VUA QUANG TRUNG Vị Anh Hùng Dân Tộc
VUA QUANG TRUNG Vị Anh Hùng Dân Tộc
Đặng Đức Bích
1. Vinh Danh Anh Hùng Dân Tộc
Người Pháp tự hào về Napoléon Bonaparte. Ông là một thiên tài quân sự, đã chinh phục một phần lớn lãnh thổ Âu Châu, nhưng cuối cùng thất bại trận Waterloo tại nước Bỉ.
Dân tộc Pháp luôn luôn tôn kính ông. Du khách đến Paris thấy ở đầu đại lộ Champs Elisée, gần nhà thờ Đức Bà cổ kính, gần dòng sông Seine thơ mộng, Khải Hoàn Môn được xây dựng, một công trình kiến trúc Văn Hóa Hùng Sử Pháp, để tưởng nhớ Napoléon Bonaparte, với những chiến thắng vẻ vang liên tiếp đã làm rạng danh trang sử Pháp.
Vào thời gian này, tại Mỹ Quốc cũng có cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Chính George Washington, một chính trị gia lỗi lạc, một anh hùng dân tộc, đã đưa đất nước Hoa Kỳ đến chỗ vinh quang.
Việt Nam chúng ta có vua Quang Trung Nguyễn Huệ là kết hợp hai đặc điểm Thiên Tài Quân Sự của ông Napoléon Bonaparte và chính trị gia lỗi lạc của ông George Washington. Vua Quang Trung hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Từ khi làm Tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha trăm trận bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Chúng ta phải lập Khải Hoàn Môn Việt Nam để vinh danh vị anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, là gương sáng cho thế hệ con cháu mai hậu noi theo. Chỉ trong 5 ngày chiến đấu ào ạt, Vua Quang Trung đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, chiến thắng vẻ vang trong những trận đánh thần tốc oai hùng. Đây là một chiến công lớn lao, so sánh với chiến công của các danh tướng Đông Tây Kim Cổ trên thế giới, là niềm hảnh diện chung cho Dân Tộc Việt Nam.
2. Cuộc Cách Mạng Dân Tộc
Vào thế kỷ thứ 18, nhiều cuộc Cách Mạng Dân Tộc nổi lên khắp nơi từ Âu, Mỹ, Á. Cách Mạng Pháp 14/7/1789 lật đổ chế độ phong kiến tiếp nối qua nhiều thế hệ. Sự thống trị cha truyền con nối từ đời nầy sang đời khác bị đánh đồ, nông nghiệp phải nhường bước cho thương nghiệp. Nhiều nước đua nhau lập đội thương thuyền, tranh giành thị trường và chiếm thuộc địa.
Tại Việt Nam thời bây giờ, loạn lạc nổi lên khắp nơi như vụ loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất
, quan quân địa phương dẹp không nổi.
Trong Nam, năm 1782 Nguyễn Phúc Ánh Nhà Nguyễn bị Nhà Tây Sơn đánh bại tại Ngả Bảy Thất Kỳ Giang không còn manh giáp, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân ra đảo Phú Quốc. Trong trận nầy, Nguyễn Phúc Ánh cầu cứu một người Pháp tên là Manuel đem thủy quân đến giúp, nhưng không chống nổi, Manuel phải đốt tàu mà chết. Về sau, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhodes), đem con là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu nước Pháp, nhờ đem quân sang giúp, chống lại nhà Tây Sơn, khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của Đế quốc phương tây. Một trăm năm đô hộ giặc Tây! Dân Việt trải qua bao nhiêu sự đau khổ, bị áp bức, chết chóc, sưu cao thuế nặng.
Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh rước quân Xiêm La do hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương, đem 2 vạn quân và 300 chiến thuyền chiến Rạch Giá, Ba Thắt, Trà Ôn và Mân Thít. Đi đến đâu quân Xiêm cướp bóc và quấy nhiễu đến đó, thật là tai hại.
Ở miền Bắc Trịnh Giang chuyên quyền, giết vua Lê, tàn sát các công thần. Họ Trịnh ăn chơi xa xỉ khiến công quỹ hao hụt, sưu thuế nặng nề. Cuộc tranh bá đồ vương Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài trên một trăm năm (1620-1775) làm dân chúng chết chóc, điêu linh khổ sở.
