Em có người thân đã mất từ lâu, nếu em làm việc thiện(bố thí, cúng dường...) và hồi hướng công đức đến người đó thì người thân của em có được hưởng hay không? Bác nào nắm vững kinh điển nguyên thủy xin trả lời giùm em với.
Printable View
Em có người thân đã mất từ lâu, nếu em làm việc thiện(bố thí, cúng dường...) và hồi hướng công đức đến người đó thì người thân của em có được hưởng hay không? Bác nào nắm vững kinh điển nguyên thủy xin trả lời giùm em với.
Hy hữu lắm bạn ah .
Có khá nhiều điều kiện để có thể hồi hướng . Nhưng trước nhất là người ấy là gì ? Nếu tái sinh làm súc sinh thì không hồi hướng được.
Nếu là người hay là Chư Thiên ta không bạn đến . Trường hợp ở đây tái sinh thành ngạ quỷ.
Điều kiện cận là ngạ quỷ ấy có ở gần bạn không ? Có ý muốn được hồi hướng các thiện pháp không ?
Và không phải ngạ quỷ nào cũng đều thọ lãnh được.
Tuy nhiên tích truyện có kể về các Yama ( Diêm Vương ) . Các vị này sẽ nhắc các ngạ quỷ khi vừa tái sinh về các thiện pháp khi còn làm người để ngạ quỷ nhớ lại mà tái sinh nơi nhàn cảnh .
Vậy nên khi hồi hướng bạn hãy nhắc lại các thiện pháp của người ấy khi còn là người . Làm việc thiện thay mặt cho vị ấy , và hướng phước báu này đến người ấy .
Tuy nhiên là biện pháp khó làm . Vậy nên điều cần là hãy giúp bạn bè , người thân quanh bạn làm nhiều thiện pháp , luôn nghĩ đến thiện pháp , tránh xa tội lỗi . Như vậy hiệu quả gấp trăm lần việc hồi hướng một chúng sinh kiếp kế.
trích giáo trình Phật Học :
....1- Chuyển nhượng, hồi hướng Công Đức Cho những
người Thân Quyến Đã Khuất.
Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta) trong Tập
Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapatha) thuộc Tiểu Bộ Kinh là bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật về đề tài chuyển nhượng công đức cho
những người đã khuất. Kinh này tạo thành tiền lệ cho việc tôn kính
và mang lại lợi ích cho những người thân quyến đã chết và bị tái sinh
thành ngạ quỷ hay quỷ đói (Petas), mà chúng ta hay gọi là ‘hồn ma’
hay ‘cô hồn’ chưa được đầu thai ở cõi khác. Ngạ quỷ là những chúng
sinh đang sống trong thế giới loài người, nhưng là những ngạ quỷ
khuất mặt mà mắt thường của người phàm phu không thấy được.
Theo luận giảng về Kinh này, vào thời Đức Phật những ngạ quỷ vốn là
họ hàng, thân quyến của Vua Bimbisara trong kiếp trước đã đứng đợi
trước cung điện mong chờ nhà vua chia sẻ công đức cho họ - công đức
của nhà vua là những công đức cúng dường cho Đức Phật. Nhưng nhà
Vua đang bận rộn đầu óc, lo tìm chỗ ở cho Đức Phật và không chuyển
nhượng, hồi hướng công đức cho họ. Đêm đó, họ bu quanh cung điện
và tạo những âm thanh kêu gào, chết chóc. Sáng hôm sau, nhà Vua đến
giải bày với Phật và được Phật khuyên dạy về vấn đề này, nhà Vua đã
sửa soạn một bữa cúng dường thịnh soạn cho ích lợi của họ.
2. mục Đích Cúng Dường Thức Ăn Trong Việc Bố Thí
Công Đức (Pattidana) Là Cúng Cho Ai?
Nhiều sự nghi ngờ về thức ăn được sửa soạn cúng dường là cúng cho
Đức Phật và Tăng Đoàn hay cúng cho những ngạ quỷ khuất mặt của
Vua Bimbisara?, theo như ghi chép trong Kinh Tirokutta Sutta.
