Xin các anh chị giúp về Vãng Sanh Thần Chú
Thưa các anh chị, sau này trong lòng tôi tự nhiên muốn khởi nguyện là trì niệm Vãng Sanh Thần Chú để hướng về các vong hồn để họ được ấm áp bình an và siêu thoát, tôi có xin được bài niệm Vãng Sanh Thần Chú này để trì niệm hàng đêm (21 biến), vậy xin hỏi các anh chị là tôi dùng bài niệm này được không, cách thức để trì niệm và còn bài kinh nào khác để trì niệm cho các vong hồn hay không? Xin các anh chị giúp đỡ dùm, chân thành cảm ơn nhiều lắm.
VÃNG SANH THẦN CHÚ
Nam-mô A-Di-Ðà Bà-Dạ, Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tất-Ðam-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ðế,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ða,
Già-Di-Nị, Già-Già-Na,
Chỉ-Ca-Ða-Lệ, Ta-Bà-Ha.
Đại bi Sám Pháp ( Nghi Quỹ tham khảo)
ĐẠI BI SÁM PHÁP
http://www.phatviet.com/dichthuat/ht...nh/kinh_18.htm
Ý NGHĨA THẦN CHÚ ĐẠI BI : Thời Phật còn tại thế, ở núi Bồ đà lặc ca, tại đạo tràng Bảo trang nghiêm cùng hàng tam thừa bát bộ và chư thần vân tập đông đủ, ngài Quán thế âm bí mật phóng hào quang soi khắp mười phương quốc độ, Ngài chấp tay bạch rằng:
" Bạch Đức Thế Tôn, con có thần chú bí mật muốn nói cho mọi người biết để trì tụng cho thân tâm được an lạc, không tật bệnh, sống lâu nhiều phước lộc. Thần chú này có công năng dứt trừ các tội ác và cầu mong gì thì như ý muốn."
Đức Phật chấp nhận cho ngài Quán thế âm được trình bày thần chú của mình. Ngài bạch Phật rằng:
"Thời quá khứ trải qua vô lượng ức kiếp có đức Phật xuất thế, hiệu Thiện Quang vương Tịnh trú Như lai, vì con mà nói thần chú Đại bi. Thuở ấy, con đang ở quả vị sơ địa mà một lần nghe thần chú Đại bi, con liền đạt đến quả vị thứ tám. Con phát đại nguyện: "Nếu thần chú này làm cho chúng sanh đời sau có sự ích lợi to lớn thì phải khiến thân con có ngàn cánh tay và ngàn con mắt".
Nguyện như vậy rồi, quả thật thân con có ngàn cánh tay và ngàn con mắt, tha thứ vang động. Các đức Phật phóng hào quang chiếu nơi thân con. Hào quang cùng chiếu vô biên thế giới.
Con lại nguyện: "Nếu có người nào tụng thần chú này năm lần thì trừ được các tội nặng của nhiều đời kiếp trong vòng luân hồi sanh tử. Và người ấy khi thân mạng sắp mất được mười phương chư Phật đưa tay thọ ký cho họ sanh về cõi nước Tịnh độ".
Con thề rằng: "Nếu người tụng thần chú Đại bi mà bị đọa lạc vào ba đường dữ, không sanh về cõi nước của đức Phật, không được vô lượng tam muội biện tài và những sự cầu nguyện không như ý muốn thì không xứng đáng để gọi thần chú Đại bi".
Ngoại trừ những hạng người trì tụng thần chú này mà tâm không có thiện hảo, cứ độc ác, không tha thiết chí thành, chỉ có một chút nghi ngờ là không hiệu nghiệm.
Nếu có những người đã từng phạm mười trọng tội và gây ra năm thứ nghịch chướng to lớn, hủy báng Phật pháp, phá giới cấm, làm các điều dơ bẩn trải qua nhiều đời nhiều kiếp, dầu có gặp Phật xuất thế mà không chịu sám hối chừa bỏ các tội ác, một lần chí thành không mảy may nghi ngờ mà tụng thần chú Đại bi này là bao nhiêu tội lỗi đã tạo ra trong quá khứ đều được dứt trừ hết.
Nếu có ai gặp các sự rủi ro tai nạn khốn khổ mà tụng Đại bi thần chú đều được thoát khỏi một cách dễ dàng.
Nếu người tụng Đại bi thần chú để cầu nguyện, kết luận cầu nguyện gì đều được như ý.
Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: Thần chú bí mật của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới biết mà thôi, còn ngoài ra không ai có thể hiểu được dù cho có đạt đến địa vị thánh hiền đi nữa. Nhưng rất hiệu nghiệm, có công năng làm tiêu mất tội nghiệp và chóng đạt đến quả vị giải thoát, cho những ai thành tâm trì tụng.
Thần chú là một ấn chư Phật tương truyền không thể diễn giải, chỉ có tín tâm đọc tụng hoặc thầm niệm là có sự linh cảm hiệu nghiệm tột bực.
Bát nhã kinh dạy rằng: Thần chú là liều thuốc hay, là nước cam lồ vi diệu trị lành các thứ bệnh của mọi người. Nếu ai chuyên trì tụng sẽ thường được an lạc.
Trong Ký thủ kinh, đức Như Lai dạy có năm tạng: Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, Bát nhã tạng, và Thần chú tạng. Mà hiệu quả nhất, chóng an lạc giải thoát nhất là tụng Thần chú.
Qua những lời Bồ tát Quán thế âm bạch Phật và các kinh dạy trên thì rõ ràng thần chú này quá diệu dụng, rất đáng được cho mọi người hành trì.
Kinh chú của Phật, tất cả mọi người đều có thể trì tụng, nhưng muốn được lợi lạc trong khi tụng kinh trì chú, người Phật tử hãy cố gắng giữ gìn thân, miệng và ý của mình được trong sạch, siêng năng ăn chay, giữ giới. Phật dạy: làm các việc bố thí, phóng sanh, dứt điều ác, làm việc thiện, thì mới được kết quả tốt đẹp.
Đại bi Sám Pháp có thể thực hành như sau:
1/ Chọn một chỗ yên tĩnh thanh vắng vào một giờ nhất định trong ngày, đọc một lượt từ đầu đến cuối.(không cần có ban thờ, không cần thắp hương, không cần đồ lễ, không chuông không mõ)
2/ Nếu có điều kiện hơn, trong nhà có ban thờ, hằng ngày có thể chọn một thời khắc thanh vắng, sửa soạn nghi thức như sau:
Lau sạch ban thờ, thay hoa thay nước ( không có hoa cũng được), rót 8 chén nước (nước sạch uống được) đặt lên ban thờ. Khi đốt nhang thì đọc kệ đốt nhang:
“ Lư hương xạ nhiệt –
Pháp giới mông huân-
Chư Phật hải hội –
Tất diêu văn-
Tùy xứ kiết tường vân –
(Nam mô hương vân cái bồ tát Mahatat-3 lần)”
Rôi ngồi an vị, chắp tay thỉnh mời như sau:
Con niệm Na mô A di Đà Phật- 3 lần
Con lạy Trời, lạy Phật
Con kính lạy Đức Phật cao linh diệu linh
Con xin tấu xin trình Càn Khôn – Vũ Trụ
Chúng con mệnh chủ là:…………….. sinh năm: ………….. Pháp danh:…………..
Vợ (chồng) con là: …………..sinh năm: …………… Pháp danh:………………..
Ở tại số nhà:……… tổ …… ngõ ngách ….. … phố……………. phường…. ………………..
quận huyên………. Tỉnh………………. Việt Nam Quốc
Con xin thay mặt (thân mẫu, thân phụ và trưởng nam) cùng toàn thể đồng đẳng quyến gia, trai gái trẻ già xin phép:
- Cho con được thỉnh mời Nhị vị Thủy tổ thần dân Nam Việt Cha Rồng Mẹ tiên, Tứ bất tử nước Nam- Tứ linh Nam việt, Bách Thần Nam Việt về cảnh đạo này bái Phật và cùng con tu hành
- Cho con được thỉnh mời ……. Gia Tiên tổ, Cửu huyền thất tổ, chầu tổ, Cô tổ, Ông hoàng cậu quận cùng các chư chân linh họ……. nội ngoại tương tề ba bề bố bên và các chủ nợ đường âm từ nhiều đời nhiều kiếp của cả dòng tộc họ …..chúng con về cảnh đạo đây bái Phật cùng con cùng cháu thắp nén hương tâm dâng lời xám nguyện, thực hành nghi thức Đại bi Sám Pháp
PHƯƠNG PHÁP TRÌ CHÚ ĐẠI BI ( http://hoasentrenda.com/ )
Đệ có cuốn Đà La Ni xuất tượng của Nguyên Phong dịch, nguyên câu (trang 15) là:
Phát nguyện ấy rồi, chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi và phải chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấng Bổn Sư của tôi, vậy sau mới tụng đủ năm biến, là đã trừ diệt tội nặng trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử trong bản thân.
