Các bạn gặp sự cố về vấn đề ta ma ác quỷ tôi có thể tư vấn và giải quyết giúp
Printable View
Các bạn gặp sự cố về vấn đề ta ma ác quỷ tôi có thể tư vấn và giải quyết giúp
thế giúp như nào nói rỏ mọi người biết với thầy ơi !
e nghi ngờ mình bị ma nữ theo đuổi,có thể giúp e qua đt ko thầy
Hên sui thôi.
Đang bị một con quỷ cái ám,nhờ thầy giúp đỡ
Quỷ cái đó tự bạn cởi đc mà, Sao phải nhờ đến tôi.
http://www.thegioivohinh.com/diendan...d.php?t=496453
http://www.thegioivohinh.com/diendan...d.php?t=496452
Nhờ thầy trị cho người dân nơi đây
Trên này nhiều thành phần hỗn tạp lắm, huynh phamhuuthao đừng có chấp tụi nóa làm gì ^^
Gửi bạn: Anhtuan 0409.
Vị tri người dân bị nạn chụp hình ở phần bờ nên ko nhìn đc tại nạn xuất phát do nguyên nhân gì gây lên. Chỉ nhìn thấy ngừoi dân xem nên ko có tác dụng.
Mấy tin đó tụi nó viết láo đó không có đâu, lại còn lôi cả Thầy Năm Hậu vào báo nữa, chém mắc cười :v
haizzz....
mời bác đến cầu hùng vương ,tỉnh phú yên trị ma quỷ gấp
Gửi các bạn trong TGVH: Mình xem thấy hay và có ích copy lên cho các bạn ưa thích phật pháp và tâm kinh bát nhã tham khảo:
Nói về Quán Tự Tại Bồ tát
Bồ tát là tiếng gọi tắt danh từ Bồ đề tát đỏa (phiên âm từ chữ Boddhisattva). Bồ đề dịch nghĩa là giác ngộ, tát đỏa dịch là hữu tình hay chúng sanh. Hai chữ ghép chung với nhau thành ra Bồ đề tát đỏa, có nghĩa là chúng sinh cầu đạo giác ngộ. Tiếng Trung Hoa dịch nghĩa Bồ đề tát đỏa là giác hữu tình, tức hữu tình hướng về giác ngộ, hoặc sắp được giác ngộ. Vì vậy bất cứ chúng sinh nào phát tâm bồ đề cầu đạo giác ngộ, đều gọi là Bồ tát. Tuy nhiên, từ cấp mới hướng về, đến cấp sắp đạt được, khoảng cách giữa hai bên thật là xa thẳm mù khơi. Trong khoảng cách ấy, có nhiều cấp bậc khác nhau. Từ những kẻ sơ phát tâm là hạng thập tín đến những bậc công hạnh sâu dày là hàng thập địa, có tất cả là 50 bậc.
Bồ tát Quán Tự Tại nói đây, ít nhất cũng từ bát địa (trong thập địa) trở lên. Thập địa của Bồ tát Đại thừa như trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh gồm 10 địa vị: 1 là Hoan hỉ địa, 2 là Ly cấu địa, 3 là Phát quang địa, 4 là Diệm tuệ địa, 5 là Cực nan thắng địa, 6 là Hiện tiền địa, 7 là Viễn hành địa, 8 là Bất động địa, 9 là Thiện tuệ địa và 10 là Pháp vân địa. Vì chỉ sau khi trải qua địa vị bất động (tức Bát địa) ở Thập địa, bấy giờ mới được tự tại. Và cũng đến cấp đó mới đương nổi công việc thượng cầu hạ hóa, nghĩa là trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sanh. Quán Tự Tại là tên riêng của đức Bồ tát này. Quán có nghĩa là xem xét. Trong lúc hành trì, hành giả lắng lòng trầm tư mặc tưởng để suy cứu đề tài tham khảo thì gọi là quán.