Năm 1788, Lê Chiêu Thống rước quân Tàu do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem quân xâm chiếm Việt Nam, thiếu chút nữa nước ta bị quân Tàu đô hộ một lần nữa. Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, qua bốn lần Bắc thuộc, khởi đầu từ năm 207 trước Tây lịch, thiệt quá khủng khiếp! Người dân phải lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, sưu cao thuế nặng dưới sự cai trị áp bức của quân xâm lược. Dân tộc Việt Nam, trải qua hàng chục thế kỷ bị đô hộ, với biết bao nhiêu sự phấn đấu vượt bực để khỏi bị người Tàu đồng hóa.
Giáo sĩ Diego de Jumilla viết: “Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Nhà Tây Sơn đã đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Tộc, lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng”.
Buttinger, nhà nghiên cứu lịch sử chính trị đã nói: “Những lực lượng xã hội thời bấy giờ, như khách trú người Hoa, người Chiêm Thành, các giới nhà chùa Phật Giáo, Lão Giáo, Các Sắc Tộc thiểu số đều nhiệt liệt hưởng ứng và giúp đỡ, đưa phong trào Tây Sơn đến chỗ thành công”.
Jean Chisneaux, giáo sư sử học Pháp viết: “Sự kiện lớn nhất đối với Nhà Tây Sơn là việc khôi phục, thống nhất đất nước, xóa bỏ việc chia cắt đất nước thành hai vương quốc Trịnh-Nguyễn đối địch”.
Trong cuốn Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của ông Đặng Xuân Bảng, có đoạn viết: “Trận chiến lúc bấy giờ giống như cái thế Tam Quốc bên Tàu: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Ở Việt Nam Nhà Tây Sơn đã đánh Chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh, thống nhất đất nước”.
3. Binh Pháp Nguyễn Huệ
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, “Binh pháp Tôn Tử” nổi danh và được áp dụng qua nhiều thế kỷ. Các nhà quân sự phương đông và Việt Nam thường hay nghiên cứu và áp dụng binh pháp nầy, nhưng kết quả thành bại, phần lớn tùy vào khả năng và sự tài giỏi của người điều khiển.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, xông pha trận mạc khắp các chiến trường, đánh vào phía nam, bốn lần bạt thành Gia Định, đánh ra phía Bắc, ba lần vào Thăng Long, thắng Chúa Nguyễn, diệt Chúa Trịnh, đánh bại quân Xiêm La, phá tan quân Mãn Thanh, áp dụng binh pháp thiên biến vạn hóa: Binh Pháp Nguyễn Huệ.
Quân đội hùng dũng
Kỷ luật sắt thép
Tình báo chính xác
Kế hoạch tinh vi
Chuyển quân chớp nhoáng
Chỉ huy dũng mãnh
Trận đánh thần tốc
Ân uy, độ lượng
Vua Quang Trung tổ chức một đội binh dũng mạnh. Ông thường nói: “Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều”.
Theo lời các nhà truyền giáo Tây Phương, quân đội của ông có tinh thần chiến đấu cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được huấn luyện gan dạ, một chống nổi ba bốn nên đánh đâu thắng đấy.
“Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, nói lên tính cách quan trọng của tình báo. Vua Quang Trung có một đội ngũ tình báo tài giỏi, tháo vát, lại có thêm hai thủ lãnh người Hoa là Lý Tài và Tập Đình về giúp, tình báo viên len lỏi, xâm nhập vào lòng đất địch để lấy tin tức chính xác, biết quân địch muốn gì và đang làm gì.
Kế hoạch hành quân, tấn công chớp nhoáng vào địch quân là một chiến thuật thần tốc kỳ tài của Vua Quang Trung, thiên biến vạn hóa, áp dụng như thần trên các chiến trường Nam Bắc. Quân Xiêm La được Nguyễn Phúc Ánh rước về Nam Việt Nam và làm chủ tình hình Gia Định từ tháng 8 năm 1784. Nguyễn Huệ đem quân vào Rạch Gầm - Xoài Mút thuộc tỉnh Định Tường, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các điểm chiến lược. Quân Xiêm đến, quân của Nguyễn Huệ tràn ra đánh cả hai mặt thủy bộ, quân Xiêm xoay trở không kịp, chết rất nhiều, chỉ còn vài ngàn người, tìm đường thoát thân chạy về nước.