Kinh nghiệm bản thân của nhóm lu bu thì không cần tới năm biến mà chỉ cần một biến thôi cũng đủ, nếu có một tâm lực mạnh. Cái chìa khóa của cách trì tụng không nằm ở con số năm mà lại nằm ở đoạn trên đó, mà đệ xin ghi lại một lần nữa cho rõ:
Phát nguyện ấy rồi, chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi và phải chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấng Bổn Sư của tôi, vậy sau mới tụng đủ năm biến.
Khi đọc tới đây, đệ hiểu rằng phải đọc liên tục và không được dứt niệm. Như vậy, thì dùng cái gì hay cách gì để cùng một lúc có thể đọc:
1. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (y như kinh đã ghi câu: "chăm lòng xưng niệm danh hiệu của tôi")
2. Nam Mô A Di Đà Phật (để thoả điều kiện: "và phải chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà Như Lai là đấng Bổn Sư của tôi").
3. Và trì tụng chú Đại Bi, như kinh đã chỉ cách: (vậy sau mới tụng đủ năm biến).
Đệ tìm ra có hết thảy... ba cách để có thể trì tụng:
Cách 1:
Dùng trình độ chánh định của Tứ Thiền Hữu Sắc để quán cho ra cả ba vị: Phật A Di Đà ở ngay giữa, bên phải của Ngài là Bồ Tát Quan Thế Âm, bên Trái của Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát. Tất cả đều đứng trên Hoa sen năm cánh. Sau đó là tác ý đọc chú Đại Bi.
Cách 2:
Cũng dùng trình độ chánh định trên mà quán cho ra chữ Hrih (vốn là tâm chú của Quan Thế Âm Bồ Tát và cũng là tâm chú của Ngài A Di Đà Phật). Chữ có màu đỏ trong cái mặt trời màu vàng sáng chói. Và sau cùng là tác ý đọc Chú Đại Bi.
Cách 3:
Nhắm mắt nhìn chăm chú vào một điểm ngay đằng trước mặt và trì chú. Cách này chỉ dùng niềm tin với một tâm lực yếu hơn hai cách trên. Biểu hiện khi trừ diệt tội nặng:
Ở hai cách đầu (1 và 2) thì linh ảnh biến mất và sẽ xuất hiện một màn ảnh rất là lớn (có thể nói là cả cái tầm nhìn 360 độ). Ở ngay giữa là một hình ảnh khá lớn, hình ảnh này mang ý nghĩa tổng quát của những khuynh hướng gây tội của mình, và chung quanh cái hình chính này là những hình nhỏ như ngón tay cái, mỗi hình lại diễn tả chi tiết nhũng lần phạm tội của mình, nếu mình tập trung vào cái hình đó. Kế đó, một giọng nói xuất phát từ một điểm cao hơn tầm nhìn khoảng 45 độ và ngay đằng trước mặt. Giọng nói này vang khắp cả bầu trời làm chấn động cả không gian:
NGHI THỨC TRÌ TỤNG ĐẠI BI SÁM PHÁP
Một Trì chú, phụng hành
TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN(21 lần): Om ! Ram Xoá Ha
Âm hán việt: Án, lam tóa ha
TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN (3 lần)
Om xoa pha va, súd đa sạt va đạt ma xoa pha va súd đa hàm
Âm Hán Việt: Án sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, Đạt ma sa phạ, bà phà truật độ hám.
HỘ THÂN CHÂN NGÔN (21x): Om ! Si-Ram
Âm Hán Việt: Án, Sỉ Lâm
AN ĐỊA THIÊN CHÂN NGÔN (7x):
Na Mắc Sa măn ta Buýt đà năm, Om! Đuru Đuru Điri Điri Pơ-rít thi vi dê Xoá ha
Nam mô tam mãn đà, một đà nẫm án tô rô tô rô, địa vĩ ta bà ha
PHẢ CÚNG DÀNG CHÂN NGÔN: Án nga nga nẫng tam phạ phiệt nhiệt la hộc.(3 lần)
Kính lạy đức Thế tôn,
Quy y các Phật đà,
Nay con phát đại nguyện
Trì tụng chú Đại bi,
Trên trả bốn ơn nặng,
Dưới giúp ba đường khổ.