Quán Tự Tại, là dịch nghĩa Phạn ngữ Avalokitesùvara. Từ này gồm hai chữ ghép lại: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến hay nhìn khắp mọi phương; và isùvara có nghĩa là vị chúa tể, vì có quyền năng hành xử mọi việc một cách tự do. Vì thế, vị Bồ tát dùng pháp quán chiếu bát nhã để quan sát đối tượng đương thể tức không, không bị chướng ngại bởi các yếu tố giả hợp tạo nên các ảo tượng của đương thể, gọi là Bồ tát Quán Tự Tại. Giống như trường hợp một vị Bồ tát chuyên tu hạnh Không mong khởi tâm khinh mạn bất cứ ai, dù đó là kẻ ngu hèn thấp kém nhất trong xã hội, đó là Bồ tát Thường Bất Khinh. Theo công hạnh riêng mà đặt tên, đó là công lệ chung trong Phật giáo Ðại thừa.
Do vì công hạnh riêng mà đặt tên, Cho nên, Bồ tát Quán Tự Tại còn có nghĩa là Bồ tát Quán Thế Âm vì quán chiếu được mọi âm thanh trên cõi thế. Theo truyền thống Trung Hoa, Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát được thờ phụng phổ biến nhất tại phương Ðông, với công hạnh quan sát nghe thấy tất cả những tiếng kêu cứu của chúng sinh trên cõi ta bà này. Lời tụng “Nam mô Ðại từ Ðại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát”, là lời khấn cầu vị bồ tát này mà tất cả Phật tử đều khấn vái hằng ngày. Phẩm Phổ môn thuộc kinh Pháp hoa là phẩm dành riêng để xưng tán đức Bồ tát Quán Thế Âm trong công phu nhật tụng triêu mộ cho cả hai giới xuất gia và tại gia.
Các ngài Pháp Hiền (du hành những năm 399 - 413) Huyền Trang (du hành những năm 629 - 645) và Nghĩa Tịnh (du hành những năm 671 - 695) sang Ấn Độ về, đều có ghi lại trong các quyển Phật Quốc ký, Ðại Ðường Tây Vực ký và Nam Hải ký quy nội pháp truyện nhận xét của các ngài là Bồ tát Quán Thế Âm rất được tôn thờ ở tất cả mọi nơi mà dấu chân các ngài trải qua, từ Tây Tạng, Nepal, ngay cả Ấn Ðộ. Bắt đầu khoảng thế kỷ thứ nhất là đã được dân gian sùng bái, cho đến thế kỷ thứ bảy là thịnh hành nhất. Bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm hiện thân nam, tượng thờ đứng, một mặt hai tay; hoặc ngồi trên tòa sen một mặt hai tay hoặc sáu tay, đôi khi từ mười tay đến hai mươi tay. Biểu tượng của ngài là tràng hạt (màlà) và hoa sen (padma). Mantra (tức Mạn trà) tức chú xưng tán ngài là Om, mani padme, hùm. Ðến vào khoảng thế kỷ XII trở đi thì Bồ tát Quán Thế Âm được sùng bái với tượng thân nữ và tôn thờ là Bồ tát Quán Thế Âm, tại Trung Hoa cũng như tại Việt Nam. Từ đây, Bồ tát Quán Thế Âm còn có các tên khác như Tống Tử Quan Âm, Quan Âm Diệu Thiện, hay Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm (Nghìn mắt nghìn tay), Bạch Y Quan Âm, Tử Trúc Quan Âm, Quan Âm Quá Hải, đều rất phổ biến trong dân gian.
Bồ tát Quán Tự Tại, do vì quán sát thấy rằng “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc...” tất cả là hai mà chẳng phải hai, Cho nên, ngài còn là biểu tượng của Bồ tát Bất Nhị, Trí tuệ Bát nhã là công đức mà ngài hành trì, Cho nên, ngài cũng là Bồ tát Bát Nhã.
Tất cả các truyền thống đều tin rằng nơi ngự của Bồ tát là đỉnh núi Potala. Pháp sư Huyền Trang ghi rằng đức Quán Thế Âm xuất hiện trên đỉnh Potala ở miền Nam Ấn. Tự viện của Ðạt Lai Lạt Ma ở Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, cũng được gọi là Potala, vì Mật giáo Tây Tạng tin rằng Bồ tát là chúa tể của thế giới chúng ta, mà Ðạt Lai là hóa thân của người. Quần đảo Châu Sơn, ngoài khơi Triết Giang, gần Ninh Ba (Ningpo) ở Trung Quốc, nơi Đức Quán Thế Âm rất được sùng bái, còn được gọi là P'u t’o, tức Phổ Ðà. Dân gian còn truyền tụng rằng núi Phổ Ðà ở ngoài khơi Nam Hải là nơi Quán Thế Âm thường ngự.