Nhiều người cũng đọc tụng các kinh khác, như Kinh “Lời Khuyên
Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha 31)
và “Kinh Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara 10:177) đều ủng hộ họ theo quan điểm là: “Cúng dường”
ở đây có nghĩa là “Cúng thức ăn cho những người thân quyến đã
khất”. Thật ra quan điểm này là sai.
Phong tục này của Hindu giáo đã tồn tại thậm chí trước thời Đức
Phật. Phong tục cúng cho người chết đó được gọi là “shraddha” và
đã được ghi rõ trong Kinh “Janussoni Sutta” thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara 10:177) nói trên, lúc đó một Bà-la-môn tên là Janussoni
đã hỏi Đức Phật như vầy:
“Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn và làm
lễ cúng Tang (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món này đến với
những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ được hưởng.”
Vì lễ “shraddha” thông thường được tổ chức cùng những đám tang
của người theo đạo Hindu, nhưng nó thường bị hiểu lầm là phong
tục của người Ấn Độ tổ chức để tôn kính người chết bằng cách cúng
dâng đồ ăn… cho người chết. Những người Hindu tin rằng, khi một
người chết, người đó sẽ thành Preta, tức là ‘âm hồn’ hay ‘hồn ma’,
không có cơ thể và như vậy là một cảnh giới đau khổ. Để giúp cho
‘hồn ma’ đó có được một cơ thể đầy đủ, thì những người thân quyến
phải cúng cơm vò thành viên tròn, cúng bánh bột gạo, v.v, cùng với cỏ
thiêng (cỏ kusha), hoa, và rải nước, và tụng đọc những câu thần chú
và những câu tụng trong kinh Vệ-Đà; toàn bộ buổi lễ cúng tăng được
tổ chức không phải trong đền thờ, mà ở những nơi linh thiêng như bờ
sông. Ngày đầu, người Hindu cúng cơm pinda (cơm làm từ bột gạo
và sữa vo trò) và rảy nước, tin rằng ‘hồn ma’ sẽ sau khi hưởng và có
được khung cơ thể. Ngày tiếp theo, họ tiếp tục cúng bánh panda và
nước rảy, có lẽ tin rằng ‘hồn ma’ hưởng xong sẽ có được chân, tay…,
họ cúng như vậy liên tục 12 ngày, và ngày thứ 12 họ tin là ‘hồn ma’
có thêm đầu để hoàn tất một cơ thể, và lúc này ‘hồn ma’ trở thành
một Pitri, và được tin là không còn bị ô nhiễm và trở thành một thiên
thần (deva) và họ thờ phượng như một thiên thần bằng cách cử hành
những nghi lễ shraddha, bắt đầu từ ngày thứ 12 sau khi chết. Vậy là
cả gia đình được “gội rửa” sạch sẽ. Tiệc cúng được dâng cúng cho
các Bà-la-môn, những người hàng xóm, và những người ăn xin – thậm chí những con bò cũng được cho ăn bằng cỏ tươi.
Tiếng Phạn chữ “shraddha”có nghĩa là việc hay sự tưởng nhớ tổ
tiên đã qua đời. Một trong việc phải làm hàng ngày là người nhà
phải bỏ ra vài phút mặc niệm, tưởng nhớ đến người đã chết và làm
những việc từ thiện. Họ tin rằng những việc làm đức hạnh đó nhân
danh người chết sẽ giúp cho những người chết mới trở thành an bình
trên chuyến đi của mình và tích tạo thêm nhiều nghiệp quả tốt cho
người còn sống. Việc dâng cúng những phẩm vật dâng cúng cho
những thầy Bà-la-môn vì (hồi hướng) lợi ích cho những Pitri, vào
thời gian và nơi chốn thích hợp, cùng với lòng tin thì được gọi là làm
lễ “shraddha”. Việc thực hành lễ “shraddha” và rảy nước giúp cho
những linh hồn người chết khỏi bị đói, khát trong suốt chuyến đi đến
cõi của những Pitri (Pitri Loka); hay giúp cho những linh hồn của tổ
tiên. Khi dâng cúng lễ “shraddha” người con trai cũng giúp cha mình
cùng vui mừng, tùy hỉ với những Pitris đó.
