Chủng tử bồ đề theo Mật giáo
Theo Đại nhật kinh của Mật giáo ( Maha Vairocanàbhisambodho vikurvitàdhisthana vaipulya sùtrendra vàja nàma dharma paryàya)
Thế nào là bồ đề?
- Là biết (giác) như thật về Tâm của mình.
(Chữ Tâm ở đây chính là Chơn Tâm, Tự Tánh hay Phật tánh)
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề (Anuttara samyaksambuddhi) vô thượng
Chính đẳng chính giác đó cho đến pháp ấy, dù chỉ một chút ít , cũng không thể đắc được.tại sao? Vì tướng của Hư Không là Bồ Đề, hay nói các khác Bồ Đề là vô Tướng , không có kẻ biết giải cũng không có khai mở hiểu rõ. Vì bồ đề vốn không tướng. Các pháp Vô Tướng là tướng của Hư Không.(Khi nào hành giả thể nhập được Tánh Không, đích thị thời điểm đó khả đắc bồ đề )
Vậy thì ai cầu được bồ đề? Tự Tâm ( Tự Tánh – Chơn Tâm- Phật tánh) tìm cầu Bồ đề tới Nhất Thiết Trí Trí. Vì sao? Vì Tự Tánh (Savbhava) vốn thanh tịnh (Pari’ suddha) cho nên Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa của hai bên và Tâm chẳng thể đắc được.
Tâm chẳng có màu sắc, chẳng đồng tính với Cỏi Dục, Cỏi Sắc, Cõi Vô Sắc, cũng chằng đồng với các nẻo Trời, Dạ xoa, Càn Đạt Bà, Atula, Ca lâu La, Khẩn Na La, Ma hầu la Già, Người, Phi nhân.
Tâm chẳng trụ ở Giới của lục căn nhản nhĩ tỷ thiệt thân ý, Tâm chẳng phải thấy, chẳng phải hiển hiện. Tại sao vậy? Vì tướng của Hư Không và Tâm xa lìa các phân biệt , không phân biệt.Vì sao ư? Vì Tính đồng với Hư Không tức đồng với Tâm, Tính đồng với Tâm tức đồng với Bồ đề.
Như vậy Ba thứ: Tâm (Phật tánh, tự tánh, chơn tâm), Hư Không Giới (Tính Không) , Bồ Đề Tâm vốn không khác.Từ điều nầy mà lấy Bi làm căn bản và phương tiện có đầy đủ Ba La Mật ( Paramita) đó là Phát Tâm Bồ Đề . Chính vì thế Đức Đại Nhật Như Lai Tỳ Lô Giá Na nói các pháp Như Thị khiến cho các chúng Bồ tát dùng sự thanh tịnh (Pari’suddha) của Tâm Bồ Đề để nhận biết tâm ấy.
Làm sao để tự biết Tâm ? Hãy làm như lời chư Phật dạy , hành mọi việc thiện lành xa rời mọi việc ác, giữ tâm ý thanh tịnh, tức mỗi ngày ta đã tạo ra được một giọt nước trong suốt như pha lê và nhỏ vào lu nước đục trong tự thân của ta (do nghiệp xấu từ nhiều kiếp) , để nước tràn ra lúc đầu nước lờ lợ , rồi ngày này sang tháng nọ, nước trong lu chỉ còn lại toàn nước trong, lúc đó Phật tánh hiển bày hoà hợp với Không Tánh nhất như và Tâm Bồ đề xuất hiện.