+ Tiếp theo : Hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời dịch nghĩa là Sau khi hành trì sâu vào pháp Bát nhã Ba la mật đa hay là Sau khi đi sâu vào trí tuệ Bát Nhã
Sáu chữ Bát nhã Ba la mật đa đã nói rõ ở phần trên. Đó là pháp tu dùng trí tuệ siêu việt, trí tuệ Bát nhã sâu xa và vi diệu. Thâm là sâu xa, ý nói rằng trí tuệ Bát nhã Ba la mật đa là sâu xa vi diệu, không dễ gì thể nhập mà đòi hỏi một quá trình hạ thủ công phu hành trì một cách thâm sâu. Hành có nghĩa là hành trì, tức là tu tập và thực hành. Cần nhắc lại là trí tuệ Bát nhã không do cái học mang lại mà phải do công phu hành trì mới tựu thành, nên nói là hành. Vì do sâu xa vi diệu, nên Bát nhã Ba la mật đa đòi hỏi phải công phu tu hành mới tựu thành, chứ không phải một cái gì có thể tự nhiên mà có.
+ Tiếp theo : Chiếu kiến ngũ uẩn giai không có nghĩa là :Soi thấy năm uẩn đều không.
Chiếu kiến là soi thấy, là ý nghĩa vi diệu của quán chiếu Bát nhã. Nói soi thấy, tức tự mình trực tiếp thấy rõ, như người uống nước, tự mình biết rõ nước ấy nóng hay lạnh, ngọt hay mặn, không qua trung gian của khái niệm hay ngữ ngôn văn tự.
Ngũ uẩn là năm uẩn, là năm nhóm họp thành một chúng sanh, tức là một con người. Chữ uẩn là do ngài Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn, tiếng Phạn là Skandha, phiên âm là Kiện đà. Ngài Cưu Ma La Thập dịch là ấm với nghĩa là che phủ. Các dịch giả về trước nữa thì dịch là chúng, nghĩa là tập họp nhiều yếu tố lại. Sản phẩm do năm chúng, tức năm uẩn giả hợp lại mà thành thì gọi là chúng sinh. Vì vậy nói cho dễ hiểu, khi nói đến tập họp của năm uẩn tức chỉ con người; con người là sản phẩm của năm uẩn.
Ngũ uẩn gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Sắc uẩn gồm có năm căn và sáu trần. Năm căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tức là con mắt, lỗ tai, lố mũi, cái lưỡi, thân thể. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc uẩn chỉ nhóm vật chất bao gồm bốn thành tố gọi là bốn đại, tức đất, nước, gió, lửa, tạo nên xác thân con người.
Thọ uẩn. Thọ là lãnh thọ. Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi thì sinh lãnh thọ. Thọ có 5 thứ là thọ khổ, thọ vui, thọ buồn, thọ mừng, thọ không vui buồn. Thọ uẩn chỉ nhóm cảm giác, bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý hạ đẳng nơi con người, cái mà con người cảm thọ được.
Tưởng uẩn. Tưởng tức là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh do sau khi tiếp xúc và lãnh thọ các cảnh của khổ vui rồi sinh ra tưởng nhớ. Tưởng uẩn, chỉ nhóm suy tư bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý cao cấp, cái mà con người tưởng đến được.
Hành uẩn. Hành là sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm. Hành uẩn chỉ nhóm ý chí bao gồm những sinh hoạt và hoạt động có tính chất bản năng và ý chí. Hành là dấu vết của nghiệp cũ đang tạo tác và dìu kéo các sinh hoạt hạ đẳng và cao cấp nơi con người, đấy là loại ý chí mù quáng. Chính vì vậy, nó đóng một vai trò quyết định trong suốt đời người
Thức uẩn. Thức là hiểu biết phân biệt có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức chia ra làm 8 loại: nhãn thức là cái biết của mắt, nhĩ thức là cái biết của tai, tỷ thức là cái biết của mũi, thiệt thức là cái biết của lưỡi, thân thức là cái biết của thân xác, ý thức là cái biết của ý, mạc na thức và a lại da thức. Thức uẩn chỉ nhóm tri giác bao gồm mọi kiến thức trong việc nhận diện sự vật bên trong và bên ngoài con người.