Đến bây giờ thì đã rõ, lễ “shraddha” cũng không phải là lễ cúng đồ
ăn cho những ‘hồn ma’ Preta để tạo nên cơ thể, vì lễ “shraddha”
chỉ diễn ra kể từ ngày thứ 12 sau khi chết, sau khi ‘đã trở thành’
Pitri (như người Hindu tin) và việc dâng cúng là cúng dường cho
các Bà-la-môn để hồi hướng công đức cho ích lợi của những Pitri.
Tuy nhiên, Đức Phật không chấp nhận những lễ cúng và niềm tin
như vậy.
Học giả người Ấn Độ Bimala Churn Law, trong quyển sách
của ông mang tên “Quan Niệm về Linh Hồn trong Phật Giáo”
(The Buddhist Conception of Spirits) đã nói rằng việc hồi hướng
chuyển nhượng công đức trong đạo Phật cũng giống những nghi lễ
shraddha của Hindu trong một số cách. Theo người Hindu, những
quà cúng được dâng cúng cho một thầy Ba-la-môn (Brahmin) hay một người thay thế cho đẳng cấp Bà-la-môn (Brahmana); và mức
độ công đức là tùy thuộc vào số lượng người được bố thí thức
ăn và quần áo bởi người sống thực hiện nhân danh và hồi hướng
công đức cho người chết. Kết quả là những công đức đó sẽ được
chuyển qua người chết.
Trong những lễ shraddha của người Hindu, một số phẩm vật và đồ
ăn cũng được cúng dâng trực tiếp cho người chết, nhưng sau đó
những ‘đồ cúng’ đó phải được mang đi tặng, cho một người xứng
đáng (được kính nể) để có được kết quả mong muốn của buổi cúng.
Thực hiện lễ dâng cúng shraddha là nhiệm vụ theo truyền thống
Vệ-đà, của một người con (trai) thể hiện lòng tôn kính, tưởng nhớ
cha ông, tổ tiên.
Trong Kinh “Lời Khuyên Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta), một
trong những bổn phận của người con là cúng dường, bố thí thức ăn
(tức trong Tang Lễ) để tưởng nhớ, tích đức cho người thân quyến đã
khuất thì được Đức Phật tán đồng.
Trở lại Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta),
đúng là nghi lễ cúng dường cho những ngạ quỷ thân quyến của
nhà Vua là một nghi lễ shraddha, nhưng có sự khác biệt. Nhà
Vua mới vừa được Đức Phật “độ”, chuyển hóa thành một bậc
đạt thánh quả Nhập Lưu (Tu-Đà-Hoàn). Cho nên, lẽ tự nhiên là
nhà Vua đã thỉnh mời Đức Phật và Tăng Đoàn đến để thọ thực
thức ăn dâng cúng dường để tạo công đức và hồi hướng công
đức đó cho những người thân quyến đã khuất. Vì vậy, đồ ăn
cúng dường ở đây là cúng dường cho người, là Phật và Tăng
Đoàn, chứ không phải là cúng dường cho ngạ quỷ!, vì nhà
Vua đã tham kiến Đức Phật vào buổi sáng trước khi thực hiện
lễ cúng dường này để làm toại nguyện lòng của những ngạ quỷ
quyến thuộc của nhà Vua.
Luận Giảng chỉ ra rằng phải có ba (3) điều kiện đi kèm thì hiệu
quả mới được thành tựu tốt đẹp cho việc bố thí cúng dường để hồi
hướng công đức cho người thân tái sinh đang là Ngạ Quỷ (Peta).
Đó là:
a. Người cúng dường phải nói rõ việc cúng dường bố thí là để hồi
hướng công đức cho người thân đã khuất đó, người đã khuất
(tên, xưng hô):
“Nguyện cho món cúng thí này được đến những người ấy. Mong
nhũng người ấy (tên, xưng hô) được phúc lành”.
Hay tụng bằng tiếng Pali như sau:
“Idam me natinam hotu, sukhita hontu natayo”.
b. Người nhận bố thí cúng dường phải là người đức hạnh.
