời gian đủ dài để làm mờ sự phân biệt giữa lịch sử và thần thoại. Bạn có thể tưởng tượng nổi có một triệu giai đoạn thời gian như vậy nối tiếp nhau không? Giả định như chúng ta muốn viết toàn thể lịch sử này trên một miếng giấy duy nhất. Nếu chúng ta nhồi nhét toàn thể lịch sử của Thời Đại Chung (Common Era) trên một mét giấy, phải cần bao nhiêu mét giấy kể từ Tiền Thời Đại Chung (pre-Common Era) ngược về cái mốc thời gian bắt đầu có tiến hóa? Câu trả lời là cái phần giấy cho Tiên Thời Đại Chung sẽ trải dài từ Milan tới Moscow. Bạn hãy nghĩ đến cái điều muốn nói trong cái giả định này để thấy số lượng thay đổi tiến hóa có thể được phù hợp. Tất cả các loại chó gia súc - từ chó Bắc Kinh, chó x, chó tai cụp, chó Thánh Bernard, và chó nhỏ có lông mượt – đã tiến hóa từ các loài chó sói trong khoảng thời gian từ nhiều trăm năm tới cao nhất là nhiều ngàn năm: không quá 2 mét đường từ Milan tới Moscow. Bạn hãy suy nghĩ tới số lượng thay đổi khi tiến hóa từ con chó sói sang con chó Bắc Kinh, rồi nhân số lượng thay đổi đó với con số 1 triệu. Khi bạn nhìn điều đó theo cách thức như vậy, bạn sẽ thấy dễ dàng để tin rằng con mắt đã tiến hóa từ không có con mắt bằng những đổi thay nhỏ.
Vẫn còn cần thiết để chúng ta mới thỏa mãn, rằng mỗi một giai đoạn chuyển tiếp trên đường tiến hóa, chẳng hạn như từ một miếng da thuộc tới con mắt hiện đại, phải có sự chọn lựa tự nhiên; phải có sự tiến bộ hơn cho những thời kỳ kế tiếp hoặc ít nhất phải có khả năng sinh tồn. Sẽ không có ích lợi gì khi chúng ta chứng minh trên lý thuyết rằng, một chuỗi những giai đoạn chuyển tiếp khác nhau có thể nhận thức được dẫn đến có con mắt nếu nhiều trong số những giai đoạn đó đã bị hủy diệt. Đôi khi chúng ta lý luận rằng mọi thành phần của con mắt phải có sẵn nếu không thì con mắt không thể hoạt động được. Lý luận tiếp tục rằng một nửa con mắt không tốt hơn không có con mắt. Bạn không thể bay với một nửa cánh; bạn không thể nghe với một nửa tai. Do đó, không thể có những chuỗi giai đoạn chuyển tiếp từng bước nối đuôi nhau để làm nên con mắt hiện đại, cái cánh, hay cái tai.
Lối lý luận này quá ngây thơ làm người ta có thể chỉ nghĩ đến động lực tiềm ẩn muốn người khác tin theo. Điều rõ ràng không đúng, rằng một nửa con mắt thì vô dụng. Người bị bệnh đục nhân mắt có tròng mắt được giải phẫu lấy ra không thể nhìn thấy rõ nếu không có cặp kiếng, nhưng họ vẫn tốt hơn những người không có mắt. Không có tròng mắt, bạn không thể tập trung vào hình ảnh chi tiết, nhưng bạn có thể tránh đụng vào vật cản và bạn có thể thấy được bóng mờ của con thú săn mồi.
Lý luận rằng bạn không thể bay với một nửa cánh được phản chứng bởi một số lớn những động vật có thể bay là đà có hiệu quả, kể cả những loài động vật có vú khác nhau, như cắc kè, cóc nhái, rắn hay mực ống. Những loại động vật khác nhau ở trên cây có cặp cánh bằng da nằm giữa những đoạn nối giống như một phần của cánh. Nếu bạn té từ trên cây, bất cứ phần da cánh tăng thêm diện tích phần mặt của thân có thể cứu bạn. Và, mặc dù phần cánh của bạn nhỏ hay lớn, luôn luôn phải có một chiều cao tối thiểu để nếu bạn té từ trên cây cao, bạn được cứu sống nhờ một chút diện tích thêm ở bề mặt. Và rồi, khi những con cháu của bạn phát triển thêm diện tích bề mặt đó, chúng sẽ thoát hiểm nếu rớt từ những cây cao hơn một chút. Và cứ như vậy, bằng những bước tiến không thể nhận thấy cho đến khi, hằng trăm thế hệ sau, chúng ta có được cặp cánh đầy đủ.
Mắt và cánh không thể hiện hữu bằng một bước duy nhất. Điều đó giống như phải có may mắn vô tận để đạt được sự sắp xếp các con số cho việc mở cửa một nhà băng lớn. Nhưng nếu bạn cứ quay số hên xui, và mỗi lần bạn tới gần hơn con số may mắn để khung cửa kẽo kẹt hé mở thêm, bạn sẽ có cửa mở không bao lâu.
Căn bản, đó là bí mật làm sao sự tiến hóa đạt được cái điều mà có vẻ như không thể đạt được. Các vật không thể đến rõ ràng từ những vật trước rất khác nhau, nhưng có thể đến rõ ràng từ những vật trước hơi hơi khác nhau. Chỉ cần có một chuỗi dài những vật trước hơi hơi khác nhau đó, bạn có thể thấy nguồn gốc bất cứ vật nào từ bất cứ cái gì khác.
Như vậy, sự tiến hóa trên lý thuyết có thể làm cái việc mà ngày xưa được xem như đặc quyền của Thượng đế. Nhưng có bằng chứng là sự tiến hóa đã xảy ra không? Câu trả lời là có; bằng chứng thì đầy rẫy. Hàng triệu xương hóa thạch được tìm thấy tại địa điểm và độ sâu chính xác mà chúng ta nên kỳ vọng đã có tiến hóa xảy ra. Không có một xương hóa thạch nào được tìm thấy ở bất cứ địa điểm nào cho thấy thuyết tiến hóa đã không xảy ra như kỳ vọng, mặc dù điều như vậy có thể dễ dàng có: chẳng hạn như một xương hóa thạch trong đá của loài có vú ở thời xưa khi các con cá chưa đến đó đủ để phản biện thuyết tiến hóa.
Kiểu mẫu phân phối động vật và thực vật trên lục địa và các hòn đảo trên thế giới thì chính xác như được kỳ vọng chúng tiến hóa từ những ông tổ chung bằng những bước chậm và từ từ. Các kiểu giống nhau giữa các động vật và các thực vật thì chính xác như chúng ta kỳ vọng nhóm này có họ hàng gần, và nhóm khác có họ hàng xa với nhau. Sự kiện mật mã di truyền đều giống nhau trong mọi sinh vật cho chúng ta thấy một cách thuyết phục rằng tất cả đều có chung một ông tổ duy nhất. Bằng chứng về thuyết tiến hóa thì quá thuyết phục đến nỗi chỉ có một cách duy nhất để duy trì thuyết sáng tạo bằng giả định rằng, Thượng đế đã cố tình để lại những lượng bằng chứng khổng lồ làm có vẻ như sự tiến hóa đã xảy ra. Nói cách khác, các xương hóa thạch, sự phân phối động vật trên lục địa, và vân vân, là tất cả một trò lừa bịp vĩ đại về niềm tin. Có ai muốn tôn thờ một Thượng đế có khả năng làm chuyện lừa bịp như vậy? Chắc chắn còn đáng tôn kính hơn và còn cảm thấy khoa học hơn bằng cách nhìn ngay giá trị của bằng chứng. Mọi sinh vật đều có họ hàng anh em với nhau, đã đến từ một ông tổ xa xưa sống trên 3.000 triệu năm trước.
Lập luận Thiết Kế Thông Minh như là một lý do để tin có Thượng đế như vậy đã bị đánh đổ. Có còn một lập luận nào khác không? Có người tin Thượng đế vì họ cảm thấy như có thần khải nội tâm. Thần khải kiểu đó không phải luôn luôn có giá trị khai trí, nhưng họ cảm thấy rõ ràng như thực đối với người có quan tâm. Nhiều người điên khùng ở viện tế bần có một niềm tin nội tâm không thể lay chuyển, rằng họ là hoàng đế Nã Phá Luân hoặc, đúng thực, họ chính là Thượng đế. Không có gì để nghi ngờ về uy lực của niềm tin đối với những người có nó, nhưng không có lý do gì cho toàn thể những người còn lại như chúng ta tin theo họ. Thực vậy, bởi vì những niềm tin như vậy mâu thuẫn nhau, chúng ta không thể tin tất cả.
Cần phải nói thêm một chút nữa. Sự tiến hóa bằng chọn lựa tự nhiên giải thích nhiều điều, nhưng tiến hóa không thể bắt đầu từ không có gì. Tiến hóa không thể bắt đầu cho đến khi có một hệ thống sinh sản và di truyền thô sơ nào đó. Di truyền hiện đại được dựa trên mật mã di truyền (DNA code) quá phức tạp để có thể tự sinh qua một động tác may mắn đơn thuần. Điều đó có vẻ như phải có một hệ di truyền trước, bây giờ đã biến mất. Hệ di truyền đó đơn giản đủ để tự sinh nhờ may mắn và các định luật hóa học, và nó đã cung cấp môi trường để một hình thức chọn lựa tích lũy tự nhiên ban đầu có thể khởi sự. Mật mã di truyền sau đó là sản phẩm của sự chọn lựa tích lũy trước. Trước khi có sự chọn lựa tự nhiên đầu tiên này, đã có thời đại mà những hợp chất hóa học được thành lập từ những hợp chất đơn giản hơn, tuân theo những định luật đã được hiểu một cách rõ ràng của vật lý. Trước đó nữa, mọi thứ chủ yếu đều phát xuất từ nguyên tử hydrogen nguyên chất ngay sau vụ nổ lớn, là cái đã khởi thành vũ trụ.
Có một sự thôi thúc để lập luận rằng, mặc dù không cần Thượng đế để giải thích sự tiến hóa của một trật tự phức tạp một khi vũ trụ đã khởi sự với những định luật vật lý căn bản của nó, chúng ta vẫn cần đến một Thượng đế để giải thích nguồn gốc của mọi sự vật. Ý tưởng này không có dành cho Thượng đế làm nhiều điều: chỉ việc tạo ra vụ nổ lớn, rồi ngồi đó và chờ đợi mọi sự xảy ra. Nhà vật lý và hóa học Peter Atkins, trong cuốn sách viết rất hay của ông, Sự sáng tạo, quy định một Thượng đế lười biếng đã làm việc ít nhất có thể để khởi sự mọi thứ. Atkins giải thích từng bước của lịch sử vũ trụ tiếp nối nhau bằng định luật vật lý đơn giản. Như vậy, ông đã xén dần số lượng việc làm mà một Thượng đế lười biếng cần làm và cuối cùng kết luận rằng, thực vậy, Thượng đế chẳng cần để làm bất cứ một điều gì.
Chi tiết thời kỳ nguyên thủy của vũ trụ thuộc lãnh vực của Vật lý học, trong khi tôi là một nhà sinh vật, chú tâm nhiều hơn ở những thời kỳ sau với sự tiến hóa phức tạp. Đối với tôi, điều quan trọng là, ngay cả nếu nhà vật lý cần qui định một tối thiểu không thể nhỏ hơn nữa, là thứ đã hiện hữu từ buổi ban đầu để vũ trụ có thể khởi sự, cái tối thiểu không thể nhỏ hơn đó chắc chắn phải đơn giản kinh khủng. Do định nghĩa, sự giải thích dựa trên những tiền đề đơn giản thì hợp lý và thỏa mãn hơn sự giải thích dựa trên những tiền đề phức tạp bắt đầu bằng một xác suất không thể xảy ra. Và bạn không thể có thứ gì phức tạp hơn một Thượng đế toàn năng.
Bản tiếng Việt © 2006 talawas
Nguồn: Nguyên bản tiếng Anh: http://www.secularhumanism.org/libra...kins_18_3.html
Chào Arixtot,
Đối với KTG thì chẳng có vướng mắc gì nếu bài này do bạn post với mong muốn chia sẻ. Những bài như thế thường sẽ gây ra những phản ứng từ phía người đọc và mình chỉ phát biểu cảm nghĩ với mong muốn bày tỏ quan điểm riêng với bạn và mọi người.