Trong số năm uẩn vừa nêu, sắc uẩn thuộc sắc pháp, bốn uẩn kia thuộc tâm pháp. Sắc và tâm hòa hợp tạo nên con người, mệnh danh là thân năm uẩn.
Phật giáo trong các bộ kinh được gọi là nguyên thủy đã trịnh trọng xác nhận tính chất vô ngã của tập hợp năm uẩn này rồi. Riêng từng uẩn có vô ngã hay không, Tiểu thừa chưa xác nhân, nên đó là đối tượng khảo sát của trường phái Bát nhã Đại thừa. Theo trường phái này, không một uẩn nào trong năm uẩn là có tự thể hay thực thể, không có tự thể tức là vô ngã. Tập hợp của năm uẩn là vô ngã, tức nhân không; từng uẩn một trong tập hợp ấy cũng vô ngã, tức pháp không. Cả nhân lẫn pháp đều không, vì vậy nói là giai không, đó là nội dung trong nghĩa tính không của Bát nhã.
Giai không: Không ở đây phải hiểu là không có tự thể, là tính không tự thể của mọi sự vật hiện tượng, không phải là không ngược với có, mà cũng không phải là thủ tiêu hết các vật hữu tình mà nói là không. Mà với cái không đây là bản tính thanh tịnh không có các hình tướng, nó vẳng lặng trong xuốt, thuật ngữ Phật giáo gọi cái không ấy là Tính không.
Trong thân năm uẩn ấy, các thần giáo Ấn Ðộ cho rằng có một thần ngã (atman) ngự trị bên trong bất di bất dịch, không chịu sự chi phối của vô thường, cái thần ngã ấy là cố định. Nhưng Phật giáo vốn xây dựng trên lý duyên khởi, triệt để đánh ngã cái lý thuyết thần ngã ấy. Giáo lý vô ngã là câu trả lời đanh thép của thuyết có thần ngã vừa nói. Về sau, giáo lý vô ngã tuy càng ngày càng thêm bền gốc chắc rễ, nhưng lại bị hạn chế trong phạm vi của lý thuyết nhân vô ngã. Ðến lúc Ðại thừa xuất hiện với giáo nghĩa Bát nhã, thì vô ngã mới bao trùm lên hết thảy các pháp, tức là bao trùm lên toàn bộ sự vật, hiện tượng, hữu tình và vô tình, đó là pháp vô ngã.
Vì sao vậy? Vì do hàng Thanh Văn và Duyên Giác tu theo pháp Tứ Diệu Đế và Thập nhị nhân duyên nên mới chỉ phá được cái chấp vô ngã ở thân năm uẩn, đó là nhân vô ngã, chưa phá được cái chấp vô ngã thuộc về từng uẩn trong năm uẩn, tức là cũng chưa phá được cái chấp vô ngã ở các pháp tức pháp vô ngã. Chỉ đến khi hàng Bồ tát phát triển giáo nghĩa Bát Nhã, hành trì với pháp Lục độ ba la mật, dùng trí tuệ Bát Nhã quán chiếu mới phá được cả nhân và pháp đều không, nghĩa là cả nhân vô ngã và pháp vô ngã, vì vậy mới nói là năm uẩn đều không, tức nói ngũ uẩn giai không.
Tóm lại tất cả sự vật trong vũ trụ không ngoài thế giới và chúng sinh, không ngoài ngũ uẩn. Thế giới chúng sinh không ngoài sắc (vật chất) và tâm (tinh thần). Bới thể nên nói thế giới đều không, không có tự thể, tức là nói thế giới và chúng sinh hay tất cả sự vật trong vũ trụ đều không. Ngũ uẩn giai không là như vậy
Ðoạn kinh trên nói tới việc năm uẩn đều không, bởi vì vô ngã cả nhân lẫn pháp chính là nội dung của giáo nghĩa Tính không Bát nhã trong Bát Nhã Tâm Kinh. Với giáo nghĩa Tính không, thuyết vô ngã như một trong hai hệ luận của duyên khởi, đã được triển khai, thuyết minh đến mức tận cùng của nó. Vì thế có thể nói học thuyết Tính không chính là Vô Ngã và Vô thường vậy. Thuyết vô ngã này không phải thuần túy là một khái niệm triết học tinh túy, mà còn thể hiện một thực tế sống động tựu thành nhờ pháp trực quán tổng hợp, nghĩa là bằng hành trì mà chứng đắc.
