Đường Vào Kalachakra
Phần 1: Bài giảng
Introduction to Kalachakra - by Jhado Rinpoche - Bodhgaya, January 2002
http://img9.imageshack.us/img9/2993/daisujado.jpg
Bài giảng sơ khởi - Ðại sư Jhado Rinpoche
chuẩn bị đại lễ quán đảnh Kalachakra
do đức Ðạt-lai Lạt-ma truyền tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, Ấn độ, tháng 1 năm 2002
Chưa nhận pháp quán đảnh Kalachakra có thể đọc
Hồng Như chuyển Việt ngữ tháng 03 năm 2004.
Phần Mở Đầu
Hôm nay thầy sẽ nói về Kalachakra. Nhiều người trong số các anh chị đến Bồ Ðề Ðạo Tràng là để nhận pháp quán đảnh Kalachakra do đức Ðạt-lai Lạt-ma truyền. Thầy rất cám ơn sự hiện diện của các anh chị. Chính thầy cũng đến đây để nhận pháp quán đảnh, vậy xét trên mặt này, chúng ta giống nhau, cùng đến đây vì Kalachakra.
Buổi giảng ngày hôm nay là để giúp các anh chị khỏi phí phạm cơ hội quí báu này. Chúng ta đến đây là để giúp đỡ lẫn nhau, vì vậy thầy mong bài giảng tối nay sẽ mang nhiều lợi ích cho tất cả. Thầy xin chia sẻ với các anh chị những gì thầy biết về Kalachakra.
Xin đừng nghĩ thầy đến đây để kiếm đệ tử. Thầy không giảng pháp dưới danh nghĩa một đấng đạo sư. Nghe xong bài giảng này, các anh chị không trở thành đệ tử của thầy và thầy cũng không phải là đạo sư của các anh chị. Ðây chỉ là một buổi nói chuyện thân mật, thầy đến để chia sẻ hiểu biết với các anh chị.
Bài giảng sẽ kéo dài ít nhất là hai ngày, mỗi ngày dài hai tiếng, từ 6 đến 8 giờ tối. Vì thời gian có hạn, thầy sẽ nói ngắn gọn trong vòng 1 tiếng rưỡi, còn lại nửa tiếng để dành cho các anh chị nêu thắc mắc. Thầy không biết hết về Kalachakra, nhưng sẽ cố gắng trả lời mọi câu hỏi. Biết đâu sẽ chẳng có những câu hỏi cực kỳ thông minh, mang lại tầm nhìn mới mẻ về Kalachakra, nhờ đó thầy cũng được lợi ích. Vậy nửa tiếng còn lại, xin các anh chị cứ nêu thắc mắc.
Tóm lược đại ý
Qui y Tam bảo là cánh cửa dẫn vào Phật Pháp, chung cho mọi pháp môn trong Phật đạo. Tâm Bồ đề là cánh cửa dẫn vào Ðại thừa. Vậy theo lệ thường, trước khi nghe giảng về Phật pháp, xin các anh chị hãy dọn tâm cho trong sáng để phát khởi tâm qui y Tam bảo và tâm Bồ đề, lấy đó làm động cơ nghe giảng pháp. Chúng ta hãy đọc chung với nhau ba lần lời nguyện qui y tam và lời nguyện phát tâm Bồ đề. Trung tâm ở đây cũng chuẩn bị sẵn mọi vật dụng cần thiết để cúng dường mạn đà la và cúng dường Phật, vậy sau khi đọc xong lời nguyện qui y và phát tâm Bồ đề, chúng ta đọc thêm lời tụng cúng dường mạn đà la.
Là đệ tử sắp nhận pháp quán đảnh Kalachakra, chúng ta cần biết rõ muốn nhận pháp quán đảnh này cần hội đủ những điều điều kiện nào. Vì căn cơ của đệ tử có nhiều mức độ, thấp, trung bình và cao, cho nên điều kiện cần có để nhận pháp quán đảnh cũng có nhiều mức, tương ứng với từng trình độ căn cơ của đệ tử trước khi nhận pháp.
Nói chung, khi nhận pháp quán đảnh, các anh chị phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Phật giáo và ngoại đạo [là tôn giáo khác, ngoài Phật giáo], đâu là nét đặc thù của Phật giáo so với tất cả mọi tôn giáo khác.
Ðồng thời cũng cần hiểu sự khác biệt giữa các tông phái trong Phật giáo, phải hiểu rõ Phật giáo Nguyên thủy khác Phật giáo Ðại thừa như thế nào.