KTG nghĩ rằng phần đông những người tham gia vào diễn đàn này ít nhiều gì cũng đều có một số căn bản hiểu biết về tâm linh, phần đông là Phật tử hay có tín ngưỡng Phật giáo, vậy sẽ hơi kỳ cục và lạc loài khi chúng ta đặt một thành kiến hay một cái nhìn thiên lệch về một tín ngưỡng hay tôn giáo khác.
Con người ai cũng muốn khẳng định giá trị bản thân qua sự độc lập tự do trong tư tưởng, không có bất cứ ai hay thế lực nào có thể chiếm đoạt, cho nó vào khuôn phép ngoại trừ chính bản thân người đó. Nhưng nó sẽ bị lung lay, ảnh hưởng ngã theo một xu thế nào đó do không có định hướng riêng và do bị tác động lâu ngày (kiểu như tự kỷ ám thị) bởi những tư tưởng mạnh, thuyết phục hơn. Nếu may mắn chúng ta tìm thấy một định hướng đúng còn không thì ngược lại, trò mù gặp thầy lòa, thì kết quả sẽ lâm vào một trong những thảm cảnh tệ hại mà chúng ta vừa có dịp chia sẻ ở trên.
Riêng bài bạn mới post : Không thể có Thượng đế - Richard Dawkins, mình cũng muốn chia sẻ quan điểm riêng vì mình cũng có hứng thú với đề tài này, nhưng sợ lạc đề khi chưa nắm rõ ý của bạn lắm, vậy bạn có thể chia sẻ thêm vài cảm nhận của bạn về bài trên không.
Chúc bạn vui và có nhiều chia sẻ thêm
PS: Nếu không có Arixtot post bài làm gì có cơ hội cho KTG phát biểu mà bạn phải xin lỗi bạn nhỉ !
KTG
Theo tôi bài viết trên là một cách phản biện sự tồn tại của thượng đế, một nhân vật mà một số tôn giáo coi là người có quyền năng tối thượng, sinh ra và hủy diệt muôn loài trên thế giới này.Đứng trên quan diểm của mỗi tôn giáo khác nhau, mỗi trường phái triết học khác nhau, phương pháp luận khác nhau có cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của sự sống và của loài người. Tôi là người đang đi học hỏi vì vậy tôi tham khảo mọi quan điểm, chú ý lắng nghe rồi từ đó mới rút ra được nhận thức chân lý cho bản thân mình, nói thật về quan niệm này tôi cũng chưa có quan điểm rõ ràng vì từ trước đến nay tôi vẫn chỉ tiép nhận thông tin một chiều, chưa tiếp nhận được những sự phản biện thuyết phục mang tính lý luận khoa học. Hôm trước tôi có sưu tầm một bài cũng có liên quan đến đề tài này tôi xin post lại để mọi người tham khảo, trong một số bài này tôi tìm được một số quan điểm đồng cảm, rất mong có sự phản biện của mọi người, đặc biệt là khách trần gian.
Trích : Tôi và thương đế của Nguyễn Nhân TríLời nói đầu
Tại sao tôi lại bỏ công viết về đề tài nầy trong khi từ hàng chục thế kỷ nay, bao nhiêu triết gia, nhà lý luận, nhà khoa học đã hao tốn công sức mà chẳng đi đến đâu; bao nhiêu cuộc chém giết đẫm máu từ thế hệ nầy qua thế hệ khác trên mọi mảnh đất của quả địa cầu nầy vẫn chưa giải quyết được gì?
Câu trả lời là, tôi cần viết lại để trước hết hệ thống hóa những gì trong đầu, để dễ cho tôi suy nghĩ, lý luận và đúc kết những kiến thức đã thu nhập được. Chắc chắn bài này không có tham vọng thuyết phục ai hết. Tôi đoán biết rằng số người có cùng cách nhìn giống hay tương tự với tôi rất nhỏ, trong khi số người có thể sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi đọc những gì tôi viết là rất lớn, và rất nhiều những người nầy hiện đang là bạn bè, thân quyến, láng giềng, đồng nghiệp của tôi. Phải nhìn nhận đây là điều làm tôi lưỡng lự nhất khi thảo luận về đề tài nầy.
Trong nhiều bài viết, tôi thường lấy Thiên Chúa giáo (Christianity) làm thí dụ khi nói về những tôn giáo tin vào sự hiện hữu của một “Đấng Tối Cao". Lý do duy nhất là vì Thiên Chúa giáo là một tôn giáo lớn, quen thuộc với nhiều người, kể cả tôi, trong xã hội phương Đông lẫn phương Tây. Tôi ít nhắc đến Hồi giáo (Islam) tuy Hồi giáo cũng là một tôn giáo lớn và tin ở một Thượng đế Độc tôn, lý do là vì kiến thức của tôi về Hồi giáo ít ỏi so với về Thiên Chúa giáo.
Dữ kiện trình bày ở đây phần lớn đi từ kiến thức “phổ thông”, cộng với quá trình nghiên cứu qua sách vở và Internet. Nếu cần tìm hiểu thêm, bạn đọc hãy vào Google tìm những chữ như “theism”, “atheism”, “agnosticism”, “creationism”, “evolution”, v.v. Trong đó ta sẽ tìm thấy rất nhiều bài viết thảo luận về những tư tưởng tương tự nhưng nội dung chi tiết, thâm sâu, bao quát hơn nữa.
Vài định nghĩa
Thuyết vô thần (atheism) là gì? Theo một định nghĩa, người theo thuyết vô thần "không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế". Việc “không tin” nầy phải đi từ một sự quyết định và lựa chọn hẳn hoi của người đó. Nếu một người vì chưa hề nghe biết đến khái niệm của Thượng đế là gì nên không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế thì, theo định nghĩa nầy, người đó không phải là vô thần.
Theo một định nghĩa khác, người vô thần "tin rằng không có Thượng đế". Sự khác nhau giữa hai quan điểm nầy tuy nhỏ nhưng rất quan trọng. Quan điểm “tin rằng không có Thượng đế” là triệt để và khẳng định hơn quan điểm “không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế”. Tuy nhiên, theo luận lý học thì người xác quyết một điều phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng để minh chứng điều đó, trong khi người phủ nhận một điều không có trách nhiệm đó.
Có người theo phái vô thần vì họ không thấy bằng chứng nào về sự hiện hữu của Thượng đế cả. Có người theo phái vô thần vì họ thấy rằng khái niệm “Thượng đế” trong những tôn giáo lớn kể trên rất tự mâu thuẫn (self-contradictory) và trái nghịch với phép luận lý (illogical). Và có người không cần dựa vào lý luận, sách vở gì cả; họ thấy thuyết vô thần chỉ là một điều hiển nhiên, tự nhiên, không có gì cần để bàn cãi.
Trái ngược với thuyết vô thần là thuyết hữu thần (theism). Theo định nghĩa, một người hữu thần tin rằng Thượng đế hiện hữu. Trong khi người vô thần đều có cái nhìn giống nhau ở điểm cho rằng “Thượng đế không hiện hữu”, phái hữu thần phân chia ra nhiều tập hợp khác nhau gọi là tôn giáo. Mỗi tôn giáo có một Thượng đế, một kinh thánh, một chế độ quản trị tín đồ, v.v. khác nhau (và hầu như không có tôn giáo nào đồng ý với tôn giáo khác về những vấn đề trên).
Nói chung, Thượng đế trong nhiều tôn giáo được coi là đấng Tối cao tuyệt đối. Theo Thiên Chúa giáo, Thượng đế là toàn năng (omnipotent), hiện diện khắp nơi (omnipresent) và toàn trí (omniscient). Mỗi tôn giáo cũng có kinh sách khác nhau chứa đựng những lời Thượng đế dạy. Trong Thiên Chúa giáo có Kinh Thánh, Hồi Giáo có Koran, v.v [1] .
Nói đến thuyết hữu thần và vô thần thì phải nói đến thuyết bất khả tri (agnosticism). Danh từ “bất khả tri” được Thomas Huxley nêu lên năm 1889. Theo gốc chữ Hy Lạp, từ nầy có nghĩa là “không có - kiến thức” (“a-gnosis”). Người theo phái bất khả tri cho rằng cả hai quan điểm “Thượng đế chắc chắn hiện hữu” và “Thượng đế chắc chắn không hiện hữu” đều vô căn cứ và vô giá trị vì chưa hề, và có thể sẽ không bao giờ, có bằng chứng cụ thể xác nhận được điều nầy.
Một người theo thuyết bất khả tri tin rằng con người không thể nào biết rõ về tất cả tính chất, cấu tạo, cách vận hành, v.v. của thế giới siêu nhiên; và do đó cũng không thể biết rõ là có Thượng đế hay không. Mặt khác, người theo phái bất khả tri cũng sẽ không ngần ngại thừa nhận giá trị của bất cứ sự kiện nào nếu có bằng cớ minh chứng rõ ràng bằng phương pháp khoa học thực nghiệm.
Ngôn ngữ không bao giờ chính xác 100%. Từ ngữ có thể mang nhiều nghĩa khác nhau. Có người dùng những định nghĩa trên một cách rộng rãi hơn người khác. Vì vậy khi thảo luận với một người tự xưng là “hữu thần”, “vô thần” hay “bất khả tri”, cần biết người ấy xác định rõ ràng những từ đó mang nghĩa gì. Có người hiểu “bất khả tri” là người lưỡng lự (có nghĩa là không biết bên nào đúng bên nào sai) giữa thuyết vô thần và hữu thần. Có người cho chữ “vô thần” có nghĩa là không tin ở Thượng đế cũng như bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào (thí dụ như linh hồn, luật quả báo, đầu thai, tái sinh, v.v.). Có người tự cho mình là “vô thần” nhưng vẫn nhìn nhận những hiện tượng siêu nhiên kể trên.
Chủ thuyết nào?
Theo những định nghĩa trên, chắc chắn tôi không phải thuộc phái hữu thần. Tôi không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế, đặc biệt là một Thượng đế được nhân cách hóa (có nghĩa là có tất cả những biệt tính từ hình dáng đến tâm lý của con người, thí dụ như trong Thiên Chúa giáo).
Thay vì tin ở sự hiện hữu của Thượng đế như một nhân trạng (a personality god), tôi tin rằng có những định luật bao quát chi phối, điều khiển, vận hành, ảnh hưởng (và có thể tạo lập ra) tất cả mọi vật, mọi thứ trong tất cả mọi vũ trụ (kể cả những vũ trụ mà con người có thể không nhận thức được). Những định luật nầy lớn hơn, rộng hơn và thâm sâu hơn tất cả những định luật trong ngành vật lý mà khoa học ngày nay đã phát hiện. Những định luật khoa học ngày nay chỉ là những trường hợp riêng của những định luật vũ trụ, và chỉ “đúng” trong một số môi trường giới hạn. Những định luật vũ trụ, hay những “huyền lực” nầy áp dụng vào vạn vật trong vũ trụ một cách bất di bất dịch, không có cá tính, không có tình cảm, không có nhân cách; hay nói cách khác là không hề giống như bất cứ Thượng đế của bất cứ tôn giáo nào.
Với quan niệm trên, tôi cũng không thuộc phái vô thần chính thống. Richard Dawkins (sinh năm 1941) là một trong những tác giả tiên phong nổi tiếng của chủ thuyết vô thần hiện nay. Ông cho rằng những ai, mặc dù không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế nhưng lại tin vào những hiện tượng “siêu nhiên” thí dụ như linh hồn, nghiệp lực (Karma), có thế giới khác ngoài thế giới vật chất, sự tái sinh, đồng bóng, ma ám, dĩa bay, người hành tinh, v.v. đều không thuộc vào trường phái của ông. Tôi rất ái mộ Dawkins với lối lý luận cứng rắn của ông, nhưng không đồng ý với ông ở chỗ phủ nhận tất cả những hiện tượng “siêu nhiên” kể trên.
Theo tôi, “siêu nhiên” là những hiện tượng thiên nhiên mà khoa học hiện tại không hay chưa thể giải thích được. Trong lịch sử nhân loại có biết bao nhiêu hiện tượng “siêu nhiên” đã biến thành kiến thức phổ thông về “thiên nhiên” theo sự phát triển của khoa học. Phủ nhận đồng loạt các hiện tượng siêu nhiên như một tập thể chung có lẽ là một thái độ vội vàng. Với sự tiến hóa của khoa học, biết đâu các hiện tượng nầy sẽ trở thành kiến thức phổ thông một ngày nào đó trong tương lai.