Từ lý giải nầy càng khẳng định một lần nữa , chủng tử bồ đề chính là sự thanh tịnh hằng ngày mà chúng ta tu tập có được, ví như giọt nước trong do hạt giống thiện lành mà hành giả đã tu tập và nhờ Pháp tu theo chánh pháp của Phật đà, đã chuyển hoá từ phước đức hữu lậu thành công đức vô lậu, (tức đã hồi hướng phước báu nầy cúng dường cho chư Phật, để chư Phật giúp mình chuyển cho chúng sanh của thập phương sáu đường) , còn Bồ đề Tâm lúc đó cũng chính là Chơn Tâm hay Phật Tánh đã hoà đồng với Tánh Không, lúc nầy Bồ đề Tâm còn gọi là Trí Bát nhã, điều nầy xác quyết lần nữa rằng chủng tử bồ đề không phải là Phật tánh, chủng tử nầy là duyên sinh chính để ta thấy được Phật tánh, hay Phật tánh hiển lộ, phơi bày mà thôi.Nhưng lúc đó cả ba :Bồ đề tâm , Phật tánh và Tánh không quyện nhau làm một , không sai khác, không hai,cũng không ba. Ví như ba trong một vậy. Lúc đó trí bát nhã hay Nhất thiết trí Trí phơi bày và tuệ hữu lậu sẽ chuyển biến thành tuệ vô lậu, tuệ vô lậu là không dùng ngôn ngữ để diễn đạt mà đối tượng vẫn biết vẫn hiểu, vẫn giác ngộ, lúc đó huệ trí nầy sẽ thường hằng. Đây cũng còn có thể gọi là vô sư trí, hay Ân sư chúng ta còn gọi là điển Đó cũng chính là Phật quang , vì Phật quang nầy cũng có một phần là hiện tượng vật lý do sự liên tục biến chuyển giữa hai đại lượng điện trường và từ trường, cái nầy sinh ra cái kia và ngược lại một cách liên tục và tuần tự theo thời gian, nhờ vậy mà Phật quang có thể phát đi như sóng điện từ, nhưng dù vậy nó vẫn không chỉ ở trong không gian ba chiều của chúng ta , nó không bị che chắn bởi một chướng ngại vật nào khi nó gặp, nó vượt qua mọi sự ngăn trở chướng ngại mà nó gặp phải và đi xuyên qua (maha bát nhã ba la mật đa) , nó mang theo những chủng tử bồ đề (thay vì là quang tử photon) giúp mọi chúng sanh có nhân duyên gặp nó, đồng giác ngộ .Vì nó có thành phần là điện từ trường trong không gian của chúng ta, nên xung quanh người có Bồ Đề Tâm hay Trí Bát nhã có một vùng từ trường êm dịu bao phủ, giúp cho các chúng sinh như cây cỏ, sinh vật đã héo tàn , đã chết trở lại với mầm sống tốt tươi .
Theo ý của riêng tôi, chúng ta chưa ai có Bồ đề Tâm , ngoại trừ các vị đạo sư chứng đắc . Nếu Bồ đề Tâm mà dể dàng như chúng ta tưởng rằng chúng ta đã sở hửu, thì nhiều vị đạo sư và ân sư tôi đã từng nói, dù cho nhờ tu tập mà có biết được quá khứ vị lai hay đắc được lục thông, xuất định được hay chu du vào cảnh giới tối cao, mà không biết phát tâm bồ đề để cứu độ chúng sanh thì trình độ cũng chỉ ở một tâm thức thấp mà thôi và thật là vô ích .
Lời Ân sư NQ Kim cang của tôi đã từng dạy:
Ba điều quan trọng mà người tu cần phải nhớ:
- Tu theo chánh pháp của Đức Phật
Nhờ giác ngộ được tứ khổ và thân mạng vô thường mà xả ly tham chấp , xả ngã vị tha, ngộ tứ diệu đế, tu tứ niệm xứ, hành bát chánh đạo…..và các pháp thanh tịnh thân tâm…
Hồi tâm phản chiếu, Tự tánh hiển bày
Xả ly tham chấp, Cầu bát nhã
- Phát tâm Bố thí rộng rải cho chúng sanh
Vì bố thí rộng rải nên giảm tham sân si, và cũng đồng thời tu tập Tính Không- Luôn luôn Tu tập kiểm soát mình từng giây từng phút .
(Làm các việc lành , xa rời ác niệm giữ gìn chánh niệm,gieo chủng tử bồ đề)
Linh tinh hy vọng rằng Quý bạn đọc đến đây đã hiểu được ý tôi muốn nói gì.