Chọn tu theo khế kinh Ðại thừa là đương nhiên trở thành Phật tử Ðại thừa. Lúc ấy lại cần phải hiểu vì sao Phật giáo Ðại thừa được gọi là cỗ xe vĩ đại, phải hiểu đâu là đặc điểm của Phật giáo Ðại thừa. Hiểu được tầm vóc quí giá của Ðại thừa rồi, lại phải hiểu về sự khác biệt giữa hai tông phái trong Ðại thừa là Ba-la-mật thừa và Kim cang thừa . Ba-la-mật thừa còn gọi Ðại thừa Hiển tông. Kim cang thừa còn gọi là Ðại thừa Mật tông.
Chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao lại nói phương pháp tu Mật tông quí giá thâm diệu hơn phương pháp tu Hiển tông. Mật tông có gì đặc biệt mà gọi là thâm diệu hơn? Chắc chắc không phải vì có nhiều nghi lễ với dụng cụ đẹp đẽ như bình bát, chuông, chày kim cang, tượng ảnh hay nhạc khí. Tất tả những thứ này chỉ là hình thức bên ngoài, tự chúng không thể là nguyên do khiến Mật tông thâm diệu hơn Hiển tông, huống chi kể cả ngoại đạo cũng có khi dùng những dụng cụ tương tự. Vậy cần hiểu rõ nội dung của giáo pháp Kim cang thừa, để thấy rõ Kim cang thừa có đặc điểm gì mà lại gọi là thâm diệu. Ðây là điều cần hiểu cho thật rõ.
Mật pháp [phương pháp tu Mật] trong Mật tông được phân thành bốn bộ, bộ cao nhất gọi là Mật tông tối thượng du già . Ở đây cũng vậy, chúng ta cần hiểu rõ vì sao Mật tông tối thượng du già lại được xem là thâm diệu hơn ba bộ còn lại. Ðây lại là điều cần phải nắm cho thật vững.
Ngoài ra, các mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già cũng được phân thành nhiều loại. Có nhiều cách phân loại, tùy theo hệ cựu dịch là dòng Nyingma, hay tùy theo hệ tân dịch là ba dòng Gelug, Kagyu và Sakya. Hệ cựu dịch có những phương pháp quán tưởng Pháp chủ du già đặc biệt, và hệ tân dịch cũng có một vài phương pháp quán tưởng Pháp chủ du già đặc biệt thuộc Mật tông tối thượng du già, ví dụ như Hevajra, Vajrabhairava và Chakrasamvara. Trong số những mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già, Kalachakra ngày nay được toàn cầu biết đến. Trước đây, mật pháp này chỉ được phổ biến quanh vùng Tây tạng, Mông cổ và Ấn độ, nhưng ngày nay được nhiều người trên toàn thế giới biết đến. Ðiều này chúng ta sẽ có dịp nhắc đến trong lần nói chuyện sau.
Ðể hướng dẫn các anh chị tìm hiểu thêm về Kalachakra, thầy sẽ giải thích về chức năng huân tập của pháp quán đảnh trong giai đoạn phát khởi và trong giai đoạn viên thành . Các anh chị cần tìm hiểu trong khi nhận pháp quán đảnh mình phải quán tưởng những gì, sau đó sẽ nhận về loại ấn tượng nào, sẽ phải tu theo phương pháp nào, và tu như vậy là để thành tựu những gì. Nếu các anh chị chịu khó học hỏi ghi nhớ ý nghĩa và quá trình diễn tiến của pháp quán đảnh, vậy đến khi ngồi nhận pháp, các anh chị sẽ không ngỡ ngàng, vì hiểu được đại khái những gì xảy ra trong buổi truyền pháp.
Ðặc điểm của Phật Giáo
Như đã nói trong phần đại ý, điều đầu tiên nên biết, là Phật giáo khác ngoại đạo như thế nào. Trên thế giới có nhiều tôn giáo, vậy Phật giáo có gì đặc biệt? Chắc chắn không phải đặc biệt vì nghi lễ cúng dường, cúng hoa, cúng hương, quì đảnh lễ, vân vân. Việc như vậy chưa chắc đã là Phật Pháp. Làm như vậy chưa chắc đã là Phật tử.
khế kinh có nói, qui y là vì tìm đường giải thoát mà về nương dựa nơi Phật Pháp Tăng. Phật Pháp Tăng là Tam bảo, là đối tượng của tâm qui y, có khả năng chở che khỏi mọi khổ não. Chở che không chỉ trong một đời, mà cho mọi kiếp về sau và mãi mãi. Tam bảo sẽ luôn giúp chúng ta thành tựu mục tiêu cao nhất. Trong cảnh sống luân hồi, bất cứ vấn đề nào, khổ đau nào, cũng đều phát xuất từ nghiệp chướng phiền não tích lũy trong dòng tâm thức của chúng ta. Vì tích tụ nghiệp chướng phiền não trong tâm thức mà tạo quả là những kinh nghiệm khổ đau phải trải qua trong cuộc sống.