Một vài nhận định
Tôi tôn trọng tín ngưỡng (belief) và đức tin (faith) của người khác. Ai cũng có quyền tin ở một điều gì đó một cách vô điều kiện. Họ không cần phải biện hộ cũng như không cần chứng minh với ai khác về niềm tin của họ là “đúng” hay “hợp lý”. Nhưng lòng tin không phải là khoa học. Hầu hết lòng tin hữu thần đều phát sinh trước khi khoa học thực nghiệm thành hình. Ngày nay hầu hết, nếu không phải là tất cả, những đức tin nầy đều không được chấp nhận khi được kiểm nghiệm bởi phương cách khoa học. Cố tình gán ép những phát hiện khoa học với đức tin để bênh vực giá trị của lý thuyết hữu thần - thí dụ như chủ thuyết Thiết kế Thông minh (Intelligent Design) - chỉ là một cách ngụy biện rất phổ biến ngày nay.
Dưới đây là vài nhận định thêm của tôi về vấn đề nầy.
1. Thượng đế không tạo ra con người mà ngược lại chính con người tạo ra Thượng đế.
Trước hết, ai cũng phải công nhận là con người hơn các loài thú ở chỗ nhờ sự tiến hóa của bộ óc, con người có thể dự tính cho tương lai xa và suy tư về những khái niệm trừu tượng.
Khi đối diện với những hiện tượng thiên nhiên chung quanh mình như mưa bão, sấm sét, núi lửa, động đất, lụt lội, thú dữ v.v..., con người thời tiền sử phải rất hoang mang, sợ hãi. Với trình độ hiểu biết hạn hẹp về thiên nhiên con người cảm thấy bất an và bất lực. Họ cần phải có lối thoát và vì vậy đã "phát minh" ra khái niệm “thần linh” dính liền vào những hiện tượng nầy để giải thích và trấn an mình. Từ đó họ có đủ các loại thần linh như thần mưa, thần bão, thần sấm, thần sét, thần lửa, thần rắn, thần cọp, v.v. Bằng cách tôn thờ và cúng tế, con người thượng cổ cảm thấy rằng họ có thể mua chuộc được ân huệ và sự bảo vệ của những thần linh, mong làm suy giảm ít nhiều những ảnh hưởng xấu của các hiện tượng trên đối với họ.
Tương tự, con người từ thuở sơ khai đã phải đối diện với các hiện tượng thiên nhiên mà kinh hãi nhất là sự chết. Một lần nữa con người cần có một lối thoát và lối thoát nầy là khái niệm của sự sống sau khi chết. Bản năng sinh tồn của con người không chấp nhận được sự hủy diệt của sự sống và kết thúc tuyệt đối sau khi hiện tượng chết xảy ra. Và vì con người là một loài thú sống tập thể nên trong những thế giới thực và siêu nhiên do họ tự tạo ra nầy, con người cần phải có một con thú đầu đàn với đầy đủ quyền năng và uy lực để hướng dẫn và bảo vệ. Từ đó, con thú đầu đàn cao cả nhất của loài người được sinh ra với tên “Thượng đế”.
Nói một cách khác, xuất phát từ những cảm giác đơn độc trong thế giới bao la, khi đối diện với đau khổ, nguy hiểm, tai ương mà không có lối thoát, và nhất là từ nỗi cô đơn tột cùng khi phải đối diện với cái chết mà con người cần có và cần tin rằng có một Thượng đế cũng như đủ hạng loại thần linh khác.
]
Hãy tưởng tượng một người tiền sử đang đi trong rừng và bất ngờ bị một bầy thú dữ rượt theo ăn thịt. May mắn thay, anh ta leo được lên một cành cây cao nên tạm thời thoát chết. Trong khi ngồi trên cây run rẩy nhìn xuống bầy thú dữ chực chờ dưới đất, anh nhận thấy rằng mình đang ở đường cùng nên anh sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì miễn sao là có chút hy vọng sẽ thoát khỏi cảnh nguy hiểm nầy. Anh sực nhớ đến những câu chuyện ai đó trong bộ lạc kể về một vị thần nọ. Mặc dầu không tin lắm vào những câu chuyện nầy, anh ta cũng bắt đầu khấn vái rằng nếu thần cứu anh khỏi bị đám thú dữ lần nầy thì anh sẽ trả ơn, bằng cách sẽ dâng cúng con vật săn được đầu tiên ngày mai chẳng hạn.
Có hai trường hợp xảy ra ở đây:
Trường hợp thứ nhất: chẳng may anh vuột tay té xuống đất và bị đám thú dữ ăn thịt. Hết chuyện. Không ai bao giờ biết đến việc anh ta đã cầu khẩn vị thần nọ để cứu mạng nhưng vẫn chết.
Trường hợp thứ hai: vì lý do gì đó mà đám thú dữ cuối cùng bỏ đi nên anh thoát nạn trở về. Một trong những chuyện anh ta làm đầu tiên là kể lại cho những người trong bộ lạc từng chi tiết về sự thoát hiểm của anh, trong đó có việc "nhờ cầu khẩn mà đã được thần cứu mạng". Không bao lâu sau vị thần nọ sẽ chính thức trở thành “thần cứu nạn” của cả bộ lạc và của cả những bộ lạc lân cận khi họ nghe kể về chuyện nầy.
Đây chính là một hình thức “tuyển chọn trong thiên nhiên” (natural selection) như được diễn tả bởi thuyết tiến hóa (evolution theory). Chỉ có những dữ kiện hỗ trợ cho lòng tín ngưỡng của thần thánh mới được sống còn để tăng trưởng. Những dữ kiện khác không thích hợp đều bị gạt bỏ và quên lãng. Hơn nữa, con người luôn luôn có khuynh hướng chỉ nghe thấy những gì họ muốn nghe thấy.
Vô số những thí dụ tương tự có thể áp dụng cho lòng tin ở sự phù hộ của Thượng đế. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng con người ngày nay với nền khoa học tiến triển vượt bực không thể còn lý luận một cách ngu muội như con người tiền sử kia được. Nhưng trong thực tế thì con người ngày nay cũng vẫn chỉ nghe thấy những gì họ muốn nghe thấy.
Nhìn vào lịch sử của Thiên Chúa giáo chẳng hạn, chúng ta có thể thấy ngay Thiên Chúa giáo ngày nay khác hẳn với Thiên Chúa giáo của thời kỳ đầu. Từ quan niệm về một số luận đề cơ bản cho đến cách truyền bá tôn giáo, cách dẫn dắt tín đồ v.v. trong 2000 năm chúng đã biến hóa rất nhiều để thích ứng với hoàn cảnh xã hội mới, với khám phá của khoa học. Nếu không có quá trình tiến hóa nầy, chắc Thiên Chúa giáo không còn giữ một vị trí khá vững vàng trong môi trường chính trị cũng như nhân sinh của nhân loại như ngày nay.
3. Có thể chứng minh được sự không-hiện-hữu của Thượng đế hay không?
Theo tôi, nếu muốn chứng minh thuyết “Thượng đế không hiện hữu” là sai trái, phái hữu thần chỉ cần tìm ra một bằng chứng là Thượng đế có hiện hữu. Nhưng cho đến bây giờ, chưa ai từng đưa ra được một bằng chứng nào cho thấy Thượng đế hiện hữu.
“Bằng chứng” phải là một sự kiện hay hiện tượng có thể nhìn thấy hay đo lường được bằng giác quan hay dụng cụ khoa học một cách rõ ràng. Những sự kiện, hiện tượng nầy phải có thể được lặp lại tại nhiều nơi và nhiều thời điểm khác nhau. Thí dụ trong môi trường sống bình thường trên trái đất, bằng chứng về sự hiện hữu của trọng lực có thể được minh chứng và được chấp nhận dễ dàng, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bởi bất cứ ai. Viện vào “Kinh Thánh dạy như vậy” hay dựa trên “cảm giác”, “linh cảm”, “cảm nhận”, v.v. đều không được coi là bằng chứng vì những điều nầy chỉ là chủ quan, không phải là khách quan.
Do đó, ta có thể nói rằng vì chưa có ai chứng minh được thuyết “Thượng đế không hiện hữu” là sai, cho nên thuyết nầy rất có thể đúng.
Hơn nữa, phái hữu thần cũng không thể đòi hỏi phái vô thần phải đưa bằng chứng ra là không có Thượng đế thì họ mới tin là Thượng đế không hiện hữu. Lý do là vì phái hữu thần vẫn thường dùng cách lý luận nầy một cách thuận lợi cho họ. Hãy lấy Thiên Chúa giáo làm thí dụ: Thiên Chúa giáo không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu của những vị Thượng đế của những tôn giáo khác, như là Allah của Hồi giáo hay Brahman của Ấn Độ giáo. Vậy mà tín đồ Thiên Chúa giáo có bao giờ đưa ra được bằng chứng là Allah và Brahman không hiện hữu đâu?
Nói chung là, từ đầu ta có thể thấy rằng thuyết vô thần (“không tin Thượng đế hiện hữu”) thuận lợi và dễ thuyết phục hơn thuyết hữu thần (“Thượng đế hiện hữu”) ở chỗ là người hữu thần cần phải đưa ra bằng chứng về sự hiện hữu của Thượng đế. Trong khi đó, người vô thần không cần phải đưa ra bằng chứng nào vì họ không khẳng định một điều gì cả.
Tôi không rõ lối biện luận nầy có thể làm thuyết vô thần đáng tin cậy hơn thuyết hữu thần hay không. Đến nay chúng ta có thể kết luận một cách chắc chắn là thuyết hữu thần không thể khẳng định niềm tin về sự hiện hữu của Thượng đế của họ là đã được minh chứng.
4. Làm sao giải thích được những hiện tượng “huyền bí”, “phép lạ”?
Những người theo phái hữu thần thường có khuynh hướng gọi những hiện tượng mà khoa học không giải thích được là “huyền bí”, là “phép lạ”. Họ dùng sự kiện nầy để qui ra rằng phải có một đấng thiêng liêng, đấng Tối cao, Thượng đế.
Theo tôi, bất cứ ở nơi đâu, ở thời điểm lịch sử nào cũng có nhiều sự kiện, nhiều hiện tượng xảy ra mà nhà khoa học trong môi trường và thời điểm đó không thể giải thích được. Có rất nhiều lý do mà lý do thông thường nhất là vì mức độ hiểu biết của người quan sát chưa đủ để thấy, để hiểu, để đo lường, để giải thích được những hiện tượng nầy.
Trong lịch sử, có rất nhiều hiện tượng mà chúng ta ngày nay gọi là “thiên nhiên” đã từng được tôn giáo cho là “huyền bí”. Trong một thời gian dài nhiều thiên niên kỷ những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại như Ai Cập, La Mã, Trung Hoa, In-ca đã tôn thờ thần Sấm, thần Sét, thần Mưa, thần Gió, thần Mặt trời, thần Núi lửa, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Chiến tranh, thần Tình yêu, thần Sinh sản, thần Tiền tài, v.v. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật và ý thức xã hội hiện đại, phần lớn chúng ta chỉ bật cười khi nghe kể về những niềm tin nầy. Chúng ta tưởng rằng loài người đã vượt lên khỏi những khái niệm ấu trĩ đó. Nhưng chúng ta có thật đã thay đổi gì lắm ở phương diện nầy hay không? Theo tôi thì không..Trong Thiên Chúa giáo chẳng hạn, tất cả những vị thần ngày xưa chỉ được thay thế bằng một vị thần lớn nhất mà họ gọi là Thiên Chúa mà thôi. Đó là vì theo tôn giáo nầy, “Thiên Chúa tạo ra và điều hành mọi vật”, từ sấm, sét, gió, mưa, mặt trời, núi lửa, v.v. đến cả tình yêu, văn hóa, nghệ thuật, v.v.
Hơn nữa, theo tôi, đại đa số những cái gọi là “phép lạ” được diễn tả bởi các tôn giáo đều rất mơ hồ và chủ quan. Những “phép lạ” nầy không hề được kiểm nghiệm hay minh chứng bằng phương pháp khoa học và thường không được công nhận bởi cả nhiều người trong chính tôn giáo đó. Đại đa số những cái gọi là "phép lạ" chẳng qua chỉ là trường hợp tự kỷ ám thị để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của chính họ mà thôi.
Ngoài ra, theo tôi, có rất nhiều trường hợp "phép lạ" chỉ là do sự giàn dựng của con người vì lý do lợi nhuận. Ai cũng thấy được là mỗi khi có một "phép lạ" hiện ra tại một thôn làng hẻo lánh thì tất cả những dịch vụ giao thông, buôn bán, thương mại, địa ốc, v.v. của toàn khu vực thường tăng vọt lên gấp bội lần trong một thời gian rất ngắn. Chính những lợi ích tài chính khổng lồ nầy là động lực rất lớn khiến cho những người có quyền lợi dính liền đến những "phép lạ" thường nỗ lực tích cực để bảo vệ "giá trị thiêng liêng" của chúng. Và một trong những cách bảo vệ hữu hiệu nhất là ngăn cản không để khoa học có cơ hội khám nghiệm kỹ càng để xác nhận thực chất của những “phép lạ” nầy.