Những người thấy, nghe được
Đều phát tâm bồ-đề,
Thực hành hạnh trí huệ,
Tập hợp mọi phước đức
Báo thân này kết thúc,
Đồng sanh cõi cực lạc.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3x)
Phật pháp tuyệt diệu,
Cực kỳ cao xa,
Trăm ngàn vạn kiếp
Khó mà gặp được.
Nay con thấy nghe, Lại được thọ trì
Nguyện cầu thấu hiểu
Ý thật của Phật.
Kính nghe
Đấng viên thông giáo chủ,
Vẻ từ ái trăng tròn.
Hầu Di Đà nơi Cực lạc Tây phương,
Giúp Thích Ca cõi Ta bà uế trược.
Ở trên núi báu lưu ly
Ngự giữa sen hồng nghìn cánh,
Quá khứ là Chánh pháp minh vương,
Hiện nay là Quán âm tự tại,
Ba mươi hai ứng rộng độ quần sinh,
Bảy nạn, đa cầu,
nhiều phương ứng vật.
Sức mầu thù thắng
Tán thán khôn cùng.
Ngưỡng trông đức cả từ bi
Rũ lòng thương tưởng.
Hai tác bạch
Hôm nay ngày ... tháng ... năm ... ….Ðệ tử (chúng) con pháp danh:……, ở tại ……, thần dân Nam Việt quy đầu Tam bảo, phát nguyện trì chú Ðại bi, hồi hướng công đức cầu nguyện cho gia tộc chúng con cùng cửu huyền thất tổ và các chủ nợ đường âm của chúng con, chúng sinh các pháp giới được từ bi hỷ xả hoan hỷ hải hà, nương theo giáo lý của phật tòa tha thứ cho nhau tất cả các ân oán, ai oán, hận oán, thù oán, oan oán, cừu oán, uất oán, huyết oán để trong lòng được thanh thản nhẹ nhàng, đường tu được tinh tấn, không say đắm bạn, không có hân thù sớm được luân hồi chuyển nghiệp.
Cầu cho tất cả thần dân Nam Việt được nhẹ nghiệp đường âm, sớm ngộ ra lý đạo của Trời Phật cao sang để chúng con lấy đạo tu thân, lấy đạo tề gia, lấy đạo để mang ra giúp nước, để chúng con được đủ việc quanh năm, trên thuận dưới hòa, trong ngoài đoàn kết, con thảo cháu hiền, chăm ngoan học giỏi,.…cầu cho bản thân, cho thân nhân, cho chúng sinh, tất cả cùng được thành tựu đại bi thắng phước.
Ngưỡng nguyện đức đại bi Quán thế âm cùng Phật Pháp Tăng vô thượng tam bảo mật thùy chứng minh da hộ (1 lạy).
Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán-thế-âm Bồ-tát .( 1 lạy)
Ba đảnh lễ, phát nguyện (Mỗi nguyện là một lạy)
Cúi lạy Quán âm đại bi chủ,
Nguyện lực sâu dày tướng hảo thân.
Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì.
Nghìn mắt sáng ngời soi muôn nẻo.
Mật ngữ phô bày trong thật ngữ,
Bi tâm khơi dậy giữa vô tâm.
Khiến con sớm trọn các mong cầu,
Vĩnh viễn diệt trừ bao tội chướng.
Long thiên thánh chúng thường gia hộ.
Trăm nghìn tam muội trọn huân tu.
Thọ trì, thân con quang minh tràng.
Thọ trì, tâm con thần thông tạng.
Rửa sạch trần lao nương biển nguyện,
Siêu chứng bồ đề phương tiện môn.
Con nay xưng tụng, thề quy y
Sở nguyện như lòng thảy trọn đủ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng thông hết thảy pháp.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm chứng mắt trí huệ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng độ hết muôn loài.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm trọn phương tiện khéo. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng lên thuyền bát-nhã.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt qua bể khổ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng tròn giới định đạo.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên đỉnh niết bàn.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng đến nhà vô vi.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nguyện con nhìn núi đao,
Núi đao tự gãy đổ.
Nguyện con nhìn vạc dầu,
Vạc dầu tự nguội cạn.
Nguyện con nhìn địa ngục,
Địa ngục tự tiêu diệt.
Nguyện con nhìn ngạ quỷ,
Ngạ quỷ tự no đủ.
Nguyện con nhìn tu la,
Ác tâm tự dập tắt.
Nguyện con nhìn súc sanh,
Tự chứng thành đại trí.
