-
đức bất-động minh-vương
. ĐỨC BẤT-ĐỘNG MINH-VƯƠNG
Đức Thánh-tôn này là một trong số năm đại Minh-vương của Mật giáo. Ngài là thân phẫn nộ của Đại-Nhật Như-Lai biến hoá ra, lúc phải hàng phục tất cả các ác-ma. Ngài giữ vị trí trung tôn của năm đại minh-vương, và cũng là thượng thủ của năm vị đó. Tên chữ Phạn của Ngài là Acala-natha ‘A-đà-la-nẵng-đà’, dịch là Bất-động hoặc Vô-động.
Lời thệ-nguyện của Ngài thì trong Thắng Quân Quỹ nói rằng: “kẻ nào thấy thân ta mà phát-tâm bồ-đề, nghe tên ta mà dứt ác tu thiện, nghe ta nói thì được đại trí-huệ, biết tâm ta tức thân thành Phật.”
Trong Đông Mật thì năm đại Minh-vương được ghi chép như sau:
- Ở trung ương là đại thánh Bất-động Minh-vương;
- Ở phương đông là Hàng Tam-thế Minh-vương;
- Ở phương nam là Quân-Trà-Lợi Dạ-xoa Minh-vương;
- Ở phương tây là Đại Uy-Đức Minh-vương;
- Ở phương bắc là Kim-cang Dạ-xoa Minh-vương;
như vậy là thành hình-tượng của năm đại-tôn. Nhưng dựa vào chỗ sở-truyền trong đài mật thì Kim-cang Dạ-xoa Minh-vương ở phương bắc đổi là Ô-sô-sát-ma Minh-vương.
Năm đại Minh-vương này là do Phật-đà vì muốn bẻ gãy và hàng phục những chúng sanh quá cứng cỏi mà hoá hiện ra thân phẫn-nộ để hộ-trì tam-bảo trong đời vị-lai. Chư vị là giáo-lệnh của năm đức Phật: Đại-Nhật, A-Súc, Bửu-Sanh, Vô-lượng Thọ (A-Di-Đà), và Bất-không Thành-tựu. Các loại thân biến hoá này gọi là Giáo-lệnh luân thân.
Hình tượng của Bất-động Minh-vương có tượng hai tay, tượng bốn tay, và tượng sáu tay. Nhưng phần nhiều thường thấy là tượng hai tay. Thân thông-thường của Bất-động Minh-vương mang sắc xanh đen, vẻ mặt giận dữ nhìn thẳng, chân răng cắn cứng, có tượng mở to đôi mắt, có tượng chỉ mở to một mắt, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm dây; sau lưng xuất-hiện những ngọn lửa lớn, cháy lên mãnh-liệt; phần nhiều ngồi kiết-già trên bàn thạch hay trên toà sắt.
Tướng dũng-mãnh khôi vĩ của Ngài có thể khiến cho quỷ ác, yêu ma, trông thấy phải khiếp sợ. Kiếm bén ở tay phải biểu-thị đầy đủ công-năng đè nén sự giận-dữ, sân-ý và sự ngu-si tức là Tham-Sân-Si, là ba thứ độc hại đối với trí-huệ. Sợi dây ở tay trái có thể trói buộc tất cả những kẻ ỷ mạnh làm càn. Ngọn lửa dữ sau lưng Ngài có thể thiêu đốt hết thảy các thứ phiền-não. Do đó, tất cả các hình tướng kia là để biểu-hiện đức đại-bi của Ngài. Biệt hiệu của Ngài là Thường-trụ Kim-cang. Trong Mạn-trà-la của Thai-tạng giới, Ngài mở đầu phía bên trái của viện Trì-minh.
Trong kinh Đại-Nhật quyển thứ nhất, nói rằng: “Dựa vào phương Nát-lý-để, Sứ Bất-Động Như-Lai cầm Huệ-kiếm, dây lưới; tóc trên đỉnh buông xuống vai trái. Mắt phải to nhìn thẳng mắt trái nhìn xiên. Tướng uy-nghiêm giận dữ, phát ra lửa cháy mạnh, ngồi yên tại thạch bàn…
Trong Bất-Động Tôn Niệm Tụng Bí Mật Pháp có nói: “Ma-ê-thủ-la tức là vị chủ của ba ngàn thế-giới. Ngài có tâm ngạo-mạn cho nên chẳng chịu tuân theo lệnh triệu vời vì Ngài nghĩ như vầy: “Ta làm chủ ba cõi thì có tôn nào triệu được ta?” Rồi Ngài lại nghĩ: “Các vị trì-minh sợ tất cả mọi vật dơ xấu. Nay ta hoá hiện đủ các vật ấy, bao vây bốn bề, rồi đứng ở giữa họ; các vị trì-minh kia có thuật gì động chạm đến ta được?” Lúc bấy giờ Vô-động Minh-vương nhận giáo-lệnh của Phật triệu vị trời kia, thấy Ngài làm việc như vậy bèn hoá ra Thọ Xúc Kim-cang và đi bắt vị trời đó.
Khi ấy vị Bất-tịnh Kim-cang đó, trong khoảnh khắc ăn hết mọi vật dơ uế kia, rồi bắt vị trời nọ đem về đến chỗ Phật ngự. Vị trời ấy liền nói: “Các ngươi là một loại dạ-xoa, còn ta là một vị chư thiên chủ. Làm sao ta có thể nhận lệnh triệu vời của các ngươi được?” Nói xong Ngài bèn trốn về. Cứ như vậy đến bảy lần. Lúc đó, Vô-động Minh-vương bạch Phật rằng: “Bạch Thế-tôn! Vị hữu-tình này vi-phạm pháp tam-muội-đa của chư Phật ba đời. Nay lấy gì mà trị?” Phật dạy: “Hãy dứt bỏ y đi.”
Khi đó Vô-động Minh-vương bèn bắt vị trời đó, dùng chân trái đạp trên đỉnh của y trong nửa tháng. Rồi lại dùng chân phải đạp trên đầu y nửa tháng. Bấy giờ vị trời Đại Tự-tại sắp mất mạng, trong lòng phiền muộn hết sức, liền chứng vô-lượng pháp và được thọ-ký. Do đó có thể biết uy-lực của Vô-động Minh-vương chẳng phải tầm thường.
Tại Đông-mật và trong Đài-mật, Ngài Bất-động Minh-vương rất được sùng bái, cho nên tại các tự-viện thuộc Tông-phái này có khá nhiều di-tích. Bất-động Minh-vương có tám đại đồng-tử làm quyến thuộc của Ngài, đó là: Tuệ-Quang đồng-tử; Tuệ-Hỷ đồng-tử; A-nậu-đa đồng-tử; Chỉ-Đức đồng-tử; Ô-câu-bà-nga đồng-tử; Thanh-Tịnh tỳ-khưu; Căng-yết-la đồng-tử; Chế-sa-ca đồng-tử. (Xem chương X, mục 6: Tám đại đồng-tử Bất-động.) Ngoài ra, còn có thân biến hoá của Bất-động, gọi là Câu-lợi-ca-la Bất-động. Hình tượng của Ngài là thân rắn, trong tư-thế nuốt kiếm, đứng trên bàn đá.