5. Không tin ở Thượng đế thì làm sao sống một đời sống đạo đức được?
Theo tôi thì phái hữu thần hiểu nghĩa chữ “đạo đức” khác với phái vô thần. Thiên Chúa giáo chẳng hạn, tin rằng Thiên Chúa qua Kinh Thánh đặt ra những luật lệ mà loài người phải tuân theo. Ai sống theo những gì Kinh Thánh dạy là có đạo đức, ai làm ngược lại là vô đạo đức. Trong khi đó, người vô thần dựa vào những gì con người cảm nhận một cách tự nhiên là “đúng” mà gọi là “đạo đức” chớ không dựa vào những gì “Thiên Chúa” răn họ phải làm.
Có nhiều hành vi (thí dụ như yêu thương đồng loại, giúp đỡ người hoạn nạn, không trộm cắp, không nói dối, v.v.) được cả người vô thần và hữu thần đều cùng cho là “đạo đức” nhưng vì những lý do khác nhau. Người vô thần không làm điều vô đạo vì họ cảm thấy những điều đó trái với lý lẽ sống tự nhiên của con người, trong khi người hữu thần tuân thủ những điều răn trong Kinh Thánh.
Theo tôi, “đạo đức” là một hiện tượng tâm lý hoàn toàn độc lập với tôn giáo. Hoặc vì từ cá tính bẩm sinh hoặc vì từ môi trường sinh sống hay cơ cấu giáo dục, có những người thường đã có sẵn một mức độ “đạo đức” trong họ. Những người nầy dù có theo một tôn giáo nào hay không, họ vẫn cảm thấy từ đáy sâu của bản năng của họ những hành động “đạo đức” là “đúng”. Tương tự, có những người, trong một khía cạnh, một lãnh vực nào đó trong đời sống, không có “đạo đức”. Những người nầy không cảm thấy “sai” khi họ làm những việc thiếu “đạo đức”.
Nhiều tôn giáo dựa sự trừng phạt để dạy con người về “đạo đức”. Thí dụ điển hình lại là trong Thiên Chúa giáo: những kẻ không làm theo lời Kinh Thánh hay Thiên Chúa thì sẽ bị đốt cháy đời đời trong Hỏa ngục. Theo tôi, sự đe dọa không phải lúc nào cũng là một phương cách hiệu quả để giáo dục con người. Sự đe dọa có thể đem lại một cảm giác tội lỗi cho con người chớ không thể làm họ trở thành thật sự "đạo đức" hơn. Đe dọa bị trừng phạt có thể dùng để đè nén nhiều hành động "kém đạo đức" nhưng không thể hoàn toàn cấm cản những hành động nầy xảy ra. Hàng ngày trong xã hội xưa nay chúng ta đã và đang thấy có biết bao nhiêu người tuy rất sùng đạo nhưng vẫn cố tình vi phạm những qui luật “đạo đức” cơ bản nhất của chính tôn giáo họ.
Tóm lại, theo tôi, tôn giáo hay sự tin tưởng ở Thượng đế không phải là điều kiện cần và đủ để sống một cuộc đời đạo đức như nhiều người theo phái hữu thần thường phát biểu.
© 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Tôi không đưa Phật giáo vào những tôn giáo hữu thần ở đây vì theo kinh Phật, Thích Ca Mâu Ni chỉ cho mình là “Thầy” chỉ đường đi đến giác ngộ chớ không bao giờ tự xưng là Thượng đế của loài người hay vũ trụ. Theo tôi, phần lớn Phật giáo ngày nay đã bị biến thể trở thành một tôn giáo mang dạng hữu thần và đầy những mê tín dị đoan nhảm nhí.
@bạn Arixtot,
Có thời kỳ KTG cũng có tâm trạng giống như bạn nữa tin nữa ngờ về vấn đề này. Ai nói cũng hợp lý cũng hay hết bỡi vì phần lớn những vị quan tâm đến đề tài này một khi viết lên được thành một bài viết hẳn là đã có một quá trình làm việc, tìm hiểu nghiên cứu sâu xa và khoa học.Trích dẫn:
Theo tôi bài viết trên là một cách phản biện sự tồn tại của thượng đế, một nhân vật mà một số tôn giáo coi là người có quyền năng tối thượng, sinh ra và hủy diệt muôn loài trên thế giới này.Đứng trên quan diểm của mỗi tôn giáo khác nhau, mỗi trường phái triết học khác nhau, phương pháp luận khác nhau có cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của sự sống và của loài người. Tôi là người đang đi học hỏi vì vậy tôi tham khảo mọi quan điểm, chú ý lắng nghe rồi từ đó mới rút ra được nhận thức chân lý cho bản thân mình, nói thật về quan niệm này tôi cũng chưa có quan điểm rõ ràng vì từ trước đến nay tôi vẫn chỉ tiép nhận thông tin một chiều, chưa tiếp nhận được những sự phản biện thuyết phục mang tính lý luận khoa học. Hôm trước tôi có sưu tầm một bài cũng có liên quan đến đề tài này tôi xin post lại để mọi người tham khảo, trong một số bài này tôi tìm được một số quan điểm đồng cảm, rất mong có sự phản biện của mọi người, đặc biệt là khách trần gian.
Sự phân vân của KTG, của Arixtot và của phần đông mọi người, ngoài việc chúng ta bị hạn chế trình độ, khả năng (vật chất lẫn tinh thần - người độc miệng có thể nói là ăn như người tu mà nói chuyện như lãnh tụ !) để có thời gian nghiên cứu tài liệu so sánh kiểm chứng đối với các nghiên cứu rất bác học của các tác giả nổi tiếng trên còn có việc chúng ta không đủ thời gian sống để làm chuyện lợi ít - hại nhiều này
Vì sao tôi nói như vậy :
- Tất cả những ai vẫn còn đang lẫn thẫn với chủ đề này không nhận thấy một điều rõ ràng là chúng ta đang dùng cái Hửu Hạn là trí óc vật chất đi tìm câu trả lời cho cái Vô Hạn là nguồn gốc tiến hóa của sự sống - cái mà để đo lường sự phức tạp đôi khi chỉ muốn hiểu đơn vị tính thời gian của nó phải dùng đến ước lượng để hình dung ra thì còn nói gì đến các chuyện vỉ đại khái quát hay chuyên sâu hơn ! Có một câu hỏi đơn giản : "Con vịt có trước hay quả trứng có trước ?" đến nay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục.
- Khi chúng ta đang muốn đem vật chất hửu hình chứng minh cái vô hình thì chúng ta bắt buộc phải dùng các phương tiện khác làm trung gian để tạm thời nắm bắt chấp nhận, như việc chứng minh một làn Gió, không thể nói tôi không thấy được gió nên gió không có thực.
- Sự tiến hóa của con người theo Darwin từ đơn bào, đa bào... tiến hóa dưới nước, lên cạn từ dạng thô sơ đến tinh vi, từ bất động đến cử động, từ vụng về đến khéo léo, từ cầm thú hoang dã đến con người văn minh ngày nay...Nhưng như các bạn đều biết sự tiến hóa và các dạng tiến hóa trong thiên nhiên là vô tận, muôn hình vạn trạng thế thì tại sao sự tiến hóa của thiên nhiên đến chặng của con người ngày nay thì dừng lại ? Chết là hết ? là tan vào cõi hư vô tịch mịch ? Ai trong tất cả những tín đồ theo thuyết của Darwin có thể trả lời được điều này ? ( hay ngoài miệng thì cứng rắn nhưng đến khi nằm chờ tử thần thì lại bối rối bám víu đại vào một vị thần linh vô hình nào đó chỉ có người đó và Darwin biết !)
- Bạn thường nhìn thấy hình tượng của các vị Thánh bên Thiên chúa giáo, hình tượng Phật giáo có hào quang bao bên ngoài thân thể, nhưng bạn có biết nó mô tả cái thượng trí của các bậc giác ngộ phát lộ, hoạt động an tĩnh thấu suốt vượt lên trên ra ngoài cái hửu hạn phàm trí, loay hoay, lý luận ồn ào lẫn quẫn của phàm nhân như KTG, Arixtot và các tín đồ của Darwin...Chỉ với cái thượng trí tạm hình dung như một tần số hoạt động siêu cao của trí nảo mới có thể bắt được, với tới được những vấn đề hóc búa mà trí óc hửu hình bất lực ( đoạn này thì lý luận giống các bạn PLC nhưng KTG không phải đâu nhé - chỉ là tư tưởng lớn thì gặp nhau).
Con người - sự tiến hóa vật chất và tinh thần của con người đã, đang và sẽ không ngừng lại mà luôn luôn phát triển thăng hoa. Cho dù bạn tin theo thuyết nào thì bánh xe lịch sử, ý quên, bánh xe tiến hóa sẽ luôn quay và tiến lên phía trước.
Để bạn biết đúng sai trong nhận định có Thượng đế hay không thì không quan trọng bằng việc nhận định của bạn về cuộc sống như thế nào. Nếu bạn không tin có Thượng đế mà bạn sống chan hòa, cảm thông, đối xử tốt với tất cả người thân hay không thân, người trí thức hay bình dân, người hửu thần hay vô thần hay người lừng khừng ở giửa ( giống Arixtot !)...thì KTG nghĩ chẳng cần phải xác định có Thượng Đế làm chi cho phí thời gian quý báu. Bởi vì có nguy cơ bạn tin rồi đi đến mức độ thuyết phục người ta tin theo kiểu làm mọi cách như các tín đồ cuồng tín thì như ...thì ôi thôi. Thiện tai thiện tai.
Dẫu sao thì KTG hiện nay đã hết nghi ngờ về việc này rồi, lý do :
- Kinh Lá rừng Simsapā (Tương ưng 56.31):
… Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapā. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapā, rồi bảo các Tỳ khưu:
- “Này các Tỳ khưu, quý vị nghĩ thế nào, cái gì là nhiều hơn, số lá Simsapā mà Ta nắm lấy trong tay, hay số lá trong rừng Simsapā?”
- “Bạch Thế Tôn, số lá Simsapā mà Ngài nắm lấy trong tay thật là quá ít, còn số lá trong rừng Simsapā thật là quá nhiều.”
- “Này các Tỳ khưu, cũng giống như những gì Ta đã biết rõ mà không giảng dạy cho quý vị thật là quá nhiều; còn những gì mà Ta đã giảng dạy thật là quá ít. Tại sao Ta không giảng dạy tất cả những điều ấy? Bởi vì có những điều không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho đời sống thanh cao, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không giảng dạy những điều ấy.
nên ai nói Phật phủ nhận không có Thượng đế thì KTG không phục.
- Thời đại chúng ta ngày nay ngày càng bị cuôc sống vật chất xâm chiếm xa dần cuộc sống nền tảng cao quý của tinh thần nên mức độ vô thần ( không tin có TĐ) rất cao. Đi đâu nhìn đâu cũng thấy ca tụng khoa học vật chất thậm chí trong cuôc sống hiện nay nếu ai mở miệng ra bàn đến tôn giáo, đến tâm linh đôi khi bị nhìn với ánh mắt kẻ lập dị, thất bại, yếm thế ...mà kết quả là buông tuồng kỷ cương, mất lễ nghĩa trí tín...
- Con người càng ngày chứng kiến những hiện tượng siêu hình, tâm linh không thể lý giải (rất nhiều tư liệu trên diễn đàn TGVH này) dù với khả năng và trình độ văn minh khoa học kỹ thuật hiện nay mà chắc chắn sự việc sẽ còn nhiều phát lộ lý thú ly kỳ hơn trong tương lai.
Cuối cùng rất mong Arixtot và các bạn tìm đến link :
www.vovi.org/vn/books/pdf/TDGCL.pdf
để đọc và chia sẻ với KTG, hảy bỏ qua những tình tiết không hợp ý, KTG chỉ mong các bạn đọc cái logic của lý luận, tư tưởng, sự mới lạ đôi khi đi ngược lại với đức tin cố hửu của chúng ta về cuộc sống, về tôn giáo...nhưng rất tình cảm, rất nhân bản, rất tha thiết...cái đã đánh tan hết mọi sự nghi ngờ bấy lâu của KTG rồi từ đó nhìn đâu, nghe gì cũng thấy tất cả chỉ là Chân lý biểu hiện dưới muôn hình vạn trạng mà thôi.