+ Tiếp theo : Ðộ nhất thiết khổ ách có nghĩa là :Vượt qua tất cả các khổ ách. Khổ ách có ba loại gồm: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khổ: Đây là loại khổ thứ nhất do chính thân tâm tạo ra gồm có tám thứ khổ là sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ tức thương yêu mà phải chia lìa, cầu bất đăc khổ tức là mong cầu mà không đạt được, oán tắng hội khổ tức là oán ghét mà phải gặp mặt và ngũ uẩn xí thạnh khổ, tức là khổ do năm uẩn sinh ra tức là do sắc, thọ tưởng, hành thức sinh ra. Toàn bộ tất cả những cái đó là loại khổ thứ nhất mà trong kinh Phật gọi là khổ khổ.
- Hoại khổ: Là loại khổ ách thứ hai do thiên nhiên mang lại như các loại thiên tai do bão lụt, gió mưa, nắng hạn, núi lửa, động đất, sóng thần….
- Hành khổ: Là loại khổ thứ ba là khổ do xã hội tạo ra như bóc lột, giai cấp xung đột, chế độ hà khắc, chiến tranh, khủng bố….
Tất cả những loại khổ ách này, nhờ hành trì Bát nhã Ba la mật đa, hành giả có thể vượt qua chúng một cách dễ dàng. Vượt qua có nghĩa là không còn bị chúng chi phối, làm cho đau đớn, phiền não.
Tóm lại, đoạn này nói rằng Bồ tát Quán Tự Tại khi hành trì Bát nhã Ba la mật đa một cách sâu xa thì soi thấy năm uẩn hợp thành thế giới và chúng sinh, hợp thành mọi sự vật trong vũ trụ, không một uẩn nào là có tự thể, tất cả đều là không, nhờ đó mà giác ngộ tính không và giải thoát tất cả mọi ách khổ đau. Do tất cả chúng sinh vì mê bản thể chân tâm thanh tịnh của mình nên vọng niệm cho rằng tất cả các cảnh là thật, khởi ra tham sân si, tạo đủ các nghiệp, nên phải sinh tử luân hồi rồi chịu đủ điều khổ sở. Bồ tát dùng trí tuệ Bát Nhã thấy rõ các pháp, thế giới chúng sinh đều không, do vậy Bồ tát không còn các khổ do vô minh vọng tưởng gây ra, nên vượt qua tất cả các khổ ách, đoạn nhất thiết khổ ách là vì vậy.
Chỉ trong một đoạn này thôi, tất cả yếu lý căn bản của Bát nhã đã được trình bày đầy đủ. Các đoạn tiếp theo chỉ để triển khai yếu lý ấy về cả hai mặt triết học và đạo học.
ây giờ ta tìm hiểu ý nghĩa của từng từ một :
+ Ma Ha (Mahà), chứ Hán dịch là đại (lớn), đa (nhiều). Thông thường người ta thường bỏ hai chữ Ma Ha này .
+ Bát Nhã (Prajnà), chữ Phạn này có nhiều nghĩa như viễn ly (xa lìa mộng tưởng), minh (sáng tỏ), trí, tuệ, trí tuệ, thanh tịnh (trong sach, không nhiễm ô). Vì có nhiều nghĩa như vậy, nên trong những nghĩa đó thì chữ trí tuệ, như trên đã nói là gần với nghĩa Bát Nhã nhất. Nhưng vì trong Hoa ngữ không có một từ ngữ nào tương đương với từ Bát nhã trong tiếng Phạn nên về sau người ta bắt buộc phải tạo từ mới bằng cách ghép thêm chữ không vào để tăng cường và xác định ý nghĩa của từ tuệ và trí và ta có không tuệ và không trí. Không ở đây không phải là không ngược với có mà chữ không biểu thị sự trống rỗng, vắng lặng, siêu việt. Nhưng dù có dùng thêm chữ không cũng vẫn chưa lột hết ý nghĩa hàm ẩn trong danh từ Bát nhã (Prajnà) của chữ Phạn, nên người ta vẫn dùng nguyên chữ Bát Nhã. Nghĩa gốc của Bát nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, trí tuệ của Bồ tát đại thừa, phát sinh từ công hạnh tu hành theo pháp quán không mà chứng đắc. Ðây là loại trí tuệ thanh tịnh của chư Phật vừa rỗng lặng vừa soi suốt, nhờ đó mà quán chiếu được thật tướng của các pháp và thấy rõ các pháp là không có tự tính, một loại trí tuệ thần thông tự tại, biết rõ được quá khứ và vị lai. Ðây không phải là loại trí tuệ thông thường mà nhà Phật gọi là thế trí biện thông, cũng không phải là trí tuệ ngoại đạo hay trí tuệ Nhị thừa chỉ thấy được ngã không chân như, chứ không thấy được pháp không chân như. Vì thế để tránh mọi ngộ nhận vô tình hay cố ý, văn học Phật giáo Trung Quốc buộc lòng phải dùng y nguyên tiếng Phạn là Bát Nhã với những chú giải kèm theo.