Qui y Tam bảo là quay về nương dựa nơi Tam bảo, nhờ đó có thể thoát được nghiệp chướng phiền não, thành tựu kết quả tối hậu là cởi thoát toàn diện mọi khổ đau và nguyên nhân của khổ đau. Về nương dựa Tam bảo để giải thoát khổ đau là động cơ tu hành chính của Phật tử căn cơ thấp.
Trong khế kinh, Phật dạy nên qui y tại tâm của mình, không qui y nơi nào khác. Ví dụ có người trong tâm thức tích lũy ác nghiệp nhiều đời, đời này lại để tâm mình tha hồ tham sân si, vậy chắc chắn sẽ phải chịu quả khổ. Còn ngược lại mỗi khi tâm bất thiện nổi lên, nếu biết cố gắng áp dụng biện pháp hoá giải, ác nghiệp sẽ từ từ thanh tịnh, trí giác mỗi lúc mỗi thêm khai mở, tâm từ từ thuần hóa, càng lúc càng có khuynh hướng tạo nghiệp lành, càng có khả năng hóa giải ác nghiệp, cứ như vậy sẽ có lúc thành tựu cái gọi là tận diệt khổ đau, giải thoát luân hồi.
Khế kinh có nói muốn giải thoát không cần phải rời bỏ nơi này để đến một cõi đặc biệt nào khác. Khổ đau có thể tận diệt ngay trong thân tâm này. Thân tâm chúng ta đây vốn có đủ mọi tiềm năng để thành tựu nguồn an lạc tối thượng, chỉ cần tìm ra đường tu chính xác, phương pháp tu chính xác, rồi nỗ lực tu hành. Phật nói như vầy: “Phật đạo, là con đường giải thoát”.
Con đường giải thoát không có trong các tôn giáo khác. Tôn giáo khác có thể nói nếu các anh chị tu như thế này, thiền như thế kia, sẽ được phép thần thông ví dụ như bay trên không hay chui trong đất [khinh công, độn thổ], sẽ được thành tựu tâm linh thế này hay thế khác. Tôn giáo khác có thể dạy nhiều phương pháp nhập định rất hữu hiệu, nhưng không dạy tu để giải thoát khổ đau.
Phật giáo ngược lại dạy nhiều cách tu để giải thoát khổ đau, thành tựu an lạc tối thượng. Ðây không chỉ là lời nói suông, thực sự các anh chị có thể đạt đến kết quả ấy. Vọng tưởng và phiền não trong tâm các anh chị chỉ là những hiện tượng sinh diệt, khi có, khi không. Nếu chịu khó tu, nếu gặp vị đạo sư đủ khả năng hướng dẫn, và nếu chính mình có chí tu học, có căn cơ cao, khi ấy thoát khổ đau đạt an lạc tối thượng ngay trong kiếp sống hiện tại này, trong thân tâm này, là điều có thể xảy ra.
Giá trị của Phật giáo không phải nằm ở chỗ khi nghèo thì cầu Phật độ cho giàu, khi bịnh thì cầu Phật độ cho khỏi bịnh, hay khi làm ăn buôn bán thua lỗ thì cầu Phật độ cho phát tài. Thật sự mà nói, dù những phép lạ như vậy có thật sự xảy ra đi nữa, cũng chẳng có gì đáng nói, Phật giáo cũng không phải vì vậy mà có thể gọi là quí giá. Các anh chị cần hiểu rõ phần cốt tủy để thấy được mức độ quí giá cực kỳ của Phật đạo.
Ðặc điểm của Ðại thừa
Ðiểm quan trọng thứ hai là sự khác biệt giữa hai cỗ xe Phật giáo, là cỗ xe Bồ tát và cỗ xe Thanh văn. Hai cỗ xe này còn được gọi là cỗ xe lớn, Ðại thừa, và cỗ xe nhỏ, Tiểu thừa. Vì sao lại nói rằng Ðại thừa thâm diệu hơn? Thật ra Thanh văn thừa là giáo pháp dành để đáp ứng một số nhu cầu của Phật tử, chưa phải là thành tựu cao nhất. Muốn hoàn thành trọn vẹn con đường Phật dạy, là triệt bỏ toàn diện phiền não ô nhiễm, thành tựu chức năng bồ đề, người tu cần theo con đường Ðại thừa, cần hành trì theo phương pháp tu dành cho Bồ tát.
Nói Tiểu thừa và Ðại thừa, hoàn toàn không có nghĩa là trong Phật Pháp có sự phân chia giáo pháp này xấu kém hơn, giáo pháp kia toàn hảo hơn. Giáo pháp toàn hảo là giáo pháp thích hợp với căn cơ của người tu, nên trong Phật pháp không bao giờ có thể khinh rẻ xem thường bất cứ giáo pháp nào. Thái độ như vậy sai lầm và tai hại.