Trong luận giảng về Kinh “Cúng Dường Phân Biệt” (Dakkhina-
vibhanga Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), có
trường hợp một ngạ quỷ không hưởng được phước đức cúng
dường của người thân hồi hướng cho mình, vì người thân
còn sống bố thí, cúng dường 3 lần cho một người nhận là
một người không có đức hạnh, nên không tạo ra công đức
để mà hồi hướng đến cho người thân là ngạ quỷ. Nên ngạ
quỷ đó kêu lên rằng: “Kẻ vô đức hạnh kia đã ăn cướp hết
công đức”. – (Tức là công đức lẽ ra có được & hồi hướng
được nếu người thân của mình cúng dường cho một người
có đúc hạnh!.
Vì ngạ quỷ thì có thể nhìn thấy được người thân của mình đang
còn sống và biết họ đang làm gì, và ngược lại, người thân còn
sống với “mắt thường” của con người thì không nhìn thấy được
người thân đã khuất của mình là ngạ quỷ, mà chúng ta hay gọi
là quỷ đói hay cô hồn -ND).
Như vậy, nếu cúng dường, bố thí mà không chọn được người
đức hạnh thì công đức không tạo được. Nên cũng không có gì
để hồi hướng cho người thân của mình. Điều này rất quan trọng,
chúng ta cần lưu ý.
c. Những ngạ quỷ quyến thuộc được hồi hướng công đức đó phải
thật sự cảm kích, vui mừng và hoan hỷ với việc bố thí cúng
dường của người thân vì mục đích hồi hướng cho mình. Từ đó,
ngạ quỷ có được những niềm vui, hoan hỉ thiện lành, giúp tạo
thêm những nghiệp mới tốt lành.
Khi thỉnh Đức Phật và Tăng Đoàn đến thọ thực thức ăn cúng dường,
đặc biệt là để tạo công đức và chuyển nhượng công đức đó cho những
người thân đã khuất của mình, Vua Bimbisara đã hoàn thành được
hai 2 trong 3 điều kiện trên. Còn việc cảm kích, mừng vui, hoan hỉ
khi nhận công đức đó, thì người nhận là những ngạ quỷ thân quyến
của nhà Vua sẽ hoàn thành, là điều kiện thứ 3.
Theo cách này (như Đức Phật đã khuyên dạy), thì nghi thức cúng
dường này là một nghi thức Bố Thí Công Đức (Pattidana) chứ không
phải là lễ cúng “shraddha”. Nên sau đó (theo luận giảng), những ngạ
quỷ thân quyến đau khổ của nhà Vua đã hưởng được công đức và
được giải thoát và được tái sinh lên cõi trời.
Theo Luận Giảng : Ngay sau khi nhà vua dâng cúng dường Đức Phật
và Tăng Đoàn nước uống, thức ăn, y vải và chỗ ngồi và chia sẻ, hồi
hướng công đức cho những ngạ quỷ, thì theo thứ tự đó, thì ở cõi kia
xuất hiện ra nước uống để giải cơn khát của ngạ quỷ, thức ăn trên cõi
trời để họ ăn, quần áo trên cõi trời để họ mặc, nhà cửa trên cõi trời để
họ ở, xe cộ trên cõi trời để họ dùng, tất cả điều kiện để họ biến khỏi
dạng hồn ma, ngạ quỷ và được chuyển thành dạng chúng sinh cõi trời
(chư thiên thần).Nói theo Quy Luật của nghiệp, đó là niềm vui mừng, hoan hỉ thiện
lành, được tạo ra nhờ việc Bố Thí công Đức (Pattidana) tạo điều
kiện, làm “Duyên” lành cho việc tái sinh tốt lành từ những ngạ quỷ
đau khổ (Petas) trở thành chư thiên thần (Devas) xảy ra trong lập tức,
khi đã đầy đủ phước báu.
(Nên nhớ rằng, ví dụ lịch sử này được giảng luận như vậy, có lẽ là
họ có được phước đức tích lũy trong nhiều kiếp tạo “duyên” cho
lần này, và/vì đặc biệt lần này nhà Vua cúng dường cho Đức Phật
và Tăng Đoàn thì phước báu là vô lượng, là thượng thừa nhất thế
gian, nên công đức này khi hồi hướng cho những ngạ quỷ quyến
thuộc đã có thể giải thoát đau khổ cho họ và họ được tái sinh về
cõi trời phúc lành. – Điều này cho thấy được tầm quan trọng bậc
nhất của việc cúng dường “trai Tăng”, kể từ sau khi Đức Phật
Bát-Niết-Bàn – ND)......