Chủng tử A chính là chủng tử bồ đề
Chủng tử A chính là chủng tử bồ đề
Trích Phương Pháp Quán Chữ A Trong Mật Giáo
TT.Thích Viên Thành
Chữ A là thanh âm ban đầu khi con người lọt lòng, là tiếng kêu của sự ngạc nhiên, là sự trào dâng của niềm hoan hỷ, là sự bừng tỉnh sau đêm dài bao phủ. Hơn nữa trong ngôn ngữ của nhân loại chữ A là một nguyên âm đầu tiên trong bảng chữ cái. Cũng vậy trong tiếng Sanscrit chữ A là nguyên âm thứ nhất trong 12 nguyên âm của mẫu tự Siddharta ( Tất Đàn ) và cũng là chữ đầu tiên trong 50 chữ của tiếng Sancrit.
Trong Phật giáo nói chung và đặc biệt trong Mật giáo khi nói đến chơn ngôn Đà Ra Ni thì đặc biệt chú trọng sự giải thích mẫu tự Siddharta. A là chữ đầu tiên trong 50 mẫu tự Siddharta, bởi vì khi ta mở miệng nói thì thành tiếng, trong đó bao hàm có tiếng chữ A, nếu bỏ tiếng A đi thì không có tất cả ngôn ngữ có thể nói. Do vậy, Mật giáo cho chữ A la mẹ của tất cả các âm. Từ đó, ta có thể suy ra nghĩa của các chữ là: Tất cả giáo pháp trong hay ngoài Mật giáo đều được sinh ra từ chữ A.
Đại Nhật Kinh sớ 7 viết: A là gốc của tất cả giáo pháp.
Đại Nhật Kinh 2 và 6 viết: A là chơn ngôn chúa, là tâm của tất cả chơn ngôn.
Phẩm Quảng Thừa trong Đại Phẩm Bát Nhã Kinh 5 giải thích chữ A là: Tất cả các pháp xưa nay vốn không sinh. Theo Mật giáo thì đó là nghĩa căn bản của giáo tướng, sự tướng cho nên nói: Vốn không sinh ( Akara-adyanutpadha ).
Phẩm Trụ Tâm trong Kinh Đại Nhật 1 và Đại Nhật Kinh Sớ 14 thì cho chữ A là "Tâm của Bồ Đề thanh tịnh xưa nay vốn không sinh). Khi ta biết thật của chữ A thì cũng biết rõ tâm mình một cách như thật. Có thể nói toàn bộ Kinh Đại Nhật đều giải thích rõ nghĩa tướng của chữ A. Nói khác đi, chân ý của Kinh Đại Nhật là chỉ bày cùng tột về tướng của Bồ Đề Tâm.
Ngoài pháp môn Tự Nội Chứng còn cho rằng: " Toàn bộ Kinh Đại Nhật " mà Đức Đại Nhật Như Lai thuyết trong Thai Tạng là nói rộng về lý chữ A vốn không sinh cho nên có thể nói: Lý Pháp Thân của Đức Đại Nhật Như Lai trong Thai Tạng Giới (Garbhadhatu ) lấy chữ A này làm chủng tử. Đây cũng là ý nghĩa mà Đại Nhật sớ 7 ghi: " Đức Vajrocana chỉ lấy một chữ A này làm chơn ngôn ". Không những thế, Kinh còn cho chữ này là chủng tử của Bồ Đề Tâm.
Nghĩa là hành giả chỉ tụng chữ A đều có Bồ Đề Tâm và lấy đó để sở cầu đạt đến Vô Thượng Bồ Đề.
Trong Mandala của Kim Cương Giới ( Vajradhatu ) và Thai Tạng Giới ( Garbhadhatu ), chữ A là chủng tử của Thai Tạng Giới . Trong Tam Thân chữ A là chủng tử của Pháp Thân ( Daharmakaya ).
Trong ba bộ ( Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ ), chữ A là chủng tử cả Phật Bộ. Trong thứ tự của năm chuyển biến ( Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện ), chữ A là chủng tử của Nhân chuyển biến. Trong sáu đại ( Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức ), chữ A là chủng tử của Địa đại.