Mong lắm thay
KTG
Thế giới tâm linh
GS, TS. Phạm Đức Dương
Tạo hóa đã bày đặt cho con người một nghịch lý vĩ đại mà con người từ khi xuất hiện cho đến mãi mai sau, dù thuộc màu da gì, thuộc dân tộc nào và sống bất cứ đâu trên trái đất này đều phải vượt qua nhưng không bao giờ vượt qua được.
Đó là mối quan hệ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, giữa cái trần tục và cái thánh thiện. Đó là nghịch lý giữa CON và NGƯỜI trong con người. Là con cho nên con người chỉ là hữu hạn trên tất cả mọi bình diện của cuộc đời. Điều mà nó quan tâm nhất là sự sống và cái chết và con người biết mình phải chết. Như ông Bành Tổ có sống đến 800 tuổi rồi cũng chết? Nhưng là người, con người muốn trường sinh bất tử, muốn trở thành vô hạn.
Là con, trong con người chứa chất đầy tham vọng mang tính trần tục: ăn nhiều, yêu lắm. Lòng tham của con người là vô đáy... Nhưng là người, nên con người lại muốn trở thành thánh thiện, trở thành cao thượng, linh thiêng đúng với nghĩa con người (chứ không phải thú vật).
Cái nghịch lý nằm ngay trong anh, trong tôi, trong tất cả mọi người và từng phút, từng giây trong từng ngóc ngách sâu kín của cuộc đời. Đâu đâu, bất cứ lúc nào con người cũng luôn luôn đối diện với chính mình trong tình trạng nghịch lý ấy. Ranh giới có khi chỉ mỏng manh như một sợi tóc.
Loài người đi tìm những giải pháp để cho cuộc sống được an sinh, cân bằng. Theo tôi, ít nhất loài người cũng đã tìm ra ba giải pháp:
- Bên cạnh cuộc đời thực hữu hạn và trần tục, họ xây dựng cho mình một thế giới bên kia vĩnh hằng, thánh thiện, linh thiêng.
- Tập trung mọi cố gắng lập nên những sự nghiệp để "lưu danh thiên cổ" trường tồn với non sông đất nước.
- Sinh con đẻ cái để kéo dài đời mình, dòng họ của mình.
Đi vào giải pháp thứ nhất chúng ta thấy trí tuệ và trí tưởng tượng của con người vô cùng vĩ đại, vô cùng phong phú. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều xây dựng cho mình những biểu tượng về một thế giới bên kia, vừa nối tiếp thế giới bên này vừa là một thế giới vĩnh hằng, ở đó con người trở nên bất tử và hạnh phúc, rất khác biệt với đời thực.
Thế giới bên kia chính là thế giới tâm linh
Thế giới bên kia được nhận thức từ cái chết. Sự sống và cái chết là nỗi bận tâm lớn nhất của con người, vì ai cũng muốn sống, không ai muốn chết, và họ rất sợ chết. Manimovski đã từng nói: "Cái chết là sự khủng hoảng tối quan trọng và cuối cùng của cuộc sống". Cái chết của một thành viên trong cộng đồng gây nên một sự sợ hãi, ngay trong những giấc mơ con người bàng hoàng hoảng sợ khi thấy mình bỏ xác đi lang thang trong một thế giới lờ mờ và nhất là khi thấy những người thân đã chết hiện về thậm chí còn đòi hỏi cái này, cái nọ... Từ đó con người cảm nhận rằng con người có cả xác và hồn. Xác là cái trông thấy được, hồn là cái vô hình. Hồn và xác như là bóng với hình không thể thiếu vắng, do đó cuộc sống gắn liền với cái chết, người sống gắn liền với người chết. Phải chăng khi chết hồn sẽ rời khỏi xác và bay về thế giới bên kia. Với tâm thức đối xứng, con người cho rằng "hễ c ó cái này thì phải có cái kia"? Có thế giới bên này cho người sống thì phải có thế giới bên kia cho người chết. Nhưng con người không thể thấy được cái thế giới vô hình đó. Bằng phương pháp suy luận, con người tưởng tượng ra thế giới bên kia như cùng tồn tại với thế giới bên này. Vì con người đã bày đặt ra các nghi thức thờ cúng để tỏ lòng tôn vinh và sự kính trọng các thần linh đầy uy lực siêu việt. Và sự gặp gỡ giữa người sống và người chết trong khi thờ cúng là những giây phút linh thiêng nhất. Đó là cội nguồn của cái thiêng trong đời sống tâm linh. Người Việt thường nói "có thờ có thiêng". Cho nên cái linh thiêng ấy bao trùm lên cả sự sống và cái chết, nó nối cái tâm của người sống với tổ tiên ông bà. Người ta đối xử với người chết cũng như người sống (Sự tử như sự sinh - Khổng Tử) nhưng với thái độ sùng kính. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy từ thời đại đồ đá cũ con người đã thực hành những nghi thức chôn cất người chết như rắc một lớp đất thổ hoàng dưới mộ, chôn người chết theo tư thế ngồi, sau này chôn theo đồ tùy táng (minh khí) rồi cắm bia, xây mộ... Bằng cách đó con người làm cho người chết trở thành không chết, cùng nghĩa với người sống cũng thành bất tử, tức là biến cái hữu hạn thành cái vô hạn.
Có thể nói sự chết mở ra thế giới tâm linh và đó là một tình cảm chỉ có ở con người, không thể có ở bất kì loài động vật cao cấp nào. C.Mac gọi đó là "Tình cảm tôn giáo" không thể thiếu vắng trong cuộc sống con người. Ông viết: "Nếu trong trái tim con người có một tình cảm xa lạ với tất cả số còn lại của các loài động vật, một tình cảm cứ tái sinh lại mãi, dù cho vị trí con người ở đâu, phải chăng tình cảm đó là một quy luật cơ bản của bản chất con người? Theo chúng tôi đó là tình cảm tôn giáo". Socrate cũng đã từng nói: "Cuộc sống là chung cho một cây cỏ nhưng chỉ con người mới có linh hồn. Con người sở dĩ thành con người một phần căn bản là do nó có đời sông tâm linh, nghĩa là tuân theo, tôn thờ những giá trị không vụ lơi, những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng và cái bí ẩn, hai yếu tố tạo thành đời sống tâm linh". Vì thế bản chất của con người là hướng tới tâm linh và tâm linh lại là thế giới vô hình, linh thiêng mà huyền bí, nó như là những ma lực hấp dẫn, kích thích con người hướng vào đó để giải đáp câu hỏi lớn của con người: ta là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu? mà trí tuệ của con người không thể giải thích được. Đó là cội nguồn của tư duy tôn giáo: cái thế tục và cái linh thiêng, cái hiện hữu và cái vô hiện hữu, cái có hạn và cái vô hạn... gắn kết với nhau như hình với bóng. Vì vậy, còn loài người là còn đức tin tôn giáo, khoa học đẩy lùi mê tín dị đoan, nhưng lại đồng hành với đức tin tôn giáo. Hegel gọi cái tôn giáo là cái không cần bằng chứng, không thể chứng minh được, khoa học là cái phải có bằng chứng để chứng minh, còn nghệ thuật chỉ là cái cớ (nói cây ná, giá cây tre). Khi con người hướng tới cái tâm linh thì con người cũng hướng tới cái thánh thiện, tới cái đẹp bởi vì cái thiêng là chất keo kết dính và chuyển tải những giá trị đạo đức và thẩm mĩ của con người và cố kết cả một cộng đồng tộc người với nhau trong sự giao cảm thuần khiết. Và con người tưởng tượng ra một thế giới bên kia rất tốt đẹp không giống với thế giới bên này, thế giới trần tục mà con người còn nặng nợ với những dục vọng của trần ai. Từ "dieu” (thần thánh) có gốc của ngạn ngữ Ấn - Âu dieros = rực sáng ở trên trời, khu biệt với tối tăm ở dưới trần - nơi ấy đầy ánh sáng và vĩnh hằng. Muốn đến được nơi đó con người phải sống hướng thiện!
Như vậy từ thời ăn lông ở lỗ cho đến hôm nay, loài người dù sống bất cứ nơi đâu thuộc bất cứ dân tộc nào đều xác lập hai thế giới: thế giới trần gian bên này và thế giới tâm linh bên kia. Thế giới tâm linh trước hết là thế giới của thần thánh. Ở đấy có hai loại thần: nhân thần và tự nhiên thần và có sự chuyển hóa theo hướng "nhân hóa" các vị thần tự nhiên.
Tất cả những thần linh này ở trong thế giới tâm linh vô hình, huyền bí đều được con người xây dựng thành những biểu tượng và được hiện diện trong các lễ hội, nơi đó con người làm lễ để thông quan với thần thánh, và mở hội để xây dựng quan hệ cộng cảm trong cộng đồng dưới sự chứng giám của thần linh. Vì thế trong phần lễ bao giờ cũng.có các chất thiêng và sự xuất thần, còn trong phần hội luôn luôn phải vui và thăng hoa, nó là sự thể hiện giữa mối quan hệ giữa "đạo và đời".
Để giao tiếp với thần linh, con người đã "mượn" những "vật thiêng" làm trung gian. Đó là những người thiêng (thầy cúng, ông mo, bà đồng...), những vật thiêng (mặt nạ, con rối...), những lời thiêng (lời khấn), những chữ thiêng (bùa chú), những hành vi mô phỏng hay dọa nạt, những điệu múa phấn khích, những lời tụng ca. Những thứ này đều được cách điệu hóa mang tính biểu tượng cao. Kèm theo những hành vi là những ma thuật với những năng lực đặc biệt: dẫm chân lên lưỡi cày nung đỏ, xuyên sắt qua cổ, qua bụng, phun ra lửa, dùng nước thánh chữa bệnh... Theo C.A. Van Peurson, nhà triết học Hà Lan, thì trong nền văn minh nông nghiệp, khi con người và tự nhiên cùng với thế giới thần linh còn hòa đồng chưa có sự cách biệt thì vật siêu nghiệm có ở khắp nơi cùng với tồn tại xã hội. Thế giới là hiện thân của thần thánh. Ta gọi đó là văn hóa thần thoại, một nền văn hóa mở, trong đó con người gia nhập vào thần lực của vũ trụ bằng những câu chuyện và những biểu trưng. Khi ma thuật, phù phép xuất hiện cùng với thầy phù thủy nhằm biến quyền lực của thần thánh thành quyền lực của cá nhân, một thứ độc tài thì mô hình văn hóa trở nên khép. Con người chìm đắm trong mê muội, trong sự sợ hãi đối với ma thuật.
Sau này, trên cơ sở tín ngưỡng dân gian mà loài người xây dựng những đức in mới - tôn giáo. Chúng đều là những phương thức để nhận thức và cải tạo hiện thực theo ý của con người, chúng chỉ khác nhau về tính lịch sử. Khi con người xây dựng nên thế giới bên kia, con người càng cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của cuộc sống bên này và do đó con người rèn luyện cho mình một tinh thần nhân ái và thánh thiện hơn, kìm chế bớt những tham vọng của trần tục. Đó là cách cải tạo hiện thực như người ta nói, làm cho con người hướng theo tính thiện. Xét về mặt đó, thì mọi tín ngưỡng, mọi tôn giáo đều có ý nghĩa góp phần giải phóng con người bắt đầu từ khi nó là người trong mối quan hệ với tự nhiên giữa con người và người trong con người. Tín ngưỡng hay tôn giáo đều hướng con người vươn tới nơi thần thánh linh thiêng, nơi niết bàn cực lạc hay nơi thiên đường của Chúa Giêsu, của Thánh Allah! thoát khỏi bị trở thành ma quỷ hay lũ Satăng nơi địa ngục. Muốn vậy con người phải kiềm chế những dục vọng và sống với nhau sao cho hợp đạo. Đó là giá trị đích thực của những đức tin thánh thiện. Những điều nghịch lý là: các trào lưu tư tưởng tiến bộ mà con người đã nghĩ ra và dồn mọi sức lực để thực hiện nhằm mục đích cao đẹp đó, thì trong thực tiễn xã hội lại cho thấy kết quả mang lại đều không như mong muốn, thậm chí có khi còn ngược lại. Con người đang vật lộn trong quá trình tha hóa bởi chính những cái nó sáng tạo lên. Các tôn giáo muốn giải thoát con người ra khỏi cái hữu hạn để đi vào cái vô hạn, nhưng rút cuộc, các giáo hội cũng không vượt qua được cái hữu hạn của con người, họ tự xây tường cao trong bóng tối để không nhìn thấy con người thực của mình!