Cần phải hiểu rằng: Trong kinh luận chia Bát nhã thành ba loại: văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã và thật tướng Bát nhã.
Do theo văn tự ghi chép trong kinh luận hay do nghe diễn giảng về giáo nghĩa Bát nhã mà phát sinh trí tuệ, rồi nhờ đó mà thấu rõ nghĩa văn, không bị chướng ngại, trí tuệ ấy gọi là văn tự Bát nhã. Nó cũng được gọi là phương tiện Bát nhã, nghĩa là thứ trí tuệ do phương tiện của ngôn ngữ văn tự mà phát sinh.
Tiến lên một bước nữa, do dựa theo các khái niệm đã lĩnh hội được để suy tư quán sát thật tướng các pháp, rời bỏ tướng ngữ ngôn văn tự, trong lúc tâm hành như thế mà thật tướng các pháp tự phơi bày ra dưới sự xem xét của trí tuệ thì gọi là quán chiếu Bát nhã.
Từ sự quán chiếu ấy, gia công hành trì quán sát đến một mức thâm sâu nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn đến độ nhất cử nhất động, cứ thế tiến mãi cho đến khi rủ bỏ hết tất cả các tướng phân biệt, tâm niệm bỗng nhiên bừng sáng chói, hòa đồng và trùm khắp tất cả, không còn ranh giới giữa bỉ thử, nhân ngã, nội ngoại, thị phi (này, kia; anh, tôi; trong ngoài; đúng sai). Pháp tính chân thật như tự hiện bày thì cái trí tuệ bát nhã sáng chói ấy gọi là thật tướng Bát nhã, cũng gọi là căn bản Bát nhã.
Vì vậy, văn tự Bát Nhã chỉ được xem như một loại trí tuệ phương tiện giúp soi đường cho hành giả trên tiến trình tu tập quán chiếu Bát Nhã, nhằm khai thông thật tướng Bát nhã để bước lên bờ bên kia là giải thoát, giác ngộ.
+ Ba La Mật Đa chữ Phạn là Pàramità. Từ ngữ này Ngài Cưu Ma La Thập (344 – 413), vị cao tăng người Ân Độ sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ IV, phiên âm là Ba La Mật và dịch nghĩa là độ tức là đưa qua sông, sang sông, hay còn dịch là đáo bỉ ngạn tức là đến bờ bên kia. Ðộ hay đáo bỉ ngạn đều chỉ là những từ ngữ dùng để nói lên sự giải thoát khổ đau. Cõi sinh tử mà chúng sinh đang trôi lăn được xem như bờ bên này, thì bờ bên kia được ví với Niết bàn, ở đó chúng sinh được thoát ra ngoài vòng sinh tử. Ngăn cách giữa hai bờ là con sông phiền não. Vượt sông phiền não tức đến Niết bàn. Vì vậy, bờ bên kia nguyên là từ ngữ ngầm chỉ cho Niết bàn. Với sự xuất hiện của Ðại thừa mà mở đầu là Bát Nhã, con sông ngăn cách không phải chỉ có phiền não mà thôi, nó còn là con sông mê lầm nữa. Cho nên, bờ bên kia vừa là bờ giải thoát (Niết bàn) vừa là bờ giác ngộ (Bồ đề).