Bốn trì niệm
Nam mô Quan thế âm bồ tát (21 tiếng đến 49 tiếng rồi lạy 3 lạy).
Nam mô A di đà phật (21 tiếng đến 49 tiếng rồi lạy 3 lạy).
Năm trì chú:
Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da*. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa**. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà*. Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng**,
tát bà tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu*, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng*. Câu lô câu lô kiết mông**. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ*. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi**, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ*. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì**, địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha*, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha**. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha*, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha*.
Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô* mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. Nam mô Phật Đà da, nam mô Đạt ma da. (Trì tụng 5 lần – Trong ngày đọc thêm bao nhiêu lần tùy ý).
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (1x đến 3x):
QuánTự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệc đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Tadytha, Ôm Ga-tê, Ga-Tê, Pa-Ra-Ga-Tê, Pa-Ra-Săm-Ga-Tê, Bô-Đi, Xoá-Ha. Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Khi nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng:
Tadytha, Ôm Ga-tê, Ga-Tê, Pa-Ra-Ga-Tê, Pa-Ra-Săm-Ga-Tê, Bô-Đi, Xoá-Ha. (3 lần)
(Vượt qua, vượt qua, vượt qua bờ bên kia, vượt qua hoàn toàn, tuệ giác thành tựu)
(Tụng xong, quỳ đọc bài Sám-hối):
Sáu, sám nguyện, (Chí tâm sám hối):
Chúng con bởi u minh che lấp nên không biết được do nghiệp lực sâu dày, phúc mỏng tội nhiều nên dân làng con thường nghèo hèn đói rách, hay kiện cáo tranh chấp, nghiện nghập khổ đau. Nay chúng con sơ ngộ lý pháp của cửa Trời Phật cao sang chúng con nhất xin dập đầu xám hối tất cả, bao tội bao nghiệp đã gây ra từ tiền kiếp tới nay và đã tạo dựng trong kiếp tu này.
Mắt Tai Mũi Lưỡi còn cố chấp
Đẹp xấu sang hèn thích của ngon
Nghe lời nói ngọt lời dâm dục
Chẳng nghe lời phải chẳng nghe kinh
Thân: Sát sinh-Trộm cắp-Tà dâm
Tham Sân Si nghiệp Ý cõi trần
Thâm lam, nóng giận, ý tà ác Nghu si cố chấp chẳng học kinh
Chúng con biết còn tâm còn ác
Còn thân là còn tội, cần tu
Còn ghét yêu, ai oán, hận thù
Chưa học phật, thương độ cho tất cả
Bắc cầu duyên, xin phật trời hỷ xả
Sơ ngộ con xin sám hối trước phật Trời
- Chúng con mới ngộ ra, con người ta có phúc có phần, kiếp sống vô thường của trời tất cả. Chúng con xin nguyện hằng ngày hằng ngày nương bóng các thày tu nhân cảnh thế: làm nhiều việc nghĩa đắp gốc trồng cây. Chúng con chỉ có nén hương tâm trình phúc trình phận, trình tâm giác ngộ. Con xin Trời Phật thứ tha, các chủ nợ hoan hỷ hải hà mở ra cho chúng con biết một con đường sám hối, cho chúng con biết cách hoàn duyên trả nghiệp, làm người có ích, có đức có nhân, có phúc có phận trong kiếp tu này. Namô Cầu xám hối bồ tát Mahatat!
*Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, vô thỉ đến giờ, chúng con vốn có tâm tánh thanh tịnh mà lại u mê ám chướng, sống trong pháp tánh bình đẳng mà lại nhân ngã bỉ thử, lỗi gây ra không thể xiết kể, tội bùng dậy khó nỗi hủy diệt. Ngày nay nhờ đại bi của đại bồ tát, đại lực của đại thần chú, con nguyện được tiêu diệt cả (1 đến 3 lần, mỗi lần 1 lạy)
*Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, xin đại bồ tát nắm giữ con bằng ngàn tay, soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết yếu tố tội ác, làm theo hạnh nguyện quảng đại, đủ đại từ bi, chứng đại bát nhã (1 đến 3 lần, mỗi lần 1 lạy)
Giải oan kết thần chú, 3 biến:
giải kết, giải kết, giải oan kết- giải liểu đa sanh oan hòa nghiệp
tẩy tâm địch lự phát kiền thiền- cung đối phật tiền cầu giải kết.