Giải pháp xây dựng một thế giới bên kia vĩnh hằng và thánh thiện và xây dựng một đức tin chết không phải là hết, theo tôi là một giải pháp tích cực giúp cho con người sáng tạo nên nhiều giá trị văn hóa, yêu cuộc sống hơn và không quá sợ hãi khi phải đối diện với cái chết. Từ cái đức tin ấy mà con người sáng tạo nên biết bao những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tạo nên bản sắc dân tộc - những biểu tượng văn hóa. Đó là những lễ hội những phong tục tập quán, những kho tàng văn nghệ dân gian, những chùa chiền miếu mạo, những di tích văn hóa. Điều mà ai cũng nhận thấy rằng vì coi thế giới bên kia là vĩnh hằng, là thiêng liêng nên con người đã tập trung trí tuệ, mọi năng lực sáng tạo, mọi của cải vật chất để xây dựng nên những kì tích mà họ không thể làm cho cuộc đời thường được. Một cái nhà ở (trần tục dù anh có ý định xây dựng đẹp bao nhiêu cũng không thể bằng khi người ta xây một ngôi chùa, một kim tự tháp làm nơi thờ cúng thần linh linh thiêng). Vì vậy các giá trị văn hóa của các dân tộc còn lại cho đến ngày nay đều mang dấu ấn của đức tin ấy và nó được xem là một trong những động lực tạo nên những giá trị văn hóa và sự đa dạng của các biểu tượng làm cho những di sản này sống mãi với dân tộc, với non sông đất nước. Và, như trên đã nói, con người quan niệm có linh hồn và thể xác và chúng tồn tại như hình với bóng, do đó cái thiêng liêng bao trùm lên cả thế giới tâm linh và thế giới trần tục. Và từ đó con người cũng linh hóa những biểu tượng, những sự kiện trong đời sống thường ngày. Người Việt Nam coi đất nước cũng có linh hồn. Do đó biểu tượng "hồn nước và tình yêu Tổ quốc là cái thiêng liêng đối với mỗi con người Việt Nam, rồi những quan hệ, những tình cảm trong cộng đồng đều có chất thiêng của nó (tình mẫu tử tình yêu, tình đồng chí…). Và chính cái chất thiêng đó đã trở thành chất men kích thích, gắn bó con người hướng tới cái thánh thiện ngay trong cuộc sống đời thường.
Như vậy là con người ở đâu cũng phải sống cân bằng giữa đạo và đời, cân bằng giữa tâm và vật. Ở đâu và lúc nào, mất sự cân bằng đó sẽ tạo nên trạng thái hẫng hụt, rối loạn. Ở đây chúng ta nói đến đức tin của con người về một thế giới bên kia, còn thế giới ấy tồn tại thực hay không là một chuyện khác. Dù cho văn hóa của loài người rất đa dạng, nhưng con người vẫn tin rằng bên cạnh đời sống thực của họ còn có một thế giới bên kia - thế giới tâm linh, và với khát vọng khám phá, loài người từ khi sinh ra vẫn mải mê để tìm kiếm và bằng trí tuệ được tích lũy con người muốn giải thích... Và đó là một nhu cầu, thậm chí một nhu cầu mãnh liệt mà không một ai có thể ngăn cản được.
Trong một hội thảo quốc tế về văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một giáo sư người nước ngoài hỏi tôi có tin vào thế giới bên kia không? Tôi trả lời là tôi tin và chắc rằng nhiều người Việt Nam cũng tin như tôi về thế giới bên kia. Họ quan niệm "sống gửi thác về” và vì thế sống ở trên đời phải "tu nhân tích đức” để về thế giới linh thiêng ở bên kia.
Ngày nay với tư duy khoa học, người ta muốn xây dựng một ngành học mới, ngành tâm linh học để tiếp cận với thế giới bên kia. Người ta dựa vào các dữ liệu sau:
1) Câu chuyện kể lại của những người cận tử - những người chết đi sống lại. Đó là những điều mà họ đã gặp trong thời gian hồn rời khỏi xác,
2) Tư liệu về những hiện tượng đầu thai tái sinh. Ví như gần đây báo chí đã nói tới một số hiện tượng đầu thai tái sinh của các em bé ở Bá Thước tỉnh Thanh Hóa. Những người này đã kể rất rõ về lai lịch cuộc sống trước kia của họ và những đấu vết cũ được ghi lại trên hình hài, tính cách trong cuộc sống tái sinh.
3) Những tư liệu sưu tầm và phân tích những giấc mơ (như là giấc mơ báo tin của Lômônôxôp về việc nhà bác học này tìm được xác cha, giấc mơ của Đan - nhà triết học Anh về hạm đội của Napoléon bị đắm 4000 người chết gần đảo Hêlen, sau đó thành hiện thực không chỉ có 400 người chết, những giấc mơ báo tin của những người đã khuất…
4) Tư liệu về những người có khả năng xuất hồn và nhập hồn (xung quanh những việc tìm mộ của những nhà ngoại cảm, những cuộc nói chuyện với người đã chết qua một người sông - mà ở Việt Nam gọi là lên đồng" ...).
5) Thế giới ma và những căn nhà có ma..
Thời nào cũng có và ngày nay lại càng nhiều câu chuyện được kể gây cho con người một tâm trạng "bán tín bán nghi". Tuy nhiên chúng ta cần phải lưu ý hai điều: một là, chúng ta phải tỉnh táo chống mê tín dị đoan và những kẻ lợi dụng đức tin để kiếm lợi và lừa dối quần chúng để thực hiện những ý đồ đen tối của chúng! hai là, nếu giả thiết rằng có một thế giới bên kia, thì muốn tiếp cận được chắc chắn người ta không thể dùng những phương pháp khoa học như chúng ta đang dùng hiện nay để tiếp cận với thế giới bên này, mà phải có một hệ thống phương pháp khác. Mọi suy luận của chúng ta về thế giới bên kia chỉ là những suy luận theo cảm thức đối xứng: bên này có gì thì bên kia có nấy, khác chăng bên kia là một thế giới ảo và ở đó chính là miếng đất của trí tưởng tượng. Con người chỉ có thể bằng trực cảm, bằng trải nghiệm mà cảm nhận được, chứ không thể lý giải được. Vì thế Hegel mới gọi tôn giáo là cái không giải thích được. Do vậy, những lý giải về thế giới bên kia, chúng ta có thể coi như những giả thiết chưa được kiểm chứng. Cuối cùng thì tin hay không tin là quyền của mỗi con người, nhưng đã là con người thì ai cũng rất bận tâm đến thế giới tâm linh và khát vọng hướng tới nó.
Từ trước đến nay tôi luôn có một thắc mắc, trăn trở và chắc cõ lẽ cũng là thắc mắc chung của rất nhiều người khi tìm hiểu về thế giới tâm linh: " Nếu thật sự tồn tại Thượng đế, người có quyền năng tối thượng, có thể sinh và diệt sự sống muôn loài, luôn răn dạy con người hướng đến những điều chân, thiện, mỹ".. Nhưng tại sao với quyền năng như vậy Người luôn tồn tại và chỉ hiển diện trong cõi vô hình, Người có tìm cách liên lạc với thế giới hữu hình không ? Tại sao Người không hiển dịện cho mọi người thấy thì giá trị của những lời răn dạy sẽ trở nên có hiệu lực vô cùng (Một khi đã thấy thì đố ai dám không nghe lời). Tại sao chỉ một số người ( có khả năng ngoại cảm) có thể liên lạc được với thế giới vô hịnh ?
Rất mong mọi người tham gia để tôi có thể mở mang nhận thưc. Cho hỏi thêm khachtrangian : có phải anh theo đạo Vô vi của Lão Tử không ? có thể khái quát đôi nét về Đạo này ?
@ Hiền giả Arixtot,
Xin cho phép KTG gọi bạn như vậy, bởi vì thật là lý thú trong thời buổi của tốc độ của thời giờ là vàng bạc hiểu đúng theo nghĩa đen mà chúng ta lại có thời giờ ngồi tám với nhau về một đề tài rất lý thú như thế này, âu cũng là nhân duyên tốt lành thôi. Sự trao đổi này cả hai bên đều có thể rút ra kết luận tốt cho mình vì là chủ đề tâm linh hướng thượng.
Trước hết xin trả lời bạn KTG không phải theo đạo vô vi của Lão tử, mình chỉ có nghiên cứu sơ qua để biết được đạo Lão có chủ trương vô vi giống với lý vô thường của đạo Phật và tạm gọi lý sinh hóa trường tồn của vạn vật là Đạo. Đạo Lão theo mình nghĩ chỉ thích hợp với văn hóa, thời kỳ có tốc độ sống nhàn nhã của lịch sử Trung hoa thời đó. Ngày nay làm sao chúng ta có thể sống ung dung thoát tục khi mà cơm áo gạo tiền thúc một bên, tháng trước vừa xong tháng sau liền tới được.
Thưa bạn Arixtot, chúng phải tạm thời đặt ra một vài quy ước, quan niệm chung về danh từ Thượng đế để bạn và tôi trao đổi thoải mái hơn :Trích dẫn:
" Nếu thật sự tồn tại Thượng đế, người có quyền năng tối thượng, có thể sinh và diệt sự sống muôn loài, luôn răn dạy con người hướng đến những điều chân, thiện, mỹ".. Nhưng tại sao với quyền năng như vậy Người luôn tồn tại và chỉ hiển diện trong cõi vô hình, Người có tìm cách liên lạc với thế giới hữu hình không ? Tại sao Người không hiển dịện cho mọi người thấy thì giá trị của những lời răn dạy sẽ trở nên có hiệu lực vô cùng (Một khi đã thấy thì đố ai dám không nghe lời). Tại sao chỉ một số người ( có khả năng ngoại cảm) có thể liên lạc được với thế giới vô hịnh ?
-Thượng đế ở đây không là hình tượng của Thiên chúa giáo, không là ông hề đầy Hỹ nộ ái ố của Tây du ký, lại càng không phải là của những vở kịch cười rẽ tiền cuối năm trên TV...Trong cuộc sống, qua lý vô thường của Phật ta thấy rằng sinh-trụ-hoại-diệt là không thể chối cải, vạn vật không thể nằm ngoài lý vô thường, vạn vật luôn biến đổi sinh hóa...nhưng nếu bình tâm lại bạn có để ý một điều rằng mặt đất mà đức Phật đã đi đứng, không khí mà đức Phật đã hít thở qua một thời gian rất dài có khác gì với mặt đất và không khí hiện tại không. Để hình dung rộng ra bạn hảy phóng tầm nhìn ra ngoài không gian đen tối sâu thẩm bao la và tuyệt đối yên tĩnh kia, chất chứa trong đó cả tỷ tỷ hành tinh, thái dương hệ, thiên hà (bao gồm nhiều thái dương hệ xoay quanh một tâm điểm) đang vận hành, bùng nổ, dãn rộng, thu hẹp, phát sáng hay lịm tắt... nhưng tất cả đều tuân theo một trật tự vận hành tương tác chính xác bí ẩn. Các nhà khoa học gia đã từng nói rằng chỉ cần TĐ thay đổi trục nghiêng hoặc gần hơn hay xa mặt trời một chút thì không có sự sống trên TĐ !
Cái lực vận hành, trật tự chi phối, sự bất biến vủ trụ ...tồn tại trước khi trái đất xuất hiện (khoan nói đến sự sống trên TĐ này)mà tôi dài dòng nảy giờ theo đạo Lão tạm gọi là : Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh, chúng ta hảy xem từ Thượng Đế trên tinh thần đó.
Nếu chúng ta cố gắng định hình, cho vào khuôn phép một vấn đề vô hình, cố hửu hạn một cái vô hạn thì cũng giống như câu truyện ngụ ngôn :
Có một con rùa đang kể cho con cá về sự lý thú về hành trình trên bộ của mình, nào là làn gió mát hiu hiu, mặt đất khô ráo cứng chắc và những ngọn lửa reo vui tí tách với sự ấm áp....nhưng dù diễn tả thế nào thì con cá cũng bất lực không thể hình dung ra những điều như thế. Vậy thì con cá KTG và con cá Arixtot ráng hiễu nhau nhé (còn tiếp)
Tiếp theo Kỳ I : (cho giống với truyện Kim dung)
Thiên nhiên luôn hoạt động theo cách riêng của mình, có thể tạm nói là siêu lô gic . Nếu chúng ta hiểu được thiên cơ hoạt động ra sao, cho mục đích gì thì chúng ta đâu còn ngồi ở đây mà thắc mắc mà đã siêu xuất ở cõi nào đó rồi, chứ ở cỏi ta bà ô nhiễm lăng xăng nói móc nói nhéo nhau làm gì ?! Việc xuất hiện hửu hình hay vô hình của TĐ được thể hiện theo cách thiên biến vạn hóa bao trùm tất cả chứ không riêng cho một tầng lớp hay một thứ bậc tiến hóa nào chính là sự sống trong mỗi sinh vật ! Vậy thì TĐ hiện diện ngay tại đó rồi thì còn cái gì gọi là liên hệ !Trích dẫn:
Nhưng tại sao với quyền năng như vậy Người luôn tồn tại và chỉ hiển diện trong cõi vô hình, Người có tìm cách liên lạc với thế giới hữu hình không ?