(tiếp theo)
3. ngạ Quỷ (Petas) Có hưởng Được Thức Ăn, Thức Uống
Cúng Trực Tiếp Cho họ hay Không?
Nhiều Phật tử diễn dịch cách nói sau đây: “Không có trao đổi, mua
bán bằng vàng hay các loại tiền khác. Nhưng ngạ quỷ sống và tồn tại
dựa vào thức ăn cúng cho ngạ quỷ hoặc những gì đến được họ từ việc
cúng dường này (bởi người thân cúng vì lợi ích của họ” theo nghĩa
là: “những ngạ quỷ sống bằng những những thức ăn do người thân
họ cúng cho họ”. Thật ra, đây là phong tục của người Tàu sắm sửa
những đồ ăn chọn lọc để dâng cúng trên bàn thờ của người thân đã
khuất vào những dịp như đám giỗ, hay cúng lễ trong dịp lễ “Cheng
Beng” (lễ Thanh Minh) hay trong tháng Bảy Âm Lịch là dịp Lễ Cúng
Thí Cô Hồn (quỷ đói) với niềm tin rằng những người thân đã khuất
có thể thọ hưởng thức ăn.
Phong tục cúng thí thức ăn cho cô hồn, ngạ quỷ ‘ăn’ bắt nguồn từ
đạo Lão bên Trung Quốc. Lễ Vu Lan-(13) (tiếng Phạn: Ullambana) của
những người theo Phật Giáo Đại Thừa, cũng trùng với dịp Lễ Cúng
Cô Hồn vào tháng Bảy Âm lịch, là hoàn toàn khác, mang ý nghĩa
khác. Lễ Vu Lan mang ý nghĩa là một lễ bố thí, cúng dường để hồi
hướng công đức (còn gọi là lễ Báo Hiếu).
• Nhiều người cũng tin rằng những chúng sinh khuất mặt cũng ‘thọ
hưởng’ hay ‘ăn uống’ được những thức ăn dâng cúng cho họ, bằng
cách ‘hút’ phần ‘cốt’ (tieng HanS: chi) của thức ăn, cho nên theo họ,
thức ăn sau khi cúng chỉ còn vị lạt lẽo!. Cách tin và giải thích này là
hoàn toàn vô lý. Thông thường những đồ ăn dâng cúng để lâu bên
ngoài nên bị ô-xy hóa và nguội lạnh, những mùi hương bao gồm cả
những vitamin, dinh dưỡng bị bốc hơi đi, nên mất đi mùi vị thơm
ngon vốn có trước đó, chứ không phải do những người khuất mặt hút
hết phần tinh ngon.
• (Ngày nay, đối với những người tại gia vẫn giữ truyền thống cao
đẹp tưởng nhớ đến tổ tiên, cúng đám giỗ và thường vẫn dùng những
đồ ăn đã dâng cúng, thì nên nấu lại hoặc nên dùng lò vi sóng để hấp
chín lại thức ăn, để phòng trừ vi khuẩn, ruồi, côn trùng đậu vào trong
thời gian trình bày đồ ăn dâng cúng, cho được an toàn vệ sinh; và sau
khi hấp nóng lại, nhiều loại đồ ăn cúng sẽ mang lại vị thơm ngon của
nó hơn là lúc để nguội lạnh – ND)
Một sự thật được ghi lại trong Luật Tạng (Vinaya) về một Tỳ kheo
sống ở khu nghĩa địa và sống nhờ vào thức ăn người thân mang
đến cúng cho những ‘linh hồn’ nằm dưới mộ. Có thể những thức
ăn người thân cúng thường là những thứ được chọn lọc, tươi, ngon,
nhiều dinh dưỡng, nên vị Tỳ kheo này trông mập mạp, cường tráng,
nên một số người chỉ trích vị này một cách sai trái, cho rằng vị này
có thể sống nhờ vào ăn thịt người. Vì có sự việc này, nên đức Phật đã
ra giới luật cho các Tỳ kheo không được ăn bất cứ thứ gì hay thức ăn
nào không được người khác dâng cúng trực tiếp cho mình, nếu ai vi
phạm là phạm giới theo Điều Luật (Pacittiya 40).