Quân Tàu được Lê Chiêu Thống rước về Bắc Việt Nam qua ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang, Cao Bằng và làm chủ tình hình Thăng Long từ tháng 11 năm 1788. Quân ta ít, quân Tàu đông, quân ta ở xa tới, quân Tàu đã xây đồn lũy, làm chủ tình thế. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết, Vua Quang Trung tuyên bố: “Lần nầy ta ra trận hành quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua 10 ngày là đuổi được quân Thanh”. Ông chia quân làm 3 đạo, với binh pháp Nguyễn Huệ, mẹo mực như thần, hành quân tốc chiến tốc thắng và chưa đầy một tuần lễ, đã phá tan đoàn quân xâm lược Mãn Thanh, quân ta chiến thắng vẻ vang, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Một điểm khác, Vua Quang Trung điều binh rất nhanh. Ông chuyển quân vào Miền Nam, ra Miền Bắc quân thủy bộ đi rập với nhau, ăn khớp trong việc lập thế trận. Trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Trần Công Xán phát biểu: “Người Tây Sơn hành quân như bay tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”.
Vua Quang Trung cũng áp dụng đúng mức chiến tranh tâm lý, là để quân Xiêm La và quân Xâm lược Mãn Thanh, cướp bóc hiếp đáp nhân dân, tạo nộ sĩ trong dân chúng, với lòng căm phẫn quân thù bạo tàn. Ông là một tướng tài, một vị vua khoan dung độ lượng, lấy ân uy và đảm lược chinh phục lòng người, nên ai nấy đều kính sợ.
4. Cái Trí và Cái Dũng
Ông là người có một bộ óc thông minh lỗi lạc, một nhãn quan đặc biệt, một uy vũ khác thường. Sách Đại Nam Chính Biên Lược Truyện có đoạn tả chân dung của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ: “Ông ta tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như ánh điện, là người thông minh kiên quyết, giỏi chiến đấu, người người đều kính nể”. Ngoài cái dũng của vị anh hùng tài trí, tiên phong nơi chiến trận, ông có nhiều mưu lược tùy cơ ứng biến trong các trận đánh khác nhau, từ đồi núi đến đồn lũy, từ bộ chiến đến thủy chiến, biến hóa không lường, chiến thuật điều binh chớp nhoáng, đem lại chiến thắng vẻ vang:
Đệ nhất anh hùng giữa thế gian
Dẹp tan xâm lược cứu giang san
Đống Đa giặc Mãn thây chồng chất
Xoài Mút quân Xiêm xác ngổn ngang
Kim Cổ vĩ nhân so xứng bậc
Đông Tây danh tướng sánh cùng hàng
Quang Trung thế hệ tài năng trẻ
Tô điểm nhà Nam rạng vẻ vang
Vua Quang Trung có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh từ một tinh thần Quốc Gia cấp tiến và sáng suốt về việc sử dụng chữ Nôm, một ý niệm Cách Mạng Tự chủ Độc Lập. Ông nghe ai tài giỏi hiền đức, lấy lễ Tân Sư, tức vừa coi là khách vừa coi là Thầy, mời tham gia việc nước Các bậc tài danh như La San Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Ninh Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Trần Bá Lâm, Võ Huy Tấn
đều được mời tham chính. Ông chỉnh đốn triều chính, cải cách ruộng đất, cải tổ thuế khóa. Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền để độc lập về mọi mặt và đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.
5. Niềm Tự Hào Dân Tộc
Dân Tộc Việt Nam tự hào về vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Thế hệ con cháu mai hậu sẽ xây Khải Hoàn Môn Việt Nam tại núi Bàn Sơn, nơi xuất quân ra Bắc đánh quân xâm lược, hay tại Gò Đống Đa, nơi chiến thắng quân Tàu để vinh danh ông. Ông là bậc kỳ tài dũng mãnh, với một thời gian ngắn kỷ lục, ông đã tiêu diệt 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, đến nỗi Vua Càn Long phải nể vì, mời Vua Quang Trung tham dự lễ Khánh Thọ Bát Tuần của mình được tổ chức tại Nhiệt Hà bên Tàu, để nhìn mặt thật sự và chiêm ngưỡng người đã chiến thắng vẻ vang Thiên Triều phương Bắc. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện có đoạn nói Vua Càn Long Nhà Thanh rất vui mừng và phê ngay vào góc tờ biểu: “Ta sắp được gặp nhau là điều mong ước lớn”.