Ðức Phật Thích ca mâu ni xuất hiện cõi thế, tu hạnh bồ đề, có nhiều đệ tử thanh văn theo tu học, điển hình là hai ngài Mục kiền liên và Xá lợi phất. Hai vị này tu hạnh thanh văn, đạt quả A-la-hán. Vì sao các vị đại đệ tử gần đức Thế tôn như vậy mà lại không thành tựu vô thượng bồ đề? Lý do Phật thành tựu vô thượng bồ đề, là vì khi còn trong giai đoạn mới tu học, Phật cầu giác ngộ cũng là vì lợi ích chúng sinh mà cầu. Rồi trong giai đoạn còn đang tu học, Phật tích lũy hai bồ công đức phước tuệ để thành Phật, cũng là vì lợi ích của chúng sinh mà tích lũy. Rồi cuối cùng khi Phật thành tựu quả vị Phật, cũng là vì lợi ích của chúng sinh mà thành tựu. Tất cả đều dựa trên căn bản của tâm Bồ đề, vì lợi ích của chúng sinh. Ðến khi thành tựu vô thượng bồ đề, Phật có khả năng buông xả mọi phiền não cùng tập khí của phiền não. Như vậy nhờ buông xả toàn bộ mọi mê lầm phiền não mà Phật thành tựu trí toàn giác, có được khả năng thấy biết tất cả mọi hiện tượng ở mọi nơi, trong mọi lúc.
Còn các vị A-la-hán như ngài Xá lợi phất hay Mục kiền liên, không thể nói là thành tựu của các ngài ngang với thành tựu của Phật. Các ngài chỉ mới xả bỏ được một phần, nhưng chưa thể xả bỏ toàn bộ chướng ngại áng ngữ trí toàn giác. Có thể nói là các ngài chỉ mới thành tựu được một phần của tâm buông xả, chưa phải là tâm buông xả trọn vẹn. Nói về mức độ giác ngộ, A-la-hán không đầy đủ tánh đức của Phật đà, vì vậy mà gọi là A-la-hán, không gọi là Phật. Các ngài như Xá lợi phất và Mục kiền liên chưa thành tựu được quả vị Phật, mà thành tựu quả A-la-hán.
Xét theo đó, mục đích cao nhất phải là đạt mọi tánh đức của tâm buông xả rốt ráo và tâm giác ngộ rốt ráo. Ðiều này ai cũng có thể đạt đến nếu noi theo gót chân Phật. Trước tiên phát tâm Bồ đề [là tâm nguyện đạt giác ngộ vì lợi ích chúng sinh], tiếp theo tích lũy hai bồ phước tuệ trong thời gian dài ba thời kỳ vô số, và cuối cùng đạt đến tâm buông xả viên mãn, thành tựu giác ngộ viên mãn. Chỉ có con đường Ðại thừa mới dẫn đến quả vị Phật như vậy. Vì vậy mà nói Ðại thừa vĩ đại hơn.
Khi mới bắt đầu thuyết Pháp, Phật dạy về Thanh văn thừa cùng nhiều phương pháp tu Giới Ðịnh Tuệ. Phần giáo pháp này là căn bản của con đường giác ngộ giải thoát.
Rồi Phật lại dạy phương pháp phát khởi lòng từ bi và tâm Bồ đề, là con đường dành cho những vị bồ tát dũng mãnh, lãnh nhận trách nhiệm mang lợi ích về cho toàn thể chúng sinh. Tuần tự đường tu Phật dạy là như vậy, trước tiên tu theo căn bản Giới Ðịnh Tuệ, rồi phát tâm từ bi cùng với tâm Bồ đề.
Mục tiêu cuối cùng Phật muốn đưa chúng ta đến, là vô trú niết bàn. Ở đó, tâm buông xả mọi mê lầm, thành tựu mọi tánh đức. Con đường vị tha này dành cho bồ tát tâm rộng lớn vô ngại, lãnh nhận trách nhiệm giải thoát cho chúng sinh, mang hạnh phúc về cho tất cả. Vì vậy mà gọi Ðại thừa là cỗ xe lớn.
Có người nói rằng đã theo Ðại thừa không cần phải học phương pháp tu Tiểu thừa, cho rằng Phật tử Ðại thừa chỉ cần phát tâm từ bi là đủ, không cần quan tâm đến Giới Ðịnh Tuệ. Ðiều này hoàn toàn sai. Ðại thừa không phải là con đường song song riêng biệt với Tiểu thừa. Căn bản của Ðại thừa chính là Tiểu thừa. Giáo pháp Tiểu thừa không ra ngoài Ðại thừa. Chỉ khác là thêm vào đó, Ðại thừa đòi hỏi phải phát tâm đại bi và tâm Bồ đề.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)