Những câu chuyện này chắc sẽ làm xua tan niềm tin của những Phật
tử vẫn còn cho rằng những người khất mặt ‘ăn’ hay ‘hút’ hết phần
‘tinh cốt’ của thức ăn dâng cúng. Vì sao?!
• Đến nói về việc đốt quần áo…làm bằng giấy (hàng mã) để cúng cho
những người đã khuất, thì chúng ta nên nhớ rằng, ngay cả chư thiên
thần (Devas) cũng không mặc quần áo bằng vải cotton, lụa, terrylene,
vải Dacron hay vải len, mặc dù các Kinh Điển có nói rằng họ rất đẹp
đẽ, huy hoàng trong trang phục thần tiên của họ. Tuy nhiên, những
y phục họ mặc trên thân mình về cơ bản là những sự biểu thị của
nghiệp (tiếng Anh: “kammic manifestations”), những nhà cửa, cỗ xe
trên cõi trời thì cũng là những biểu thị về tâm thức của nghiệp mà
thôi. Những ngạ quỷ (Petas) hay những cô hồn vất vưởng là những
chúng sinh thuộc về tầng lớp đau khổ, trong cảnh giới xấu (Apaya)
thì có lẽ là không quần áo, không có gì che thân hoặc ăn mặc rách nát
(có lẽ còn tệ hơn những người khốn nạn, ăn mày) theo như Nghiệp
xấu ác của họ gây ra. Chỉ có những sự tái sinh phúc lành, như trường
hợp những ngạ quỷ (petas) vừa được giải thoát và tái sinh thành chư
thiên thần (devas) một cách nhanh chóng (nhãn tiền) nhờ phước hồi
hướng, thì mới sinh ra những trang phục của chư thiên trên thân của
họ, ngay khi người thân cúng dường y vải cho Tăng Đoàn với lòng
thành và tâm nguyện hồi hướng công đức cho họ.
____________________________________
13 Vu-Lan (ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn, là phiên âm của từ tiếng Phạn
“ullambana”. Bên Trung Quốc còn gọi là lễ Tết Trung Nguyên.
Theo Phật giáo Đại Thừa, từ truyền thuyết về ngài Mục Kiền Liên đại hiếu, nghe
theo lời khuyên của Phật, đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, nên sau đó Đức
Phật đã dạy rằng mọi người nên trả hiếu cho cha mẹ bằng cách như vậy (tức bằng
cách cúng dường trai tăng để có được công đức lớn và hồi hướng cho cha mẹ của
kiếp này và của các kiếp trước). Nên Vu Lan, thường được tổ chức chính vào ngày
Rằm tháng Bảy hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung).
Thêm nữa, ngày này còn mang ý nghĩa và được gọi là ngày “Xá tội vong nhân”.
Vào ngày này, người ta tin mọi chúng sinh “tù nhân” ở Địa ngục đều được xá
tội, được lên Dương gian. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các
vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh
không nhà cửa, không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương gian thờ
cúng. -ND
(còn tiếp)
4. những Loại Chúng Sinh nào nhận Được Công Đức
hồi hướng Cho mình?
Theo ghi chép trong Kinh “Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng
Chi Bộ Kinh (Anguttara v, 269), thì một Bà-la-môn tên là Janussoni
đến hỏi Phật:
“Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn
và làm lễ cúng tăng (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món
này đến với những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ
được hưởng”. Này ngài Cồ-Đàm! Như vậy được không? Liệu những
đồ cúng này có đến được những người thân đã chết của chúng tôi
không? Liệu họ có hưởng dụng được đồ cúng không?”.
Theo sự trả lời và giảng giải của Đức Phật, thì của dâng cúng này
chỉ đến được người thân đã khuất nếu họ đang hiện hữu ở một “nơi
thích hợp” và nếu ngược lại thì không được. Những nơi “không
thích hợp” đó là:
-Địa ngụ , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
dưỡng mà địa ngục có được. (*Xem chú giải về thực dưỡng này).
-Súc sinh , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
dưỡng mà sinh vật đó khi thụ thai trong bào thai có được.
-Loài người , con người sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
dưỡng mà thế giới loài người có được.
-Cõi trời , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
dưỡng mà các chư thiên thần có được.