Từ những chiến thắng vinh quang ấy, khi Vua Quang Trung tại vị, bãi việc cống người vàng thế mạng Liễu Thăng, mà nước Tàu đã áp đặt các vị vua Việt Nam, hàng năm phải triều cống từ năm Đinh Mùi 1427.
Vua Quang Trung đề cao tinh thần Quốc Gia Dân Tộc, dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán trong các chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú. Những vần thơ trữ tình của Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, thiên trường ca Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, bản dịch Chinh Phục Ngâm của Đoàn Thị Điểm là những áng văn chữ Nôm tuyệt tác, với sự đóng góp cơ bản thuần túy Dân Tộc vào nền Văn Hóa bắt đầu mang tích cách Độc lập, Tự chủ của Dân Tộc Việt Nam.
Hơn thế nữa, Vua Quang Trung còn chuẩn bị kế hoạch đòi lại 6 châu thuộc Hưng Hóa, 3 động thuộc Tuyên Quang, đã bị nước Tàu xâm chiếm trước kia, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Công việc đóng tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả sang Tàu năm Nhâm Tý 1792, cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi đất đai, là cái cớ đánh lấy lại đất, nếu Thanh Triều từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Sứ giả Việt Nam sang Trung Quốc thì được tin Vua Quang Trung thăng hà, sứ giả phải quay về.
Bài học Lịch Sử có đoạn:
Máu đào nhuộm thắm từng trang
Chỉ quen chiến đấu đầu hàng không quen
Em ơi nước mất bao phen
Mà phen nào cũng vang tên anh hùng
Nói lên những trang sử Việt Nam viết bằng máu và nước mắt. Nhiều vị anh hùng đã đẩy lui quân xâm lược phương Bắc như Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ , nhưng chiến thắng Đống Đa của Vua Quang Trung là trận đánh nhanh nhất, trong thời gian kỷ lục 5 ngày đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, nhanh chưa từng thấy, làm quân Tàu hãi hùng khiếp sợ, làm rạng danh trang sử Việt Nam. Từ cửa ải Lạng Sơn trở lên phía Bắc, người Tàu già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn, trên mấy trăm dặm tuyệt nhiên không có người và khói bếp.
Trong Sách Trí Thức Việt Nam cuối thế kỷ 18, ông Hồ Văn Quang viết: “Vua Quang Trung mang một bản sắc khá đặc biệt, không chỉ riêng cho Dân Tộc Việt Nam mà cho cả thế giới. Đối với chúng ta, không có gì gượng gạo, là quá đáng khi ghép đằng sau tên ông những danh từ đẹp đẻ, kính trọng đầy thán phục như: Anh hùng, thiên tài quân sự, thiên tài ngoại giao, một chính trị gia lỗi lạc, một nhà cải cách xuất chúng, một vị Thánh, một vị Thần linh, vì chỉ có ông ta mới xứng đáng mang danh Đại Đế, đã đưa Dân Tộc nhỏ bé như Việt Nam có thể đạt đến đỉnh vinh quang sáng chói nhất tại vùng Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18”.
Vua Quang Trung là niềm hãnh diện và tự hào của Dân Tộc Việt Nam, là tấm gương sáng cho thế hệ tuổi trẻ Dân Tộc Việt Nam.
Đặng Đức Bích
Tài liệu tham khảo:
Đại Nam Nhất Thống Chí - Nguyễn Tạo
Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Thời Chí
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sĩ Liên
Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim
Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu - Đặng Xuân Bảng
Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn
Trí Thư VN cuối thế kỷ 18 - Hồ Văn Quang
L'hisfoire du Việt Nam - Philippe Devillers
L'lmpire d'Annam - Gosselin
Theo Hùng Sử Việt
Nhà vật lý đi tìm mộ vua Quang Trung
Nhà vật lý đi tìm mộ vua Quang Trung
Cập nhật lúc 08h18" , ngày 22/06/2006
“Nếu cho đi lại từ đầu, tôi vẫn chọn con đường vật lý, nhưng vẫn tiếp tục cuộc tìm lăng mộ vua Quang Trung. Đó là cả niềm tôn kính” - Trần Viết Điền, giảng viên khoa vật lý Trường ĐH Sư phạm Huế, nói vậy sau hơn 20 năm lận đận tìm kiếm lăng mộ của vị anh hùng áo vải Tây Sơn trên đất cố đô Huế.
http://www.vnmedia.vn/images_upload/small_58793.jpg
Trần Viết Điền và viên gạch lăng Ba Vành trên tay: “Loại gạch này có cùng chất liệu, kích cỡ... giống với các công trình khác còn lại của triều Tây Sơn”.