Ðể đạt được đến bờ bên kia, phải tu theo sáu pháp ba la mật. Sáu ba la mật gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (tức trí tuệ Bát Nhã). Hành trì bất cứ pháp nào trong sáu pháp ấy cũng đều đạt kết quả mong muốn là bước lên bờ bên kia. Phật giáo Ðại thừa xem nặng về quả vị giác ngộ hơn. Cho nên, Bát nhã Ba la mật tức Trí tuệ Ba la mật được xem như pháp tu đứng hàng đầu trong số sáu ba la mật. Theo Ðại thừa, Niết bàn còn có nghĩa viên tịch. Tịch tức tịch diệt còn viên tức thành tựu viên mãn cả phúc lẫn tuệ. Nếu thành tựu được Vô thượng Bồ đề thì viên mãn cả hai phúc và tuệ mà giải thoát. Như vậy, với Ðại thừa, bờ bên kia có nghĩa là bờ giác ngộ. Có biết như thế thì mới hiểu được vì sao cùng theo một pháp tu Bát Nhã ba la mật đa, nhưng chư Phật thì chứng đắc Vô thượng Bồ đề, còn Bồ tát thì đang trên con đường hướng đến Niết bàn, không còn vọng niệm chi phối nữa.
Tóm lại, Bát Nhã Ba La Mật Đa nghĩa là Pháp tu dùng trí tuệ siêu việt để qua bờ giác ngộ ở bên kia sông mê. Nội dung của pháp tu này là Quán chiếu Bát Nhã.
+ Tâm có nhiều nghĩa nhưng chữ Tâm trong tiêu đề kinh này có nghĩa là trung tâm, là cốt lõi, là toát yếu, là cô đặc và người xưa gọi là lòng ruột. Thông thường người đời cho rằng tinh túy của sự vật nằm ngay trong lòng của nó. Với con người cũng vậy, đứng về mặt sinh lý mà nói, máu huyết từ tâm tức là từ trái tim phát ra, chảy khắp thân thể để nuôi các tế bào, rồi quay về tim mà phát ra trở lại. Ðứng về mặt tâm lý mà nói, các hiện tượng tâm lý đều phát xuất từ tâm, rồi cũng trở về đó để phối kiểm lại. Vì tâm được hiểu như trung tâm, Cho nên, tất cả tinh hoa được xem như đổ dồn và tập trung về đó. Như vậy, Bát nhã Tâm kinh là bài kinh cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa Bát nhã. Ta có thể dịch Bát nhã Tâm kinh ra tiếng Việt là Kinh lòng Bát nhã như người xưa thường gọi, hay “Kinh cốt lõi Bát nhã”, “Kinh toát yếu Bát Nhã” hoặc đảo ngược lại cho hợp với ngữ pháp Việt Nam và gọi là Tâm kinh Bát nhã.
+ Kinh là danh từ dịch nghĩa Phạn ngữ sũtra, phiên âm tu đa la. Tu đa la, Trung Hoa dịch là tuyến, nghĩa là sợi chỉ, hoặc xâu với nhau.
Tu đa la so với kinh trong Hoa ngữ, hình thức cấu tạo tuy không giống nhau, nhưng nội dung hai bên giống nhau. Trong Hoa ngữ, những sách ghi chép những lời của thánh nhân truyền dạy thì gọi là kinh, vì những lời đó làm tiêu chuẩn cho muôn đời sau. Khác với sách ghi chép những lời của danh nhân, chỉ được gọi là truyện.
Ta nên biết thêm rằng lời Phật dạy gồm có hai phần: pháp (dharma phiên âm là đạt ma) và giáo (vinãya phiên âm là tỳ nại da). Cả hai đều gọi là kinh hết, vì đều do Phật dạy. Nhưng về sau lại tách thành hai phần riêng gọi là hai tạng. Cho nên, chỉ những sách ghi chép pháp mới gọi là kinh, còn những sách ghi chép giáo thì gọi là luật. Tạng ghi chép những lời chú thích biện giải của các Tổ về sau, thì được biệt lập thành một tạng riêng nữa gọi là luận. Đó là tam tạng : kinh, luật và luận. Bát nhã Tâm kinh này thuộc tạng kinh.
Tóm lại, “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” nghĩa là: bài kinh thâu tóm yếu nghĩa tinh túy cốt lõi của bộ Đại tạng kinh Đại thừa tức là bộ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, dùng pháp tu quán chiếu Bát nhã đưa hành giả lên bờ giác.ngộ Bồ
Làm sao mới biết mìh có duyên ?
Xin đừng trị ma. Tha cho em