Thì “nơi thích hợp” chính là cõi Ngạ Quỷ. Vì chỉ có ở cõi này, ngoài
việc ngạ quỷ sống và tồn tại nhờ vào những thực dưỡng mà cõi ngạ
quỷ có được, thì ngạ quỷ còn có thể sống và tồn tại nhờ vào những
thứ (công đức, phước đức) mà bạn bè, vợ hay chồng, người thân
quyến hay người họ hàng cúng dường vì (hồi hướng) lợi ích cho
chúng sinh ngạ quỷ đó (ngay trong kiếp hiện hữu này, tức phải đúng
lúc người cúng dường đang còn sống làm người và đồng thời ngạ
quỷ thì còn đang ở cõi ngạ quỷ).
Từ kinh này mà người ta biện luận rằng chỉ cần cúng những thức ăn
vật chất cho những người thân đã khuất, không cần thỉnh Tăng Đoàn
đến thọ thực và hồi hướng công đức cho người đã khuất. Nếu việc
chuyển nhượng, hồi hướng công đức có ý nghĩa ở đây, thì công đức
cũng có thể được hồi hướng đến những người thân đã khuất hiện đã
là một thiên thần trên cõi trời và thiên thần đó cũng được lợi ích sau
khi cảm kích, vui mừng được sự tôn kính, tưởng nhớ này (?). Tuy
nhiên, còn một điều kiện khác hay bị bỏ quên.
Theo bộ Kinh “Milinda Vấn Đáp” (Milinda-Panha) khi nói về
những loại ngạ quỷ khác nhau, chỉ có loại ngạ quỷ sống phụ thuộc
vào những gì được bố thí (Paradatta-upajivi) và những ngạ quỷ
nhớ được những người thân quyến đang sống ở trần gian và thấy
được những việc thân quyến đang làm, thì có thể nhận được và chia
sẻ được những công đức. Điều này có nghĩa rằng, ngạ quỷ muốn
nhận được công đức hồi hướng thì ngạ quỷ đó phải hiện diện
trong suốt quá trình nhận công đức và vui mừng, hoan hỉ (tùy hỉ)
với công đức đó.
Chúng ta có thể loại trừ sự hiện diện của những thiên thần:
họ không hiện diện để hay biết sự bố thí công đức này. Theo Kinh
“Ngoại Đạo Payasi” (Payasi Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha,
kinh 23), sau khi được sinh lên cõi trời, những thiên thần đắm
mình trong lạc cảnh, sung sướng trong thế giới mới, và họ thường
không bao giờ muốn quay lại những ‘ngôi nhà’ cũ ở trần gian và
họ sẽ không thể nhận được những công đức hồi hướng đó. Ngay
cả những vị thần trái đất, tức những địa thần (rukkha deva) luôn
sống trên những cây trong rừng, họ cũng không để ý đến những bố
thí công đức (Pattidana) hồi hướng cho mình, và cũng không nhận
được công đức đó.
Theo Quy Luật nghiệp (hay “Luật Nghiệp Báo” như nhiều người
vẫn gọi), chúng ta nên biết rằng những ngạ quỷ khác nhau đang
chịu những mức độ đau khổ khác nhau, tương xứng với những
nghiệp khác nhau mà họ tạo ra. Có lẽ những ngạ quỷ sống nhờ
vào sự bố thí của người khác (Paradatta-upajivi Petas) có được
nghiệp tốt (kuasala kamma) cho phép họ được tái sinh gần nơi
sinh sống của những người thân quyến thuộc đang sống trên trần
gian. Trong điều kiện đó, họ có được cơ hội cho phép họ luôn vui
mừng, hoan hỉ khi thấy được bạn bè người thân trong gia đình, họ
hàng thực hiện việc bố thí cúng dường vì lợi ích (hồi hướng công
đức) cho họ. Chính tâm nguyện hay ý hành hoan hỉ, vui mừng khi
được bố thí, cúng dường vì lợi ích của ngạ quỷ thân quyến sẽ tạo
được thiện nghiệp mạnh mẽ. Và cùng với những điều kiện thuận
lợi hay “thuận duyên” có thể dẫn dắt ngạ quỷ thân quyến đó tái sinh
về cõi trời thành thiên thần. Chỉ có một con đường duy nhất là họ
phải tạo ra công đức, Nghiệp thiện thì mới có khả năng được giải
thoát khỏi cảnh giới đau khổ.