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”
Khi đoạt phần thưởng danh dự toàn Trường Quốc học Huế năm học 1972-1973, Trần Viết Điền đã không chọn con đường du học nước ngoài được dọn sẵn, mà chọn ngành lý hóa của ĐH Sư phạm Huế theo nỗi đam mê từ thuở nhỏ.
Tốt nghiệp vào năm 1977, anh đạt thủ khoa toàn viện ĐH, được giữ lại trường dạy môn toán giải tích, sau này chuyển sang dạy môn cơ học lượng tử kiêm luôn phong trào Đoàn của trường suốt 15 năm.
Lúc còn là sinh viên, Trần Viết Điền đã chuẩn bị hành trang cho các công trình nghiên cứu sau này, trong đó nổi bật là hai công trình “Sự chuyển hóa giữa trường và chất” và “Về siêu nguyên tử electron - nơtrinô”.
“Tổng năng lượng của con người thông qua ăn uống hằng ngày không đủ cấp cho các hoạt động của con người, vậy năng lượng bù đắp ấy từ đâu ra, phải chăng xuất phát từ siêu năng lượng do sự tương tác lượng tử trong não bộ thông qua hoạt động tư duy? Tôi thường nghĩ đến nguyên cớ câu Kiều “Thác là thể phách, còn là tinh anh” của cụ Nguyễn Du; nhiều công trình nghiên cứu về ngoại cảm cũng đã cho một số kết quả bước đầu, về những gì của con người mà chính con người chưa hiểu biết hết” - anh nhớ lại.
Kết quả 13 năm nghiên cứu, vào năm 1984 anh chứng minh trước hội nghị về vật lý do Trường ĐH Sư phạm 1 Hà Nội tổ chức rằng năng lượng từ hạt nơtrinô trên lớp vỏ electron lớn gấp triệu lần năng lượng hạt nhân trên nguyên tử. Đề tài này được đánh giá cao, nhất là về mặt ý tưởng. Tất nhiên mức độ chính xác còn cần được kiểm nghiệm, chứng minh qua thực tiễn.
Trong thời gian chờ đợi một cơ sở thực nghiệm chứng minh đề tài, Trần Viết Điền trở về Huế. Thế rồi, trong một lần gặp gỡ với trí thức Huế và tiếp xúc nhiều nguồn tư liệu, một vấn đề khoa học đã tác động đến anh: lăng Ba Vành - khu lăng lớn nằm ở đồi Thiên An - chưa có chủ nhân; chưa tìm được lăng mộ vua Quang Trung và hàng tá dữ liệu liên quan...
Nỗi u hoài về việc chưa tìm được nơi an nghỉ cuối cùng vị anh hùng dân tộc Quang Trung, cộng với lòng ngưỡng mộ, tôn kính chợt trào dâng trong Trần Viết Điền, đã khiến anh đi đến một quyết định: phải tìm cho được lăng mộ người anh hùng áo vải.
http://giadinh.net.vn/UserFiles/Imag...uang-Trung.jpg
Đống đổ nát trong khu lăng Ba Vành, nơi được anh xem là Đan Lăng của Quang Trung.
20 năm “phong trần”
Vị trí phần mộ Quang Trung (Đan Lăng) nằm ở đâu hầu như không có một tư liệu, chứng cớ xác thực nào, ngoài sự xuất hiện “thấp thoáng” trong các cổ văn còn ghi chép lại. Lúc Trần Viết Điền nhập cuộc, vị trí của Đan Lăng đã là đề tài tranh cãi của nhiều nhà sử học mà không ai chịu ai suốt hơn nửa thế kỷ trước đó.
Vậy mà sau một khoảng thời gian nghiên cứu, Trần Viết Điền đã đưa ra một thuyết gây “choáng”, thậm chí là điên rồ đối với nhiều người: lăng Ba Vành chính là lăng mộ vua Quang Trung. Việc xác định vị trí chính xác của Đan Lăng đến nay chưa có hồi kết, ngay cả Trần Viết Điền cũng chưa thể chính thức khẳng định, nhưng tấm lòng của một người dám đánh đổi cả cuộc đời, sự nghiệp của mình để vào lĩnh vực trái chuyên môn mà lại say mê như anh quả là hiếm.