giải kết, giải kết, giải oan kết
giải liểu tiền sanh oan trái nghiệp
bá thiên vạn kiếp giải oan thù
vô lượng vô biên đắc giải thoát.
giải liểu oan gia diệt liễu tội
vạn tội băng tiêu liên trì hội
liên trì hãi hội nguyện an lành
vô thượng bồ đề xin phổ độ Cửi nút, cửi nút, cửi nút oan
Cởi hết nhân oan nợ của đời trước
Cửi oan thù trăm nghìn vạn kiếp
Vô lượng vô biên được giải thoát
Giải hết oan, diệt hết tội
Nguyện gặp Hội Long Hoa trong tương lai
Nguyện gặp cả ba Hội Long Hoa
Chứng quả vị Phật chẳng thoái lui
Án sỉ lâm, án bộ lâm, diệt kim tra, kim tra tăng kim tra,
ngô kim vị nhữ giải kim tra,
chung bất dử nhử kết kim tra. Ta nay vì vong linh cửi kim tra
Sau cuối không cùng vong linh buộc kim tra
án tường trung tường, cát trung cát, ma ha hội lý hửu thù luật,
nhứt thiết oan gia ly ngã thân (Tất cả oan gia lìa thân ta)
ma ha bát nhã ba la mật. Nam mô giải oan kết bồ tát Ma ha tát (3x);
Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú (3x):
Namo Ratna TraYaYa
(nam-mô rát-na tra-dạ-da)
Namo BhaGaVaTe AmiTa haYa TaThaGaTaYa (nammô phagaquatê a-mi-ta-pha-da ta-tha-ga-ta-da)
ARHaTe SamYak SamBudDaYa TaDYaTha:
(a-ra-ha-tê sam-dắc sam-bút-đa-da ta-đi-da-tha:)
Om AMRTe ( Om a mờ rật tê)
AMRTo BhaVe (A MờRậtTô PhaQuê),
AMRTa SamBhaVe (AMờRậtTa SămPhaQuê)
AMRTa ViKRanTe (AMờRậtTa ViKờRăngTê)
AMRTa ViKRanTa GaMiNi
(AMờRậtTa ViKờRăngTa, GaMiNi)
GaGaNa KirTi KaRe (GaGaNa KítTi KaTê)
SarVa KaLe ShaShaYam KaRi, SvaHa
(sa-ra-qua ka-lê sha-sha-dăm ka-ri, xóa-ha). Vãng Sinh Chân Ngôn :
Nam mô A di đa
bà già da dạ
Đá địa dạ tha
A di rị đo bà tỳ
A di dị đá tất đam bà tỳ
A di dị đô tỳ can la đa
A di dị đô tỳ can la đế
Dà dà di nị
Chỉ ca đa lệ Ta bà ha
Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn (3x): RIPA RIPATE, KUHA KUHATE, TRANITE, NIGALARITE, VILARITE, SVAHA.
(ri-pa ri-pa-tê, ku-ha ku-ha-tê, tra-ni-tê, ni-ga-la-ri-tê, vi-la-ri-tê, xoá-ha)
Bổ Khuyết Chơn Ngôn (3x):
ÁN BỐI TỰ RA, MẠI TỰ QUA
NGỮ BẤT CHƠN, LẬU TỰ TA
Ý BẤT CHUYÊN TÂM TẤT TA
MẬU TỤNG KINH THIÊN ĐÃM THA
HƯƠNG HOA TỊNH THỦY THÀNH TÂM Ý
BỔ KHUYẾT VIÊN MÃN TỘI TIÊU MA
CHƯ PHẬT LONG THIÊN CẦU SÁM HỐI
NAM MÔ CÂU SÁM HỐI BỒ TÁT
Bảy hồi hướng
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời thường an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Nguyện đức Từ bi thường gia hộ.
Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não,
Nguyện chơn trí huệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu bồ tát đạo. Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh,
Bất thối bồ tát là bạn hữu.
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
*đánh 3 tiếng chuông, kính cẩn niệm:
- Namô Đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn cho tất thảy chúng sinh ở sáu ngả luân hồi được linh cảm ứng quán thế âm bồ tát (3 lần)
- Namô Đại từ Đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn cho các chủ nợ đường âm của dòng tộc chúng con, của thần dân Nam Việt được linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát (3biến)
- Namô Đại từ Đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn cho dòng tộc họ ….. chúng con được linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát (3biến)
- Namô Adi Đà phật (3*3 lần) Tvhs