Vậy nếu một người thân quyến của mình không bị tái sinh về cõi ngạ
quỷ, thì ai sẽ được nhận hưởng công đức hồi hướng đó?. Theo Đức
Phật, vòng luân hồi sinh tử (samsara) thì rất dài, từ vô thủy, thì
không thể nào trong thế giới ngạ quỷ mà không có một người thân
quyến của mình (thí chủ) **.
Bên cạnh đó, người bố thí (thí chủ) cũng được lợi ích nhiều bằng
việc bố thí công đức (Pattidana) vì những tâm nguyện hay ý hành
thiện của mình đầy đủ lúc bố thí, nên công đức càng được củng cố,
gia tăng.
______________________
*Chú giải về “thực dưỡng”: Con người có thể sống đến 7 ngày không
uống nước, không thức ăn. Nhưng những thiên thần, ngạ quỷ và những
chúng sinh ở tầng thấp hơn (cảnh hạ sanh, hạ thú (apaya) hay địa ngục),
họ mang những phẩm chất tạo nghiệp rất mạnh trong ‘thân’ mình, nên có
thể chịu nhịn, đói khát trong thời gian rất lâu, do nghiệp của mình. Lý do
họ có thể tồn tại một thời gian lâu chỉ nhờ vào thực dưỡng (oja) bên trong
mà họ nhờ vào đó. -TG
** Ý Phật nói, khi mình đang làm người, có thể mình đã trải qua hàng
trăm, ngàn hay vạn vạn kiếp hay hơn nữa, thì mỗi kiếp mình lại có biết bao
nhiêu người thân quyến thuộc để chia xa vì sinh tử và phải bị sinh vào cõi
xấu như cõi ngạ quỷ, là những cõi khó có đường thoát ra nếu không gặp
đại phước, đại duyên hay nghiệp tốt mạnh (vốn rất khó tạo được trong cảnh
giới xấu) – ND.
Đây bạn, đây là Kinh Janussoni trong Tăng Chi Bộ, chương 10, phẩm 17 của Phật Giáo Nguyên Thủy có nói về vấn đề này.
KINH JÀNUSSONI
Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn :
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi Bà-la-môn, cho bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích ! Mong rằng các bà con huyết thống đã chết, thọ hưởng bố thí này ! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không ? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không ?
- Này Bà-la-môn, nếu có tương ứng xứ, thời có lợi ích, nếu không có tương ưng xứ.
- Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương ưng xứ, thế nào là không tương ưng xứ ?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào, các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy, vị ấy sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ ; trú nơi đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy.
Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống ấy đã chết, không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy ?
- Này Bà-la-môn, các bà con huyết thống khác đã chết, được sanh vào chỗ ấy, những người ấy được hưởng bố thí ấy.
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy ?
- Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải có hưởng quả.
- Có phải Tôn giả Gotama nói một giả thuyết không thế xảy ra ?
- Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy cộng trú với các loài ngựa... sanh cộng trú với các loài bò... Cộng trú với các loài gia cầm. Vị ấy tại đấy, được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Vì rằng, này Bà-la-môn, có sát sanh, có lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, có nói láo, có nói hai lưỡi, có nói lời độc ác, có nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào cộng trú với các loài gia cầm. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc, nên tại đấy vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục công đức sai khác, thuộc về loài Người. Vì rằng, này Bà-la-môn, vị ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với loài Người. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, các trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, ở đấy vị ấy được năm dục công đức của loài Người. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của chư Thiên. Vì rằng ở đây có từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với chư Thiên. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vậy, tại đấy vị ấy được năm dục công đức của chư Thiên. Tuy nhiên, này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có kết quả.
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Cho đến như thế này, thưa Tôn giả Gotama, là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để tổ chức các tín thí. Vì rằng, ở đấy, người bố thí không phải không có kết quả (như đã được nói).
- Như vậy, này Bà-la-môn, người bố thí này không phải không có kết quả.
- Thật kỳ diệu thay Tôn giả Gotama... Xin Tôn giả Gotama hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.