Vào những năm khi đồng lương giáo viên hai vợ chồng còn không đủ nuôi con, vậy mà Trần Viết Điền đã dành phần lớn thời gian, lương bổng, tiền của vào việc sưu tầm thư tịch, tổ chức khảo sát thực địa, chụp ảnh, ghi chép...
Vợ anh, chị Nguyễn Thị Hiệp, nhớ lại: “Lúc ăn cũng nhắc đến Quang Trung, khi ngủ cũng huơ tay, huơ chân, có lúc diễn thuyết một tràng dài như đang trình bày trước cử tọa. Người như bị ma ám, nửa ngờ nửa tỉnh, nhà đã chật mà hồ sơ, tài liệu ngổn ngang như hàng xén, không ai chịu nổi. Khi anh lấy chỉ vàng còn lại là của hồi môn duy nhất để lo việc “trên trời dưới đất”, tôi nghĩ đến chuyện gia đình đến lúc tan vỡ”.
Tất cả sức ép ấy từng đẩy anh vào trạng thái suy sụp tột độ bằng quyết định rời bỏ giảng đường ĐH, lang thang, lây lất.
Nhưng ý chí, nghị lực và nhất là con đường khoa học còn dài phía trước làm anh sực tỉnh, quyết định vực dậy chính mình, trước tiên bù lỗ hổng kinh tế gia đình sau mấy năm theo vụ Đan Lăng làm cho kiệt quệ. Anh liên hệ nhận dạy kèm ở khắp nơi, đủ các cấp, các môn từ toán, lý, hóa cho đến văn, sử.
Anh xin việc ở Sở Giáo dục, rồi quay sang Trường bán công Nguyễn Trường Tộ. Sau này, Trường ĐH Sư phạm Huế đã gọi anh trở lại làm việc với chân dạy hợp đồng môn toán học dùng cho vật lý. Cuộc sống cân bằng trở lại từ đó.
Trong thời gian này, cùng với việc tìm kiếm Đan Lăng, để chứng tỏ khả năng “không ngoại đạo” trong nghiên cứu văn hóa lịch sử của mình, Trần Viết Điền tiếp tục nghiên cứu sâu và công bố nhiều bài viết về những vấn đề hóc búa gây tranh cãi, như trận địa chiến cầu Lạc Nô xác định địa điểm chiến trường Quang Trung tiến đánh Phú Xuân (1786), trống đồng Đông Sơn là khí cụ thiêng liêng của lễ đảo vũ (cầu mưa), đài quan tượng triều Nguyễn, danh xưng sông Hương, cửa Ngọ Môn, điện Cần Chánh, giếng cổ Gio Linh (Quảng Trị)...
Đến nay đã trải qua 20 năm chịu “phong trần” cả trong khoa học và thế cuộc, Trần Viết Điền vẫn tiếp tục cuộc nghiên cứu Đan Lăng với tất cả lòng tôn kính và say mê như ngày nào...
Năm luận chứng khoa học về lăng mộ vua Quang Trung của Trần Viết Điền: lăng Ba Vành không phải là của Hộ bộ thượng thư Lê Quang Đại thời Nguyễn Phúc Khoát; Tòa Khâm sứ Pháp xứ Trung kỳ từng làm hồ sơ giả để hợp thức hóa chủ nhân lăng Ba Vành là Lê Quang Đại; các kiểu thức, môtíp trang trí, qui mô... lăng Ba Vành hội đủ điều kiện của một lăng vua; vật liệu xây dựng hoàn toàn giống ở Giao đàn, Văn miếu và một số công trình thời Tây Sơn; Gia Long không san thành bình địa Đan Lăng để lấy bằng chứng tố cáo với nhà Mãn Thanh tội khi quân của triều Tây Sơn (Quang Trung táng ở Phú Xuân mà báo cáo là ở Thăng Long). Những luận chứng này được nhiều nhà khoa học đánh giá thuộc hạng “nặng ký” về vị trí lăng mộ vua Quang Trung cho đến thời điểm này.
(Theo TTO)