TĐ răn dạy con người theo một lẽ công bằng, tự do tuyệt đối. Chúng ta hiểu, giác ngộ ra một vấn đề đó là một sự thẩm thấu thực sự chứ không vì e sợ uy lực của TĐ. Hiệu lực theo kiểu của Arixtot là hiệu lực kiểu vắng chủ nhà gà sẽ vọc niêu tôm. TĐ cho bạn quyền tự do làm tất cả những điều bạn nghĩ là đúng, với lũy thừa N lần và bạn tự rút ra kết luận cuối cùng cho hành động của mình. Có thể có bạn nói nhưng đạo Phật có nói về nghiệp quả và điều đó rõ ràng là không có sự tự do tuyệt đối ? Đây cũng là một cách nói có vẻ hợp lý nhưng đó cũng giống như người đi trước có kinh nghiệm cảnh báo cho người đi sau thôi, tin hay không thì tùy, còn thì chúng ta vẫn có tự do đi hết con đường của mình chứ có ai cản (cản cũng chẳng được) chúng ta đâu !Trích dẫn:
Tại sao Người không hiển dịện cho mọi người thấy thì giá trị của những lời răn dạy sẽ trở nên có hiệu lực vô cùng (Một khi đã thấy thì đố ai dám không nghe lời). Tại sao chỉ một số người ( có khả năng ngoại cảm) có thể liên lạc được với thế giới vô hịnh ?
Riêng KTG nghĩ trên đời có người Khôn người Dại, người cực khôn mới liếc qua sự việc dường như đã có thể rút ra kết luận cho mình mà chẳng phải dấn thân. Người khôn vừa vừa thì nữa tin nữa ngờ phải vừa đi vừa học rồi tự đánh giá có khi mới đi đến giữa đường là đã có câu trả lời. Chỉ có những kẻ dại thì đi lang thang không định hướng trên đường, húc đầu vào tường, lọt xuống khe sâu hoặc rẻ ngang rẻ dọc vào ma trận lạc mất lối mà chẳng biết bao giờ có câu kết luận thì đáng thương nhất.
Vấn đề này chúng ta phải căn cứ trên siêu hình để tìm câu trả lời khả dĩ tương đối nhất. Nếu bạn không thể dùng khoa học kỹ thuật để chứng minh hiện tượng thần đồng mới 2, 3 tuổi đọc chữ, sách, làm toán ...khi chưa đến tuổi đi học thì hảy tạm chấp nhận có một dòng tâm thức luân chuyển phi thời gian, không gian. Bạn có thể đặt cho nó tên gì cũng được nhưng chính nó chứa đựng và luân lưu những gì mà một kiếp sống con người học hỏi rèn luyện được, chính nó sẽ bắt nhịp, phát lộ ra những khả năng siêu phàm khi có điều kiện thích hợp trong một kiếp lai sinh làm cho chúng ta thấy rất khó lý giải theo khoa học thường thức.Trích dẫn:
Tại sao chỉ một số người ( có khả năng ngoại cảm) có thể liên lạc được với thế giới vô hịnh ?
Để tạm kết luận mời Arixtot đọc câu truyện nhỏ sau nhằm cảnh báo những người dám đem cái thời gian hửu hạn (đừng tưởng là 60 năm đâu nhé, chỉ chừng 10 năm nếu may mắn còn đủ sáng suốt, khỏe mạnh, ít nghiệp quả để được rảnh dang rèn luyện tu học) để đi tìm chứng minh hay phủ nhận Thượng đế :
MŨI TÊN TẨM ĐỘC
Ngày kia một vị tì kheo thưa với Đức Phật như sau: "Bạch Đức Thế Tôn, hồn người công chính có tồn tại sau khi chết không?"
Như thường lệ, Đức Phật không trả lời.
Nhưng vị tì kheo đó cứ khăng khăng một mực. Ngày nào ông ta cũng chỉ hỏi mỗi một câu đó và ngày nào cũng vậy, Đức Thế Tôn chỉ đáp trả bằng sự im lặng cho tới khi không thể chịu đựng được nữa, vị tì kheo đã hăm dọa rời bỏ tu viện nếu câu hỏi có tính cách sinh tử đó không được trả lời thỏa đáng bởi vì ích lợi gì mà sống một cuôc đời buông bỏ nếu linh hồn người công chính tiêu tan với thể xác?
Bấy giờ, động lòng trắc ẩn, Đức Phật mở miệng phán dạy: "Nhà ngươi chẳng khác gì một người đang chờ chết vì bị trúng một mũi tên tẩm độc. Bà con vội vàng mời lương y lại nhưng hắn ta từ chối không cho rút mũi tên ra bao lâu người ta chưa trả lời ba câu hỏi sinh tử sau đây: Trước hết người bắn hắn ta là da trắng hay da đen? Thứ đến, người đó cao lớn hay thấp lùn? Sau cùng, hắn ta thuộc hạng Bà la môn hay loại cùng đinh?"
Vị tì kheo đã quyết định tiếp tục ở lại
lại nữa mình xin trích dẫn một đoạn trong link mình đề nghị bạn xem qua, mà nếu có đọc bạn và mình sẽ không bàn luận những điều căn bản như nảy giờ mà sẽ có những vấn đề lý thú hơn nhiều để nói:
Này con ơi! Việc con hỏi Ngài không đủ quyền lực để vận chuyển hay sao? Có chứ con! Đủ quyền lực chứ con; nhưng con nên hiểu quyền năng của Ngài phải vận dụng theo định luật tiến hóa của càn khôn, có nghĩa là quyền năng ấy phải vận chuyển cách nào cho vạn vật, cho chúng sinh có cơ hội học hỏi để tiến hóa. Nếu con quan niệm rằng để giúp cho nhơn loại tiến hóa, Thượng Đế chỉ cần sử dụng quyền năng bằng cách làm phép lạ trong phút giây để biến cải con người từ ngu muội ra sáng suốt tức khắc. Được chứ con! Việc này chẳng có gì khó khăn với Thượng Đế! Nhưng Ngài không làm điều này con! Ngài không học dùm con. Ngài không đi dùm con. Con phải học con mới biết! Con phải đi con mới tới. Ngài chỉ hỗ trợ và hướng dẫn con đi, con học hỏi để con tiến hóa. Con phải tự dấn thân xông lướt, để nếm, để chứng nghiệm, để học hỏi mới hiểu biết. Cái sáng suốt mà chúng con có được phải trải qua một tiến trình chứng nghiệm học hỏi cam go. Đấy là định luật tiến hóa. Cũng vì thế mà Thượng Đế vận chuyển ý chí, thể hiện quyền năng của Thượng Đế theo định luật, sử dụng quyền lực của Ngài theo tiến trình mà Cha vừa đề cập, có nghĩa là vận chuyển cách thức nào để chúng con có cơ hội học, nếm, chứng nghiệm để hiểu biết và tiến hóa. Thế nên, trong tình huống đó, Thượng Đế phải cực nhọc vất vả hơn nhiều để dìu dắt chúng sinh. Vì nhu cầu học hỏi và tiến hóa của chúng con, nên ý chí và quyền lực của Thượng Đế phải thể hiện theo một cách thức vất vả khó khăn hơn nhiều! Ngài phải sử dụng đủ phương tiện, đủ mọi cách, từ trược tới thanh để giáo hóa con người.
...Vì Thượng Đế là một khối Đại Linh Quang vô cùng tận, chan hòa khắp cùng càn khôn vũ trụ. Ngài không hình, không tướng. Các con không thể dùng trí phàm để hình dung ra Ngài. Thế nên, chúng con phải thấy quá xa xôi với Ngài trong ý niệm, trong tình yêu và trong sự liên lạc giữa chúng con với Thượng Đế. Do đó, Ngài phân thân điển quang, đến với chúng con qua một bản thể tứ đại, để cùng sống với chúng con, lăn lóc gần gũi chúng con dưới cõi hồng trần, để chúng con có thể hình dung ra Thượng Đế, để thấy Ngài gần chúng con hơn, để chúng con hiểu Thượng Đế hơn. Nhưng chúng con phải biết rằng: Thượng Đế xuống thế đây là xuống tượng trưng thôi. Vậy nghĩa là Ngài không chỉ có ở đây, trong Đức Kim Thân, thật sự Thượng Đế vô cùng tận. Ngài ở đây, nhưng vẫn ở trên kia, nơi trung tâm sinh lực của càn khôn vũ trụ, và bằng thần lực vô vi, Ngài vẫn đang hiện diện khắp nơi, ở đâu cũng có Ngài.
...! Cha phải hiểu rõ tâm trần, phải hiểu chúng con phần đông còn đọa lạc trong vòng mê chấp của phàm tâm, các con sẽ chấp vào xác nữ, vì các con cho rằng phải hình ảnh Thượng Đế là nam thì đúng hơn. Nhưng cũng chính vì vậy mà Cha càng thấy nhân cơ hội này phá mê phá chấp, mở trí thêm cho chúng con, để chúng con có một quan niệm sáng suốt rộng rãi hơn về Thượng Đế. Vì con phải hiểu Thượng Đế vô cùng tận. Ngài là nam, Ngài là nữ, mà cũng không nam, không nữ. Ngài là một khối hào quang vô cực vô biên, không hình tướng. Con cho Ngài có hình tướng nào cũng được! Hình dung Ngài phải là nam thì Ngài là nam, nghĩ Ngài là nữ thì Ngài là nữ. Con phải thấy Ngài ở mọi trạng thái và ở mọi hình ảnh, như vậy con mới hiểu Thượng Đế hơn. Tại sao Thượng Đế không là nữ được con? Con phải
hiểu từ nguyên lý Thái Cực phân định ra Lưỡng Nghi, có âm có dương, rồi phân tán ra vạn triệu, rồi vạn triệu quay về có một, một này lại sẽ hườn hư thôi con! Nhứt bản tán vạn thù, vạn thù quy nhứt bản. Con phải hiểu Cha nắm cả guồng máy âm dương. Cha là âm, là dương, và không âm, không dương cùng một lúc.
...Cha đã sử dụng tất cả phương tiện, từ trược tới thanh để giúp chúng con học hỏi tiến hóa. Bây giờ thử đặt vấn đề: cái gì giúp phần hồn chúng con thăng hoa đi lên? Có phải chăng là cái đẹp, sự thiện lành, sự sáng suốt? Cái gì trì kéo chúng con xuống? Có phải chăng sự xấu xa ác trược, sự ngu muội? Thì cái lực tốt lành sáng suốt tác động kéo chúng con đi lên cũng là Cha và cái lực ác trược ngu muội trì chúng con xuống cũng do Cha đó thôi! Đây là những phương tiện hỗ trợ một cách hữu hiệu cho linh hồn chúng con học hỏi. Phải chăng nhờ hai cái lực kích động, phản động này nó đối kháng, chống báng lẫn nhau luôn mà linh hồn chúng con mới có điều kiện để học hỏi và tiến hóa? Vì, linh hồn con, khi tách rời Đại Hồn Cha xuống thế, chỉ là thực hiện sứ mạng: “Đi học để tiến hóa”. Thế nên, trong chu trình tiến hóa của nó, nó phải học hết đủ bài, học cả ác lẫn thiện, học cả trược lẫn thanh, học cả cái xấu lẫn cái đẹp. Nhờ đó, mà nếm đủ kinh nghiệm để sau cùng trở về hợp nhứt với Thượng Đế, làm một Đấng Toàn Giác Toàn Năng, biết cả ác lẫn thiện, biết cả trược lẫn thanh, và rồi biết sử dụng cái ác, cái thiện, cái trược, cái thanh cho mục tiêu tiến hóa không ngừng của càn khôn vũ trụ, trong sự minh triết vô cùng của Đấng Toàn Năng Toàn Giác. Trải qua bao kiếp luân hồi trong chu trình học hỏi tiến hóa của linh hồn, hai lực trược và thanh này, sẽ đối kháng lẫn nhau luôn luôn để hiến những cơ hội cho con người học hỏi. Sự đối kháng đó sẽ tạo điều kiện để trui rèn, nhồi nắn linh hồn, giúp phần hồn nếm, chứng nghiệm, để càng lúc càng phong phú, càng hiểu biết hơn. Cho nên, khi một linh hồn còn khờ, còn yếu
đuối, còn ngu muội, nó dễ bị hấp dẫn, ngã vào sự ngu muội ác trược để tưởng nghĩ và hành động điều ác trược. Đã hướng về sự ác trược, muốn sự ác trược, tưởng và làm điều sái quấy ác trược, thì sự ác trược sẽ kéo đến chiếu cố nó, tác động dội ngược lại nó, và khảo đảo nó theo định luật vật lý. Đó là điều mà các tôn giáo gọi là “Nghiệp Quả”, gieo nhơn đắng gặp quả đắng là vậy. Và linh hồn làm những điều sái quấy phải chịu tác động của luật nhân quả để trả quả, bị nhồi quả, do vậy, phải gặp nhiều đắng cay, đau khổ, nghịch cảnh, khảo đảo, trầm luân...Trong khi linh hồn phải trả nghiệp vì những sái quấy của nó chính là lúc mà nó được học hỏi. Vì những cay đắng đau khổ đều là những bài học quý báu để huấn luyện linh hồn. Có khi, trong lúc chịu quả báo, linh hồn đau khổ oằn oại, và rồi lại phạm thêm nhiều sái quấy tội lỗi khác. Thế là linh hồn vì sự ngu muội, đã kéo thêm những đau khổ mới đến khảo đảo nó, bắt nó tiếp tục trầm luân trên con đường ác đạo tối tăm, có khi cả bao nhiêu kiếp như vậy... Nhưng rồi cái lực tốt lành trong thiên nhiên sẽ can thiệp để cứu giúp nó và kéo nó đi lên. Lực này sẽ tác động một cách âm thầm trải qua nhiều kiếp sống ngụp lặn trong ác trược đau khổ tối tăm của linh hồn, để cuối cùng ảnh hưởng được nó. Rồi một lúc nào, linh hồn bắt đầu nhận ra dần dần những sai lầm sái quấy của nó, để biết sợ làm dữ gặp dữ, sợ luật báo ứng nhân quả để rán tránh điều sái quấy và từ từ vươn lên hướng đến sự tốt lành. Cha tạm giảng câu hỏi trên một cách tổng quát như vậy.
...Cha cho con rõ, ác cũng là Cha, mà thiện cũng Cha. Con nên nhớ, ông Trời là Đấng Toàn Giác Toàn Năng. Đã là toàn giác, toàn năng thì phải có cả ác lẫn thiện. Ông biết thiện mà không biết ác, tức là có chỗ chưa biết. Có chỗ chưa biết sao gọi là toàn giác? Ông chỉ làm điều thiện mà chẳng biết điều ác là có chỗ chưa làm. Có chỗ chưa làm sao gọi là toàn năng? Cho nên Thượng Đế phải thiện mà ác luôn! Và ông Trời thiện nhất càn khôn, mà cũng ác nhất càn khôn! Trong càn khôn này không ai ác bằng Thượng Đế! Nhưng rồi Thượng Đế vừa đại ác, vừa là Đấng Toàn Giác nên Ngài biết sử dụng cái ác cho mục tiêu đại từ bi. Tại sao đại từ bi con? Vì con phải hiểu, tất cả những cảnh khổ, những thảm kịch diễn bày dưới trần gian đều nằm trong định luật tiến hóa của vũ trụ. Phải cần thiết có những cảnh đó. Những cảnh đau thương, giết chóc, máu lệ dưới hồng trần đều cần thiết cho bánh xe tiến hóa vận chuyển. Thử hỏi không có những cơ khổ này làm sao các con có bài để học hỏi? Cha đã nói với các con, Cha chiết Đại Hồn của Cha thành những Tiểu Hồn, cho chúng con xuống thế để học hỏi. Tuân theo định luật tiến hóa, Tiểu Hồn con từ trên thanh nhẹ xuống cõi nặng nề để đi học. Đã đi học thì phải nếm, phải chứng nghiệm, chứng nghiệm đủ thứ, nếm đủ mùi, nếm vui rồi phải nếm khổ, nếm ngọt rồi phải nếm đắng luôn. Phải nếm hết, chứng nghiệm hết để biết chứ con! Tiểu Hồn Cha xuống tới cõi trần trọng trược để học hỏi, đầu tiên học trược học làm điều ác trược sái quấy, rồi bị khảo đảo bởi sự sái quấy của nó theo luật nhân quả. Nhờ trong khi chịu khảo đảo, bị đau khổ để trả nợ những gì nó vay, chịu trách nhiệm những gì nó làm, bị đọa đày đắng cay trong thử thách gian truân khổ nhục. Tiểu Hồn Cha sẽ có cơ hội học hỏi, nếm đủ mùi, đủ vị, học đủ bài, được luật nhân quả giũa mài, trui rèn dần dần để hiểu biết dần dần, phong phú dần dần cho tới khi đủ già dặn để chán cảnh hồng trần giả tạm, chán cảnh nặng nề để tìm về cảnh nhẹ nhàng sáng suốt. Vì Tiểu Hồn Cha qua bao thử thách đắng cay, tới một lúc nào trong chu kỳ tiến hóa của nó, nó sẽ từ từ cảm nhận được định luật thiên nhiên, luật nhơn quả, luật tiến hóa không ngừng của vũ trụ để phăng lần, dò mối, cho tới khi thật sự bừng tỉnh cơn mê trầm ở cõi trần gian, giác ngộ được mục tiêu tối hậu của nó, để quyết định tìm về chốn cũ nơi nó đã ra đi. Cho nên, xuống đây, Tiểu Hồn Cha phải trầm luân ngụp lặn trong bể trần ai để học hỏi. Linh hồn phải đối diện với bao đau khổ, phải chứng nghiệm những cảnh máu lệ, đói rách, giết chóc, khổ nạn, thiên tai địa ách để hiểu biết mà tiến hóa. Vì vậy, tất cả những cảnh khảo đảo dưới trần gian, có khi có Cơ Sát Phạt, cơ chết chóc hàng vạn triệu con người. Cái này ác, đúng vậy. Các con trách Trời sao sanh con người ra rồi sắp bày chi những bi kịch đó, những thảm trạng
đó, thật tàn ác và phi lý! Nhưng con ơi, những thứ đó cần thiết con, cần thiết cho Cơ Tiến Hóa, cho định luật vận chuyển của càn khôn. Nếu không có những sự kiện này, Tiểu Hồn Cha lấy gì học, có gì để chứng nghiệm, để hiểu biết mọi chua, cay, mặn, đắng, ngọt, bùi, để nhìn mọi cảnh sắc xấu đẹp trong mọi khía cạnh dị biệt của trần gian? Các con hãy hình dung, nếu Tiểu Hồn con không học, không nếm, để hiểu biết thì không thể tiến hóa được. Khi các con không thể tiến hóa được thì định luật tiến hóa không vận hành được. Định luật tiến hóa không vận hành, có nghĩa là càn khôn không được tiến hóa. Khi có việc đó thì sự kiện gì sẽ xảy ra? Đấy là cơ hủy diệt của càn khôn đó vậy. Thế nên, muốn càn khôn này khỏi thảm họa hủy diệt, Cha phải đại ác. Cái đại ác của Cha cần thiết cho sự tiến hóa, cho sự sống còn của càn khôn! Vậy phải chăng cái đại ác này là đại từ bi? Và phải chăng vì Cha đại từ bi nên Cha phải đại ác không con? Điều đại ác sử dụng trong cái minh triết vô cùng của Đấng Toàn Giác sẽ thành điều đại từ bi đó con! Con phải biết, ác đúng lúc là thiện, thiện không đúng lúc là ác đó thôi. Và rồi, chỉ có Đấng Toàn Giác mới biết sử dụng cái ác trong minh triết vô lượng để nó trở nên thiện lành vậy.
Tạm thời post vài đoạn như thế, nếu arixtot và các bạn khác chịu khó đọc rồi cho nhận xét thì cuộc thảo luận sẽ lý thú hơn nhiều đấy.
Mong
KTG
Trên Giao Điểm đầy những bài này để chống lại Thiên Chúa Giáo hơn là nghiên cứu.
BX
Một câu chuyện thiền
Chén trà
Lời bình
Nan-in, một thiền sư Nhật bản dưới thời Minh Trị (1868-1912), ngày kia tiếp một giáo sư đại học đến hỏi Thiền.
Nan-in pha trà, ông rót trà đầy chén của khách, rồi vẫn tiếp tục rót.
Vị giáo sư nhìn nước trà chảy ra ngoài cho đến khi ông không thể tự kiềm chế được nữa bèn nói: "Chén đầy rồi !"
Nan-in trả lời: "Như chén trà kia, trí ngài đầy cả những ý tưởng, những suy luận thuần lý riêng tư. Làm thế nào tôi có thể chỉ Thiền cho ngài, trừ phi ngài đã đổ sạch trà trong cốc của ngài ra ?" (*)
Lời bình của Tung Sơn
Một bạn đọc lời bàn bạc thô thiển và quê mùa của ta xong trách: "Lối bàn của bác thiếu tôn kính. Đối với ngôn từ của những bậc cao minh hiền giả ngày xưa, làm sao bác lại dám đùa cợt, phê bình phóng túng như vậy ?"
Ta ngửa mặt nhìn trời cười to mà không nói, không phải vì học đòi các vị thiền sư, nhưng vì thấy người đang giận, sợ trả lời ngay thì đâm ra cãi vả vô ích.
Ôi! ta nghĩ chuyện thiền là những thí dụ điển hình, có thể dùng làm khởi điểm để suy nghĩ về một số vấn đề căn bản ở đời, và tuyệt nhiên không có tính cách thần bí, linh thiêng. Thế thì bổn phận của người bàn không phải là tán dương suông, không phải là thổi vào rún các vị thiền sư để những chiếc bụng xẹp lép vì ăn uống thanh đạm của các ngài phùng to một cách không đẹp và vô ích.
Ôi mọi chuyện ngụ ngôn đều hạn chế và diễn tả một chân lý tương đối. Khư khư bám chặt vào chúng là một chuyện khôi hài vậy. Cho nên khi tuyên bố "Ta vốn không nói lời nào" (ngã bổn vô ngôn), đã đành đức Phật muốn nói là những điều Người đã dạy cho đệ tử không đáng kể gì so với những điều Người chứng ngộ, nhưng một đàng người cũng muốn ngăn ngừa tinh thần giáo điều chấp chặt vào kinh điển, trở ngại lớn lao cho hạnh tinh tấn.
Chuyện thiền trên đây nhằm đả kích chủ nghĩa giáo điều hẹp hòi và tinh thần cố chấp thường gặp ở những người trí thức vậy.
Ôi! cũng như chén trà đầy nước, một khi chúng ta đã nô lệ thành kiến, giáo điều rồi thì làm sao chúng ta có thể đối thoại một cách hữu ích với người khác.
Nhưng có người sẽ hỏi: "Câu nói của vị thiền sư há không thể ứng dụng cho chính ông ta hay sao? Dựa vào đâu mà ông cho là những tư tưởng của chính ông là đúng? Và liệu thiền sư lại không phải đổ sạch trà ra khỏi chén của ông ta sao?"
Câu hỏi hoàn toàn chí lý và chính đáng. Câu nói của vị thiền sư cần phải được xem như là lời cảnh cáo cần thiết cho một cuộc đối thoại đích thực nghĩa là một cuộc đối thoại nhằm đi tìm sự thực, trên cơ sở luận lý.
Chính vì vậy mà đạo Phật đề cao tinh thần phá chấp và hỉ xả: không bám chặt những tư tưởng của riêng mình và luôn luôn hoan hỉ đón nhận những tư tưởng đúng đắn, tốt đẹp của người khác.
Do đó, yêu cầu mà vị thiền sư đặt ra cho khách, ngài vẫn thường xuyên đặt ra cho chính mình nếu ngài không chối bỏ tinh thần hỉ xả mà bất cứ người Phật tử chân chính nào cũng phải thực hành. Hình ảnh chiếc chén không, như vậy, diễn tả tinh thần hỉ xả, sẵn sàng chấp nhận chân lý bất cứ đến từ đâu.
Và những kẻ ăn nói hồ đồ, không dám nhìn sự thực và lý luận trên những dữ kiện khách quan đúng đắn, chỉ đáng làm trò cười cho thiên hạ vậy.
Tung Sơn
(*) Dịch thoát theo quyển "101 chuyện Thiền" ("Zen flesh, Zen bones") do Paul Reps soạn.